Một số biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng Công ty chè Việt Nam

Mở bài 1. Tính cấp thiết của đề tài M ặc dù sự biến động của tình hình thế giới ít nhiều ảnh hưởng đến ngành chè nước ta, sản phẩm chè của Tổng công ty chè Việt Nam vẫn giữ một vị trí quan trọng trong thị trường xuất khẩu và thị trường tiêu dùng trong nước. Chè nước ta có nguồn gốc từ lâu đời, vừa là thức uống vừa là phương thuốc quý của nhân dân ta. Chè là cầu nối, xích con người lại gần nhau hơn, lúc thì hàn huyên, khi thì tổng kết cuộc đời, suy nghĩ về thế sự... Sự phát triển ngành chè

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng Công ty chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã từng bước góp phần cải thiện đời sống nhân dân ta, đặc biệt người dân ở vùng trung du và miền núi, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tạo cảnh quan thiên nhiên và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái... Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm chú trọng phát triển ngành chè, coi đây là một đầu mối xuất khẩu quan trọng, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay. Trong những năm qua, sản phẩm chè trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta và mang lại nguồn lợi đáng kể cho người trồng chè. Do áp lực của xu hướng tự do hoá thương mại đối với các hàng rào thuế quan, triển vọng nhập khẩu chè ở các thị trường tiềm năng sẽ tăng mạnh trong thời gian tới. Liên bang Nga là thị trường tiềm năng cho đầu tư và xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Thị trường Nga rất ưa chuộng các sản phẩm đến từ các nước Châu á, mặt khác do mối quan hệ lâu dài giữa hai nước, nên có rất nhiều cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại các thành phố lớn của Liên bang Nga. Tổng công ty chè Việt Nam là doanh nghiệp lớn nhất về sản xuất, chế biến và xuất khẩu chè Việt Nam. Một trong những mục tiêu trong chương trình trọng điểm năm 2003 và các năm tiếp theo của Tổng công ty là tìm cách khôi phục lại thị trường truyền thống Nga. Tuy nhiên, mặc dù chè Việt Nam xuất sang Nga từ rất lâu, nhưng chè Việt Nam chưa có chỗ đứng trên thị trường Nga. Vì vậy, việc nghiên cứu thị trường Nga để đề ra các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè là vấn đề có nghĩa thực tiễn và sâu sắc, nên em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng công ty chè Việt Nam”. 2. Mục đích nghiên cứu Trong bài viết, em trình bày những vấn đề nghiên cứu về tình hình xuất khẩu chè của Tổng công ty vào thị trường Nga thời gian vừa qua, những thành tựu và tồn tại, một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè vào thị trường Nga trong thời gian tới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu nội dung của hoạt động xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng công ty chè Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Tổng công ty chè Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê. - Phương pháp quan sát thực tế. - Phương pháp phỏng vấn. - Phương pháp logic. 5. Nội dung của đề tài gồm: . Chương I: Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam Chương II: Thực trạng xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng công ty chè Việt Nam Chương III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng công ty chè Việt Nam trong thời gian tới. Để hoàn thành bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của T.S.Vũ Thị Minh-người hướng dẫn em hoàn thành bài viết này, và các Cô Chú, anh chị ở phòng Kế Hoạch & Đầu Tư - Tổng công ty chè Việt Nam đã giúp đỡ em rất nhiều trong đợt thực tập để bài viết của em có đủ chi tiết thực tế và những số liệu cần thiết. Bài viết của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý kiến của Cô Chú, Thầy Cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2004 Người viết Nguyễn Thị Nhuần Chương i: Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam I. Lý luận chung về xuất khẩu và xuất khẩu nông sản ở Việt Nam 1. Xuất khẩu 1.1. Xuất khẩu là gì Theo giáo trình kinh doanh quốc tế (Trường ĐHKTQD) thì xuất khẩu là một hình thức kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp, tạo ra nguồn thu chủ yếu của một nước khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế. Đó là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ thanh toán. Tiền ở đây có thể là ngoại tệ của một quốc gia hoặc là đối với cả hai quốc gia. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động buôn bán hàng hoá và trao đổi hàng hoá. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng vùng, từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế, nhằm đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu là một bộ phận cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế. Nó góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế đất nước, giảm dần sự mất cân đối của cán cân thương mại và thanh toán quốc tế, tạo nguồn thu chi ngân sách quốc gia, điều hoà nguồn vốn ngoại tệ mỗi nước. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của nền kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho nền kinh tế đất nước. Hoạt động xuất khẩu diễn ra rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian ngắn, song cũng có thể kéo dài hàng năm, có thể diễn ra trên phạm vi một hay nhiều quốc gia. 1.2. Vai trò của xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng ở Việt Nam 1.2.1. Vai trò của xuất khẩu nói chung + Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế toàn cầu: Xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế thế giới, xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động thương mại quốc tế. Do điều kiện khác nhau của mỗi quốc gia nên có quốc gia mạnh về lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Để tận dụng tối đa những thuận lợi và giảm thiểu những khó khăn, tạo ra sự cân bằng trong quá trình phát triển, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau, bán những sản phẩm mình sản xuất thuận lợi và mua những sản phẩm mình sản xuất khó khăn. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu không nhất thiết phải diễn ra giữa các nước có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Nếu một quốc gia thua thiệt về tất cả các lĩnh vực như tài nguyên thiên nhiên, nhân công, tiềm năng kinh tế... cũng sẽ có điều kiện phát triển kinh tế nội địa. Nói cách khác, một quốc gia trong tình huống bất lợi vẫn có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Thông qua việc khai thác các lợi thế này, các quốc gia tập trung vào sản xuất và xuất khẩu mặt hàng có lợi thế tương đối và nhập khẩu những mặt hàng không có lợi thế tương đối. Nhờ có quá trình chuyên môn hoá trong sản xuất, mỗi quốc gia sẽ khai thác lợi thế của mình một cách có hiệu quả nhất, tiết kiệm được nguồn lợi như vốn, lao động, tài nguyên... trong quá trình sản xuất hàng hoá. Vì vậy, xét trên phạm vi toàn thế giới tổng sản phẩm cũng sẽ được gia tăng. + Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia: Xuất khẩu có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia, là hoạt động cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện trên các mặt sau: * Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Đối với những nước đang phát triển thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá là bước đi thích hợp nhất để phát triển đất nước, khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển. Tuy nhiên, để công nghiệp hoá đất nước, đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Để có nguồn vốn nhập khẩu, mỗi quốc gia có thể huy động từ các nguồn như: + Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ. + Thu từ các hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ trong nước. + Thu từ hoạt động xuất khẩu. Thực tế cho thấy, vốn đầu tư nước ngoài rất quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Sử dụng nguồn vốn này, các nước đi vay phải chịu thiệt thòi, phải chịu một số điều kiện bất lợi và sẽ phải trả sau này. Chính vì vậy, xuất khẩu là hoạt động tạo nguồn vốn quan trọng nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu. Nó quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. ở một số nước, một trong những nguyên nhân của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó họ cho nguồn vốn bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư, vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu - nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện thực. * Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thích hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có 2 cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là: Chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa, trường hợp này nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nên chỉ thụ động chờ sự dư thừa mới xuất khẩu thì xuất khẩu bị thu hẹp và tăng trưởng chậm. Do đó, các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Hai là: Coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó thể hiện: + Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, ví dụ như phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ kéo theo ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm phát triển theo… + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. + Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới. Với đặc điểm quan trọng là tiền tệ được sử dụng làm phương tiện thanh toán thì xuất khẩu góp phần làm tăng trưởng dự trữ ngoại tệ của mỗi quốc gia. Đặc biệt đối với những nước mà đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu, vì vậy xuất khẩu góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. + Thông qua xuất khẩu, đòi hỏi chúng ta phải tổ chức sản xuất thích nghi với thị trường nước ngoài, đồng thời các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh. * Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Xuất khẩu tác động đến đời sống từ nhiều mặt như đối với việc sản xuất hàng xuất khẩu, là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng của nhân dân. * Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là tiền đề cho xây dựng các quan hệ đối ngoại sau này, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các mối quan hệ khác phát triển theo như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế..., đồng thời sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt động xuất khẩu, làm cơ sở cho hoạt động xuất khẩu phát triển. + Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp: Ngày nay, khi nền kinh tế toàn cầu phát triển như vũ bão thì xu hướng vươn ra thị trường quốc tế là xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Một trong những con đường quen thuộc để các doanh nghiệp bành chướng, phát triển & mở rộng thị trường là thông qua hoạt động xuất khẩu. * Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình, không những thế tên tuổi của doanh nghiệp còn được bạn hàng trong và ngoài nước biết đến. Sản phẩm của doanh nghiệp được quảng bá rộng rãi và được bán nhiều hơn. * Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ, nâng cao khả năng nhập khẩu, thay thế, nâng cấp máy móc thiết bị, nguyên vật liệu... phục vụ cho quá trình phát triển của doanh nghiệp. * Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của cán bộ xuất nhập khẩu cũng như các đơn vị tham gia, tích cực tìm tòi và phát triển các thị trường mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập. * Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới, hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm. * Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp muốn tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, hạ giá thành, tiết kiệm nguồn lực để tạo sản phẩm thích nghi với thị trường. * Sản xuất hàng hoá xuất khẩu làm tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp và góp phần tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, người lao động..., cải thiện và ổn định đời sống nhân dân. * Doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu sẽ có cơ hội tham gia hợp tác với các đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. 