lời nói đầu
Trong bất kì chế độ xã hội nào dù là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa thì giáo dục luôn là hoạt động quan trọng đối với sự phát triển kinh-tế xã hội của một quốc gia. Bởi lẽ: giáo dục là nền tảng văn hoá, là cơ sở hình thành nhân cách và năng cao ý thức của mỗi con người trong xã hội. Cùng với truyền thống dân tộc, giáo dục thúc đẩy lòng nhiệt huyết của mỗi thế hệ đối với quốc gia dân tộc.
Con người là vốn quí, là tài sản vô giá của mỗi quốc gia và tri thức khoa học là “ sả
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà Nội đến 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n phẩm đặc biệt” của quá trình học hỏi và trau dồi kiến thức trên ghế nhà trường. Trong văn kiện hội nghị lần thứ II đã nêu: “lấy phát triển giáo dục làm yếu tố cơ bản- là khâu đột phá...” Và đúng vậy, xã hội phát triển đồng nghĩa với tri thức con người được nâng lên một bước.
Trong số những biện pháp phát triển toàn diện một quốc gia thì ngân sách nhà nước (NSNN) được coi là công cụ đặc biệt giúp nhà nước thực hiện các chức năng của giáo dục thông qua việc Thu- Chi Ngân sách. Và một trong những khoản chi nói trên, chi cho giáo dục nói riêng trên địa bàn thủ đô đã đóng góp một phần lớn vào những thành công trên địa bàn thủ đô.
Hơn thế nữa, đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định: "phải thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu”... “ đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển ", một lần nữa Dự thảo Đại hội IX vừa qua Đảng ta đã khẳng địmh: " từng bước phát triển nền kinh tế tri thức...”. Điều này chứng tỏ Đảng và Nhà nước đã khẳng định: Đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước so với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Trước yêu cầu và tính bức xúc đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà nội đến năm 2005”. Trong phạm vi bài viết tôi chỉ xin phép nghiên cứu nội dung việc quản lí chi NSNN trong ngành giáo dục phổ thông trên địa bàn thủ đô Hà nội. Nội dung đề tài gồm ba phần ngoài lời mở đầu và phần kết luận.
Phần thứ nhất: Hoạt động giáo dục và vai trò cuả chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Phần thứ hai: Thực trạng về công tác quản lí chi ngân sách nhà nước cho hoạt động giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà nội những năm qua.
Phần thứ ba: Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước trên địa bàn thủ đô những năm tơí.
Vì điều kiện hiểu biết có hạn, thời gian tiếp cận thực tế tại Sở Tài chính-Vật giá Hà nội không được dài vì vậy trong quá trình tìm hiểu và thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô trong khoa, các bạn sinh viên quan tâm đến vấn đề này. Tôi xin chân thành cảm ơn, thầy giáo: GVC Trần Đạị, các cô, chú trong Sở Tài chính-Vật giá Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Phần thứ nhất
******
Hoạt động giáo dục và vai trò của chi ngân sách nhà nước cho hoạt động giáo dục.
***
I. Tính tất yếu khách quan của hoạt động giáo dục để phát triển kinh tế xã hội.
1. Giáo dục nền tảng văn hoá và nhân cách con người việt nam.
Trải qua bốn ngìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc việt nam với truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất đã không chịu lùi bước trước bất kì một thế lực thù địch nào. Chúng ta đứng lên bảo vệ tổ quốc, bảovệ độc lập tự chủ bảo vệ cái quyền mà “thượng đế đã trao cho mỗi người chúng ta”. Bao nhiêu năm đã trôi qua song tinh thần ấy vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam, cha ông ta đã đứng lên xây dựng tổ quốc thì mỗi thế hệ chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ lấy nó và phát triển nó lên một tầm cao mới và đó cũng là mong muốn ngàn đời mà Bác Hồ đã căn dặn đồng bào. Hết thế hệ này sang thế hệ khác cái mong muốn được " sánh vai cùng các cường quốc năm châu " cứ thao thức như dòng sông quê hương, như mảnh đất mẹ không bao giờ dừng lại trong mỗi thế hệ người Việt Nam. Ham học hỏi, khám phá và gìn giữ những gì mà cha ông ta đã để lại đó là vốn quí, là "tài sản vô giá" của dân tộc Việt Nam.
Tiếp thu và gìn giữ những “cổ vật văn hoá” ấy có sự đóng góp không nhỏ của ngành giáo dục quốc gia. Giáo dục đã giúp lưu giữ cái hay, cái đẹp của những thế hệ trước, giúp thế hệ sau rút ra những bài học kinh nghiệm cho những bước tiến sau này, và dần sự nối tiếp ấy đã phát triển và trở thành không thể thiếu trong tâm thức mỗi thế hệ con ngươì Việt Nam. Và phải chăng vì điều ấy chúng ta nói rằng: "Giáo duc là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của dân tộc ...”
Quan niệm về giáo dục của một quốc gia cũng có nhiều ý kiến khác nhau: có ý kiến cho rằng: ”giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người” và đây cũng là dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người....tuy nhiên theo một khía cạnh nào đó thì giáo dục được hiểu là việc trang bị những kiến thức và hình thành nhân cách con người. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: ” Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người ”, phải chăng trong đó người đã nhắc nhở toàn xã hội phải luôn luôn gìn giữ và phát triển sự nghiệp trồng người. Và một điều mà chúng ta không thể phủ nhận là phát triển nhân ttố con người luôn đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
2. Giáo dục tri thức cần thiết tiến tới nền “kinh tế tri thức..."
Lần lại những trang sử huy hoàng của dân tộc Việt nam ta mới thấy được những biến cố quan trọng tạo nên bước ngoặt lịch sử cho quốc gia nhỏ bé này. Bao khổ đau mất mát dân ta phải chịu đã tạo nên nhân cách con người Việt nam. Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân ta đã từng cho rằng, cái đói cái rét không sợ bằng cái dốt. Và cũng không phải ngẫu nhiên Bác tố cáo hành động vô liêm sỉ của thực dân Pháp - chúng đầu độc dân ta bằng rượu cồn nha phiến - với mục đích “dốt để trị”. Người từng nói : "nạn giặc dốt là một trong những phương thức độc ác nhất mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta bị mù chữ, nhưng chỉ cần 3 tháng là đủ để chúng ta học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ “. Đồng thời Người cũng khẳng định: "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Không chỉ dừng lại ở Người, các vị lãnh đạo của chúng ta sau người cũng băn khoăn lo lắng cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. Bởi lẽ giáo dục trực tiếp cung cấp cho xã hội những con người có đủ tri thức, sự hiểu biết để đưa đất nước cập nhật những thành tựu tri thức mới. Hiến pháp 1992 nêu rõ: "Nhà nước phát triển giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài”. Một quốc gia có “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” khi quốc gia ấy mọi người được giáo dục một cách toàn diện.
Đúng vậy, để đạt được mục tiêu tốt đẹp ấy, thiết nghĩ chúng ta phải tìm cho ra được động lực của sự phát triển? Đó không phải là cái gì khác mà chính là tri thức, mà giáo dục đem tri thức đến cho mọi người. Các nước trên thế giới đều ý thức được rằng, giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội mà thực sự còn là đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội và nâng cao mức sống nhân dân. Như chúng ta đã biết tri thức nhân loại là vô tận và khả năng con người chi phối sự nảy mầm cuả "Trồi non tri thức " ấy. Đưa khoa học kĩ thuật vào thực tế cuộc sống đó là những gì mà loài người chúng ta mong muốn. Lấy tri thức làm quan điểm đồng thời làm nhân sinh quan cho các quyết định mang tính toàn cục cuả quốc gia ... nhà nước ta không ngừng nâng cao công tác quản lí, đưa giáo viên lên một vị trí mới nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược con người mà nghị quyết TW 4 đề ra là : cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu, đó là động lực thúc đẩy và điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước, phải coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của nhà nước. Đó là một chiến lược có tầm quan trọng bậc nhất trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một đất nước có nền công nghiệp phát triển tất yếu phải có những con người có đầy đủ tri thức, trình độ để phát minh sáng chế áp dụng khoa học kĩ thuật vào cuộc sống và sản xuất. Các nước chậm phát triển muốn phát triển phải hết sức quan tâm đến giáo dục. Chỉ có một chiến lược phát triển con người đúng đắn mới giúp các nước thuộc thế giơí thứ 3 thoát khỏi sự nô lệ về kinh tế và công nghệ... Khai giảng năm học 1995-1996 tổng bí thư Đỗ Mười nói: “Con người là nguồn lực quí báu đồng thời là mục tiêu cao cả nhất , tất cả do con người và vì hạnh phúc của con người, trong đó trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia. Vì vậy đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài là vấn đề có tầm chiến lược là yếu tố quyết định tương lai của đất nước”. Giáo dục tự nó cung cấp cho xã hội những nhà kinh tế, những kĩ sư, bác sĩ và những nhà khoa học có đủ năng lực, trình độ hiểu biết từ đó nó hợp thành lực lượng sản xuất to lớn đủ điều kiện để đưa đât nước tiến vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên của tri thức, khoa học và công nghệ tiên tiến.... Giáo dục mãi là nhiệm vụ không thể thiếu trong xã hội loài người tương lai - giáo dục là cơ sở của tri thức con người.
II. Sự cần thiết và vai trò của chi ngân sách nhà nước cho hoạt động giáo dục.
1. Chi ngân sách nhà nước cho hoạt động giaó dục.
1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước và chi ngân sách nhà nước.
* Ngân sách nhà nước.
Khi nhắc đến ngân sách nhà nước, có rất nhiều khái niệm Ngân sách nhà nước được đưa ra:
Từ điển bách khoa toàn thư của Liên xô (cũ ) cho rằng: " Ngân sách nhà nước là bản liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn của nhà nước.
Theo từ điển Pháp thì: Ngân sách nhà nước là bản kế hoạch thu nhập , chi tiêu quốc gia trong tương lai. Nó được ông quốc khố đại thần trình ra trước nghị viện xem xét và có những đề xuất thay đổi thuế khoá, những đề xuất đó sau này được đổi thành luật trong năm tài chính. Sự phát triển của xã hội loài người đồng nghĩa với sự thay đổi và phát triển của các quan hệ xản xuất, nền kinh tế tập trung cũng dần được thay đổi bằng nền kinh tế thị trường, khái niệm ngân sách nhà nước cũng được hiểu theo nghĩa khác: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
* Chi ngân sách nhà nước : Là quá trình phân phối lại quĩ tiền tệ theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của nhà nước.
1.2. Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Ngân sách không tách rời nhà nước, cùng với việc xuất hiện nhu cầu về tài chính là sự xuất hiện nhà nước nhằm chi tiêu cho mục đích bảo vệ sự tồn tại của nhà nước, đó là các khoản chi cho bộ máy của nhà nước, cho cảnh sát, quân đội, tiếp đến là nhu cầu chi khác nhằm thực hiện chức năng của nhà nước như: Chi cho các nhu cầu văn hoá, giáo dục đào tạo, y tế, phúc lợi xã hội, trợ cấp xã hội, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng ...
Hoạt động của sự nghiệp giáo dục có ảnh hưởng lâu dài đến chất lượng lao động của con người. Chúng ta biết rằng lao động của con người luôn mang tính hai mặt: Một mặt là phần lợi ích mà con người được hưởng từ lao động đó là tiền lương, phúc lợi xã hội. Mặt khác nó còn là tiềm lực của sản xuất vì nó là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên lực lượng sản xuất. Và vấn đề đặt ra đối với chúng ta là phải quan tâm đến tính hai mặt đó của lao động để lao động sáng tạo ra giá trị sử dụng và giá trị thặng dư trên cơ sở nâng cao chất lượng lao động, vì vậy nhà nước phải quan tâm nhiều đến giáo dục nhằm đào tạo con người toàn diện, đó chính là yếu tố đảm bảo sự vững chắc của thể chế chính trị của mỗi quốc gia hiện nay. Như vậy chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là cần thiết.
Đứng trên góc độ nào đó mà xét ta thấy rằng: chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi mang tính chất tiêu dùng xã hội nhằm góp phần đảm bảo,duy trì phát triển kinh tế xã hội thông qua việc sử dụng quĩ tiền tệ tập chung của nhà nước mà không hoàn trả trực tiếp.
1.3. Ngân sách nhà nước với các lĩnh vực phải chi.
Với vai trò to lớn của mình Ngân sách nhà nớc phải đảm đương một công việc vô cùng to lớn và đa dạng, cụ thể như:
* Chi phát triển kinh tế : gồm các khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi vốn lưu động, chi sự nghiệp phát triển kinh tế, chi dự trữ, chi tạo nguồn vay với các dự án ...( chi dự án 120 : quĩ hỗ trợ giải quyết việc làm, chi chương trình 327: phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chi trương trình chống xuống cấp của ngành giáo dục ...
*Chi sự nghiệp văn xã: gồm các khoản chi nhằm phát triển sự nghiệp văn xã như chi cho giáo dục - đào tạo, chi sự nghiệp y tế, chi văn hoá thông tin, chi sự nghiệp thể dục thể thao, chi để thực hiện các chính sách xã hội: như chính sách ưu tiên đối với ngời miền núi, hải đảo và các khoản chi cho sự nghiệp văn hoá xã hội khác...
