Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Công ty xây dựng số 1 - VINACONCO 1

Lời mở đầu S au mười lăm năm đổi, dáng vóc đất nước ta đã ngày càng to đẹp hơn với những con đường, cây cầu, những toà nhà, sân bay, bến cảng…có quy mô và tính hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới. Đất nước ta đang phát triển theo hướng hiện đại, tốc độ tăng trưởng luôn đạt ở mức khá cao so với thế giới và khu vực. Quá trình CNH-HĐH đang bước vào giai đoạn phát triển hết sức mạnh mẽ và khẩn trương nhằm thực hiện cho được mục tiêu đưa đất nước về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm

doc97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Công ty xây dựng số 1 - VINACONCO 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2020. Với những chiến lược, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn trong những năm qua đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, với các ngành hết sức đa dạng và phong phú đã đóng góp đắc lực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế chung của đất nước. Đi cùng với những bước phát triển chung của đất nước trong những năm qua đó là ngành công nghiệp xây dựng, một ngành đã tạo ra những cơ sở vật chất hết sức to lớn cho xã hội. Trong bất cứ thời kỳ nào, ngành xây dựng được xác định là ngành phải luôn đi trước một bước nhằm tạo ra những tiền đề cơ sở vật chất ban đầu, thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển. Đặc biệt trong thời kỳ CNH-HĐH, vai trò này càng được nhấn mạnh, được giao nhiệm vụ là ngành tiên phong, mở đường, tạo ra những cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật làm nền tảng thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước. Trong những năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu về xây dựng ngày càng cao, quy mô công trình ngày càng lớn, loại hình xây dựng cũng ngày càng phong phú, đa dạng. Các công trình ngày càng đòi hỏi cao về kỹ, mỹ thuật và tiến độ thi công. Sự phát triển của kinh tế thị trường cũng làm cho tính chất cạnh tranh trong nội bộ ngành xây dựng ngày càng gay gắt hơn. Để có thể thắng thầu các công trình có quy mô lớn, đòi hỏi các Doanh nghiệp không chỉ có giá dự thầu thấp, đội ngũ công nhân hùng hậu mà Máy móc, thiết bị xây dựng hiện đại đã trở thành một yếu tố không thể thiếu trong các cuộc bỏ thầu. Máy móc, thiết bị đã trở thành một lực lượng thi công chính, có tính quyết định nhất tới năng lực thi công của các Doanh nghiệp xây dựng, tới chất lượng và tiến độ thi công. Trong quá trình thực tập tại Công ty xây dựng số 1-VINACONCO1, thuộc Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam-VINACONEX, nhận thấy vai trò quan trọng của Máy móc, thiết bị trong quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị tại công ty xây dựng số 1-VINACONCO1” nhằm làm rõ hơn vai trò của Máy móc, thiết bị đồng thời kiến nghị một số biện pháp cơ bản, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị của Công ty, nâng cao khả năng cạnh tranh trong thị trường ngành xây dựng. Kết cấu đề tài bao gồm 3 phần: Phần I: Tăng cường công tác quản lý và sử dụng Máy móc, thiết bị là nhân tố cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp. Phần II: Phân tích thực trạng công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị ở Công ty xây dựng số 1. Phần III: Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị ở Công ty xây dựng số 1. Do năng lực và thời gian có hạn, bài viết chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót và hạn chế về kiến thức, phương pháp luận. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và của bạn đọc để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn, có tính thực tiễn cao hơn. Qua đây, em xin được trân trọng gửi tới thầy Đỗ Văn Lư, Khoa QTKDCN&XD, lời cám ơn chân thành nhất, người đã hướng dẫn em tận tình trong thời gian qua cho bài viết của em được hoàn thành; em xin gửi lời cám ơn tới các cô, chú, các anh, chị thuộc phòng Kinh doanh-Tiếp thị và các phòng ban khác trong công ty đã tạo đIều kiện, giúp đỡ em trong quá trình thực tập. Em xin chân thành cám ơn! Hà Nội ngày 01/06/2002 Sinh viên: Nguyễn Đức Tâm Phần I Tăng cường công tác quản lý và sử dụng Máy móc, thiết bị là nhân tố cơ bản góp phần nâng cao hiệu qủa sản xuất, kinh doanh của các Doanh nghiệp I. Máy móc, thiết bị, hao mòn và khấu hao Máy móc, thiết bị : 1.Khái niệm Máy móc, thiết bị : Máy móc, thiết bị là một yếu tố quan trọng của các quá trình sản xuất, kinh doanh , có vai trò biến đổi các yếu