1.2.2. Vai trò của xuất khẩu nông sản Nông nghiệp có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, trước hết nông nghiệp sản xuất và cung cấp sản phẩm tối cần thiết cho xã hội loài người tồn tại và phát triển. Nông sản là một trong những sản phẩm của nông nghiệp không thể thiếu được trong nhu cầu sống của con người. Vì vậy, sản xuất nông sản là một trong những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta. Tuỳ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà có quốc gia thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhưng lại có quốc gia không đủ điều kiện phát triển nông nghiệp. Do đó, nảy sinh ra nhu cầu trao đổi nông sản giữa các quốc gia với nhau. Nên quan hệ buôn bán nông sản là tất yếu để thoả mãn nhu cầu hàng ngày của con người. Xuất khẩu nông sản là giải pháp quan trọng tạo nguồn ngoại tệ cho sự phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt đối với quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển rất cần ngoại tệ để trang bị máy móc thiết bị hiện đại được nhập từ các nước phát triển về. ở Việt Nam, Nhà nước ta luôn nhận thức rõ vai trò của xuất khẩu nông sản, nhờ có hoạt động xuất khẩu nông sản đã từng bước đưa nền kinh tế nước ta ngày một phát triển hơn. Xuất khẩu nông sản còn tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp, giải quyết việc làm cho phần lớn lao động ở nông thôn, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và hạn chế được nhiều tệ nạn xã hội khác. Xuất khẩu nông sản góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp cho mỗi quốc gia. Đặc biệt trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, xuất khẩu nông sản là điều kiện quan trọng tạo mở các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho quan hệ chính trị chủ động hơn. Xuất khẩu nông sản là điều kiện quan trọng phát triển và giữ vững nền kinh tế mỗi quốc gia, giữ vững được chủ quyền dân tộc. 2. Thị trường xuất khẩu 2.1. Thị trường xuất khẩu là gì * Thị trường xuất khẩu là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán, thị trường là biểu hiện của quá trình mà trong đó thể hiện quyết định của người tiêu dùng về sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cũng như quyết định của các doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, bao bì, mẫu mã. Thị trường là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Khi nói tới thị trường phải nói tới các yếu tố sau: Thứ nhất là phải có khách hàng, không nhất thiết phải gắn với địa điểm xác định. Thứ hai là khách hàng phải có nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây chỉ là cơ sở thúc đẩy khách hàng mua hàng hoá và dịch vụ. Thứ ba là khách hàng phải có khả năng thanh toán, tức là khách hàng phải có khả năng trả tiền để mua hàng. Các yếu tố của thị trường bao gồm: cung, cầu và giá cả thị trường. * Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp được mô tả là một hay nhiều nhóm khách hàng và những tổ chức, những người trung gian với các nhu cầu tương tự nhau và những người bán cụ thể nào đó mà doanh nghiệp với tiềm năng của mình có thể mua hàng hoá, dịch vụ để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là thị trường có phạm vi địa lý là toàn thế giới nơi mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Đối tượng hàng hoá mà doanh nghiệp phục vụ là những tổ chức, những cá nhân, những nhà trung gian mang quốc tịch nước ngoài hay có trụ sở kinh doanh ở nước ngoài, có nhu cầu tương tự nhau về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Vì vậy, thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp mang những đặc điểm riêng và chịu ảnh hưởng của những yếu tố khách quan của từng khu vực, từng quốc gia riêng. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, quy cách sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế có thể hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. 2.2. Đặc điểm của thị trường xuất khẩu nông sản * Nghiên cứu phân tích và tìm hiểu thị trường luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Qua phân tích và nghiên cứu thị trường chè xuất khẩu, các cán bộ kinh doanh Tổng công ty chè Việt Nam đã tìm ra những đặc điểm khác biệt ngoài những đặc điểm của thị trường hàng hoá nói chung đó là: - Tính ổn định và tính tương đối ít co dãn về mặt cầu: Chè là loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản cho đời sống con người. Tuy nhiên, không vì số lượng nhiều, giá bán rẻ mà cầu về sản phẩm chè tăng lên. Do giới hạn về mặt sinh lý nên mỗi người chỉ dùng một loại chè thích hợp với một lượng nhất định. Mặt khác, không phải khi có nhu cầu tiêu dùng lớn, giá bán cao thì người sản xuất sẽ tung ra thị trường một khối lượng lớn ngay được. Điều đó là do đặc điểm của sản xuất chè đòi hỏi phải có thời gian và quy trình sản xuất nhất định, mà thời gian lại phụ thuộc vào đặc điểm kỹ thuật của từng loại sản phẩm. Do vậy, xét về mặt cầu của sản phẩm chè cho thị trường thì nó không co dãn tương đối. Yêu cầu đặt ra đối với thị trường xuất khẩu là phải thúc đẩy xuất khẩu để tăng cung, đáp ứng nhu cầu thị trường một cách chủ động, góp phần ổn định và phát triển thị trường. Đối với thị trường trong nước luôn đề ra các biện pháp để điều hoà quan hệ cung cầu mỗi khi có biến động trên thị trường xảy ra. - Thị trường xuất khẩu chè có tính thời vụ tương đối rõ rệt: Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao nhất là đối với ngành trồng trọt. Do vậy cung cầu trên thị trường tương đối không phù hợp với nhau. Ngay sau khi thu hoạch, người làm chè ồ ạt tung ra thị trường, do nhu cầu đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tiếp theo diễn ra nên cung đã vượt cầu dẫn đến giá bán chè tụt giảm đôi khi giá bán không đủ bù chi phí sản xuất. Vào thời kỳ đốn chè, do cung về chè giảm, giá chè có xu hướng tăng lên, nhưng không vì thế mà người sản xuất chè bị thúc đẩy nhanh sản xuất ra chè để bán ngay được vì chè cũng là một loại cây trồng có chu kỳ sinh trưởng và phát triển riêng. Cần phải có một khoảng thời gian chè mới cho thu hoạch. Đặc điểm này cho thấy, người sản xuất nông nghiệp bên cạnh phải đối phó với những bất lợi của tự nhiên như gió, bão… mà còn phải đối phó với những biến động trên thị trường. Những biến động bất lợi trên thị trường sẽ làm cho người sản xuất nông nghiệp thu hẹp diện tích trồng chè và chuyển sang cây trồng khác. Điều này gây thiệt hại cho cả người sản xuất và người tiêu dùng. Cho nên, để hạn chế những bất lợi của thị trường, người sản xuất nông nghiệp cần tạo ra những giống ngắn ngày, trái vụ, năng suất cao chất lượng tốt phục vụ nhu cầu thị trường ngày càng phong phú và đa dạng. Thị trường xuất khẩu chè tuy chịu tính thời vụ của sản xuất chè nhưng yếu hơn so với thị trường trong nước, vì để xuất khẩu chè cần qua các công đoạn chế biến… rồi mới xuất khẩu. Hơn nữa bản thân giá chè mang tính ổn định nên các doanh nghiệp xuất khẩu chè không có xu hướng dự trữ nhiều chè để chờ cơ hội giá lên, vì có dự trữ thì giá không tăng đáng kể lại phải cộng thêm các khoản chi về kho, thiết bị bảo quản… Thị trường chè xuất khẩu gắn chặt với việc khai thác, sử dụng lợi thế so sánh của các điều kiện tự nhiên như đất đai, khí hậu… và các điều kiện khác. Nhu cầu về chè ngày càng phong phú và đa dạng về số lượng, chất lượng chủng loại. Tuy nhiên, người tiêu dùng chỉ chấp nhận ở mức giá hợp lý phù hợp với túi tiền của họ. Do vị trí địa lý của mỗi quốc gia khác nhau, do đó mỗi quốc gia chỉ có thể sản xuất ra một số loại sản phẩm chè nào đó. Vì vậy, khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu chè, mỗi quốc gia đều tận dụng một cách tốt nhất những sản phẩm chè có ưu thế nhất phù hợp với điều kiện tự nhiên để chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất. Như vậy có thể cung cấp cho thị trường những sản phẩm mà thị trường cần với điều kiện sản xuất cho phép, vì chè là cây trồng chỉ sinh trưởng ở những điều kiện tự nhiên cho phép. Với nền kinh tế toàn cầu hoá, doanh nghiệp nào cũng muốn sản phẩm của mình chiếm lĩnh thị trường nhiều hơn. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải tận dụng những lợi thế về khí hậu, đất đai... và kết hợp với những thành tựu về khoa học công nghệ ứng dụng trong thực tiễn sản xuất, chế biến để tăng chất lượng sản phẩm, giá thành hạ, bao bì mẫu mã đẹp... phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước. Thị trường xuất khẩu chè là thị trường có độ cạnh tranh tương đối hoàn hảo. Từ ngàn xưa, chè đã đi vào đời sống người dân, là thứ nước uống phổ biến cho người dân thế giới, đặc biệt khu vực châu á. Bên cạnh đó, có rất nhiều sản phẩm khác như: cà phê, các loại thảo dược … có thể thay thế cho việc uống chè, vì vậy khi giá bán sản phẩm chè tăng lên, người tiêu dùng sẽ chuyển sang uống cà phê, thảo dược…, ngược lại khi giá của một số mặt hàng này tăng lên, người tiêu dùng lại chuyển sang dùng chè. Thị trường xuất khẩu chè có độ cạnh tranh tương đối hoàn hảo vì: trên thế giới có hàng vạn doanh nghiệp đến từ các vùng khác nhau tham gia vào hoạt động xuất khẩu chè. Vì vậy, trên phạm vi nền kinh tế toàn cầu, mỗi doanh nghiệp chỉ chiếm một thị phần nhỏ khi tham gia vào hoạt động này. Cho nên, không xảy ra hiện tượng độc quyền mà các doanh nghiệp phải chấp nhận mức giá khách quan hình thành trên thị trường. Mặc dù doanh nghiệp rất khó có vị trí biệt lập trên thị trường vì người mua chỉ lựa chọn sản phẩm thích hợp cho mình không quan tâm đến người cung ứng là ai. Tuy nhiên, với những sản phẩm chè uy tín, chất lượng đã và đang nổi tiếng như lipton, demah... được người tiêu dùng gần xa biết đến. Thì doanh nghiệp cũng cần xúc tiến hoạt động quảng bá thương hiệu cho sản phẩm của mình để tăng thị phần trên thị trường thế giới. - Thị trường chè xuất khẩu cũng chịu ảnh hưởng của hàng rào thuế quan và chính sách bảo hộ mậu dịch của nhiều nước. Thị trường chè xuất khẩu cũng như các thị trường nông sản khác chịu nhiều yếu tố chi phối như biến động cung cầu trên thị trường, sự tác động của các yếu tố chính trị… Để hạn chế tác động và cải thiện cán cân thương mại nhiều nước đã áp dụng hàng rào thuế quan đối với chè nhập khẩu. 2.3. Vai trò của thị trường xuất khẩu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu luôn đề cao vai trò của thị trường xuất nhập khẩu, bởi nó là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công của doanh nghiệp. Thị trường xuất khẩu là nơi doanh nghiệp có thể phát huy lợi thế tương đối của mình so với các doanh nghiệp ở các quốc gia khác, là nơi doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu của nhóm khách hàng lớn. Nhờ có việc tham gia vào thị trường quốc tế doanh nghiệp sẽ tận dụng tối đa những điều kiện sản xuất mà mình có, tăng năng lực sản xuất, tiết kiệm được chi phí, tăng hiệu quả kinh doanh và cho phép doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh trên phạm vi đa quốc gia. Doanh nghiệp sẽ tìm được những bạn hàng tiềm năng và không ngừng mở rộng thị trường hơn nữa. 2.4. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu Trong kinh doanh, doanh nghiệp luôn tìm những cơ hội trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau với các hình thức xuất khẩu khác nhau. Mỗi hình thức xuất khẩu lại có một đặc điểm riêng, kỹ thuật tiến hành riêng. Trong thực tế có một số hình thức xuất khẩu chủ yếu: 2.4.1. Xuất khẩu trực tiếp * Khái niệm: Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Trong thương mại doanh nghiệp tham gia xuất khẩu là doanh nghiệp thương mại không tự sản xuất ra sản phẩm thì việc xuất khẩu bao gồm hai công đoạn: + Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu với các đơn vị, địa phương trong nước. + Đàm phán, ký kết với doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng với đơn vị bạn. * Về nguyên tắc: xuất khẩu trực tiếp có một số ưu điểm đó là qua đàm phán trực tiếp dễ dàng đi đến ký kết hợp đồng, giảm bớt được chi phí trung gian (lưu thông) góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, liên hệ đều đặn với bạn hàng, người tiêu dùng, biết được tình hình bên đối tác, vẫn phát huy được tính độc lập, tự chủ của doanh nghiệp trong kinh doanh, doanh nghiệp chủ động hơn trong tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của mình. Tuy nhiên, xuất khẩu trực tiếp có thể sẽ gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh, nếu đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu không đủ trình độ và kinh nghiệm khi tham gia ký kết hợp đồng với thị trường mới, doanh nghiệp sẽ rất bất lợi khi nhảy vào thị trường này. 2.4.2. Xuất khẩu uỷ thác * Khái niệm: Là hình thức xuất khẩu trong đó doanh nghiệp xuất khẩu đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu cho nhà sản xuất và qua đó thu được khoản thu nhất định (% lô hàng xuất khẩu) hay khoản thu hoa hồng định trước hay phí uỷ thác. * Hình thức này bao gồm các bước: + Ký kết hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với các đơn vị trong nước. + Ký kết hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền hàng bên nước ngoài. + Nhận phí uỷ thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước. * ưu điểm của hình thức xuất khẩu này: + Những người nhận uỷ thác am hiểu về pháp luật, phong tục, tập quán nên giúp đẩy nhanh việc buôn bán và người uỷ thác chịu mức rủi ro thấp. + Đối với bên nhận uỷ thác không phải bỏ vốn vào kinh doanh, lại tạo công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời lại thu được một khoản tiền đáng kể. Trách nhiệm phần lớn vẫn thuộc về phía nhà sản xuất. 2.4.3. Xuất khẩu gia công uỷ thác Khái niệm: Là hình thức kinh doanh trong đó doanh nghiệp xuất khẩu đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với nhà sản xuất. Ưu điểm của hình thức này: rủi ro ít, việc thanh toán chắc chắn tuy nhiên hình thức này qua nhiều thủ tục xuất khẩu nên luôn đòi hỏi nhà xuất khẩu phải thường xuyên giám sát và kiểm tra công việc tránh sai sót trong kinh doanh. 2.4.4. Buôn bán đối lưu (xuất nhập khẩu liên kết hay hàng đổi hàng) Khái niệm: Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Trong phương thức xuất khẩu này, mục tiêu là thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. ưu điểm của hình thức này là tránh tính rủi ro do biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối… 2.4.5. Xuất khẩu hàng hoá theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ) - Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là để gán nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ. - Với hình thức xuất khẩu này sẽ tiết kiệm cho doanh nghiệp một khoản chi phí, tìm hàng hoá trực tiếp như tìm đối tác, mặt khác không có sự rủi ro trong thanh toán (thanh toán do Chính phủ thực hiện). - Đây là hình thức xuất khẩu của các nước XHCN trước đây, các quốc gia có quan hệ mật thiết… Trên thực tế, hình thức này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ. 2.4.6. Gia công quốc tế Là hình thức kinh doanh trong đó một bên (bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao cho bên đặt gia công và nhận thù lao (phí gia công). Hình thức xuất khẩu này được nhiều doanh nghiệp áp dụng nhất là những nước có nguồn lực dồi dào, tài nguyên thiên nhiên phong phú bởi những lợi ích của nó mang lại: + Đối với bên đặt gia công: hình thức này giúp cho họ tận dụng được nguồn nhân lực sẵn có của bên nhận gia công, giá lại rẻ. + Đối với bên nhận gia công: Họ vừa giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, lại nâng cấp được máy móc thiết bị... 2.4.7. Tạm nhập tái xuất Đây là một hình thức xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu mà chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm của hình thức này: Doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhiều. tuy nhiên, đối với phương thức này đòi hỏi cán bộ phải có trình độ chuyên môn cao để có thể nhạy bén nhận biết tình hình thị trường, giá cả, sự chặt chẽ trong mua bán. Chủ thể tham gia tái xuất khẩu phải có sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái sản xuất. Trên đây là những hình thức xuất khẩu chủ yếu của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. tuỳ vào từng lĩnh vực kinh doanh và khả năng của mình mà doanh nghiệp lựa chọn cho mình những hình thức xuất khẩu tối ưu nhất, sao cho vừa nắm bắt được cơ hội kinh doanh lại tránh được những rủi ro tiềm ẩn trên thị trường quốc tế đầy biến động và phức tạp. 3. Nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu Để trở thành người quản lý giỏi trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, người quản lý cần nắm vững cặn kẽ các khâu trong quá trình tổ chức kinh doanh xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu diễn ra khá phức tạp, phải trải qua nhiều khâu, công đoạn ràng buộc… Vì vậy luôn đòi hỏi nhà kinh doanh sự thận trọng, linh hoạt để nắm bắt những thời cơ đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Thông thường hoạt động xuất khẩu bao gồm những nội dung sau: 3.1. Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết, đầu tiên cho bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu sau khi nghiên cứu thị trường thế giới phải trả lời được các câu hỏi: xuất khẩu là gì, dung lượng thị trường đó là bao nhiêu, sử dụng phương thức nào, chiến lược kinh doanh cho từng giai đoạ._.n, người trong giao dịch là ai. nghiên cứu thị trường tốt sẽ giúp cho các nhà kinh doanh giải quyết được vấn đề đặt ra: yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng của hàng hoá. Để có thể tiếp cận và làm chủ thị trường cần nghiên cứu về thị trường, về các yếu tố cấu thành và quy luật vận động của nó. nghiên cứu thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng và quốc gia nói chung, nó quyết định sự thành công cho doanh nghiệp xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường thông qua hai bước: Bước 1 là nghiên cứu khái quát cho biết những thông tin, cơ cấu, quy mô sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường như môi trường cạnh tranh, pháp luật… Bước 2 là nghiên cứu chi tiết thị trường sẽ cho biết tập quán mua hàng, những thói quen và những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi mua hàng của người tiêu dùng. 3.2. Lập phương án kinh doanh Từ những kết quả thu được từ quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh tiến hành lập phương án kinh doanh. Phương án kinh doanh là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước: Bước 1: Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân. Đưa ra bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh và phân tích những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Bước 2: Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Bước 3: Đề ra mục tiêu, đây là mục tiêu cụ thể sẽ xâm nhập vào thị trường nào. Bước 4: Đề ra các biện pháp và công cụ để thực hiện được mục tiêu đề ra. Những biện pháp này bao gồm những biện pháp trong nước như đầu tư sản xuất, ký kết hợp đồng kinh tế, cải tiến bao bì và các biện pháp ngoài nước như quảng cáo, lập chi nhánh nước ngoài, tham gia hội trợ, triển lãm. Bước 5: Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh. Các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả kinh tế gồm: - Chỉ tiêu tỷ xuất ngoại tệ hàng xuất khẩu hoặc hàng nhập khẩu. - Chỉ tiêu tỷ xuất lợi nhuận. - Chỉ tiêu hoà vốn. - Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn. 3.3. Giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng 3.3.1. Các hình thức đàm phán Bao gồm các hình thức sau: * Đàm phán giao dịch qua thư tín. Hình thức đàm phán này vẫn là phổ biến đối với các nhà kinh doanh, việc trao đổi, đàm phán với nhau sẽ tiết kiệm được chi phí cùng một lúc làm việc được với nhiều người, và có thời gian cân nhắc, suy tính. Tuy nhiên, hình thức này phải đợi khá lâu đôi khi còn làm mất đi cơ hội kinh doanh nhưng ngày nay mạng internet phủ sóng toàn cầu, thì nhược điểm này được khắc phục. * Giao dịch đàm phán qua điện thoại. Việc giao dịch đàm phán qua điện thoại giúp các nhà kinh doanh tiến hành nhanh và đúng thời điểm cần thiết. Tuy nhiên phí tổn điện thoại giữa các nước tương đối cao, không đủ thời gian trình bày chi tiết, lại trao đổi bằng miệng không có giấy tờ. Vì vậy điện thoại chỉ được dùng trong những trường hợp thật cần thiết và trường hợp mọi điều kiện đã được hai bên thoả thuận xong chỉ xác nhận lại một vài chi tiết. Hình thức giao dịch này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và sau khi giao dịch qua điện thoại phải có thư xác định nội dung vừa đàm phán. * Giao dịch đàm phán trực tiếp. Là hình thức mà người mua và người bán gặp nhau trực tiếp thoả thuận, bàn bạc về các điều kiện: giá, mẫu mã… Đây là hình thức đặc biệt quan trọng, tăng tốc độ giải quyết vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm, được áp dụng khi có nhiều điều kiện phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc áp dụng cho hợp đồng là khá phức tạp. 3.3.2. Ký kết hợp đồng xuất khẩu Sau khi công việc đàm phán giao dịch đạt kết quả các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu dưới hình thức văn bản, đối với nước ta đây là hình thức bắt buộc, đối với các đơn vị xuất khẩu cũng là hình thức tốt nhất bảo vệ quyền lợi của cả hai bên, hợp đồng xác nhận trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện hợp đồng. Việc ký kết dưới hình thức văn bản sẽ thuận lợi cho công việc kiểm tra, giám sát việc ký kết và thực hiện hợp đồng của các bên. 3.4. Công tác tạo nguồn hàng cho hoạt động xuất khẩu 3.4.1. Khái niêm Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một doanh nghiệp, một địa phương hay một vùng có khả năng sản xuất được. Công tác này bao gồm toàn bộ các hoạt động từ đầu tư, sản xuất kinh doanh, đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, vận chuyển bảo quản, sơ chế, nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy, công tác nguồn hàng cho hoạt động xuất khẩu gồm hai hoạt động chính: + hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu, đây là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. + hoạt động phục vụ công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu do nhiều tổ chức trung gian đảm nhận như tổ chức ngoại thương. 3.4.2. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu * Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: Là việc nghiên cứu khả năng cung ứng nguồn hàng xuất khẩu trên thị trường. Nguồn hàng xuất khẩu được xác định từ nguồn hàng thực tế (nguồn hàng đã có và đang chuẩn bị đưa vào lưu thông) và nguồn hàng tiềm năng (nguồn hàng theo dự đoán, chưa xuất hiện tại thời điểm hiện tại, có hoặc không xuất hiện vào thời điểm tương lai). * Tổ chức hệ thống thu mua: Doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu tổ chức một hệ thống thu mua qua các đại lý và chi nhánh sẽ tiết kiện được chi phí thu mua. Kết hợp với việc tổ chức đầu tư và hướng dẫn kỹ thuật thu mua, phân loại bảo quản hàng hoá cho các chân hàng, lựa chọn nhiều cách thức thu mua, đây chính là cơ sở tạo nguồn hàng ổn định và hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng hoá xuất khẩu. Nhờ vậy, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sẽ nâng cao được năng xuất và hiệu quả thu mua. 3.5. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp xuất khẩu. Hợp đồng kinh tế là bằng chứng về quan hệ hợp tác làm ăn của doanh nghiệp xuất khẩu với bạn hàng. Vì vậy quá trình thực hiện hợp đồng, doanh nghiệp xuất khẩu cần tuân thủ các điều kiện trong hợp đồng tránh sai sót nhầm lẫn không những hàng ứ đọng, giảm giá, mất chất lượng mà còn mất bạn hàng ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. 4. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu chè chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau do thị trường tiêu thụ chè là khâu trung gian nối giữa sản xuất, tiêu dùng và chịu ảnh hưởng của các nhân tố trong giai đoạn sản xuất, giai đoạn lưu thông. Dưới góc độ doanh nghiệp, hoạt động xuất khẩu chè chịu tác động của 2 nhóm nhân tố cơ bản là nhóm nhân tố bên trong và nhóm nhân tố bên ngoài. 4.1. Nhóm các nhân tố bên trong 4.1.1. Nhân tố về vốn vật chất hay sức mạnh về tài chính Vốn là điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn sẽ tạo cho doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh, nắm bắt nhanh các cơ hội đầu tư. Đặc biệt chè là mặt hàng nông sản, nếu doanh nghiệp có vốn trong tay sẽ chiếm được thời cơ để mua với giá rẻ nhất và khi nhu cầu tăng lên doanh nghiệp sẽ tung sản phẩm ra thị trường và bán với giá cao hơn. 4.1.2. Nhân tố con người Nhân tố con người đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt trong hoạt động xuất khẩu, một lĩnh vực luôn luôn biến động và chịu ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nên luôn cần một đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm nhanh nhẹn trong kinh doanh. Vì vậy, xét mặt tiềm lực doanh nghiệp thì con người là vốn quý nhất đánh giá sức mạnh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp với một đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn cao lại có kinh nghiệm và nhạy bén trong kinh doanh, chắc chắn hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp đó diễn ra liên tục và gặp nhiều thuận lợi. 4.1.3. Nhân tố bộ máy quản lý, tổ chức điều hành Một doanh nghiệp với bộ máy gọn nhẹ thì người lãnh đạo sẽ dễ dàng hơn trong hoạt động quản lý doanh nghiệp và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong doanh nghiệp giảm chi phí và thu lợi nhuận về cho doanh nghiệp. Nhưng với một bộ máy hoạt động cồng kềnh, doanh nghiệp sẽ hoạt động không có hiệu quả, chi phí quản lý lớn, quản lý khó khăn. Hiện nay, các doanh nghiệp đang trong quá trình hoàn thiện dần cơ cấu tổ chức bộ máy, các phòng ban hoạt động có hiệu quả hơn, do đó hoạt động xuất khẩu của công ty năng động và có hiệu quả hơn. 4.1.4. Tiềm năng và lợi thế bên trong của doanh nghiệp Một doanh nghiệp xuất khẩu chè lâu năm tiềm năng là các khách hàng quen hay những thị trường truyền thống. Đây là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sang thị trường truyền thống và mở rộng thị trường trên thế giới. Hơn nữa, một lợi thế vô cùng quan trọng cho doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu là lợi thế về mặt kinh nghiệm trong kinh doanh. 4.1.5. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp ở thị trường trong và ngoài nước góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu, với mạng lưới kinh doanh rộng lớn là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, nâng cao tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 4.2. Nhóm nhân tố bên ngoài Doanh nghiệp hoạt động bất kỳ một lĩnh vực nào cũng chịu ảnh hưởng của các nhân tố từ môi trường kinh doanh, nhất là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu chịu tác động mạnh mẽ từ môi trường kinh doanh do các yếu tố quốc tế tác động vào. Các nhóm nhân tố bên ngoài chủ yếu tác động đến doanh nghiệp đó là: 4.2.1. Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô Trong lĩnh vực xuất khẩu, các công cụ, chính sách chủ yếu thường được sử dụng, điều tiết hoạt động này bao gồm: * Thuế quan. Trong hoạt động xuất khẩu thuế, quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh giá thuế làm tăng tương đối mức giá cả hàng hoá xuất khẩu so với mức giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho sản xuất kinh doanh trong nước. Công cụ này chỉ áp dụng đối với một số ít mặt hàng xuất khẩu bổ sung nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thuế đánh vào mặt hàng chè là khá ưu đãi. * Giấy phép xuất khẩu. Giấy phép xuất khẩu là hình thức quản lý của Chính phủ về hoạt động xuất khẩu, thông qua giấy phép xuất khẩu chính phủ quản lý và điều chỉnh loại hàng hoá xuất khẩu. Hơn nữa, có thể bảo vệ tài nguyên của quốc gia và điều chỉnh cán cân thanh toán. Giấy phép xuất khẩu được quyết định theo mặt hàng, theo từng quốc gia và thời gian nhất định. Bên cạnh đó một số quốc gia còn áp dụng biện pháp phi thuế quan khác như đặt ra các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, các thông số kỹ thuật quy định cho mặt hàng xuất khẩu. * Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất khẩu. Một chính sách hối đoái thích hợp thuận lợi cho xuất khẩu chính là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định và ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức giá tương quan với chi phí và giá trong nước. Một số mặt hàng khuyến khích xuất khẩu còn được áp dụng các hình thức trợ cấp khác nhau như: trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu. những mặt hàng này cần có sự trợ cấp bởi chúng khi tham gia vào thị trường quốc tế rủi ro cao, bị cạnh tranh bởi các mặt hàng từ các nước khác nhau. 4.2.2. Các quan hệ kinh tế quốc tế Trong hoạt động xuất khẩu việc trao đổi mua bán hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác chịu tác động của hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Tuy nhiên các hàng rào này chặt chẽ hay lỏng lẻo phần lớn phụ thuộc vào mối quan hệ của các quốc gia. Đối với doanh nghiệp các quan hệ này ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp và nó đánh giá hoạt động xuất khẩu có được thực hiện hay không. Đồng thời các quan hệ kinh tế quốc tế này quyết định các hình thức xuất khẩu và yêu cầu đối với xuất khẩu ở mỗi thị trường khách hàng lại có nhu cầu khác nhau, yêu cầu khác nhau về sản phẩm. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay nhiều khối kinh tế lần lượt ra đời, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương được ký kết, để tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá, sản phầm hàng hoá trên thị trường thế giới ngày càng phong phú và đa dạng đáp ứng thị yếu của người tiêu dùng. Như vậy, nếu một quốc gia tham gia vào các khối liên kết kinh tế có được mối quan hệ bền vững và tốt đẹp trong khối, thì đây là điều kiện thuận lợi là tác nhân tích cực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của quốc gia, đặc biệt là các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu. 4.2.3. Các yếu tố chính trị, chính phủ và pháp luật Các yếu tố này mang sắc thái khác nhau của từng quốc gia. Mỗi quốc gia đều có những phong tục tập quán riêng, luật pháp riêng, các quy định của nhà nước, chính phủ... là khác nhau. Vì vậy các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu chịu tác động của các yếu tố trên và các doanh nghiệp này phải tuân thủ các điều kiện, quy định của chính phủ về tập quán, pháp luật... và quy định của quốc tế. 4.2.4. Những nhân tố thuộc về công nghệ chế biến chè Việc ứng dụng các tiến bộ thành tựu khoa học công nghệ góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè. do việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ đó vào các khâu trồng, chế biến, thu hái chè, quy trình trồng chè sẽ được rút ngắn hơn, đảm bảo tăng năng xuất và chất lượng của chè. Đối với các doanh nghiệp chế biến chè, nhờ có bộ máy làm việc tiên tiến hiện đại vừa tiết kiệm được chi phí lại tạo ra được sản phẩm chè tinh chế, góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và giải quyết việc làm cho hàng triệu người lao động, đặc biệt lao động ở vùng trung du, miền núi. 4.2.5. Nhân tố thuộc về nguồn sản lượng chè Một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu, muốn tồn tại và phát triển được trên thương trường, bên cạnh những tiêu chuẩn về chất lượng thì điều kiện cần và đủ cho doanh nghiệp là phải có nguồn cung cấp chè đủ lớn và tương đối ổn định. Điều này là rất quan trọng đối với một nước đang phát triển như nước ta, là nơi có tài nguyên về chè và cũng là nước nhờ xuất khẩu chè mà cải thiện được đời sồng người dân ở vùng trung du, miền núi, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nước ta. 5. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu 5.1. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu 5.1.1. Các biện pháp về thị trường bao gồm: - Nghiên cứu thị trường: Mục tiêu của công tác nghiên cứu thị trường là xác định thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng cho từng mặt hàng, xác định dung lượng thị trường đó là bao nhiêu, thị trường đó ưu tiên mặt hàng nào với giá cả bao nhiêu ,số lượng, chất lượng, mẫu mã như thế nào… Từ đó doanh nghiệp lập phương án kinh doanh và có kế hoạch dài hạn cho hoạt động kinh doanh và các chiến lược maketing. - Đẩy mạnh hoạt động maketing: Mục tiêu cuối cùng của hoạt động maketing là đưa đến tận tay cho người tiêu dùng sản phẩm mà họ cần chứ không phải cái mà doanh nghiệp có. Doanh nghiệp cần có phương án maketing cho từng giai đoạn khác nhau. 5.1.2. Các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm - Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu: Ngày nay, có rất nhiều doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu với nhiều loại sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng về số lượng, kiểu dáng... Vậy, làm thế nào để sản phẩm một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh so với các sản phẩm của doanh nghiệp khác. Câu trả lời chỉ là các doanh nghiệp phải đưa yếu tố chất lượng lên hàng đầu, doanh nghiệp cần phải trú trọng hơn nữa về vấn đề chất lượng sản phẩm, không còn những quan niệm cứ giá rẻ thì tiêu thụ được nhiều mà không cần quan tâm đến chất lượng ra sao. Tuy nhiên, do đời sống ngày càng được nâng cao, không những chất lượng tốt mà giá cả phải hợp lý. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp muốn có vị thế của mình trên thị trường quốc tế cần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm bằng các biện pháp khác nhau như: - Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. - ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất sản phẩm. Việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ tăng chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, vì vậy doanh nghiệp có thể tồn tại và không ngừng phát triển. 