* Chi quản lí hành chính: Gồm các khoản chi nhằm duy trì sự phát triển của cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan của Đảng, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội...
* Chi quốc phòng- an ninh: Đó là các khoản chi duy trì sự hoạt động của Bộ quốc phòng, Bộ công an...
Ngoài các khoản chi trên còn có các khoản chi khác: chi trả nợ, chi viện trợ, đóng góp cho các tổ chức quốc tế tham gia ...
Để nâng cao chất lượng ngành giáo dục cần phải có sự đầu tư mà trước hết là đầu tư bằng tiền. Vốn đầu tư cho phát triển giáo dục có thể được khai thác dưới nhiều hình thức khác nhau song hiện nay ở nước ta vẫn chủ yếu là từ ngân sách nhà nước đài thọ, từ đó hình thành nên khoản chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Xét về mặt hình thức,chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là sự thực hiện quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị từ quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm duy trì và phát triển một nền giáo dục quốc gia đáp ứng yêu cầu của cuộc đổi mới cũng như yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế xã hội.
Nhưng nếu xét về lâu dài thì chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là khoản chi mang tính tích luỹ, là nhân tố quyết định mức độ tăng trưởng kinh tế trong tương lai,đặc biệt là trong thời đại mới khi mà khoa học kĩ thuật trực tiếp là yếu tố sản xuất, khi tỉ lệ chất xám trong giá trị của cải vật chất làm ra ngày càng lớn. Đó là kết quả của quá trình đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Trong mỗi giai đọan khác nhau, mức độ, nội dung cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục cũng có sự khác nhau, sự khác nhau đó bắt nguồn từ các nhân tố ảnh hưởng sau:
- Chế độ chính trị mà mỗi quốc gia theo đuổi: Tuỳ theo chế độ chính trị của mỗi quốc gia mà nhà nước quyết định những nhiệm vụ kinh tế - chính trị xã hội, do đó nó quyết định đến nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
- Mức độ phát triển của lực lượng sản xuất: Đây là nhân tố vừa tạo ra tiền đề, khả năng cho việc hình thành nội dung, cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Bởi lẽ nhân lực con người là yếu tố quyết định sản xuất, mà đầu tư cho giáo dục là đầu tư để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Tù đó xây dựng và tạo lập nên những kĩ sư, bác sĩ, cán bộ kinh doanh ....tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Phạm vi và mức độ bao cấp của nhà nước cho lĩnh vực giáo dục: Chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục đó chính là bao cấp bảo đảm phúc lợi xã hội cho mọi người dân, nó không chỉ phụ thuộc vào chế độ chính trị, từng giai đoạn lịch sử mà còn phụ thuộc vao mục tiêu xã hội trong những thời kì nhất định, mà mức độ và khả năng chi của ngân sách cho từng cấp học là khác nhau, với mức độ bao nhiêu.
- Thực trạng trang thiết bị, phương tiện phục vụ giảng dạy học tập: Đây chính là yếu tố quyết định trực tiếp đến cơ sở vật chất trong nhà trường của nhà nước và xã hôị, phúc lợi xã hội có được nâng cao và nhìn nhận khi nó được biểu hiện qua số mét vuông nhà ở /người dân; số km đường/người dân...
- Tốc độ tăng trưởng dân số : Việc qui mô dân số mở rộng trong điều kiện trang thiết bị hạn chế từ đó làm giảm phúc lợi xã hội/người dân. Để đảm bảo phúc lợi xã hội cho người dân không ngừng tăng lên khi dân số tăng đồng nghĩa với việc đầu tư thêm về phúc lợi cho toàn xã hội về mọi mặt nói chung và trang thiết bị cho ngành giáo dục nói riêng. Và cũng có nghĩa chi cho giáo dục tăng lên.
Việc xác định đúng các nhân tố và nhận biết chúng ảnh hưởng như thế nào đến cơ cấu nội dung chi ngân sách là cần thiết để đảm bảo chi tiết kiệm và hiệu quả và đạt phúc lợi xã hội một cách tối đa.
1.5. Nguyên tắc đảm bảo chi ngân sách tiết kiệm - hiệu quả.
Khả năng là có giới hạn và nhu cầu là vô hạn đó là lí do tại sao chúng ta đa ra yêu cầu chi tiết kiệm và hiệu quả. Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta nhắc đến hiệu quả của một đồng vốn bỏ ra, bỏ vào đâu và thực hiện như thế nào? Đó là câu hỏi mà chúng ta luôn phải bận tâm. Vì vậy các nhà kinh tế để đảm bảo yêu cầu này đã đề ra ba nguyên tắc chi:
*Nguyên tắc quản lí theo dự toán.
Đề ra nguyên tắc này, các nhà kinh tế nhằm mục đích thống nhất và tập chung một mối trong việc thực hiện chi ngân sách nhà nước nói chung và chi thường xuyên nói riêng mà chi cho giáo dục là một trong những nội dung trong đó nhất thiết phải đảm bảo, xuất phát từ một số cơ sở và thực tiễn sau:
-Thứ nhất: Hoạt động của chi ngân sách nhà nước đặc biệt là cơ cấu thu - chi ngân sách nhà nước, đồng thời phải luôn chịu sự kiểm tra giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước.
- Thứ hai: phạm vi và mức độ chi cho từng lĩnh vực là rất khác nhau vì vậy nhất thiết phải tạo ra những định mức chi riêng hợp lí cho mỗi đối tượng.
Tôn trọng nguyên tắc quản lí theo dự toán đối với các khoản chi thường xuyên được nhìn nhận dưới góc độ sau:
- Mọi nhu cầu chi thường xuyên nói chung và chi giáo dục nói riêng nhất thiết phải được xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở thông qua việc xét duyệt của các cơ quan quyền lực nhà nước từ thấp đến cao và quyết định cuối cùng do quốc hội xem xét đề ra.
- Trong quá trình tổ chức thực hiện dự toán cho mỗi cấp, phải căn cứ vào dự toán kinh phí đã được duyệt mà phân bổ và sử dụng. Dự toán chi cho mỗi khoản mục chỉ được phép sử dụng trong khoản mục đó và hạch toán theo đúng mục lục ngân sách nhà nước.
- Phải lấy dự toán làm căn cứ đối chiếu, so sánh khi quyết toán kinh phí và phân tích đánh giá thực hiện của từng kì báo cáo. Vì vậy nhất thiết phải đồng nhất trong việc xác lập các chỉ tiêu và khoản mục trong quyết toán và dự toán chi.
* Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả.
Đây có lẽ là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lí tài chính nhà nước: nguồn lực là có hạn và nhu cầu là vô hạn vì vậy chúng ta phải chi làm sao mà với mức phí bỏ ra thấp nhất song hiệu quả đạt được lại cao nhất? Hơn thế nữa do hoạt động của ngân sách nhà nước diễn ra rộng và đa dạng phức tạp, nhu cầu chi luôn gia tăng với mức độ không ngừng trong giới hạn huy động các nguồn thu. Chính vì vậy để tiết kiệm và hiệu quả được tôn trọng chúng ta phải làm tốt và đồng bộ một số nội dung sau:
- Xây dựng các định mức tiêu chuẩn chi phù hợp với từng đối tượng hay tính chất công việc, đồng thời bảo đảm tính thực tiễn cao.
- Thiết lập các hình thức cấp phát đa dạng, từ đó tạo tiền đề cho việc lựa chọn các tiêu thức phù hợp cho mỗi đối tượng quản lí.
- Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các hoạt động hoặc nhóm mục chi phù hợp với ngân sách mà hiệu quả cao.
Nói tóm lại tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt đối lập của nguyên tắc này song nó lại có mỗi quan hệ tương hỗ với nhau nếu chúng ta sử dụng hợp lí các đồng vốn, do vậy khi xem xét phải đặt chúng trong quan hệ tương hỗ, xem xét lợi hại khi chọn vì chúng luôn chi phối lẫn nhau.
* Nguyên tắc “ Chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước ”.
Đề ra nguyên tắc này cũng là lí do để nhà nước khai thác tối đa hiệu quả của các công cụ hành chính. Kho bạc nhà nước có chức năng quan trọng là quản lí quĩ ngân sách nhà nước, vì vậy nhất thiết các kho bạc phải quản lí chặt chẽ các khoản chi của nhà nước, đặc biệt là chi cho giáo dục. Để tằng cường vai trò của kho bạc nhà nước trong kiểm soát chi cho sự nghiệp giáo dục của ngân sách nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta đã và đang triển khai việc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước như là một nguyên tắc trong quản lí khoản chi này.
Để thực hiện tốt nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước cần giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
- Mọi khoản chi phải được kiểm tra kiểm soát trước, trong và sau quá trình cấp phát thanh toán và thuộc dự toán ngân sách được duyệt theo chế độ tiêu chuẩn và định mức do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
- Các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nớc phải mở tài khiỏan tại ngân hàng kho bạc nhà nước, chịu sự kiểm tra kiểm soát của các cơ quan tài chính, kho bạc nhà nước trong việc lập dự toán thanh toán, hạch toán và quyết toán ngân sách nhà nước.
- Các cơ quan tài chính có trách nhiệm phải thẩm định dự toán và thông báo hạn mức kinh phí gửi cho đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách, kiểm tra sử dụng kinh phí đồng thời xét duyệt quyết toán chi của đơn vị và tổng quyết toán chi ngân sách nhà nước.
- Kho bạc nhà nước phải kiểm soát hồ sơ, chứng từ và điều kiện cấp phát, thanh toán kịp thời khoản chi ngân sách nhà nước theo quy định. Tham gia với các cơ quan tài chính cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền trong việc sử dụng ngân sách nhà nước và xác nhận số thực chi ngân sách qua kho bạc.
- Lựa chọn phương thức cấp phát, thanh toán đối với từng khoản chi cho sự nghiệp giáo dục phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện tại: phương thức cấp phát thanh toán đối với từng khoản lương, các khoản có tính chất lương...sẽ khác với phương thức cấp phát, thanh toán cho xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm vật tư thiết bị ...
Đó là ba nguyên tắc cần thiết để chi ngân sách nhà nước tiết kiệm và đạt hiệu quả cao nhất. Để làm rõ thêm điều này ta nghiên cứu nội dung chi của ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
2. Nội dung chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Nhằm mục đích nâng cao phúc lợi xã hội về mặt giáo dục và phát triển về thể chất, tinh thần của nhân dân. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục là điều kiện không thể thiếu cho sự nghiệp của toàn đảng toàn dân nhằm nâng cao chất lượng dạy và học “Tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá các điều kiện dạy và học”, và chi của ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục là nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đặt ra cho giáo dục kết hợp với các nguồn kinh phí khác.
Xét trên góc độ quản lí các khoản chi cho từng nhóm mục chi thì chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục bao gồm một số nhóm chi chủ yếu sau:
* Nhóm một: Chi cho con người.
Bao gồm chi lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội, phúc lợi tập thể cho giáo viên, cán bộ công nhân viên nhà trường…khoản chi này chủ yếu nhằm mục đích tái sản xuất sức lao động cho đội ngũ giáo viên, cán bộ công nhân viên của nhà trường.
Công thức xác định:
Trong đó:
- : mức chi bình quân một công nhân viên dự kiến kì kế hoạch.
- :số công nhân viên bình quân dự kiến có mặt trong năm kế hoạch ngành i.
- CCNi : số kinh phí chi cho công nhân viên dự kiến kì kế hoạch.
Mcn: thường được xác định dựa vào mức chi thực tế kì báo cáo đồng thời tính đến những điều chỉnh có thể xảy ra về mức lơng, phụ cấp và một số khoản khác mà nhà nớc dự kiến thay đổi.
SCN
=
Số CNV có mặt cuối năm báo cáo
+
Số CNV dự kiến tăng b/quân năm kế hoạch
-
Số CNV dự kiến giảm b/quân năm kế hoạch
Số CNV dự kiến tăng b/quân năm kế hoạch
=
Số CNV dự kiến tuyển dụng
x
Số tháng làm việc
12
Số CNV dự kiến giảm b/quân năm kế hoạch
=
Số CNV dự kiến nghỉ theo chế độ
x
Số tháng làm việc
12
* Nhóm hai: Chi cho nghiệp vụ chuyên môn.(NV-CM).
Bao gồn các khoản chi về giảng dạy, học tập trang thiết bị trong trường (dụng cụ thí nghiệm, sách giáo khoa...) khoản chi này phụ thuộc vào trang thiết bị trong trường, qui mô, cấp học và bản thân nó quyết định hiệu quả của giáo dục. Số chi nghiệp vụ chuyên môn của mỗi cấp khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động của nó, vì vậy khi xác định số chi nghiệp vụ chuyên môn của mỗi cấp phải căn cứ vào từng nội dung cụ thể gắn với nhu cầu kinh phí và khả năng đảm bảo các nguồn kinh phí của ngaan sách nhà nước.
Công thức xác định:
Trong đó: - CNV : số chi NV-CM kì kế hoạch toàn nền kinh tế.
- CNVi : số chi NV-CM ngành i.
CNVi
=
Số dự kiến chi về vật liệu, dụng cụ cho NVCM
+
Số dự kiến chi về n/cứu khoa học hay thuê nghiên cứu
+
Số dự kiến chi đồng phục - trang phục...