tố đầu vào, tạo ra sản phẩm theo yêu cầu nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của nhà sản xuất. Trong các Doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, Máy móc, thiết bị là yếu tố sản xuất có giá trị rất lớn trong cơ cấu tổng tài sản của Doanh nghiệp . Sau đây là một số khái niệm đứng trên các quan niệm khác nhau về Máy móc, thiết bị : 1.1.Theo quan niệm chung: Máy móc là vật được chế tạo bao gồm nhiều bộ phận dùng để thực hiện chính xác một hoặc một số công việc chuyên môn nào đó. Thiết bị là tổng thể những máy móc, dụng cụ, phụ tùng cho một hoạt động nào đó . Bộ phận quan trọng nhất về Máy móc, thiết bị của Doanh nghiệp là thiết bị gia công bao gồm tất cả các máy công cụ dụng cụ thiết bị phụ trợ và các thiết bị khác sử dụng trực tiếp cho việc sản xuất, xử lý, kiểm tra và bao gói chi tiết gia công hay sản phẩm . 1.2.Theo quan niệm của Triết học: Máy móc, thiết bị là tư liệu lao động, là những vật hay phức hợp những vật thể nối con người với đối tượng lao động và chuyền dẫn tích cực sự tác động của con người vào đó tượng lao động, làm thay đổi hình thức tự nhiên của đối tượng lao động, biến đổi nó thành sản phẩm thoả mãn nhu cầu đa dạng của con người. 1.3.Theo quan niệm dưới góc độ vốn: Máy móc, thiết bị là tài sản cố định, là cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi Doanh nghiệp. Đó chính là hình thái vật chất của vốn cố định, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Đầu tư mua sắm Máy móc, thiết bị là một khoản đầu tư ban đầu lớn cho việc bắt đầu một quá trình sản xuất của mỗi Doanh nghiệp. Bên cạnh đó, máy móc, thiết bị có giá trị lớn và tham gia vào nhiều quá trình sản xuất nên giá trị của Máy móc, thiết bị chuyển rất chậm vào giá trị của sản phẩm qua công tác khâú hao. Điều này có ảnh hưởng lớn tới quá trình luân chuyển vốn kinh doanh của Doanh nghiệp . 1.4.Theo một số quan niệm khác: Máy móc, thiết bị chính là năng lực sản xuất dùng để phát triển quy mô của Doanh nghiệp. Trong các Doanh nghiệp xây lắp, Máy móc, thiết bị còn là một trong những yếu tố đảm bảo khả năng thắng thầu. Máy móc, thiết bị có vai trò quan trọng trong việc xác định tính chất và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp (sản xuất sản phẩm gì, quy mô ra sao, lựa chọn hình thức kinh doanh nào ). Máy móc, thiết bị là tài sản cố định hữu hình, phản ánh trình độ trang bị sản xuất và khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về số và chất lượng của sản phẩm mà Doanh nghiệp sản xuất ra. Tóm lại Máy móc, thiết bị có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong các Doanh nghiệp sản xuất. Việc quản lý và sử dụng Máy móc, thiết bị có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi Doanh nghiệp. Do đó đây là một nội dung quan trọng trong quản trị Doanh nghiệp. 2. Vai trò của máy móc thiết bị: Khi nhận xét về vai trò của Máy móc, thiết bị, C.Mác đã nhấn mạnh: “hệ thống Máy móc là xương cốt và bắp thịt của sản xuất” ( C.M, Tư bản, Tập 1, quyển 1, trang 223. ). Tuy thời của Mác là thời đại cơ khí hoá, Máy móc, thiết bị là yếu tố quyết định nhất nhưng trong mọi thời đại, Máy móc, thiết bị vẫn là yếu tố không thể thiếu. Máy móc, thiết bị ngày càng được hỗ trợ đắc lực bởi các ngành khoa học mới, đặc biệt là sự hỗ trợ của ngành điện tử học, số hoá, tạo ra các Máy móc, thiết bị hoạt động theo cơ chế tích hợp, tự động hoá rất cao. Tóm lại Máy móc, thiết bị có một số vai trò cơ bản nhất sau: Sự xuất hiện Máy móc, thiết bị làm xuất hiện các phương thức sản xuất mới, nhân loại đi từ công trường thủ công lên cơ khí hoá, giải phóng sức lao động của con người, tạo ra lượng của cải vật chất vô cùng to lớn. Đứng trên giác độ này thì Máy móc, thiết bị đã trở thành động lực của các cuộc Cách mạng xã hội trong lịch sử nhân loại. Đứng trên giác độ Doanh nghiệp có thể thấy: Máy móc, thiết bị là cơ sở vật chất, là điều kiện cần của quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Đặc điểm, tính chất của Máy móc, thiết bị quy định tính chất đặc điểm của quá trình sản xuất. Từ đó tác động tới việc tổ chức bộ máy quản lý của Doanh nghiệp. Máy móc, thiết bị quyết định tính chất, đặc điểm (chất lượng, kết cấu) sản phẩm sản xuất ra của Doanh nghiệp. Vai trò này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, ảnh hưởng tới khả năng mở rộng thị trường của Doanh nghiệp trong tương lai. Các Doanh nghiệp tồn tại trong cơ chế thị trừơng phải chấp nhận “luật chơi” của cơ chế thị trường trong đó có yếu tố cạnh tranh. Để có thể