5.1.3. Biện pháp về hợp tác quốc tế Chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của những nước phát triển vào Việt Nam, thì việc doanh nghiệp Việt Nam tiến hành liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn, sử dụng dây truyền công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các nước phát triển là một việc làm hết sức cần thiết. 5.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu 5.2.1. Chỉ tiêu lợi nhuận ồ LN= ồ DT - ồ CF Trong đó: ồLN : Là phần dôi ra của doanh thu và chi phí. ồDT: Tổng doanh thu là toàn bộ số tiền thu được qua việc bán hàng hoá, dịch vụ, lãi suất tiền gửi ngân hàng thu hồi do bồi thường trong 1 năm. ồ CF: Là những phí tổn mà doanh nghiệp bỏ ra khi sản xuất kinh doanh hàng hoá hoặc cung cấp dịnh vụ trong một năm. - Lợi nhuận xuất khẩu: PX = q(p –f) trong đó PX : Lợi nhuận tính cho một mặt hàng sản xuất. q: Khối lượng hàng xuất khẩu. p: Đơn giá hàng xuất khẩu. f: Chi phí đầy đủ của một đơn vị hàng xuất. Tổng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp xuất khẩu: ồP = qi(pi – fi) 5.2.2. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu (hay tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu) Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng so sánh số ngoại tệ thu được do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu đó (giá trị nội địa của hàng hoá). Trong đó: Hx : là hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu. Tx : Doanh thu (bằng ngoại tệ) từ việc xuất khẩu đơn vị hàng hoá, dịch vụ (giá quốc tế). Cx : Tổng chi phí của việc sản xuất sản phẩm xuất khẩu bao gồm: Cả vận tải đến cảng xuất (giá trong nước). 5.2.3. Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu , Dx: Doanh lợi xuất khẩu. Px: Thu nhập về bán hàng xuất khẩu thanh toán bằng ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá công bố của Ngân hàng ngoại thương (sau khi trừ đi mọi chi phí bằng ngoại tệ). Cx: tổng chi phí cho việc xuất khẩu. Vx: Tổng vốn bằng nội tệ bỏ ra để kinh doanh hàng xuất khẩu. II. Khái quát tình hình xuất khẩu chè trên thế giới và của Việt Nam trong những năm gần đây 1. Tình hình xuất khẩu chè trên thế giới Những năm qua, nhìn chung giá chè trên thị trường thế giới đang trên đà giảm xuống do cung vượt quá cầu. Gần đây có thêm một số nước trồng chè có thể làm tăng cung trên thị trường thế giới, trong khi nhu cầu tiêu thụ không tăng kịp đang là khó khăn cho các nước xuất khẩu chè. Hiện nay, các nước xuất khẩu chủ yếu đang chiếm 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu chè của thế giới. Việt Nam là nước xuất khẩu chè nhưng với kim ngạch nhỏ và chỉ chiếm khoảng 3-4% thị trường thế giới. Theo Hiệp hội chè Mỹ, trong một thập kỷ qua mức tiêu thụ chè ở Mỹ đã tăng lên 5 tỷ USD. Người Mỹ thường uống chè đen là chủ yếu. Năm 2001, Mỹ nhập khẩu 110 ngàn tấn chè, có 2/3 là chè đen. Năm 2002, Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ được 1.886 tấn chè (80% là chè đen), tăng 20% về khối lượng so với năm trước. So với chè của ấn Độ, Xrilanca, Trung Quốc, Achentina thì chè Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ còn ở mức khiêm tốn. Thời gian gần đây, sản xuất chè ở Nga giảm đáng kể, nên khối lượng nhập khẩu tăng, đặc biệt chè đóng hộp (dưới 3 kg/1 hộp) được người tiêu dùng Nga rất ưa thích. Nga là một trong những nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới vào khoảng 160 ngàn tấn/năm. Những năm trước đây chè nhập khẩu vào Nga thường phải qua trung gian. Hiện nay xu thế xuất khẩu trực tiếp đang tăng dần. Trung quốc là một nước xuất khẩu chè lớn thứ hai trên thế giới với sản lượng khoảng 700 ngàn tấn/năm, nhưng sức tiêu thu nội địa cũng rất cao, trong đó chủ yếu là chè xanh, chè đen chỉ chiếm khoảng 9% tổng mức tiêu thụ. Tại Nhật Bản, nhập khẩu chè khoảng 50 ngàn tấn/năm, Đài Loan có nhu cầu nhập khoảng 13 ngàn tấn/năm, chủ yếu là nhập khẩu chè nguyên liệu rồi qua chế biến thành chè uống liền có pha chế hương liệu để tiêu thụ nội địa. Trong các nước EU, chỉ có Bồ Đào Nha sản xuất được chè với sản lượng khoảng 27 ngàn tấn/năm. Tiêu thụ chè ở các nước EU khác đều dựa vào nhập khẩu với khoảng 300 ngàn tấn/năm. Theo dự báo của FAO, sản lượng chè khô của thế giới sẽ tăng 2 triệu tấn năm 1999 lên 2,7 triệu tấn năm 2005 với mức tăng 2,8%/năm, và lên 3,07 triệu tấn vào năm 2010 với nhịp độ tăng bình quân là 2,6%/năm. Tỷ trọng chè của một số nước sản xuất chè chính: ấn Độ chiếm 41,3%, Xrilanca 14,5%, Kênia 14%, Trung Quốc 9,3%, Inđônêxia 7%. Do thị trường thế giới đang có xu hướng dư thừa, cho nên để tăng tiêu thụ chè thế giới thì các nước xuất khẩu nên tập trung khai thác các thị trường tiềm năng. 2. Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam trong những năm gần đây 2.1. Về sản lượng chè xuất khẩu Việt nam tham gia vào hoạt động xuất khẩu nhiều năm, tuy nhiên sản lượng chè xuất khẩu của Việt Nam còn nhiều khiêm tốn chưa xứng với tiềm năng của nó. Một mặt do chất lượng chè xuất khẩu của ta còn thấp cộng thêm với vấn đề marketing, nên sản phẩm chè của ta không thể cạnh trang được với sản phẩm chè của các nước khác. Tuy nhiên, tính từ năm 1998 đến năm 2002, khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng từ 33.500 tấn (1998) lên 71.373 tấn (2002). Như vậy, dù gặp nhiều khó khăn nhưng ngành chè Việt Nam luôn nỗ lực trong hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của mình. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu 1. Bảng 1: Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam giai đoạn 1998-2002 Năm Sản lượng xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu Sản lượng (tấn) Tỷ lệ tăng trưởng (%) Giá trị (triệu USD) Tỷ lệ tăng trưởng (%) 1998 33.500 100,0 50,000 100,00 1999 41.700 124,5 53,000 106,00 2000 55.000 131,9 63,000 118,90 2001 68.200 124,0 46,000 73,70 2002 71.373 104,6 81,196 176,10 Nguồn: Báo cáo về tình hình sản xuất và xuất khẩu chè của toàn ngành chè Việt Nam năm 2002 - Tổng công ty chè Việt Nam 2.2 .Về thị trường xuất khẩu Bạn hàng nhập khẩu chè của Việt Nam trong thời gian qua như: Irắc, Pakistan, Đài Loan, Nhật Bản, Nga, Mỹ… Trong khi đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường này vừa có uy tín và chất lượng cao. Vì vậy, nếu Việt Nam không có những biện pháp thích hợp và đồng bộ thì chè Việt nam sẽ gặp khó khăn. Đặc biệt là thị trường Nga, là bạn hàng truyền thống của Việt Nam, sản phẩm chè Việt Nam sang Nga từ lâu nhưng chưa có chỗ đứng ở thị trường này. Nên Việt Nam cần có những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sang thị trường này. 2.3. Về mặt hàng xuất khẩu Chè đen là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, bên cạnh đó còn có chè xanh, chè ôlong… Tuy nhiên, do chất lượng chè còn thấp nên chè Việt Nam chủ yếu dùng làm nguyên liệu để đấu trộn. 2.4. Về giá cả Do chất lượng chè của ta không ổn định nên giá cả không cao. Vì vậy ngành chè cần phải chú trọng làm sao để nâng cao được uy tín chè Việt Nam trên thị trường thế giới, đặc biệt trên thị trường Nga. Một trong những mục tiêu về thị trường xuất khẩu chè của Tổng công ty chè trong thời gian tới là việc chinh phục các thị trường tiềm năng. Để hiểu rõ hơn về tình hình xuất khẩu của Tổng công ty sang các thị trường này, đặc biệt là thị trường Nga chúng ta cần phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty sang thị trường Nga về: số lượng, giá cả, chất lượng, đối thủ cạnh tranh… Từ đó Tổng công ty có phương hướng và kế hoạch cụ thể trong đường lối phát triển của mình. Chương II: Thực trạng xuất khẩu chè sang thị trường Nga của Tổng công ty chè Việt Nam I. Giới thiệu chung về Tổng công ty chè Việt Nam 1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty 1.1. Giai đoạn trước khi thành lập Tổng công ty (trước năm 1986) Chè nước ta được phát triển mạnh mẽ vào thời kỳ Đảng và Nhà nước ta có chủ trương chuyển quân đội sang làm kinh tế, các nông trường như Trần Phú, Nghĩa Lộ, Phú Sơn… do quân đội đảm nhiệm, ban đầu là thuộc Bộ nông trường sau đó là thuộc Bộ Nông nghiệp, các nông trường này hạch toán độc lập, búp chè tươi được sản xuất ra để bán cho các nhà máy chế biến hoặc tự chế biến tại các xưởng của nông trường. Ngày 17 tháng 4 năm 1974 Liên hợp các xí nghiệp chè Việt Nam được thành lập theo quyết định của Thủ tướng chính phủ, Liên hợp các xí nghiệp chè Việt nam chiếm một vị trí quan trọng, góp phần đáng kể vào sự phát triển ngành kinh tế, kỹ thuật chè nói riêng, đối với nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm trung du và miền núi nói chung. Liên hợp được thành lập trên cơ sở hợp nhất các nhà máy chế biến chè xuất khẩu của trung ương và một số xí nghiệp chè hương ở miền Bắc. Nhiệm vụ của Liên hợp các xí nghiệp chè là chế biến và xuất khẩu theo kế hoạch Nhà nước giao. Hoạt động của Liên hợp những năm qua được chia làm hai giai đoạn: 1.1.1. Giai đoạn 1: từ năm 1980 đến năm 1988 Liên hợp được tổ chức theo mô hình quản lý ngành dọc, thống nhất hai khâu sản xuất nông nghiệp và chế biến công nghiệp. Với quan điểm liên kết công nông nghiệp, liên hiệp tổ chức ra ba loại xí nghiệp chủ yếu sau: + Xí nghiệp Liên hợp công nghiệp - nông nghiệp : Là xí nghiệp lớn, có quy mô vùng hoặc liên vùng bao gồm: các nông trường, các xí nghiệp chế biến hoàn toàn, một hoặc một vài nông trường trên vùng chè tập trung địa bàn 2 đến 3 huyện. Điển hình là xí nghiệp liên hợp Trần Phú và Sông Lô. + Các xí nghiệp công nông nghiệp gồm: một nông trường, một xí nghiệp chế biến xây dựng ở một số tiểu vùng như: Quân Chu (Bắc Thái), Tân Trào (Sơn Dương- Hà Tuyên), Biển Hồ (Gia Lai). + Các xí nghiệp trực thuộc gồm: các nông trường, xí nghiệp chế biến chè hương và chè xuất khẩu, các đơn vị (sản xuất và đời sống, cơ khí vật tư…). Giai đoạn Liên kết công nông nghiệp đã tạo ra những mô hình mẫu về sản xuất và quản lý trong ngành chè nước ta, đồng thời đây là những đơn vị thực hiện liên kết công nông nghiệp đầu tiên ở nước ta. Mô hình mới này đã gắn kết người sản xuất với người chế biến nguyên liệu, tình trạng hái búp chè không đúng quy cách, không đúng tiến độ được khắc phục một bước quan trọng. Xí nghiệp Liên hợp hoạt động bên cạnh những mặt tích cực còn có những hạn chế do quy mô quá lớn, trình độ cán bộ còn thấp, thiếu thông tin... làm cho công tác quản lý khó khăn, thông tin thiếu chính xác... dẫn đến ách tắc trong sản xuất, hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm sút. 1.1.2. Giai đoạn 2: Từ năm 1989 đến năm 1995 Từ năm 1989, Đảng và Nhà nước ta đã chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, ngành chè có những đổi mới tích cực. Đặc biệt, khi chuyển sang cơ chế thị trường, thì sản xuất chè phải phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, công tác thị trường phải làm tốt thì mới có thể đứng vững và phát triển được. Nhất là từ khi Liên Xô tan rã, thị trường truyền thống của Việt nam không còn. Trước đây, việc giao hàng theo nghị định thư của Chính phủ, giá thanh toán theo giá bao cấp trả nợ, nên khi mất thị trường truyền thống này chè Việt nam sản xuất ra không bán được. Người nông dân thấy sản xuất chè ra không có hiệu quả đã chặt phá và thay thế bằng loại cây trồng khác, nhiều xí nghiệp chè đang đứng trên bờ vực bị phá sản. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải tổ chức lại liên hợp chè cho phù hợp với cơ chế thị trường. 