+
Số dự kiến chi về các khoản khác
* Nhóm ba: Chi quản lí hành chính
Đây là khoản chi nhằm duy trì hoạt động bình thường của bộ máy quản lí của mỗi cơ quan đơn vị, hay toàn ngành. Các đơn vị thuộc phạm vi bao cấp của ngân sách nhà nước về công tác quản lí hành chính bao gồm: chi tiền chè nước tại cơ quan, chi trả tiền điện, tiền nước đã dùng tại văn phòng, các dịch vụ về thông tin liên lạc, chi hội nghi, tiếp khách, hội nghị sơ kết, tổng kết lễ tân...các khoản chi này liên quan nhiều đến qui mô hoạt động và tổ chức của mỗi loại hình đơn vị:
Công thức xác định:
Trong đó:
- CQL: Chi quản lí hành chính của nhà nước dự kiến kì kế hoạch.
- : Mức chi quản lí hành chính bình quân một cnv dự kiến kì kế hoạch ngành i.
- : Số công nhân viên bình quân dự kiến có mặt trong năm kế hoạch thuộc ngành i.
Căn cứ để xác định mức chi quản lí hành chính dự kiến cho năm kế hoạch là dựa vào mức chi quản lí hành chính thực tế bình quân một công nhân viên kì báo cáo, khả năng nguồn vốn của ngân sách kì kế hoạch và yêu cầu chi tiết kiệm trong quản lí hành chính.
* Nhóm bốn: Chi mua sắm sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ.
Hàng năm do nhu cầu hoạt động, do sự xuống cấp tất yếu của tài sản cố định dùng cho các hoạt động hành chính sự nghiệp nên thường phát sinh kinh phí cần có để mua sắm thêm hoặc phục hồi giá trị sử dụng cho những tài sản cố định đã bị xuống cấp ở những đơn vị được ngân sách nhà nước bao cấp. Vì vậy phải xác định nhu cầu kinh phí để đáp ứng cho mua sắm để sửa chữa lớn hoặc xây dựng nhỏ trong dự toán kinh phí hàng năm của mỗi đơn vị để lập dự toán cho ngân sách nhà nước.
Khi lập dự toán chi cho ngân sách nhà nước cho nhóm mục này cơ quan tài chính chủ yếu dựa trên những căn cứ sau:
Một là: Trạng thái của tài sản đã sử dụng tại mỗi ngành, mỗi đơn vị thông qua các tài liệu quyết toán kinh phí kết hợp với điều tra thực tế để dự tính mức chi cho mỗi ngành, đơn vị.
Hai là: Khả năng của nguồn vốn ngân sách đáp ứng các yêu cầu về trang thiết bị trong kì kế hoạch.
Kết hợp hai căn cứ trên, cơ quan tài chính có thể dự tính mức chi cho mua sắm, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ bằng một tỉ lệ phần trăm trên nguyên giá của tài sản cố định hiện có tại mỗi ngành, mỗi đơn vị.
Công thức xác định:
Trong đó:
- CmS : Số chi cho mua sắm, sửa chữa lớn, xây dựng nhỏ của ngân sách nhà nước dự kiến kì kế hoạch.
- NGi: Nguyên giá tài sản cố định hiện có tại ngành i.
- Ti : Tỉ lệ % áp dụng để xác định kinh phí dự kiến chi cho mua sắm, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ ngành i.
Căn cứ bốn nhóm chi trên ta có:
CGD=CCN + CNV + CQL + CMS .
Trong đó:
- CGD: Số chi thờng xuyên cho giáo dục dự kiến kì kế hoạch của ngân sách nhà nớc.
- CCN: Số chi CNVdự kiến kì kế hoạch.
- CNV: Số chi NV-CM dự kiến kì kế hoạch.
- CQL: Số chi quản lí hành chínhdự kiến kì kế hoạch.
- CMS: Số chi mua sắm sửa chữa dự kiến kì kế hoạch.
3. Vai trò của chi ngân sách nhà nước cho hoạt động giáo dục.
Vững bước tiến vào thế kỉ XXI đó là nguyện vọng của toàn Đảng toàn dân và toàn quân ta mà tiền đề thúc đẩy nhiệm vụ và hoài bão lớn lao đó là tri thức- giáo dục đem tri thức đến cho mọi người. Một nền giáo dục có phát triển khi nó được sự quan tâm ủng hộ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền cả về vật chất và tinh thần. Nếu như trước năm 1987, nền kinh tế Việt nam hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung mà đặc trưng là cơ cấu kinh tế đóng, nông nghiệp lạc hậu, tốc độ tăng dân số luôn ở mức cao ( bình quân 3%/năm) thì từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt nam đường lối đổi mới kinh tế đã được hình thành và đặc biệt đến năm 1989 một số nội dung trong việc đổi mới kinh tế bắt dầu phát huy tác dụng, Đảng và nhà nước tiếp tục đổi mới một cách toàn diện hơn. Từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp được chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đổi mới kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền giáo dục, tăng cường quản lí và nâng cao hiệu quả chi ngân sách cho giáo dục có sự kết hợp hợp lí nguồn vốn ngân sách nhà nước với các nguồn vốn khác trong phát triển giáo dục:
Nguồn vốn do nhân dân đóng góp: Đựợc hình thành từ các khoản:
- Thu học phí từ học sinh phổ thông đóng góp theo định mức từng cấp học có sự ưu tiên cho các đối tựơng chính sách, học sinh nghèo.
Tiền do nhân dân đóng góp để xây dựng, sửa chữa trang thiết bị ngoài những khoản mà ngân sách nhà nước đầu tư cho xây dựng cơ bản, sửa chữa lớn trang thiết bị trong trường.
Nguồn viện trợ. Bao gồm :
- Viện trợ của các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước.
- ủng hộ nhân đạo của các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp.
- Các khoản được biếu tặng cho trường bằng hiện vật của các tổ chức kinh tế và các tổ chức xã hội.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Trong điều kiện đổi mới hiện nay, nhà nước ta nói riêng và các nước trên thế giới nói chung khuyến khích các hình thức xã hội hoá lĩnh vực giáo dục nhưng ngân sách nhà nước vẫn đóng vai trò và giữ vị trí hết sức quan trọng. Như vậy đầu tư cho giáo dục là điều không thể thiếu.
Như trên đã nói ngân sách nhà nước là nguồn tài chính cơ bản, to lớn nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân theo đúng đường lối của Đảng “ giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, các thành phần kinh tế phát triển không đồng đều song lại phải cạnh tranh hết sức khốc liệt của nền kinh tế thị trường vì vậy sự đóng góp của thành phần kinh tế này là không đáng kể, mọi gánh nặng đều đặt lên vai của nhà nước- ngân sách nhà nước. Hàng năm ngân sách nhà nước đóng góp 80% các khoản chi cho giáo dục quốc dân vì vậy ngân sách nhà nước có vai trò hết sức to lớn trong việc duy trì và phát triển nền giáo dục quốc gia.
Hơn thế nữa đầu tư của ngân sách nhà nước tạo diều kiện ban đầu, đồng thời là cơ sở tiền đề cho sự ủng hộ giáo dục của các tầng lớp nhân dân thông qua việc giáo dục cho các tầng lớp nhân dân hiểu được vai trò và tác dụng to lớn của ._.giáo dục đối với con em họ từ đó thu hút sự đóng góp của nhân dân cho giáo dục.Không chỉ có vậy, NSNN luôn quan tâm đến việc nâng cao đời sống vật chất của anh chị em giáo viên, giúp mọi người yên tâm công tác nâng cao chất lượng giáo dục, thông qua việc tăng lương, giảm niên hạn tăng lương …đó là những gì nhà nước đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục, quan tâm đến sự nghiệp trồng người.
Không dừng lại ở đó, ngân sách nhà nước còn giúp điều phối cơ cấu giáo dục của toàn ngành, thống nhất thời gian dạy, chương trình học của từng lớp và từng cấp học. Với sự nỗ lực không ngừng đó ngành giáo dục nói chung và giáo dục Hà nội nói riêng đã gặt hái nhuững thành công to lớn trong các cuộc thi học sinh giỏi và quốc tế.
Theo thể chế thiết lập giáo dục hiện hành, nền giáo dục được chia thành: giáo dục chính qui, phi chính qui và giáo dục thường xuyên. Nền giáo dục chính qui lại được chia thành các hệ nhỏ trong một thể thống nhất của hệ thống giáo dục quốc gia- một hệ thống xuyên suốt từ từ giáo dục mầm non đến hệ đại học cung cấp toàn diện nền tri thức nhân loại..(sơ đồ hệ thống giáo dục quốc gia).
Sơ đồ hệ thống giáo dục quốc gia.
4.
18 tuổi
2. Giáo dục phổ thông . 3. Giáo dục chuyên nghiệp.
15 tuổi
11 tuổi
6 tuổi
3 tuổi
1. Giáo dục mần non. ( Nghị định 90/CP ngày 24/11/1994)
Giáo dục đại học
Sau đại học
Đào tạo tiến sĩ
Cao học
Giai đoạn II
Đại học (4 - 6 năm)
Giai đoạn I
Cao Đẳng
(3 năm)
Trung học
phổ thông
(3 năm)
Trung học
Nghề
(3 năm)
Trung học
Chuyên nghiệp
(3-4 năm)
Đào tạo nghề (2 năm)
Trung học
Cơ sở
(4 năm)
Đào tạo nghề (1 năm)
Tiểu học
(5 năm)
Mẫu giáo
(3 năm)
Nhà trẻ
(3 năm)
4. Sự cần thiết của chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Như phần trên chúng tã đã xem xét phạm vi, cơ cấu, nội dung của chi ngân sách Nhà nước nói chung và chi sự nghiệp giáo dục nói riền rất phong phú và đa dạng, hoạt động phát triển kinh tế xã hội nói chung, phát triển giáo dục nói riêng diễn ra rất phức tạp. Các khoản chi ngân sách Nhà nước cho hoạt động giáo dục thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến lĩnh vực trồng người nói quyết định trực tiếp đến chất lượng, cơ cấu và điều kiện giảng dạy và học tập của hoạt động giáo dục. Giáo dục có phát triển khi con người hoạt động trong đó có được quan tâm đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên, học sinh phát huy lòng yêu nghề, yêu trường, yêu lớp… công hiến những thành quả lớn lao cho xã hội. Điều đó chỉ xảy ra khi khoản chi cho con người của ngành giáo dục được thoả đáng. Không ngừng nâng cao chất lượng chuyên môn đó là vấn đề mà ngành giáo dục thủ đô luôn quan tâm trên con đường phát triển. Hàng năm ngành giáo dục liên tục mở các lớp tuyển chọn giáo viên giỏi yêu nghề, say nghề tạo điều kiện cho anh chị em giáo viên học hỏi những kinh nghiệm giảng dạy mới, những phương pháp lên lớp, giảng bài hay giúp các em học sinh dễ dàng nắm bắt bài giảng ngay trên lớp… và khoản chi cho nghiệp vụ chuyên môn là không thể không có trong lĩnh vực giáo dục. Không chỉ có vậy, công tác quản lý hành chính đi sâu, đi sát trong việc nắm bắt quản lý chuyên môn giáo viên cũng được quan tâm thích đáng, cán bộ quản lý tài chính tại các trường, xã, phường, các phòng và sở giáo dục liên tục được đào tạo chuyên môn quản lý trong những phạm vi thích hợp. Tăng cường hiệu quả các nguồn kinh phí từ ngân sách cho giáo dục có được thực hiện khi các khoản chi cho từng lĩnh vực giáo dục được bố trí hợp lý, khoa học và đúng mục đích. Trong nhiều năm liên tiếp khoản chi cho hoạt động giáo dục liên tục tăng lên: năm 1998 chi cho quản lý hành chính giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội là 25.021 triệu đồng, 9% trong tổng chi cho giáo dục phổ thông toàn thành phố năm 1999 là 27.255 triệu đồng chiếm 9,13% và năm 2000 vừa qua ước đạt 29.861 triệu chiếm 9% tổng chi cho hoạt động giáo dục phổ thông. Đó là một sự cố gắng lớn của Hội đồng nhân dân UBND cùng toàn thể nhân dân thủ đô đóng góp cho sự nghiệp giáo dục.
Yếu tố khác quyết định gián tiếp đến chất lượng giáo dục đó là khoản chi cho mua sắm và sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ tại các sở giáo dục thủ đô… Không phải ngẫu nhiên việc đầu tư cho khoản này từ ngân sách Nhà nước chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi từ ngân sách Nhà nước cho hoạt động giáo dục năm 1997 là 50.304 triệu đồng chiếm 22% tổng số chi cho hoạt động giáo dục. Điều đó chứng tỏ một điều rằng, giá trị tài sản trang thiết bị, đồ dùng học tập… phục vụ cho hoạt động giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong những thành công của ngành giáo dục.
Như chúng ta đã biết khoản chi này nhằm mục đích mua sắm thêm hoặc dùng để sửa chữa những giá trị tài sản phục vụ nhu cầu giảng dạy học tập. Nếu chúng ta xét về hình thái bên ngoài của hệ thống giáo dục thì phúc lợi xã hội của ngành được nhìn nhận thấy ngay trên giá trị tài sản, trang thiết bị trên một học sinh trong trường chất lượng giáo dục có được nâng cao khi điều kiện học tập đầy đủ đáp ứng nhu cầu trong từng tiết học.
Con người (giáo viên, học sinh) chất lượng chuyên môn, tinh thần học tập và cơ sở vật chất tất cả những điều đó tạo nên nền giáo dục quốc gia. Một nền giáo dục quốc dân có phát triển toàn diện không bị khuyết tật khi mỗi một con người được đào tạo một cách hoàn chỉnh. Vì vậy, chăm sóc cho nguồn gốc (nền tảng giáo dục) là vô cùng cần thiết. Và đây cũng là lý do khiến Nhà nước phải đầu tư kinh phí cho sự nghiệp giáo dục để mong muốn có một nền giáo dục vững chắc trở thành hiện thực.
Phần thứ hai
********
thực trạng về công tác quản lí chi ngân sách
nhà nước cho hoạt động giáo dục
trên địa bàn thành phố hà nội.
***
I. Hoạt động của ngành giáo dục thủ đô thời gian qua.
1. Vài nét về tình hình kinh tế xã hội thủ đô thời gian qua.
Nằm hai bên bờ sông Hồng thuộc đồng bằng bắc bộ trù phú và màu mỡ, nổi tiếng là đất văn vật từ xa xa là thủ đô Hà nội. Được chọn làm thủ đô từ năm 1010 dưới triều nhà Lí khi Lí Công Uẩn rời đô từ Hoa lư về Hà nội với tên THĂNG LONG lúc bấy giờ. Sau đến triều Lê mang tên ĐÔNG ĐÔ và triều Nguyễn là Hà nội (1831)… trải qua bao nhiêu biến cố cùng lịch sử dân tộc, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công Hà Nội chính thức được chọn làm thủ đô của nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Xác định vị trí chiến lược của thủ đô Hà nội Nghị quyết 08/ BCT của bộ chính trị (ngày 21/3/1983) đã nêu “ Hà nội là trung tâm đầu não về chính trị - văn hoá, khoa học kĩ thuật đồng thời là trung tâm lớn về kinh tế, về giao dịch quốc tế của cả nước”.
Là tụ điểm của 6 tuyến đường sắt, 8 tuyến quốc lộ và đồng thời là đầu mối thông tin liên lạc quan trọng và lớn nhất trong cả nước. Nằm trung tâm đồng bằng bắc bộ tiếp giáp với 5 tỉnh: phía bắc giáp Thái nguyên, phía đông là Bắc ninh, Hưng yên, phía nam giáp Vĩnh phúc và phía tây giáp Hà tây, cách cảng nước sâu Cái lân và cảng lớn Hải phòng khoảng 100-150km theo hướng quốc lộ 18 và quốc lộ 5, cách cửa ngõ biên giới Lạng sơn 200 km...Hà nội rất thuận tiện trong việc thông thương kinh tế với cả nước.
Là thành phố lớn thứ hai trong cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh về cả dân số và mật độ dân cư, với 2.7364 triệu người chiếm gần 3.6% dân số cả nước. Từ năm 1995 đến nay mức tăng dân số bình quân 2.1%/ năm, với 58% dân số sống trong bảy quận nội thành. Diện tích Hà Nội 937.39 km2 với mật độ dân số lớn trong nội thành: 17320 ngời/ km2 và 1164 người /km2 ở ngoại thành, đã xảy ra sự chênh lệch quá lớn giữa các địa phương nội và ngoại thành. Và chính sự khác biệt này đã gây ra sự chênh lệch về điều kiện sống, thu nhập, điều kiện dân trí, đầu tư cho kết cấu hạ tầng và phát triển giáo dục đào tạo giữa các địa phươngtrên địa bàn.( Nguồn:Niên giám thống kê 2000).
Với tiềm năng phát triển kinh tế lớn, cơ cấu kinh tế đa dạng, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, do vậy phát triển toàn diện ngành giáo dục thủ đô thời gian tới là vô cùng cấp bách, bởi một lẽ đơn giản là Hà nội nổi tiếng là đất văn vật từ ngàn xưa vì vậy nhu cầu học tập ở thủ đô là rất lớn. Liên tiếp trong nhiều năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Hà nội đạt mức cao ( từ năm 1995 đến nay tốc độ tăng trưởng kinh tế thủ đô luôn đạt mức 14 - 15%) vì vậy đời sống nhân dân liên tục được cải thiện, nhu cầu ăn, mặc, ở cũng gia tăng. Song bên cạnh những mặt tích cực Hà nội cũng tồn tại những mặt tiêu cực, những mặt trái của một thành phố trên bước đường phát triển; mật độ dân số không đều giữa các vùng dẫn đến điều kiện sống chênh lệch, số học sinh theo học ở các quận nội thành lớn ( một phần do dân từ các tỉnh di cư về thành thị dẫn đến nhu cầu học lớn) và ngoại thành chẳng lấy gì làm khả quan, trang thiết bị cha đồng bộ và còn thiếu ở nhiều nơi khi so sánh giữa nội và ngoại thành... song với sự nỗ lực của Đảng bộ chính quyền cùng các cấp - các ngành trên địa bàn thủ đô, sự quan tâm của Đảng và Trung Ương, sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ giáo dục và đào tạo, sự nghiệp giáo dục thủ đô từng bước trong những năm gần đây đạt được những bước tiến đáng kể, đáp ứng cơ bản nhu cầu học tập của nhân dân, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao dân trí đào tạo nhân tài cho thủ đô và cả nước.
2. Hoạt động giáo dục trên địa bàn thành phố Hà nội thời gian qua.
Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đó là tất cả những gì mà Đảng bộ các cấp chính quyền quan tâm và dành cho ngành giáo dục thủ đô. Với đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm và tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, trong nhiều năm liên tiếp ngành giáo dục thủ đô luôn đi đầu trong cả nước về công tác giảng dạy. Hơn 95% giáo viên cấp Tiểu học đạt trình độ chuẩn hoá, giáo viên cấp trung học cơ sở đạt tiêu chuẩn 97% và giáo viên trung học phổ thông đạt 98%. Điều đó chứng tỏ ngành giáo dục thủ đô ngày càng quan tâm đến chất lượng giảng dạy. Tuy đội ngũ giáo viên mầm non mới đạt ở mức 45% trình độ trung học sư phạm mẫu giáo song trong nhiều năm liên tiếp giáo dục mầm non đã thu hút số lượng lớn các cháu theo học: Năm học 1999 - 2000 vừa qua giáo dục mầm non thu hút 78.679 cháu...Trong nhiều năm số lợng đội ngũ giáo viên tăng lên nhanh chóng đáp ứng nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân.
Biểu 1: Số liệu đội ngũ giáo viên ngành giáo dục hà nội.
Đơn vị: Người
Nội dung/năm học
1998 - 1999
1999- 2000
I. Mần non
2985
3214
II. Phổ thông
1. Tiểu học
6878
6985
2. Trung học cơ sở
7963
8176
3. Trung học phổ thông
2989
32274
III. Toàn ngành giáo dục
20815
21649
Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội.
Tương ứng với số lượng giáo viên ngành giáo dục thủ đô, trên toàn thành phố xuất hiện 799 trường học ( Số trường toàn ngành giáo dục bao gồm: mầm non, phổ thông), phục vụ giảng dạy 16811 lớp vào năm học 1999 - 2000. Trong số các trường - các lớp đó xuất hiện ngày càng nhiều các lớp hệ B và bán công dân lập nhằm phục vụ nhu câu học tập của các em học sinh không đợc theo học các lớp hệ A. theo số liệu thống kê của sở giáo dục và đào tạo thì ngành học giáo dục Hà nội phát triển qua hai năm 1998 - 1999 và 1999 - 2000 như sau:
Biểu 2: Số liệu phát triển các ngành học sự nghiệp
giáo dục Hà nội.
Ngành học.
Số trường (Trường)
Số lớp
(Lớp)
Số học sinh (Học sinh)
98-99
99-00
98-99
99-00
98-99
99 -00
I. Mần non
246
256
1230
1922
43.050
78.679
II. Phổ thông
1. Tiểu học
2. Trung học cơ sở
3. Phổ thông trung học
- Hệ A
- Hệ B
- Bán công dân lập
253
210
33
27
260
214
32
38
6325
5250
1281
493
486
6535
5778
1359
533
684
253.000
210.000
61.500
22.185
18.468
254.865
219.564
67.956
23.983
19.328
Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Hà nội.
Do nhu cầu học tập ngày càng cao, trong điều kiện hệ thống trường công lập còn hạn chế, ngành giáo dục phổ thông hà nội đang từng bớc thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường lớp bên cạnh số trường công lập được giữ vững, các loại hình hệ B, bán công dân lập ngày càng tăng. ở cấp tiểu học số lượng các em lang thang cơ nhỡ cũng được chăm sóc chu đáo hơn nhằm đa các em hoà nhập vào cộng đồng. (Hiện có 44 lớp học tình thương, 30 lớp ABE...) chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học được thực hiện trên 100% số xã phường.
Bên cạch việc phát triển các ngành học sự nghiệp giáo dục, thành phố còn phát triển các ngành giáo dục thường xuyên để đáp ứng nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân . Bằng việc tổ chức những chương trình và hình thức học tập liên kết nhiều tổ chức, cơ quan nhằm thu hút học viên đến lớp, đặc biệt là hình thức học tập từ xa trên truyền hình được nhiều người tham gia.
Biểu 3:số liệu phát triển ngành học giáo dục thờng xuyên.
Đơn vị: người.
Nội dung học
Năm học:1998 - 1999
Năm học: 1999 - 2000
1. Xoá mù và sau xoá mù
2913
3175
2. Chuyên đề
40387
41587
3. Bổ túc văn hoá
6671
7162
4. Học nghề
8994
9784
5. Ngoại ngữ
12637
17537
6. Tổ chức và giáo dục từ xa
3805
4305
7. Bổ túc văn hoá trung học
19870
20119
Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội.
Với vai trò và vị trí là thủ đô của đất nước, Hà nội ngoài việc tập trung phát triển kinh tế và thực hiện vai trò trung tâm đầu não của quốc gia còn không ngừng nâng cao trình độ dân trí, hàng năm Hà nội đào tạo ra hàng ngàn cử nhân, kĩ sư, bác sĩ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thành phố cũng không quên đi những con người thiệt thòi về cái chữ, công tác xoá mù chữ cũng không ngừng được quan tâm, nhiều học viên chưa hoàn thành công tác xoá mù chữ theo tiêu chuẩn quốc gia đã được vận động đến lớp, năm học 1998 - 1999 là 2.913 học viên, đến năm 1999 - 2000 là 3.175 học viên. Các trung tâm giáo dục thường xuyên và bổ túc văn hoá liên tục mở các lớp học nghề, học ngoại ngữ, các lớp chuyên đề nhằm nâng cao kiến thức cho cán bộ cơ sở và nhân dân ( năm học 1998 - 1999 số học viên theo học bổ túc văn hoá 6.671 người, ngoại ngữ 12.637 người, lớp chuyên đề 40.387 người và đến năm 1999 –2000 những con số đó lần lượt là: 7.162 người; 17.537 người và 41.587 người.
Bên cạnh đó trong năm 2000 vừa qua, ngành giáo dục đào tạo Hà nội đã tiến hành xã hội hoá các trường phổ thông và dạy nghề trên toàn thành phố và bước đầu đã gặt hái được một số thành tích đáng khích lệ. Chủ trương của ngành giáo dục đào tạo Hà nội trong năm 2001 này, sẽ tiếp tục chương trình xã hội hoá lĩnh vực giáo dục nhằm hạn chế kinh phí của nhà nước đầu tư cho giáo dục.
Biểu 4: Tình hình xã hội hoá lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo và
Dạy nghề năm 2000 trên địa bàn thủ đô Hà nội.
Ngành học/ Mục
Số trường
Số học sinh. (người)
Kinh phí thu được. (triệu đồng)
1. Bán công
4
5279
4276
2. Dân lập
97
40721
42442
3. Tư nhân.
42
20546
15774
4. Hệ B trong công lập
25252
28500
Tổng kinh phí thu được
90992
Nguồn: Bài tham luận của đ/c Thụ trình UBND thành phố Hà nội năm 2000.
Trong năm 2001 ngành Giáo dục - Đào tạo tiếp tục tiến hành tinh thần chuyển 5 trờng mầm non trực thuộc Sở Giáo dục - Đào tạo sang bán công (Đó là: - Mầm non Việt triều, - Mầm non Việt bun, - Mầm non A, - Mầm non B và Mầm non 20-10), và dự kiến sẽ giao chỉ tiêu cho mỗi quận huyện chuyển một trường công lập sang cơ sở ngoài công lập. Thành phố tiếp tục khuyến khích phát triển các loại hình tư thục đối với hệ mầm non tư thục Minh Hà - Khánh Linh - Cầu Vồng. Đối với hệ Tiểu học và Trung học cơ sở thành phố kiên quyết hạn chế các nhóm học sinh gửi cô giaó, kiểm tra rà soát các điểm lẻ trong các trường công lập chưa đủ tiêu chuẩn. Còn đối với hệ Trung học rút bớt học sinh hệ B trong các trường công lập, thu gom các trường phổ thông dân lập chưa đủ điều kiện về cơ sở vật chất, số học sinh, thành trường Phổ thông dân lập có qui mô đủ mạnh.