1.2. Giai đoạn sau khi thành lập Tổng công ty Thực hiện quyết định số 90 TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có quyết định số 394NN-TCCB/QĐ ngày 29 tháng 12 năm 1995 thành lập Tổng công ty chè Việt Nam, trên cơ sở sắp xếp lại Liên hợp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam. Tổng công ty có tên giao dịch quốc tế là: VIETNAM NATIONAL TEA CORPORATION Tên viết tắt là: VINATEA CORP Trụ sở chính đặt tại 46-Tăng Bạt Hổ-Hai Bà Trưng-Hà Nội-Việt Nam Khi thành lập Tổng công ty có nguồn vốn ngân sách và vốn tự bổ xung đăng ký là 101.867.000.000 đồng. Tổng công ty chè Việt Nam (vinatea) là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh chè lớn nhất trong số hơn 600 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh chè tại Việt Nam. Vinatea lớn gấp nhiều lần doanh nghiệp đứng thứ hai ngay sau nó trên tất cả các lĩnh vực như vốn- tài sản, công nghệ- kỹ thuật, nguồn nhân lực chuyên môn cao và lành nghề, sản lượng và chất lượng chè sản xuất và xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu chè… Vinatea hiện có: 25 nhà máy chế biến chè hiện đại, gắn với vùng nguyên liệu tập trung, ổn định. 2 trung tâm tinh chế và đóng gói chè. 2 nhà máy chế tạo thiết bị và phụ tùng cho nhà máy chế biến chè. 1 Viện nghiên cứu chè. 1 trung tâm phục hồi chức năng và điều trị bệnh nghề nghiệp. 2 công ty xây dựng và lắp đặt công trình công nghiệp và dân dụng, giao thông, thủy lợi. 3 công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. 1 công ty 100% vốn của Việt Nam hoạt động tại Liên bang Nga. 2 công ty liên doanh quy mô lớn với nước ngoài về trồng - chế biến và xuất khẩu chè. 2. Chức năng, nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh của Tổng công ty chè Việt Nam Tổng công ty chè Việt Nam tham gia xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng sản xuất chè chuyên canh và thâm canh có năng xuất và chất lượng cao. Ngành nghề kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty chè Việt Nam: * Trồng trọt sản xuất chè, chăn nuôi gia súc và các nông lâm sản khác. * Công nghiệp chế biến thực phẩm: các sản phẩm chè, sản xuất các loại đồ uống, nước giải khát… * Kinh doanh vật liệu xây dựng. * Sản xuất phân bón các loại phục vụ vùng nguyên liệu. * Sản xuất bao bì các loại. * Kinh doanh phụ tùng, thiết bị chế biến chè và lắp đặt, chế tạo các sản phẩm cơ khí, phụ tùng, thiết bị máy móc phục vụ chuyên ngành chè và đồ gia dụng. * Dịch vụ kỹ thuật đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến chè. * Xây dựng cơ bản và tư vấn đầu tư, xây lắp phát triển ngành chè, xây dựng dân dụng, xây dựng các công trình công nghiệp, nông nghiệp, đường giao thông. * Kinh doanh khách sạn du lịch, nhà ở và bất động sản. * Bán buôn, bán lẻ, bán các đại lý các sản phẩm của ngành nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, vật tư, nguyên vật liệu, máy móc th._. các vườn chè hiện có. Muốn vậy, phải tập trung chăm sóc để cây chè sinh trưởng phát triển tốt, cho chất lượng đảm bảo, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật. Về nhà máy chế biến: Đa số nhà máy chế biến đưa vào sử dụng khá lâu, và việc kiểm tra giám sát từng khâu, từng công đoạn chưa được tự động hoá bao nhiêu, do vậy còn mang tính chủ quan, có thể có những sai sót. Việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế không chỉ đối mặt với thói quen, tập quán quản lý lâu nay mà còn gặp khó khăn rất nhiều trong việc cải tạo, trang bị mới cơ sở vật chất để đủ điều kiện xây dựng hệ thống quản lý chất lượng. Vì vậy, bên cạnh đầu tư vào các nhà máy chế biến, Tổng công ty cũng cần sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước để hiện đại hoá máy móc thiết bị của các nhà máy chế biến. Bên cạnh những vấn đề về giống và nhà máy chế biến thì các vấn đề lưu kho bảo quản là rất cần thiết. Vì chè là một loại sản phẩm rất dễ bị tác động bởi môi trường, nên không để nơi nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, dễ phân huỷ và làm biến đổi hình dạng và chất lượng của chè. Ngoài ra các vấn đề khác như bao bì đóng gói, lựa chọn hợp lý bao bì đóng gói sẽ giúp cho chất lượng sản phẩm được đảm bảo, cần phải quan tâm đến thời hạn sử dụng an toàn của chè. Để nâng cao chất lượng sản phẩm chè xuất khẩu, ngoài sự cố gắng của công ty trong việc đưa ra các biện pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tăng tính đa dạng của sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, xây dựng củng cố thương hiệu… cũng rất cần hỗ trợ của Nhà nước, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè được thuận lợi hơn. Ngành sản xuất chè là một ngành đặc thù so với những cây công nghiệp lâu năm khác, bởi khâu thiết bị và công nghệ chế biến quyết định tới 40%-50% chất lượng và giá trị thu nhập trong ngành chè. Ngành nông nghiệp, đặc biệt là ngành chè đang gặp phải khó khăn là chi phí cho vật tư hoá chất đầu vào ngày càng tăng, trong khi đó chất lượng gia tăng năng suất lao động chậm hơn, làm cho người lao động trong lĩnh vực này thua thiệt hơn so với các ngành kinh tế khác. Để khắc phục tình trạng trên, ngành chè cần thúc đẩy chuyển đổi theo hướng nông nghiệp hữu cơ bằng cách tạo ra những nguồn hữu cơ cho đồi chè, thuỷ lợi hoá, đầu tư thâm canh cao, tạo môi trường sinh thái cân bằng, phát triển bền vững. Công tác giống phải xuất phát từ định hướng của thị trường, dựa vào nhu cầu xuất khẩu cần bao nhiêu chè xanh, chè đen, yêu cầu về chất lượng, ngoại hình như thế nào, từ đó có quy hoạch, kế hoạch về cơ cấu giống, diện tích trồng mới... Quản lý quy trình: Chất lượng- thị trường- sản xuất- hiệu quả sao cho gắn bó như trong một cơ thể sống. Trước hết phải định lượng được tiêu chuẩn chất lượng chè được phép đưa ra thị trường. Có một tổ chức đủ quyền hạn và năng lực kiểm tra thường xuyên, định kỳ và xử lý việc vi phạm tiêu chuẩn ban hành theo chế tài đã quy định của Nhà nước theo quyết định 80 về liên kết 4 nhà. 4. Những giải pháp ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chế biến và thiết lập hệ thống bảo quản Nhu cầu về chè trên thế giới có xu hướng tăng lên, nhưng xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm ngày càng khắt khe hơn. Ngày nay thị hiếu người tiêu dùng Nga cũng khắt khe không kém gì các nước Tây Bắc, Âu, Mỹ, Nhật Bản… Chè là sản phẩm có đặc trưng khác so với các sản phẩm khác là nó có nguồn gốc hữu cơ. Do đặc tính sinh học, các sản phẩm chè cũng giống như các sản phẩm nông nghiệp khác được bầy bán trên thị trường với kích thước và kiểu dáng tự nhiên, trong khi nhu cầu của khách hàng đòi hỏi ngày càng cao về sự tiện dụng và tính đa dạng của sản phẩm. Hơn nữa, chè sau khi thu hái về còn tươi, nếu không bảo quản ngay sẽ mất đi phẩm chất thơm ngon vốn có của chè. Vì vậy, chế biến đúng kỹ thuật và bảo quản tốt là nhân tố cơ bản để tránh làm mất đi phẩm chất của chè trước khi bán. Mặc dù trong thời gian vừa qua ngành chè đã có những biện pháp tích cực trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đồng thời liên kết với các cơ quan trong nước như Viện quy hoạch, Viện công nghệ sinh học… để nghiên cứu cải tiến, đổi mới công nghệ, công nghệ chế biến vẫn còn lạc hậu, nếu xét trên phạm vi toàn thế giới thì sản phẩm chè của ta chưa có tên tuổi. Vì vậy, ngành chè nói chung và Tổng công ty nói riêng cần phải nghiên cứu ứng dụng công nghệ, thiết bị mới, bổ xung và hoàn thiện quy trình công nghệ chế biến hiện có. Hiện nay, chè Việt Nam được chế biến theo hai phương pháp công nghệ là orthodox và ctc, đây là công nghệ cũ của Liên xô đã bộc lộ những hạn chế vì vậy cần được nâng cấp, sữa chữa và bổ sung. Những hạng mục thiết bị cần được đầu tư đó là: + Bổ xung dàn héo tự nhiên, hiện đại hoá các bộ phận của máy vò, hiện đại hoá các phòng lên men, trang bị hệ thống lên men liên tục và làm mát lá chè theo kiểu của Nhật, thay bộ phận phun ẩm bằng phun sương. Hiện đại hóa khâu hút bụi, xây dựng các kho bảo quản... + Tổng công ty nên đầu tư, nâng cấp cải tạo các cơ sở chế biến công nghiệp, xây dựng thêm các nhà máy chế biến với công nghệ hiện đại, tiến tiến. Do đặc tính của hàng nông sản là theo mùa vụ, vì vậy công tác dự trữ là rất quan trọng, đặc biệt cho nguồn xuất khẩu ổn định trên thị trường. Vì vậy, Tổng công ty cần xây dựng chiến lược dự trữ thường xuyên theo mùa vụ cụ thể. + Đối với vùng sâu, vùng xa Tổng công ty nên đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, với công nghệ thiết bị phù hợp sao cho sản phẩm tạo ra có thể xuất khẩu. Còn đối với những vùng có địa bàn phức tạp, xa cơ sở chế biến công nghiệp, nên đầu tư công nghệ máy sao, máy vò cỡ nhỏ để phục vụ nội tiêu và cung cấp cho các nhà máy đấu trộn và tinh chế. Phương pháp công nghệ và quy trình chế biến bảo quản có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng chè xuất khẩu, và đây chính là một trong những phương pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của Tổng công ty, và từng bước khẳng định vị thế của Tổng công ty trên thị trường thế giới. 5. Tăng cường liên doanh với các đơn vị chân hàng để tăng cường tính ổn định của nguồn hàng xuất khẩu Trong bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, việc lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường, đảm bảo đúng thời gian giao hàng theo hợp đồng. Lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu chè chỉ có hiệu quả khi Tổng công ty có các biện pháp cân đối, đồng bộ từ khâu thu mua đến các khâu thực hiện hợp đồng, giao hàng và thanh toán. Trong đó, khâu mua hàng là khâu đầu tiên và rất quan trọng, không những quyết định hoạt động kinh doanh của Tổng công ty mà còn đảm bảo các khâu tiếp theo diễn ra liên tục và ăn khớp nhau. Hiện nay, nguồn chè của Tổng công ty chủ yếu từ các đơn vị của Tổng công ty từ các tỉnh miền núi phía Bắc và miền Trung. Vấn đề đặt ra cho Tổng công ty là để đảm bảo ổn định nguồn hàng xuất khẩu, bên cạnh quan hệ với các đơn vị chân hàng quen, cần phải mở rộng quan hệ chân hàng với các tỉnh khác để mở rộng hơn nữa nguồn hàng cho Tổng công ty. Tổng công ty cần có những đợt đi thực tế xuống các tỉnh để tìm hiểu đầu mối thu gom, từ đó có kế hoạch cụ thể. Để thực hiện tốt các công tác trên, Tổng công ty cần thực hiện các biện pháp sau: - Không ngừng tăng cường mối quan hệ lâu dài với các chân hàng quen bằng cách: Bên cạnh việc đảm bảo lợi ích cho cả hai bên, cần duy trì việc mua hàng thường xuyên ở các chân hàng này. - Đối với các đơn vị thuộc Tổng công ty, cần có chế độ thưởng phạt, không ngừng hiện đại hoá máy móc thiết bị..., như vậy nguồn hàng xuất khẩu luôn được đảm bảo và ổn định. - Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, việc cung cấp lượng hàng xuất khẩu ổn định là điều kiện thuận lợi cho các đối tác và bạn làm ăn tin tưởng, tham gia liên doanh với Tổng công ty. Cho nên, việc tạo ra nguồn hàng ổn định lâu dài là mục tiêu kế hoạch của Tổng công ty trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 6. Giải pháp đa dạng hoá sản phẩm Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, xu hướng đa dạng hoá sản phẩm càng trở nên quan trọng. Tổng công ty cần tăng thêm chủng loại để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời những chủng loại sản phẩm đó có thể thay thế được một số sản phẩm đồ uống khác. Trong khi nhu cầu về sản phẩm chè của thị trường ngày một đa dạng, nhưng chủng loại chè của Tổng công ty còn hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới Tổng công ty cần áp dụng các biện pháp để đa dạng hoá sản phẩm của mình theo nhiều hướng khác nhau như: - Duy trì các mặt hàng xuất khẩu hiện có, đồng thời đưa thêm vào chè những hương vị mới, đặc biệt. Trước hết với các loại chè túi nhúng, chè hoà tan, chè bột... có thể chưa cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. tuy nhiên Tổng công ty cũng có thể nghiên cứu và tổ chức sản xuất các loại chè ướp hương hoa quả, chè đóng hộp, bánh chè… các loại chè thuốc như chè thanh nhiệt, chè dưỡng thọ cho người già hoặc các loại chè thảo mộc khác. Đồng thời nghiên cứu các loại chè nước uống nhanh, nước hoa quả đóng túi hoặc đóng hộp các loại... với yêu cầu phải tiện lợi và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện đại. Bên cạnh đó, Tổng công ty cũng cần nghiên cứu mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người nước ngoài. - Đa dạng hoá sản phẩm, một trong những biện pháp là cải tiến sản phẩm dựa trên sản phẩm cũ. Để tạo ra được sản phẩm mới cần có nhiều thời gian và tiền của. Tuy nhiên để rút ngắn thời gian và xúc tiến đưa sản phẩm mới ra thị trường cần thông qua việc thay đổi bao bì hoặc tên gọi sản phẩm, kèm theo các hình thức khuyến mại sản phẩm đó ở thị trường trong và ngoài nước. Bằng cách này, Tổng công ty không những xúc tiến nhanh quá trình bán hàng mà uy tín của nó sẽ được nâng lên. Tổng công ty cần có đội ngũ chuyên làm công tác thiết kế bao gói sản phẩm sao cho sản phẩm có sức thuyết phục hơn, tạo giá trị thẩm mỹ cho sản phẩm. Khi đó sản phẩm của Tổng công ty có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm khác trên thị trường quốc tế. 7. Các biện pháp xây dựng và phát triển thương hiệu chè Việt Nam Việc xây dựng một biểu tượng tốt đẹp về hàng hoá trong con mắt khách hàng là vấn đề khó khăn đối với mọi doanh nghiệp và nó đòi hỏi phải có thời gian dài. Một trong những hoạt động hữu hiệu để xây dựng là tiến hành quảng cáo trên các thông tin đại chúng, tiếp thị chào hàng thông qua hội trợ, triển lãm... Một trong những mục tiêu để phát triển ngành chè Việt Nam là khôi phục thị trường truyền thống Nga, nhưng khó khăn chủ yếu hiện nay ở thị trường Nga là vấn đề thương hiệu. Chính vì chưa có thương hiệu, chè Việt Nam chỉ được xuất dưới dạng nguyên liệu. Vì vậy, một mặt Tổng công ty cần có những chính sách hợp lý lựa chọn sản phẩm để xây dựng thương hiệu. Mặt khác, Tổng công ty cần có sự hỗ trợ và khuyến khích của Nhà nước trong việc đầu tư ra nước ngoài, bởi chi phí quảng cáo ở thị trường nước ngoài là khá tốn kém, vượt ra ngoài khả năng của Tổng công ty. 8. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên Yếu tố con người có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và giảm được chi phí sản xuất một cách hợp lý. Ngành chè cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tại cơ sở. Đặc biệt khi tình hình thế giời ngày càng biến động và phức tạp, đòi hỏi người làm công tác phát triển thị trường phải linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ, biết ngoại ngữ và hiểu biết chuyên ngành nghề. Vì vậy, phải không ngừng nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên, đồng thời có những chính sách thoả đáng như khen thưởng để khuyến khích và tạo tâm lý phấn khởi kích thích sự nhiệt tình của họ trong công việc. 9. Đa dạng hoá nguồn huy động vốn Để phục vụ cho định hướng phát triển chè đến năm 2010, nhu cầu về vốn là rất lớn, không thể chỉ trông chờ vào một nguồn duy nhất. Trong thời gian tới, ngành chè cần tập trung đầu tư vốn để phát triển công nghệ, xúc tiến thượng mại, quảng bá sản phẩm chè Việt Nam. Do vậy cần phải đa dạng hoá và huy động vốn từ nhiều nguồn trong nước như : vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư cho xây dựng các công trình thuỷ lợi như thâm canh cây trồng; nghiên cứu khoa học công nghệ khuyến nông, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới về cây chè, nhập khẩu các giống mới, thay thế các giống chè năng suất thấp… Ngoài ra đề nghị Nhà nước áp dụng chính sách cho vay ưu đãi và linh hoạt. Có nhiều doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu nhưng thường xuyên bị thiếu vốn, gây ảnh hưởng không ít đến quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, Chính phủ cần khuyến khích các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vay vốn từ đầu tư, xây dựng và cải tạo các nhà máy chế biến trong thời gian dài với một thời gian ra hạn với lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp có thời gian bù đắp chi phí và lợi nhuận. 10. Khuyến khích thành lập công ty liên doanh hoặc 100% vốn của Việt Nam tại những nước có nhu cầu tiêu thụ chè lớn Việc thúc đẩy liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài là biện pháp hữu hiệu giúp cho công ty nâng cao được nguồn vốn và ứng dụng các dây truyền công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các nước phát triển. Việc thành lập chi nhánh của Tổng công ty tại Liên bang Nga là điều kiện thuận lợi xúc tiến hoạt động kinh doanh của Tổng công ty trên thị trường Nga. Việc thành lập công ty liên doanh hoặc công ty 100% vốn tại các nước có nhu cầu tiêu thụ chè lớn để trực tiếp bán và thành lập các kênh phân phối lâu dài như mô hình mà Tổng công ty đã áp dụng tại Nga. Với biện pháp này, mặc dù phải đầu tư với lượng vốn lớn cho việc xây dựng nhà xưởng đóng gói sản phẩm, đồng thời phải đáp ứng các yêu cầu cuả các nước sở tại để hoàn tất thủ tục pháp lý nhưng doanh nghiệp sẽ thu được lợi ích đáng kể vì được tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng, được hưởng ưu đãi thuế... và nhất là sản phẩm sản xuất ra sẽ dễ dàng được người tiêu dùng chấp nhận, do việc nghiên cứu để nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng được thực hiện thường xuyên và triệt để hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, không có một quốc gia nào có thể đóng cửa mà có thể phồn vinh được. Liên doanh liên kết sẽ cho phép Tổng công ty phát huy được những lợi thế của mình, tận dụng tối đa nội lực bên trong của Tổng công ty. B/ Một số kiến nghị về chế độ chính sách của Nhà nước 1. Quy hoạch phát triển vùng chè Việc quy hoạch vườn chè một cách hợp lý là rất cần thiết bởi vì: nguồn chè ổn định, phong phú đa dạng là tiền đề cho xuất khẩu chè đi vào ổn định và có lợi hơn. Khi công tác quy hoạch vùng chè được thực hiện, các khâu thu mua bảo quản diễn ra nhanh hơn, thuận lợi hơn, hiệu qủa hơn, giảm bớt được chi phí trung gian. Việc quy hoạch vùng chè phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và sinh thái tạo nên những vùng nguyên liệu lớn, tạo điều kiện cho Tổng công ty đầu tư theo chiều sâu để tăng năng suất và chất lượng của chè, tạo ra nguồn hàng hoá lớn có khả năng cạnh tranh đặc biệt là nguồn sản phẩm cho xuất khẩu. Theo báo cáo của Hiệp hội chè Việt Nam do sự bùng nổ về số lượng nhà máy chế biến không theo quy hoạch dẫn tới sự thiếu chủ động và tranh nhau vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó một số nhà máy mới tuy quy mô khá lớn, nhưng thiết bị đầu tư ở mức thấp, thậm chí nhiều loại thiết bị được chế tạo theo kiểu sao chép lại kém chất lượng. Đây chính là nguyên nhân làm cho chất lượng chè xuất khẩu của Việt Nam không đồng đều. Do đó các công ty nước ngoài nhập chè của nước ta dưới dạng sơ chế rồi về cho thêm nguyên liệu, cải tiến mẫu mã ... trước khi bán ra thị trường. Vì vậy Nhà nước cần cân đối các vùng nguyên liệu, định hướng những diện tích đất phù hợp để trồng chè và có chính sách thu mua, bao tiêu sẩn phẩm hợp lý nhằm gắn quyền lợi của người sẩn xuất với xuất khẩu. Chính phủ cũng cần có biện pháp mạnh đối với những nhà máy không có đủ điều kiện về công nghệ, thiết bị phải nâng cấp, hoặc ngừng sản xuất, đóng cửa. Đồng thời việc lựa chọn một số lượng nhất định những đầu mối xuất khẩu, vừa giữ ổn định nguồn hàng vừa tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý tốt chất lượng sản phẩm, tránh tình trạng quá nhiều doanh nghiệp tham gia xuất khẩu một cách tràn lan và tự phát. Mặc dù đã huy động nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng vẫn thiếu vốn làm cho Tổng công ty khó thực hiện, quy hoạch vùng chè trọng điểm. Vì vậy, Nhà nước mà trực tiếp là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cần tạo điều kiện cho Tổng công ty có thể bố trí, quy hoạch các vùng chè, đặc biệt cho xuất khẩu. Để hình thành các vùng chè tập trung, Chính phủ cần hình thành nên các doanh nghiệp chuyên làm nhiệm vụ khai hoang, trồng mới, chăm sóc... Nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp này như cho vay vốn theo các dự án, như vậy sẽ đảm bảo được nguồn nguyên liệu, đảm bảo được chất lượng chè đồng đều. Đặc biệt hiện nay, các vùng sản xuất chè phần lớn nằm ở các vùng xa xôi, cơ sở hạ tầng thấp kém... vì vậy, Nhà nước cần có chính sách đầu tư tăng cơ sở hạ tầng mà trước mắt cần tăng hệ thống giao thông, điện, phục vụ cho công việc sản xuất và đời sống của người làm chè, cải thiện đời sống cho người làm chè. 2. Chính sách đối ngoại Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới, chính trị và kinh tế là vấn đề tồn tại song song, quan hệ chính trị tốt sẽ thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các quốc gia, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, Nhà nước cần có một số chính sách như: - Nhà nước tích cực tham gia vào các diễn đàn khu vực và thế giới. - Tăng cường mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước Việt Nam và Liên bang Nga. Thể hiện bằng việc ký kết các hiệp định kinh tế- thương mại, tiến tới xây dựng hiệp định mậu dịch tự do. Tạo được khuôn khổ pháp lý với thị trường Nga để hoạt động xuất khẩu được thuận lợi và được hưởng ưu đãi. - Thực hiện các công ước quốc tế và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tuân thủ các tiêu chuẩn của quốc tế về chất lượng khi tham gia hoạt động xuất khẩu. 3. Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất chè 3.1. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài Do nguồn vốn của Tổng công ty có hạn, trong khi có rất nhiều lĩnh vực Tổng công ty cần vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh như đầu tư mới máy móc, giống..., nên Tổng công ty phải đi vay vốn từ ngân hàng với lãi suất rất cao. Do đó, vốn đầu tư nước ngoài là biện pháp hữu hiệu để gia tăng chè xuất khẩu vào các thị trường thế giới, trong đó thị trường Nga là một trong các thị trường mục tiêu mà Tổng công ty đang hướng tới. Vì vậy, Nhà nước cần có mối quan hệ tốt với các nước trong khu vực và trên thế giới để thu hút nguồn vốn đầu tư vào các doanh nghiệp trong nước, nhờ có nguồn vốn này mà từ khâu sản xuất- chế biến- vận chuyển và bảo quản cho đến khâu tiêu thụ được thực hiện một cách đồng bộ và liên tục, tạo ra được những sản phẩm hoàn chỉnh và có khả năng cạnh tranh được trên thị trường Nga. 3.2. Chính sách vốn đầu tư và lãi suất vay Do các vùng sản xuất nguyên liệu và các nhà máy chế biến ở vùng trung du và miền núi phía bắc, cơ sở hạ tầng khá phức tạp. Vì vậy, cần xây dựng các cơ sở hạ tầng quan trọng và cần thiết cho việc phát triển các vùng chè rộng lớn, xây dựng hệ thống giao thông, thuỷ lợi, hệ thống điện... Tuy nhiên, nguồn vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng này có thể từ Tổng công ty, nguồn vốn của Nhà nước hoặc nguồn vốn có được do phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Vì vậy, Nhà nước cần có những biện pháp để xúc tiến hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty. Hơn nữa, khi công trình xây dựng cơ bản hoàn thành cần giao cho các cơ quan có thẩm quyền quyết định quản lý. Các cơ quan này có nhiệm vụ khai thác công trình qua đơn vị sản xuất hoặc thu lệ phí để nâng cấp, tu bổ các công trình. Mặt khác, do chè là loại cây dài ngày, nên Nhà nước cần có chính sách cho vay dài hạn, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng diện tích trồng chè. Nhưng Nhà nước cho doanh nghiệp vay phải bảo toàn được vốn, nghĩa là phải có thế chấp. Trong khi tài sản của những người kinh doanh sản phẩm chè là những đồi chè, vì vậy Nhà nước cần phải thống nhất trong việc định giá đồi chè. 3.3. Chính sách thuế nông nghiệp - Nhà nước nên có chính sách bảo hộ cho người làm chè khi giá chè trên thị trường thế giới giảm mạnh, gây thiệt hại cho người làm chè. Nhà nước nên thu thuế theo hạng đất và theo sự biến động của giá cả trên thị trường. - Nhà nước cần có chính sách miễn giảm cho người làm chè, và chính sách miễn giảm này chỉ áp dụng cho vùng đất trống, đồi núi trọc đang được khuyến khích mở rộng để kinh doanh sản phẩm chè xuất khẩu, cụ thể là chỉ áp dụng thuế từ 3 -5 năm. 3.4. Thành lập quỹ bình ổn giá Nhà nước cần cho phép ngành chè thành lập quỹ bình ổn giá để ổn định giá mua chè tươi cho nhân dân và dự phòng một lượng chè xuất khẩu hợp lý, nhằm giữ giá chè xuất khẩu. 3.5. Chính sách trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu là một hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách dành sự ưu đãi về mặt tài chính cho nhà xuất khẩu thông qua trợ cấp trực tiếp hay gián tiếp khi họ đã bán được hàng ra nước ngoài. Mục đích của việc trợ cấp là nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm chè trên thị trường thế giới, từ đó có phương hướng gia tăng lượng hàng chè xuất khẩu sang thị trường Nga. Theo quyết định số 151/TTg ngày 12-04-1993 của TTCP, Nhà nước thành lập “Quỹ bình ổn giá cả” nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp chủ động tham gia vào thị trường. Nhà nước cần hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng để thúc đẩy Tổng công ty tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu lúc chính vụ. Tuy nhiên, Nhà nước cần phải có chính sách chống giá xuống thấp gây thiệt hại cho người sản xuất, đây là việc làm vừa có lợi cho nhà sản xuất vừa có lợi cho nhà kinh doanh xuất khẩu chè. Vì vậy, Nhà nước nên tiếp tục trợ giá xuất khẩu, để tăng cường hoạt động xuất khẩu sang thị trường Nga và không ngừng nâng cao hiệu quả xuất khẩu trên thị trường này. 4. Tổ chức tốt hệ thống thông tin Do tình hình kinh tế, chính trị trên thị trường thế giới luôn biến động, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu chè cuả Tổng công ty. Vì vậy Tổng công ty cần tăng cường vai trò của các Tham tấn thương mại tại các thị trường khác nhau, trong đó có thị trường Nga. Thông qua các tham tấn thương mại tại Nga, hệ thống thông tin sẽ được thu thập đầy đủ và kịp thời, giúp cho Tổng công ty đề ra các kế hoạch về kinh doanh xuất khẩu chè trong thời gian tới. 5. Chính sách về quản lý tổ chức xuất khẩu chè Hiện nay, việc quản lý chất lượng chè xuất khẩu chưa có tổ chức nào đứng ra chụi trách nhiệm trước Nhà nước, do vậy cần thống nhất quản lý ngành chè về chất lượng chè xuất khẩu. Việc nhà nước tổ chức quản lý chè xuất khẩu vừa tránh được sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, vừa tránh được sự lũng đoạn thị trường. Do chè là một loại hàng hoá đặc thù, vì vậy vừa đa dạng hóa phát triển kinh doanh chè, vừa tập trung xuất khẩu vào những đầu mối lớn. Như vậy, Nhà nước sẽ kiểm soát được các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, nếu không rất khó kiểm soát được bởi các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu một cách tràn lan, hoạt động không hiệu quả, chất lượng chè xuất khẩu không đồng đều… Do vậy, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cần tổ chức lại ngành chè như sau: + Giao việc phát triển và phục vụ thị trường nội tiêu cho các tỉnh và địa phương. + Các nguồn hàng xuất khẩu được giao cho các doanh nghiệp Trung ương, với các nhà máy quy mô lớn, hiện đại, đảm bảo cho sản phẩm xuất khẩu chất lượng cao. + Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các đơn vị tư nhân hoạt động bên ngoài hiệp hội chè Việt Nam, tham gia vào hiệp hội để dễ dàng thống nhất giá và chất lượng hàng xuất khẩu. Đồng thời kết hợp với các cơ quan giám định thị trường để chè xuất khẩu đáp ứng đủ quy định về tiêu chuẩn chè xuất khẩu. 6. Thưởng xuất khẩu Để khuyến khích Tổng công ty xúc tiến hoạt động xuất khẩu sang thị trường Nga, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người lao động, tăng thu nhập cho ngân sách quốc gia, Nhà nước nên quy định mức thưởng xuất khẩu đối với công ty. Vấn đề thưởng xuất khẩu được ban hành theo Quyết định số 02/2002/QĐ-BTM ngày 02-01-2002 của Bộ trưởng Bộ thương mại. Đây là chế độ khuyến khích lớn cho Tổng công ty nói riêng và cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu nói chung. 7. Một số vấn đề về chế độ chính sách Đi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động mất đi sự năng động, sáng tạo, tự chủ… hoạt động của doanh nghiệp trì trệ. Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã không ngừng tích luỹ kinh nghiệm, áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ, năng động, sáng tạo, tham gia vào liên doanh liên kết với các đối tác trong khu vực và trên thế giới. Sự đổi khác này một phần do Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình đề ra và thực hiện chính sách, cũng còn nhiều vấn đề cần phải được xem xét và tìm phương pháp giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc quản lý kinh tế thị trường và nâng cao chất lượng và hiệu qủa của các chính sách. Để phát triển ngành chè, một số chính sách cần được hoàn thiện như: - Đề nghị miễn thuế sử dụng đất đối với người trồng chè: vì chè là loại cây trồng lâu năm, lại trồng ở những nơi xa xôi hẻo lánh, vùng dân tộc ít người, trồng chè còn để phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống sói mòn... Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách giảm thuế cho người trồng chè. Không những thế giá chè trên thị trường thế giới luôn biến động, khi giá tụt giảm gây thiệt hại cho người trồng chè. Cho nên Nhà nước cần có chính sách bảo hộ cho người trồng chè không chuyển sang cây trồng khác. - Chính sách đối với các thiết bị dùng cho sản xuất chế biến chè: Các chính sách khuyến nông gắn liền với các chính sách về ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật…, hơn nữa để hiện đại hoá ngành chè, tạo chất lượng chè xuất khẩu tốt, gía thành hạ, cần có chính sách miễn thuế nhập khẩu vật tư thiết bị trong một số năm để ngành chè có thêm vốn đầu tư cho phát triển. - Chính sách đối với con người: + Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. + Đối với các doanh nghiệp chè: Đầu tư về giáo dục y tế, phụ cấp khu vực... + Thành lập quỹ bình ổn giá để bảo vệ người làm chè. + Đề nghị Nhà nước cấp hỗ trợ vốn để thành lập quỹ xuất khẩu. + Nhà nước tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực, tăng cường liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài để thúc đẩy xuất khẩu, được hưởng các chế độ ưu đãi... Kết luận Tổng công ty chè Việt Nam là đơn vị chủ đạo, bậc đàn anh của ngành chè Việt Nam, trong những năm qua đã rất nỗ lực trong triển khai xúc tiến thượng mại, khảo sát tìm kiếm thị trường mới và tham gia các hội trợ, triển lãm quốc tế để giới thiệu và quảng bá sản phẩm. Thời gian qua, Tổng công ty với thương hiệu VINATEA đã được đăng ký, giới thiệu trên 40 nước và đã được nhiều bạn hàng quốc tế biết đến. Tổng công ty đang triển khai bán sản phẩm có bao bì, nhãn mác hoàn chỉnh sang Nga và bước đầu đã có một số kết quả tốt. Tuy nhiên, việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do thuế suất của các nước đánh vào chè thành phẩm là rất cao, dẫn đển giá thành tăng lên, giảm sức cạnh tranh của chè Việt Nam, trong khi chi phí quảng cáo lại quá lớn... Để tăng thị phần của Tổng công ty trên thị trường Nga, Nhà nước đã cho phép Tổng công ty thành lập công ty 100% vốn tại Liên bang Nga, xây dựng các kênh phân phối trực tiếp để tiêu thụ sản phẩm. Ngành chè Việt Nam đã đạt được những thành quả như hiện nay không những nhờ vào công sức và vốn của chính mình mà còn nhờ vào chương trình hỗ trợ của Chính phủ bao gồm: giúp đỡ điều tra thị trường, tham gia hội trợ thực phẩm, quảng bá thương hiệu, tham gia liên hoan chè... thời gian tới Tổng công ty có chiến lược phát triển thị trường Nga với nhiều mặt hàng đa dạng. Tuy nhiên, năm 2003 xuất khẩu chè Việt Nam sang Nga gặp nhiều khó khăn về chất lượng, kinh phí, thương hiệu... Vì vậy, để chè Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường Nga, Tổng công ty cần áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ như: nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn chỉnh bao bì mẫu mã, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm chè Việt Nam, xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm, hạ gía thành và có các chính sách ưu đãi... Tài liệu tham khảo Nguyễn Thị Hường (Chủ biên)- Giáo trình Kinh Doanh quốc tế_NXB Thống kê Hà Nội- 2001. Nguyễn Cao Văn ( Biên soạn)- Giáo trình Marketing quốc tế _NXB Giáo dục Hà Nội- 1999. Giáo trình kinh tế Nông nghiệp_NXB Thống kê Hà Nội- 2002. Giáo trình Marketing Nông nghiệp_NXB Thống kê Hà Nội- 2001. Các tài liệu báo cáo của Tổng công ty chè Việt Nam. Tạp chí người làm chè năm 2003, 2004. Tạp chí thương mại năm 2003. Chè Việt Nam chưa có chỗ đứng ở Nga 26/7/2003: Nga- Thị trường nhập khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam: Tăng ngân sách cho chè: Sẽ có quỹ bảo hiểm xuất khẩu chè và sàn giao dịch chè : 8 giải pháp phát triển thị trường chè Việt Nam, thị trường mới cho sản phẩm chè và mở rộng thị trường chè tại Nga và Mỹ: Xây dựng thương hiệu cho chè Việt Nam, xuất khẩu là hướng phát triển bền vững của ngành chè, quảng bá sản phẩm chè và dự báo xuất khẩu chè Việt Nam trong thời gian tới: Hội thi chất lượng chè Việt Nam năm 2003 và 21 sản phẩm chè Việt Nam được trao huy chương vàng, 3/12/2003: Thị phần chè Việt Nam còn nhỏ: Chè Việt Nam có cơ tràn sang Nga và đầu tư sản xuất kinh doanh chè tại Nga: Chè Việt Nam trên thị trường Nga: Cần nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm chè Việt Nam: Nâng cao chất lượng chè xuất khẩu: Lối nào cho xuất khẩu chè Việt Nam: Con đường đưa hàng vào thị trường Nga và cần có trung tâm xúc tiến thương mại tại Nga: Nga tăng thuế nhập khẩu chè gói: 18/2/2003: Xuất khẩu- hướng phát triển bền vững của ngành chè, 5/6/2002: Việt nam đứng thứ 8 về xuất khẩu chè trên thế giới, 6/6/2002: Mốt số tài liệu khác: + Hội nhập để tăng trưởng và xuất khẩu. + Không nên coi việc trồng chè như một trào lưu. + Doanh nghiệp nên biết khi làm ăn với thị trường Nga. + Diễn biến thị trường chè thế giới. + Định hướng, giải pháp phát triển sản xuất chè đến năm 2010. + Đưa hương vị chè Việt Nam ra thế giới. + Chè Việt Nam cần có quy hoạch giống tốt và thương hiệu. + Liên kết 4 nhà để nâng cao chất lượng chè. +Cần có chính sách bảo hộ của Nhà nước. + Cơ hội cho sản phẩm, dịch vụ Việt Nam xâm nhập vào thị trường Nga. + Nhà máy chế biến vênh vùng nguyên liệu . +Ngành chè vẫn vướng bài toán thị trường. … Từ trang web: Và: Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33945.doc