Vì đây là năm thứ hai thực hiện các chính sách về xã hội hoá giáo dục nên trong năm này thành phố cần tiếp tục phát huy nhũng thành tích đạt được trong năm qua, rút ra những bài học và những thiếu xót cần bổ xung. Tiếp tục khai thác các tiềm năng về nhân tài, vật lực trong xã hội phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục có chất lượng cao hơn từng bước nâng cao mức hưởng thụ về thể chất và tinh thần của nhân dân thành phố, thì thành phố cần tiếp tục thực hiện và ban hành những chính sách mới liên quan đến vấn đề xã hôị hoá giáo dục, những hướng dẫn và biện pháp cụ thể mà một số trong đó là:
- Bảo lãnh đối với những người chuyển từ công lập sang bán công; - Hướng dẫn thực hiện ưu đãi về thuế đối với các cơ sở ngoài công lập theo qui định của nhà nước: tiền sử dụng đất, thuê đất, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, lệ phí trước bạ, thuế xuất nhập khẩu; - Ban hành các quyết định, qui định về thủ tục thuê đất, giao đất trên địa bàn thành phố, tiếp nhận hồ sơ của các cơ sở ngoài công lập xin giao đất... có thể nêu ra một số mô hình tiêu biểu trong hoạt động giáo dục trong những năm qua thực hiện xã hội hoá tương đối hiệu quả:
+ Trường phổ thông dân lập Nguyễn Bỉnh Khiêm: đơn vị làm thí điểm đầu tiên ngay từ năm học 1993 - 1994 do cơ sở vật chất thuê mượn là chủ yếu, không có sự ổn định, địa điểm thường xuyên thay đổi vì vậy sĩ số của học sinh nhà trường giảm. từ đó nhà trường quyết tâm huy động vốn xây dựng trường. Từ năm 1996 đến 1999 trường đã huy động gần 3 tỉ đồng xây dựng trường cấp hai với 17 phòng học, 7 phòng làm việc nhà 4 tầng và xây dựng khu trường cấp 3 với 17 phòng học với diện tích gần 2000 m2. Cùng với việc xây dựng trường từ năm 1996 nhà trường đã tăng cường đầu tư phòng vi tính, mua sắm trang thiết bị dạy học, mua ô tô đưa đón học sinh. Chính nhờ có việc xây dựng trường lớp khang trang ổn định nên chất lượng giảng dạy ngày càng được nâng cao, uy tín càng lớn, sĩ số học sinh năm 2000 - 2001 là 1.450 học sinh ( năm học 1993 - 1994là 75 học sinh), tỉ lệ học sinh khá, giỏi: cấp 2 là 80 % cấp 3 là 45%, tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp xấp xỉ 100 % , việc quản lí tài chính trong trường đã thực hiện theo chế độ kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp.
Đi đôi với việc mở rộng qui mô, ngành giáo dục Hà nội còn có những biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục như đổi mới mục tiêu, đổi mới chương trình nội dung giảng dạy ở các bậc học cấp học, đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học, năng lực biết đặt và giải quyết vấn đề để học sinh không thụ động trong việc tiếp thu bài giảng. Ngành giáo dục đã áp dụng những biện pháp cụ thể sau:
- Đổi mới việc giảng dạy và học tập các môn lí luận, chính trị, giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng, xây dựng nề nếp kỉ cương dạy và học, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giáo viên và học sinh nhiều hơn.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy, kết hợp học đi đôi với hành, lí luận đi đôi với thực tiễn, mời các giáo viên giỏi, giáo sư trực tiếp về giảng bài.
- Sắp sếp lại mạng lưới trường phổ thông trung học theo hướng tập trung thành một trung tâm đào tạo các trình độ giáo viên nhằm sử dụng có hiệu quả đội ngũ giáo viên. đẩy mạnh việc bồi dưỡng giáo viên thường xuyên và cán bộ quản lí giáo dục chưa đủ tiêu chuẩn.
- Tăng cường trang thiết bị đồ dùng phục vụ giảng dạy học tập.
Với sự nỗ lực của thầy - trò và cán bộ lãnh đạo ngành giáo dục Hà nội, trong mấy năm vừa qua, chất lượng giảng dạy của các cơ sở giáo dục được nâng lên đáng kể cả về đạo đức và chuyên môn - số lượng học sinh bỏ học giảm đáng kể: ( Biểu 5: Tỉ lệ học sinh bỏ học ở các cấp học trên địa bàn thủ đô).
Biểu 5: Tỉ lệ học sinh bỏ học ở các cấp học trên địa bàn thủ đô.
Đơn vị:%
Cấp học.
Năm học1998 - 1999
Năm học 1999 - 2000
1. Tiểu học
1,76
1,85
2. Trung học cơ sở.
0,35
0,3
3. Trung học phổ thông
0,07
0,04
Nguồn: Thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà nội.
Chất lượng học sinh phổ thông cũng khá tiến bộ.
Biểu 6 : Chất lượng giáo dục phổ thông năm học 1999 - 2000
Đơn vị:%.
Ngành học
Văn hoá
Đạo đức
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Tốt
Khá
TB
Yếu
1. Tiểu học
16.6
46.4
34.8
2.2
72.2
27.3
0.5
0
2.Trung học cơ sở
15.5
41.7
37.2
5.6
58.5
36.7
4.2
0.6
3. Phổ thông trung học
5.4
51.7
51.7
7.1
62.3
31.2
5.3
1.2
Nguồn: Thống kê của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà nội.
Chất lượng học sinh phổ thông cũng khá tiến bộ.
Chất lượng giáo dục quyết định đến chất lượng của các kì thi, trong hai năm liên tiếp, kết quả các đợt thi tốt nghiệp của học sinh phổ thông đều đạt được những kết quả cao:
Biểu 7: Chất lượng các kì thi tốt nghiệp hai năm
1998 - 1999 và 1999 - 2000.
Ngành học.
Số học sinh đạt yêu cầu
Năm học 1998 - 1999
Năm học 1999 - 2000.
1. Tiểu học
99
99.4
2.Trung học cơ sở
97
98.7
3.Trung học phổ thông
95
95.0
Nguồn: Báo caó cuối năm của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà nội.
Tuy đạt được những kết quả đáng mừng nhưng thực trạng giáo dục Hà nội vẫn còn một số vấn đề bất cập cần quan tâm giải quyết: qui mô giáo dục chưa đồng đều giữa các quận huyện nội và ngoại thành, chất lượng giáo dục ở mức trung bình vẫn còn ở mức cao ( hơn 34 %), tình trạng văn hoá yếu kém vẫn còn tồn tại trong các trường học.
Tuy là năm đầu tiên ( năm 2000 vừa qua) thực hiện các chính sách về xã hội hoá lĩnh vực giáo dục chúng ta đã gặt hái được những thành công đáng mừng song chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách để xã hội hoá được chặt chẽ và hiệu quả hơn. Vấn đề quản lí tài chính còn nhiều bất cập, chúng ta nhất thiết phải công khai hoá các khoản thu - chi để tạo lòng tin cho các bậc phụ huynh có con em đi học. Có chính sách ưu đãi trong thuê đất, giao đất, vay vốn và về vấn đề thuế cho các đơn vị ngoài công lập, ban hành khung thu, mức thu mang tính chất định hướng, hướng dẫn cho các cơ sở ngoài công lập thống nhất thực hiện trên toàn thành phố… đồng thời ban hành hướng dẫn các thông tư liên tịch của các bộ ngành trung ương đối với các cơ sở ngoài công lập.
Trên đây là khái quát về tình hình hoạt động của ngành giáo dục thủ đô thời gian qua, những thành tựu đạt được,những tồn tại cần giải quyết. Để hiểu rõ hơn về tình hình giáo dục thủ đô, chúng ta nghiên cứu quá trình sử dụng các nguồn kinh phí của ngành giáo dục Hà Nội.
II. Tình hình đầu tư và sử dụng kinh phí nhà nước cho sự nghiệp giáo dục hà nội thời gian qua.
1. Khối lượng và mức độ chi từ ngân sách thành phố cho hoạt động giáo dục.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã và đang rất quan tâm đến việc phát triển phát triển giáo dục và đào tạo. nhiều chính sách, chỉ thị về việc đổi mới và phát triển giáo dục ra đời. Tại đại hội trung ương khoá 8 đã khẳng định: “ Giáo dục đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của toàn dân”. Mọi người chăm lo cho giáo dục, học thường xuyên, học suốt đời và vì giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới từng bước các chính sách, các giải pháp cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực phát huy tác dụng và tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, nhu cầu đòi hỏi chi ngân sách cho giáo dục không ngừng tăng lên.
Để định hướng cho sự phát triển của toàn nền kinh tế, nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng các chính sách, giải pháp cụ thể, và nó càng đa dạng trong nền kinh tế thị trường, như: công cụ hành chính ( mệnh lệnh), công cụ pháp luật, công cụ kinh tế, công cụ giáo dục, công cụ chuyên chính ( vũ lực). Mỗi công cụ trên có những điểm mạnh, diểm yếu riêng và mức độ sử dụng chúng cũng khác nhau trong mỗi giai doạn lịch sử. Nếu như trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung, công cụ hành chính được sử dụng nhiều nhất và là công cụ quan trọng nhất của nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế, thì trong nền kinh tế thị trường dịnh hướng xã hội chủ nghĩa thì công cụ pháp luật, kinh tế, tài chính là các công cụ giữ vai trò quyết định nhất và cộng cụ tài chính có vai trò hết sức quan trọng.
Là thành phố đi đầu trong thực hiện công cuộc đổi mới và đã có những chuyển biến tích cực đang thích ứng dần với nền kinh tế thị trường, sự phát triển da dạng của các loại hình kinh tế trong nhiều lĩnh vực, Hà Nội đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp các ngành trong việc thực hiện và phát triển ổn định nền kinh tế. Công tác quản lí tài chính Hà Nội đã đạt được những thành tích đáng khích lệ với kế hoạch thu - chi ngân sách nhiều năm được hoàn thành đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế của tất cả các ngành, các lĩnh vực, thúc đẩy sự chuyển biến của cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, mức sống của nhân dân dần được nâng cao, tạo điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Biểu 8: Tình hình thực hiện thu - chi ngân sách thành phố
Hà nội những năm
Đơn vị:Triệu đồng.
Chỉ tiêu.
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
1. Tổng thu NS thành phố.
2.229.600
2.809.379
2.564.346
2. Tổng chi NS thành phố
2.189.250
2.271.531
2.506.660
Nguồn: Báo cáo quyết toán Thu- Chi NSTP hà nội năm 1998-1999và 2000
Qua ba năm con số thu - chi đã có chiều hướng gia tăng, thu ngân sách trên địa bàn đã đáp ứng được nhu cầu chỉ trên địa phương theo kế hoạch, đóng góp cao hơn cho ngân sách trung ương, tạo thêm điều kiện chi cho phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, tăng giá trị kết dư ngân sách năm sau cao hơn năm trước( năm 1998 giá trị kết dư là 40.300 triệu đồng - năm 1999 giá trị kết dư là 40.350triệu đồng).
Cùng với các ngành khác, Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND thành phố đã quan tâm rất lớn đến sự nghiệp giáo dục, liên tiếp cụ thể hoá các nghị quyết, quyết định của Đảng và nhà nớc. Trên địa bàn thành phố đề ra những kế hoạch dài hạn, trung hạn, kế hoạch hàng năm và đề ra chiến lược cụ thể để đưa sự nghiệp giáo dục thủ đô tiến những bước tiên mới.
Biểu 9: Thực hiện chi ngân sách thành phố thời gian qua.
Nội dung chi
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Số chi. (tỉ đồng)
%TT
Số chi. (tỉ đồng)
%TT
Số chi. (tỉ đồng)
%TT
Tổng chi NSTP
2189,250
100
2.271,531
100
2.506,660
100
I. Chi thờng xuyên
58,36
66,9
57,13
1.Chi bù giá - trợ giá
12,145
0,55
13,404
0,6
15,3
0,6
2. Chi SN kinh tế.
315,217
14,40
318,718
14,0
387,490
15,5
3.Chi SN GD-ĐT .
347,350
15,87
367,031
16,2
396,319
15,8
4.Chi y tế-DS KHH
101,902
4,65
99,637
4,4
113,856
4,5
5. Chi SN VH-TT.
29,514
1,35
32,773
1,4
33,604
1,3
6.Chi PT-TH
13,46
0,61
16,632
0,7
17,245
0,7
7.Chi SN TDTT
31,849
1,45
32,586
1,5
36,800
1,5
8.Chi SN KHCNvà môi trường.
-
-
22,212
1,0
25,889
1,03
9.Chi đảm bảo XH
51,023
2,33
50,098
2,2
65,592
2,6
10.Chi quản lý hành chính
210,354
9,61
323,814
14,3
186,162
7,4
11.Chi an ninh quốc phòng.
61,131
2,79
63,121
2,8
64,330
2,6
12.Trợ cấp cân đối xã.
85,465
3,90
-
-
81,469
3,2
13.Chi khác NS
18,547
0,85
178,175
7,8
11,000
0,4
II.Chi xdcb tập chung.
674,694
30,82
237,359
-
228,000
9,1
III. Chi hỗ trợ vốn cho NN
-
-
10,945
0,5
12,00
0,5
IV. Chi dự phòng ns.
4,517
0,21
-
-
-
-
V. Chi lập quĩ dự trữ tài chính
-
-
-
-
116,000
4,6
VI. Chi thiết bị NN
-
-
227,630
10
423,040
16,9
VII. Nguồn vốn khác
-
-
22,635
1
-
-
VIII. Chi xdcb từ các n.thu.đ lại.
231,109
10,56
224,491
9,9
165
6,6
1.Chi đầu tư xdcb
-
-
-
-
145,000
-
2.Thoái trả nhà+đất
-
-
-
-
20,000
-
IX. Chi b/xung phát triển nhà
-
-
30,000
1,3
55,000
2,2
X. Chi tăng lương
-
-
-
-
72,564
2,9
Nguồn: Báo cáo quyết toán Thu- Chi NSTP Hà Nội năm 1998-1999và 2000
Rõ ràng trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, còn tồn tại những bất cập, mất cân đối trên các lĩnh vực nhưng tỉ trọng chi ngân sách cho giáo dục đào tạo nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng không ngừng được tăng lên trong những năm qua (biểu 9) cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối, điều đó chứng tỏ sự cố gắng lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân đân thành phố.
Giáo dục tạo tiền đề cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo vì vậy các khoản chi cho sự nghiệp giáo dục là vô cùng cần thiết và đóng góp lớn vào những thành công trong sự nghiệp trồng ngời. Phạm vi hoạt động của ngành giáo dục nói chung và giáo dục thủ đô nói riêng rất rộng, bao gồm: Khối mầm non phổ thông, các trường đặc biệt và giáo dục thường xuyên, chính vì vậy chúng ta rất khó xác định ranh giới và điều kiện cho sự hoạt động này. Nhận thức rõ tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục, thực hiện chủ trương “ Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” , Hà nội đã giành phần kinh phí đáng kể trong ngân sách để mở rộng mạng lưới trường lớp, nâng cao chất lượng dạy và học, từng bước hiện đại cơ sở vật chất tạo tiền đề cho sự phát triển những năm tiếp theo.
Biểu 10: Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục những năm qua.
Chỉ tiêu.
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Chi NS cho SN GD.(tỉ đồng)
270,557
295,746
324,345
1.So sánh chi NS cho GD/tổng chi GDĐT (%)
77,89
80,58
81,84
2.Chi NS cho GD/Tổng chi TP.(%).
12,35
12,03
12,94
3. Chi cho SN - ĐT (Tỉ đồng)
76,793
71,285
71,974
Nguồn: Báo cáo cuối năm 1998-1999 và 2000 của Sở TC-VG Hà Nội
Qua bảng số liệu ta thấy NSNN đầu tư cho sự nghiệp giáo dục hàng năm tăng lên đáng kể cả về số tương đối và số tuyệt đối.
- Năm 1998 chi ngân sách của thành phố cho sự nghiệp giáo dục là 270,557 tỉ đồng chiếm 77,89% tổng chi từ ngân sách thành phố cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, và 12,35% tổng chi của toàn thành phố.
- Năm 1999 chi ngân sách thành phố cho sự nghiệp giáo dục tăng 9,31% so với năm 1998 (Tăng 25,189 tỉ đồng) và chiếm tỉ trọng 80,58% so với tổng chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, 12,03% so với tổng chi ngân sách thành phố. Rõ ràng trong năm này số chi từ ngân sách thành phố cho sự nghiệp giáo dục thủ đô tăng lên cả về số tương đối và số tuyệt đối khi so sánh với tổng chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo và tổng chi ngân sách thành phố.
- Năm 2000, số chi từ ngân sách thành phố cho sự nghiệp giáo dục là 324,345 tỉ đồng (Tăng 28,559 tỉ đồng so với năm 1999), chiếm tỉ trọng 81,84% so với tổng chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo và 12,94% so với tổng chi ngân sách thành phố. Sự tăng lên đột biến trong chi cho giáo dục trong tổng chi cho giáo dục và đào tạo, điều đó đã thể hiện sự quan tâm của đảng uỷ,UBND, cùng các cấp chính quyền thành phố cho sự nghiệp trồng người của toàn xã hội… Có vẻ như khó hiểu khi thấy chi cho giáo dục chỉ chiếm 12,94% ( so với 13,02%) trong tổng chi ngân sách thành phố là vì nhu cầu chi trên địa bàn thành phố cũng tăng lên tương ứng. Trong năm 2000 này, chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tăng lên một phần cũng do tăng mức lương cơ bản của cán bộ công nhân viên chức từ 144.000đồng / người / tháng lên 180.000 đồng / người / tháng ._. chính trị tư tưởng trong giáo viên học sinh, xây dựng các cơ sở Đảng trong nhà trường, đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong trường học, chú trọng công tác giáo dục tư tưởng, giáo dục truyền thống, đạo lý nhân văn trong học sinh. Vận động tinh thần "Trật tự - kỷ cương - tình thương - trách nhiệm" trong toàn thể giáo viên và học sinh.
8. Đẩy mạnh phong trào thi đua dạy - học trong toàn ngành, đồng thời kết hợp với các tỉnh, thành phố khác trong quan hệ hợp tác phát triển ngành giáo dục trong và ngoài nước. Xứng đáng là ngành giáo dục lá cờ đầu trong cả nước.
II. Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
1. Một số giải pháp huy động nguồn vốn cho giáo dục Hà Nội.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục là Nhà nước nhằm tiết kiệm các khoản chi từ ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục, huy động sự đóng góp tối đa của các tầng lớp nhân dân và tổ chức xã hội trong việc phát triển giáo dục của cả nước. Vì vậy có hai nguồn cơ bản đáp ứng yêu cầu cho giáo dục thủ đô.
1.1. Kinh phí từ ngân sách thành phố.
Hàng năm, kinh phí từ ngân sách thành phố luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của giáo dục thủ đô (chiếm tỉ trọng lớn tổng kinh phí cho giáo dục >80%). Giáo dục thực hiện trách nhiệm mà thành uỷ, UBND thàhh phố giao nhằm phục vụ những lợi ích lâu dài, cơ bản của thành phố, từ đó thúc đẩy sự đóng góp trong nhân dân. Trong những năm qua, ngân sách thành phố đầu tư cho sự nghiệp giáo dục không ngừng tăng lên và còn tiếp tục tăng trong giai đoạn tới đây. Thành phố phấn đấu chi cho giáo dục trong thời gian tới chiếm 15-19%trong tổng chi của thành phố, thiết nghĩ đây là vấn đề hết sức cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh với chất lượng cao của giáo dục thủ đô.
Là thủ đô của cả nước do đó mà dân di cư từ các tỉnh, thành phố khác dến tương đối lớn, nhưng hầu hết không có hộ khẩu chính thức song con em họ vẫn có nhu cầu đến trường vì vậy số học sinh thực tế cao hơn mức dự kiến hàng năm. Vấn đề này gây khó khăn trong việc cấp kinh phí mà chúng ta vẫn thường làm, vì vậy nên cấp phát kinh phí theo đầu học sinh.
+ Nếu cấp phát theo đầu học sinh thì nó có ưu điểm là: Đảm bảo đủ chi ngân sách cho các trường, các vùng, cả thầy và trò, là căn cứ để lập kế hoạch ngân sách , cấp phát, theo dõi và quyết toán. Song nó cũng có nhược điểm: Những vùng giáo dục chậm phát triển (các quận, huyện ngoại thành) lẽ ra cần nhiều kinh phí để đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng thì lại được ít kinh phí và giáo dục bị thụt lùi. Để khắc phục điều này chúng ta phải xác định một hệ số cho việc cấp phát giữa các vùng, các trường, tránh tình trạng đầu tư không đồng đều... Hơn thế nữa, việc xác định hệ số lại có thể là cơ sở để tham ô - tham nhũng lợi dụng...
Song nhìn chung chúng ta nên cấp phát kinh phí theo định mức tính trên đầu học sinh và hiệu quả của nó đã được các nước phát triển trên thế giới chứng minh và áp dụng, cấp phát theo đầu học sinh đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho mỗi học sinh trong việc học tập.
1.2. Các nguồn khác.
Trong năm qua, tỉ trọng của các nguồn vốn khác trong tổng vốn đầu tư cho giáo dục đã có những cải tiến, tăng lên về số tuyệt đối, song trong giai đoạn hiện nay chúng ta nhất thiết phải huy động tối đa sự đóng góp của các nguồn vốn này. Để làm được điều đó chúng ta phải có những giải pháp đồng bộ, đúng đắn. Cụ thể:
- Đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục bằng cách đa dạng hoá các loại hình giáo dục, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Huy động các nguồn đóng góp từ nhân dân bằng cách nâng mức thu học phí đồng thời qui định mức thu riêng cho từng vùng, thực hện việc cấp phát qua kho bạc Nhà nước. Phổ biến mức đóng góp cụ thể đối với cha mẹ học sinh, tăng cường giáo dục trong nhân dân bảo vệ của công, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với học sinh gặp khó khăn.
- Thành lập quĩ hỗ trợ phát triển giáo dục từ các nguồn thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Tài trợ của các tổ chức, cá nhân và tổ chức quốc tế.
- Các khoản đóng góp tự nguyện
- Tạo điều kiện cho các tổ chức quốc tế, các nước hợp tác để xây dựng nền giáo dục thành phố vững mạnh. Tranh thủ viện trợ của các tổ chức nước ngoài để tăng chi cho giáo dục.
- Xây dựng cơ cấu tài chính trong toàn ngành (Tỉ trọng của các nguồn vốn) để làm mức phấn đấu thực hiện trong toàn ngành.
2. Một số giải pháp về quản lý và sử dụng có hiệu quả các khoản chi từ ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục thủ đô thời gian tới.
Coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, Đảng và Nhà nước đã sớm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của dân tộc. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, đầu tư từ ngân sách cho giáo dục còn thiếu thốn, thiết nghĩ đạt hiệu quả cao trong khả năng của mình chúng ta nhất thiết phải có biện pháp sử dụng hợp lý các nguồn vốn này.
Qua nghiên cứu tình hình ngành giáo dục Hà Nội và thực trạng quản lý ngân sách giáo dục, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thành phố thời gian tới.
2.1. Hoàn thiện cơ chế quản lý cấp phát vốn ngân sách cho sự nghiệp giáo dục.
Trong phần này, tôi xin đề cập đến việc phân cấp ngân sách Nhà nước. Từ trước đến nay, việc phân cấp ngân sách giáo dục đã thay đổi qua những phương thức, mục đích của việc thay đổi này là lựa chọn các phương thức thích hợp để vừa giám sát chặt chẽ, vừa phân phối hợp lý nhằm đạt hiệu quả cao nguồn ngân sách giáo dục.
Bên cạnh những điểm đạt được của mô hình quản lý ngân sách giáo dục hiện nay nó cũng còn có những nhược điểm riêng làm ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của vốn đầu tư cho giáo dục thủ đô. Qua nghiên cứu mô hình quản lý ngân sách giáo dục từ năm 1997 đến nay tôi mạnh dạn đưa ra mô hình quản lý trong thời gian tới cho sự nghiệp giáo dục thủ đô.
Sơ đồ quản lý ngân sách thành phố Hà Nội cho sự nghiệp giáo dục
Sở tài chính vật giá
Sở giáo dục và đào tạo
- PTTH
Trường - đặc biệt
- Trọng điểm
Trường chuyên nghiệp thuộc Sở - ngành
Phòng giáo dục
Khối THCS
Khối tiểu học
Khối mầm non
Như vậy, toàn bộ ngân sách đầu tư cho giáo dục được tập chung ở cấp thành phố. Sở giáo dục và đào tạo là đơn vị dự toán cấp I trực tiếp giao dịch với sở Tài chính - vật giá. Các trường chuyên nghiệp thuộc các ngành, các trường PTTH, trường đặc biệt, trường trọng điểm, các phòng giáo dục là đơn vị dự toán cấp II trực thuộc sở giáo dục - đào tạo. Các trường tiểu học cơ sở, khối mầm non quốc lập trực thuộc phòng giáo dục là đơn vị dự toán cấp III.
Sở Tài chính - Vật giá cấp kinh phí cho Sở Giáo dục - Đào tạo để Sở Giáo dục - Đào tạo cấp phát cho các trường chuyên nghiệp - Trường PTTH, Trường trọng điểm và Trường đặc biệt.
Sở Tài chính - Vật giá cấp kinh phí cho Sở Giáo dục - Đào tạo để Sở Giáo dục - Đào tạo cấp phát kinh phí cho các phòng giáo dục để chi cho các nhu cầu của hoạt động giáo dục thuộc phòng giáo dục quản lý trên địa bàn quận- huyện.
- Phòng giáo dục Quận, Huyện có trách nhiệm phối hợp với phòng tài chính để kiểm tra - giám sát các đơn vị dự toán cấp III thuộc quận, huyện quản lý trong việc sử dụng kinh phí được cấp.
- Cần thực hiện cơ chế phối hợp với cơ quan tài chính cấp huyện để giúp phòng giáo dục và các trường trong quản lý , sử dụng kinh phí trong và ngoài ngân sách được hợp lý và hiệu quả cao nhất. Tiếp tục khai thác ngân sách địa phương để đầu tư sự nghiệp giáo dục của mình.
- Sở Tài chính - vật giá quản lý tất cả các nguồn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục thành phố một cách thống nhất và hiệu quả cao.
- Sở giáo dục và đào tạo phối hợp với Sở Tài chính - vật giá để kiểm tra - giám sát tất cả các đơn vị của ngành trên toàn thành phố về việc sử dụng kinh phí cho sự nghiệp giáo dục và thực hiện các chế độ quản lý tài chính Nhà nước.
- Về cơ chế cấp phát, cần khắc phục kịp thời sự chậm chễ về thời gian, đồng thời thúc đẩy nhanh chóng các nhu cầu chi của đơn vị giáo dục trong đó cớ sự phối hợp chặt chẽ vơí kho bạc Nhà nước thành phố.
Với cơ chế quản lý, cấp phát này, nó sẽ giúp cho Sở Giáo dục - Đào tạo nắm bắt được toàn bộ các hoạt động giáo dục và đội ngũ giáo viên trên toàn thành phố do đó thuận tiện cho việc lập dự toán và điều hành ngân sách. Hơn thế nữa, nó cũng giúp chấm dứt tình trạng thiếu nợ, quá lương của giáo viên, các chính sách, chế độ Nhà nước với giáo viên được thực hiện. Giúp cho giáo viên yên tâm, phấn khởi, gắn bó với nhà trường. Mặt khác sở giáo dục và đào tạo quản lý và điều hành ngân sách nên đáp ứng kinh phí cho các hoạt động của ngành theo tiến độ của năm học, hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ được nâng cao.
2.2. Tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục phải được thực hiện đồng bộ ở tất cả các khâu:
Quản lý ngân sách Nhà nước được thực hiện qua các khâu: Lập dự toán ngân sách, cấp phát, quyết toán ngân sách đến kiểm tra giám đốc chi tiêu phải được thực hiện trần tự theo đúng qui định tài chính hiện hành.
+ Đối với khâu lập dự toán:
Đây là khâu ban đầu, nó định hướng và xuyên suốt qui trình cấp phát, thực hiện qui trình quản lý ngân sách theo luật. Căn cứ lập dự toán phải dựa trên nhiệm vụ chính trị được giao, các cơ chế, chính sách của Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể để tính ra dự toán cần thiết cho ngành trong năm hoạt động mà cụ thể là trên cơ sở định hướng phát triển giáo dục của thành phố, coi định hướng phát triển là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt quá trình xây dựng dự toán, làm cơ sở cho việc quản lý, điều hành ngân sách giáo dục, đầu tư có trọng tâm, hiệu quả đó là yêu cầu đặt ra. Dự toán được lập phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, tính đủ và đúng trong năm ngân sách.
Trong dự toán phải tính toán đầy đủ các khoản thu - chi trong từng đơn vị để từ đó lập dự toán ngân sách đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo một tỉ lệ nhất định. Phần còn lại các đơn vị phải khai thác từ nguồn thu khác (học phí, thu xây dựng, đóng góp của các tổ chức - cá nhân...) nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đơn vị mình. Cần đưa nguồn ngoài ngân sách vào kế hoạch đầu tư cho giáo dục.
Dự toán phải được lập trên những căn cứ chính xác và chi tiết cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách theo mục lục ngân sách Nhà nước, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các tổ chức chính quyền. Đây thực sự là bước chuyển biến mới trong công tác lập dự toán nói chung va ngân sách giáo dục nói riêng phải trải qua nhiều năm mới đạt được kết quả tốt.
Việc lập ngân sách giáo dục của thành phố phải gắn liền với kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục của thành phố, trên cơ sở các căn cứ cụ thể và các văn bản pháp qui hướng dẫn lập dự toán của trung ương và thành phoó, dự toán được lập phải phù hợp với định mức chi, khoa học và có tính thuyết phục cao.
Định mức chi là căn cứ để lập dự toán, phân phối và quản lý ngân sách . định mức có chính xác thì việc quản lý và phân phối mới sát thực. Trong chi phải đảm bảo tính công khai trong các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư. Dựa rên tính chất các khoản chi bao gồm chi thường xuyên và không thường xuyên, xin đưa ra một phương án lập định mức chi ngân sách như sau: định mức được phân thành tương ứng với tính đặc thù của từng khoản chi: Phần cố định và phần dao động.
* Phần cố định: Tương ứng với các khoản chi thường xuyê (lương, phụ cấp, Bảo hiểm xã hội - quản lý hành chính, giảng dạy học tập...). Nguồn đảm bảo cho phần này được tính từ qui định của Nhà nước và bộ giáo dục đào tạo đã thống nhất : nghìn đồng/ học sinh/năm.
* Phần dao động, tương ứng với các khoảng không thường xuyên (hỗ trợ mua sắm trang thiết bị, bổ xung giảng dạy học tập, sửa chữa, tu bổ thường xuyên, hỗ trợ giáo viên, hỗ trợ chi khác). Nguồn đảm bảo lấy từ ngân sách thành phố, học phí và một số nguồn khác (tài trợ - đóng góp), khi tính phần dao động này, chúng ta lấy định mức chi của phần cố định nhân với hệ số phù hợp đối với các loại trường lớp khác nhau - thì hệ số của họ khác nhau). Đơn vị tính: nghìn đồng/học sinh/năm.
Và định mức chi ngân sách sẽ là tổng hợp hai phần (phần dao động và phần cố định), theo cách tỉnh này thì mọi yếu tố liên quan đều được xem xét toàn diện, phù hợp với tình hình hiện tại và quyền hạn của các cấp ngân sách. Điều đó sẽ khuyến khích tăng đầu tư cho giáo dục bằng việc huy động các nguồn lực của thành phố, tránh tình trạng khi lập dự toán "tính chi cao để cấp trên cắt giảm là vừa".
- Đối với khâu thực hiện dự toán ngân sách.
Phải nói rằng, chi cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước là hết sức cần thiết, chi đúng, chi đủ và kịp thời đó là những gì mà chúng ta quan tâm. Từ năm 1997, việc thực hiện phương án chi qua Kho Bạc Nhà nước phần nào đã phát huy hiệu quả song cũng còn tồn tại một số vướng mắc. Vì vậy theo tôi, Sở tài chính - vật giá Hà Nội có thể xem xét hình thức cấp phát trên để đưa vào thực tế áp dụng, có sự giám sát của các cơ quan chức năng.
- Đối với khâu quyết toán ngân sách.
Quyết toán là công cụ quan trọng trong chi tiêu ngân sách Nhà nước, được thực hiện qua việc theo dõi, kiểm tra hệ thống sổ sách chi tiêu và phương thức hạch toán kế toán của đơn vị. Vì vậy, quyết toán là trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong lĩnh vực tài chính Nhà nước nhằm đánh giá chính xác việc thực hiện dự toán và hiệu quả sử dụng kinh phí, tìm hiểu những thành tựu và những bất cập trong thực hiện dự toán từ đó rút ra bài học kinh nghiẹem cho những năm sau.
Cũng như lập dự toán, thực hiện dự toán, quyết toán ngân sách cũng đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng, đặc biệt là kho Bạc Nhà nước. Các báo cáo quyết toán phải gửi cho cơ quan kiểm toán để kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những trường hợp sử dụng không đúng mục đích, đối tượng chi. Sau khi phân bố, kho Bạc Nhà nước phải sự quyết toán, nếu dư vốn phải chuyên trả ngân sách cấp trên theo chế độ kế toán.
2.3. Tổ chức bộ máy quản lý ngân sách giáo dục toàn thành phố.
Hàng mẫu, ngân sách thành phố chi hàng trăm tỷ đồng cho sự nghiệp giáo dục để đầu tư và cung cấp cho sự hoạt động của lĩnh vực này, cung cấp những khoản phúc lợi xã hội cho nhân dân mà phúc lợi giáo dục là vô cùng cần thiết. Cụ thể, năm 1997, ngân sách thành phố chi 270,557 tỷ đồng cho sự nghiệp giáo dục, chiếm 77,89% trong tổng chi giáo dục - đào tạo và 12,35% trong tổng chi của thành phố. Sang năm 1999 số chi cho giáo dục là 295,746 tỷ động 9tăng 25,189 tỷ tức 9,31% so với năm 1998)... Đến năm 2000 con số này đã tăng lên 324,345 tỷ đồng 9tăng 28,599 tỷ đồng so với 1999). Điều này chứng tỏ sự quan tâm của thành phố đối với sự nghiệp giáo dục thủ đô không ngừng tăng lên, thể hiện qua việc tăng chi liên tục trong nhiều năm cho giáo dục thủ đô. Vì vậy để đạt hiệu quả cao nhất đối với các phần vốn ngân sách này, chúng ta phải có một bộ máy quản lý ngân sách Nhà nước hoàn chỉnh và làm việc hiệu quả, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay. Chúng ta thành lập bộ máy quản lý tài chính theo hệ thống ngành giáo dục, mà trước mắt là bộ máy tài chính trong Sở giáo dục và đào tạo.
Sở giáo dục và đào tạo biên chế 5 - 7 người đối với phòng kế hoạch tài vụ và chịu trách nhiệm quản lý ngân sách giáo dục toàn thành phố, với cơ cấu sắp xếp:
+ Trưởng phòng phụ trách công tác kế hoạch tài chính kiêm kế toán trưởng.
+ Phó phòng phụ trách công tác cấp phát, kế toán và theo dõi tổng hợp.
+ Một người làm công tác cấp phát kinh phí, quyết toán và tổng hợp với kho Bạc.
+ Một người chuyên quản các trường trực thuộc Sở giáo dục và đào tạo.
+ Một người chuyên quản các phòng giáo dục quận, huyện.
- Các trường trực thuộc Sở giáo dục và đào tạo phải thực hiện quyết toán với Sở ban hành.
- ở các phòng giáo dục có bộ phận tài vụ chịu trách nhiệm chi tiêu cho cán bộ quản lý ở phòng và chi cho các trường tiểu học, trung học cơ sở, mầm non quốc lập.
Nhằm thực hiện nghiêm túc luật ngân sách nhà nước và thực hiện có hiệu quả các khoản chi, Sở giáo dục đào tạo phải điều tra phân loại trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên tài chính kế toán từ cấp thành phố đến quận - huyện, tránh tình trạng cán bộ không có chuyên môn tài chính lại làm nhiệm vụ tài chính trong ngành.
Sơ đồ bộ máy quản lý ngân sách giáo dục Hà Nội.
Phó giám đốc Sở giáo dục và đào tạo phụ trách tài vụ
Phòng kế hoạch
tài vụ
Phòng tài vụ các trường thuộc sở-ngàng
Bộ phận kế toán
phòng giáo dục
Phòng tài vụ
thuộc sở GD-ĐT
2.4. Bố trí hợp lý cơ cấu chi tiêu và sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục.
Thực hiện của công tác này là đưa vốn tới đối tượng chi, thực hiện mục đích đầu tư. Vì vậy việc tạo lập một cơ cấu sử dụng vốn hợp lý có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của vốn đầu tư.
Qua bảng cơ cấu chi trong ngành giáo dục từ ngân sách thành phố (Bảng 11) ta thấy trong vài năm qua chi từ ngân sách cho giáo dục đã đáp ứng phần nào nhu cầu chi tiêu nhưng chưa hợp lý. Chi cho con người chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi thường xuyên nhưng hiệu quả chưa cao, chúng ta cần sắp xếp lại đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục, tránh tình trạng thừa biên chế gây lãng phí vốn ngân sách. Chi cho giảng dạy còn quá thấp: Năm 1998 là 11,98% trong tổng chi cho giáo dục, năm 1999 là 11,94% và năm 2000 là 11,89%, vì vậy nó ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục, chất lượng công tác giảng dạy và học tập giảm sút. Gắn với mục tiêu phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng quy mô nên nhu cầu của khoản chi này rất lớn, chúng ta cần nâng tỷ trọng của nhóm chi này lên 15% trong tổng số chi thường xuyên.
Tiếp tục cắt giảm các khoản chi về quản lý hành chính tránh lãng phí nguồn lực đối với bộ phận naỳ, giảm bớt phiền hà trong việc quản lý và cấp xét thủ tục vào - ra khỏi ngành. Năm 1998 chi cho quản lý hành chính là 25,021 tỷ đồng chiếm 9,25% tổng chi thường xuyên ngành giáo dục, năm 1999 là 9,21% và năm 2000 là 9,20% tổng chi giáo dục thủ đô. Trong thời gian tới chúng ta cố gắng cắt giảm khoản này xuống dưới 6% tổng chi thường xuyên của ngành giáo dục để nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư, tiết kiệm ngân sách, tăng chi cho những vấn đề cần thiết hơn.
Đối với khoản chi về mua sắm sửa chữa thì trong ba năm qua tương đối ổn định, điều này là do cơ sở vật chất trong ngành tương đối đầy đủ và chiếm tỷ trọng tương đối trong đầu tư cho giáo dục hàng năm (năm 1998 là 12,9% so với tổng chi thường xuyên cho giáo dục - Năm 1999 là 12,96% và năm 2000 là 13%), trước một thực trạng là quy mô và các loại hình trường lớp liên tục tăng trong những năm qua và trong những năm tiếp theo, thì nhu cầu đòi hỏi đối với khoản chi này tiếp tục tăng... Mặc dù trong những năm qua, Nhà nước đã rất quan tâm đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất cho các trường, lớp song một thực tế đáng buồn là sự xuống cấp nhanh chóng của các tài sản cố định trong ngành giáo dục. Thiết nghĩ chúng ta cần khắc phục điều này bằng cách vận động nhân dân, các ban - ngành ủng hộ giúp đỡ cùng với Nhà nước bảo vệ của công nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Để tìm hiểu rõ hơn về việc quản lý sử dụng vốn ngân sách Nhà nước trong ngành giáo dục, chúng ta nhất thiết phải xem xét định mức mà Nhà nước lập ra để đầu tư, làm căn cứ cho việc cấp phát và quản lý vốn ngân sách.
3. Xây dựng định mức chi cho giáo dục.
Như trên đã nói, định mức chi là căn cứ để lập kế hoạch phân phối và quản lý ngân sách. Định mức chi có phù hợp thì việc quản lý phân phối mới chính xác và đạt hiệu quả cao, chúng ta không nên xây dựng định mức chi một cách đồng đều hoá, phải xác định chi tiết từng đối tượng chi đối với từng hợp trong từng quận huyện, nơi được phân phối ít.
Định mức chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục do Nhà nước ban hành là mức chi cần thiết, tối thiểu cho một đối tượng (đầu học sinh hoặc đầu dân số) nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục của Nhà nước.
+ Xác định mức chi cho giáo dục theo đầu học sinh có ưu điểm là đảm bảo cho các địa phương có đủ kinh phí cho cho các trường theo đúng chế độ. Song lại có nhược điểm là không đảm bảo được tính công bằng trong phân phối ngân sách giữa các quận huyện. Đối với các quận, huyện nào giáo dục đã phát triển, số lượng học sinh lớn thì càng có điều kiện đầu tư phát triển. Trái lại, đối với các quận huyện nền giáo dục kém phát triển (đặc biệt các xã ngoại thành, bán sơn địa) thì càng khó có điều kiện nâng cao phúc lợi xã hội và tăng chất lượng giảng dạy. Bởi, đầu tư quá ít không đủ để trang trải các khoản chi tiêu cho giáo dục.
+ Phương pháp xác định định mức chi theo đầu dân số có ưu điểm là đảm bảo tính công bằng trong các quận huyện tạo điều kiện cho các quận huyện mà giáo dục chưa phát triển có điều kiện để phát triển (bởi lẽ các huyện này dân trí thấp, tốc độ tăng dân số bình quân cao vì vậy dân số lớn) vì có vốn đầu tư tương đối dồi dào đáp ứng các nhu cầu chi tiêu trong giáo dục, chi cho con người, quản lý hành chính, chi cho giảng dạy và mua sắm sửa chữa, ngoài ra còn có một phần dôi ra để đầu tư thêm cho giáo dục: cải tạo trường lớp, mua sắm đồ dùng học tập... Tuy niên, phương pháp này lại có nhược điểm là kìm hãm sự phát triển ở các quận huyện có nền giáo dục phát triển khá. Do điều kiện kinh tế khá giả, người dân làm ăn suôn sẻ có điều kiện đầu tư cho con em họ đi học song do dân di cư đến vẫn có nhu cầu học tập mà lại không có hộ khẩu vì vậy không được cấp kinh phí, từ đây làm giảm mức đầu tư bình quân trên đầu một học sinh. Các khoản vốn đầu tư bị "cắt xén" từ khoản này sang khoản khác làm ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy và học tập. Điều này khẳng định, phương pháp xác định định mức chi theo đầu dân số chỉ làm căn cứ để phân bổ ngân sách cho giáo dục chứ không thể làm căn cứ để quản lý được.
Dựa trên định mức chi chuẩn mà Nhà nước ban hành các quận, huyện lấy đó làm căn cứ cấp phát và quản lý (Xem bảng ).
Bảng 10: Định mức chi cho giáo dục trên đầu học sinh cho từng cấp học
Đơn vị: Đồng / học sinh / năm.
Mức chi
Cấp học
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
(số dự toán)
1. Mẫu giáo
190.000
250.000
340.000
2. Nhà trẻ
530.000
670.000
840.000
Hỗ trợ giáo viên mầm non nông thôn
50.000
90.000
114.000
3. Tiểu học
170.000
230.000
300.000
4. Trung học cơ sở
200.000
270.000
370.000
5. Phổ thông trung học
240.000
320.000
480.000
6. Khuyết tật
- Học sinh mù
1.500.000
2.000.000
2.600.000
- Học sinh câm điếc
950.000
1.400.000
1.900.000
- Học sinh thiểu năng
950.000
1.400.000
1.900.000
7. Trường chuyên
700.000
900.000
1.100.000
8. Xoá mù
30.000
50.000
60.000
9. Trung tâm giáo dục kỹ thuật tin học
50.000
90.000
130.000
10. Trung tâm giáo dục thường xuyên
60.000
100.000
180.000
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Như vậy, trong những năm qua Nhà nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng đã rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, mức chi bình quân hàng năm cho mõi học sinh liên tục tăng lên và tăng ở mức đáng kể. Nếu lấy số bình quân cho các đối tượng thì năm 1998 mỗi học sinh một năm được Nhà nước cấp 432.308 đồng/sinh/năm. Năm 1999 là 597.692 đồng/học sinh/năm (tăng 105.384 đồng tương đương 38,26%) và năm 2000 mức chi đó đã tăng lên (ước đạt): 793.385 đồng/học sinh/năm. Như vậy, Hà Nội đã rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp trồng người của đất nước và thực hiện đúng phương châm mà Họi nghị lầ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đề ra: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu".
Qua việc phân tích trên ta thấy, ở cả hai phương pháp trên đều tồn tại những ưu - nhược điểm đan xen lẫn nhau và những đặc tính riêng cuả nó. Theo tôi, để đảm bảo tính hiệu quả cao nhất chúng ta cần tìm ra biện pháp kết hợp hai phương pháp này để định mức chi là chuẩn và từ đó công tác quản lý ngân sách giáo dục là tốt nhất: phương pháp xác định định mức chi theo đầu học sinh có tính đến sự chênh lệch giữa các quận, huyện bằng hệ số phù hợp đối với từng quận, huyện. Theo tôi nghĩ nếu áp dụng phương pháp xác định định mức chi này thì kinh phí cấp phát cho các trường sẽ đủ đảm bảo chi, đúng chế độ và đảm bảo tính công bằng đối với các trường, lớp thuộc các quận, huyện khác nhau.
Tuy nhiên, giáo dục có đạt thành tích cao và sự hậu thuẫn của nhân dân không phải chỉ cần có một số giải pháp hiệu quả mà nó còn cần phải có những điều kiện khác nữa.
III. một số điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp trên.
1. Sự quan tâm của Thành uỷ, UBND thành phố, các ngành, các cấp đối với sự nghiệp giáo dục thủ đô.
Sự quan tâm này được thể hiện qua đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố thông qua các chỉ tiêu đầu tư từ ngân sách thành phố cho ngành giáo dục. Sự phát triển đồng bộ từ các xã, phường, thị trấn, sự quan tâm ngày càng sâu sắc đến chất lượng giảng dạy ở các trường, mức độ hiệu quả và thành tích của học sinh trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia và quốc tế.
2. Các chế độ chính sách ưu đãi giáo dục nhất thiết phải được ban hành kịp thời đảm bảo cho sự phát triển của thủ đô.
- Các chính sách ưu đãi đối với giáo viên ngoại thành, giáo viên có hoàn cảnh khó khăn và giáo viên dạy trẻ khuyết tật.
- Khuyến khích học sinh giỏi tham gia vào các trường sư phạm để đào tạo giáo viên.
- Qui định mức chi cho các hoạt động như:
+ Phụ cấp giảng bài của giáo sư, giảng viên giỏi khi tham gia giảng dạy tại trường.
+ Chế độ bồi dưỡng giáo viên dạy học sinh giỏi.
+ Có định mức chi phù hợp.
3. Thanh tra tài chính.
Đây cũng là vấn đề không kém phần quan trọng trong việc giảm sát các khoản chi từ Ngân sách Nhà nước, nhằm mục đích xem xét việc lập dự toán ngân sách chân hành ngân sách, quyết toán ngân sách của cơ quan quản lý tài chính và các cơ quan chính quyền địa phương trên cơ sở thực hiện luật Ngân sách Nhà nước và các qui định về Ngân sách Nhà nước của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chỉ ra những sai phạm, phân tích những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến sai phạm và qui kết trách nhiệm của cá nhân - tập thể đối với từng sai phạm. Từ đó đề xuất những kiến nghị, xử lý đối với từng sai phạm, kiến nghị là giải pháp nhằm đưa công tác quản lý, điều hành ngân sách theo đúng luật ngân sách Nhà nước và các qui định của Bộ tài chính.
Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, tôi chỉ nêu được xem xét số vấn đề về chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn thủ đô những năm qua.
Như ta đã biết, thanh tra Nhà nước được tiến hành đối với tất cả các nội dung chi Ngân sách Nhà nước, như vậy thanh tra các khoản chi Ngân sách Nhà nước hoạt động giáo dục cũng được tiến hành trên tất cả các mặt.
- Thanh tra vốn đầu tư là cơ bản: Thực chất đây là việc đánh giá tình hình quản lý chung vốn đầu tư XDCB của cơ quan, đơn vị trên những mặt: chủ trương đầu tư, hiệu quả dự án lúc phê duyệt, chủ trương đầu tư đến khi thanh tra, việc chấp hành trình tự thủ tục... Công tác thanh tra nguồn vốn này phải được tiến hành đối với cả hai phía đối tác: Các cơ quan tài chính, các đơn vị chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu xây lắp.
- Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp: Thực hiện thanh tra trên cả hai cấp: Đơn vị dự toán cấp trên và tại các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí.
Trong những năm qua, ngành tài chính thủ đô nói chung đã thực hiện tốt công tác thanh tra này. Trực tiếp phát hiện những sai phạm của đơn vị thụ hưởng ngân sách và đưa ra những quyết định xử lý kịp thời đối với những sai phạm đó. Song thiết nghĩ, giữa một xã hội chủ nghĩa công bằng văn minh thì việc sai phạm này vẫn phải xử lý một cách nghiêm túc hơn, triệt để để xảy ra những sai sót trong vấn đề tài chính tại các đơn vị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhất là trong giai đoạn đất nước ta rất cần vốn đầu tư để phát triển kinh tế xã hội, Thành uỷ, UBND thành phố cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ hơn.
4. Bộ tài chính và Bộ giáo dục phải có hướng dẫn nghiêm túc, khoa học về việc thu - chi, hạch toán các khoản kinh phí ngoài ngân sách.
kết luận
Nhận thức rõ vai trò của sự nghiệp giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch hoá giáo dục là bước khởi đầu và mang tính đi trước so với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Mà đầu tư cho giáo dục lại quyết định sự phát triển của ngành mà trong đó nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước là chủ yếu. Với mục đích là tìm ra biện pháp thích hợp nhằm tăng cường quản lí các nguồn kinh phí từ Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục nhằm tăng tính hiệu quả của vốn đầu tư góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch 2001-2005 mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra đối với sự nghiệp kinh tế - xã hội nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng. Trong phạm vi hiểu biết hạn chế của bản thân, chuyên đề tôi nghiên cứu đã đề cập những nội dung và yêu cầu đặt ra:
Về mặt lý luận: Trình bày khái quát các vấn đề về chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục, cơ cấu chi trong ngành giáo dục thủ đô nhằm tăng hiệu quả của nguồn vốn đầu tư cho giáo dục Hà Nội.
Về mặt thực tế: Trên cơ sở khảo sát, tìm hiểu thực trạng về cơ cấu chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục nhằm phát huy tính hiệu quả của mỗi đơn vị vốn đầu tư, tôi đã mạnh dạn đề ra một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Trên đây là toàn bộ nội dung nghiên cứu thuộc phạm vi đề tài tốt nghiệp. Tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần vào việc đổi mới các phương thức quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục thủ đô.
Tuy nhiên, do sự hiểu biết có hạn, thời gian thực tập hạn chế vì vậy chuyên đề này chắc chắn có sự thiếu sót và hạn chế. Rất mong được sự góp ý và chỉ bảo của Thầy, Cô giáo, các bạn để bài viết sau này của tôi được hoàn thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình: “ Thanh tra tài chính” - TS: Phạm Ngọc ánh.
2. Báo cáo quyết toán Thu- Chi ngân sách thành phố Hà nội năm 1998- 1999- 2000 của Sở Tài chính-Vật giá.
3. Báo cáo quyết toán kinh phí uỷ quyền của Sở Tài chính-Vật giá Hà nội.
4. Báo cáo xây dựng chiến lược tài chính đến năm 2010 của Sở Tài chính-Vật giá Hà nội.
5. Các văn bản hướng dẫn thực hiện Thu-Chi, quản lí học phí và các khoản được thu khác ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập của thành phố Hà Nội.
6. Luật ngân sách nhà nước.
7. Luật giáo dục.
8. Hồ CHí MINH về vấn đề giáo dục - NXB giáo dục Hà Nội năm 1990.
9. Bài giảng “ Kế hoạch hoá phát triển Kinh - Tế xã hội” - PTS Ngô Thắng Lợi.
10. Niên giám thống kê 2000.
11. Đổi mới Ngân sách nhà nước. GS-TS: Tào Hữu Phùng - PTS: Nguyễn Công Nghiệp.
12. Giáo trình: “Quản lí tài chính nhà nước” - Trường Đại học Tài chính-Kế toán Hà nội năm 1999.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0110.doc