cạnh tranh được với các đố thủ, các Doanh nghiệp phải luôn khẳng định mình qua chất lượng sản phẩm. Máy móc, thiết bị chính là yếu tố quyết định nhất tới chất lượng sản phẩm. Do đó chú trọng tới công tác quản lý, sử dụng Máy móc, thiết bị là yếu tố quan trọng để góp phần đảm bảo khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp. Máy móc, thiết bị còn có vai trò quan trọng trong tái sản xuất mở rộng. Sau một thời gian Máy móc, thiết bị được khấu hao hết và tạo ra một khối lượng lợi nhuận nhất định đóng góp vào quỹ đầu tư phát triển của Doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn quan trọng trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất của Doanh nghiệp. Trong các Doanh nghiệp sản xuất và xây dựng thì Máy móc, thiết bị là yếu tố chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho Doanh nghiệp. Do đó, sử dụng Máy móc, thiết bị có hiệu quả sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người công nhân. Đồng thời người công nhân cũng là người trực tiếp tác động tới khả năng sinh lợi của Máy móc, thiết bị. Vì vậy Máy móc, thiết bị là khâu then chốt trong quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. 3.Phân loại Máy móc, thiết bị: Do Máy móc, thiết bị có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp, do đó công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị là hết sức quan trọng. Tuy nhiên để công tác này đạt hiệu quả cao trước hết cần tiến hành phân loại Máy móc, thiết bị theo một số cách thông dụng sau: 3.1. Phân loại theo công dụng: 3.1.1. Với các Doanh nghiệp nói chung: Máy móc, thiết bị có thể được phân thành: Thiết bị vạn năng: là thiết bị được thiết kế có tính linh hoạt cao trong tính năng để gia công nhiều loại sản phẩm, chi tiết khác nhau trên cùng một loại thiết bị. Tính linh hoạt này dựa trên khả năng có thể thay thế hoặc lắp đặt thêm một số chi tiết khác trên thiết bị chủ yếu để sản xuất ra các loại sản phẩm khác nhau theo yêu cầu. Thiết bị chuyên dùng: được thiết kế để đảm nhiệm một hay một vài công việc nào đó. Thiết bị này được dùng trong các công việc có tính chất đặc thù riêng và thường được điều khiển tự động nhằm giảm bớt nhu cầu về thợ lành nghề đồng thời giảm bớt khả năng về phạm vi sai số do con người gây ra. 3.1.2. Với các Doanh nghiệp xây lắp: Nhóm 1: Thiết bị thi công : + Thiết bị thi công đa năng : Máy lu, máy xúc…. + Thiết bị thi công đặc trưng: Thiết bị thi công cầu, hầm… + Thiết bị thi công mặt đường:… Nhóm 2: Xe vận tải, xe ben, đồ thí nghiệm… ->Mục đích của việc phân loại theo công dụng: Mỗi loại Máy móc, thiết bị có những tính năng tác dụng nhất định. Nếu sử dụng chúng không đúng mục đích sẽ làm cho Máy móc, thiết bị không đạt công suất mong muốn đồng thời có thể làm giảm tuổi thọ của Máy móc, thiết bị. Việc phân loại Máy móc, thiết bị theo công dụng sẽ giúp công ty đưa ra các phương án quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị một cách hợp lý nhằm phát huy tối đa công suất máy, có kế hoạch điều chuyển rõ ràng, tuân thủ đúng các quy trình vận hành máy góp phần kéo dài tuổi thọ Máy móc, thiết bị, sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn của Doanh nghiệp. 3.2. Phân loại theo kết cấu và cách lắp đặt các đơn vị thiết bị: 3.2.1. Dụng cụ cơ khí và thiết bị cố định: bao gồm tất cả các Máy móc, thiết bị được lắp đặt trên sàn hay trên bàn thợ: máy phay, máy tiện, máy bào… 3.2.2. Dụng cụ cơ khí và thiết bị di động : là những thiết bị không được lắp đặt cố định: máy cưa, máy khoan, …. 3.2.3. Các thiết bị và dụng cụ phù trợ: là những thiết bị bảo đảm cho thiết bị sản xuất cơ bản có thể sản xuất được sản phẩm. -> Mục đích của việc phân loại Máy móc, thiết bị theo kết cấu và cách lắp đặt các đơn vị thiết bị: cách phân loaị này mang tính kỹ thuật cao. Do đó nó có tác dụng nhằm nâng cao các tính năng kỹ thuật của máy. Mỗi loại máy móc, thiết bị đòi hỏi cách thức vận hành khác nhau, đòi hỏi người công nhân phải nắm rõ các quy trình, quy phạm, đặc điểm của từng loại máy móc, thiết bị từ đó Doanh nghiệp có kế hoạch bố trí cơ sở vật chất kỹ thuật, mặt bằng đặt máy … 3.3. Phân loại Máy móc, thiết bị theo mức độ sử dụng: Có thể hình dung cách phân loại này như trong sơ đồ sau: MM.TB hiện có Số MM.TB cần dùng Số MM.TB chưa dùng hoặc hư hỏng Số MM.TB cần dùng Số MM.TB chưa lắp Bảo dưỡng theo KH Ngừng việc Chờ đại tu Chưa đủ yếu tố cơ bản Đã đủ yếu tố cơ bản Chưa cần dùng,đã lắp Chưa cần dùng, chưa lắp Chờ thanh lý Số MM.TB sửa chữa lớn Số MM.TB dự phòng Số MM.TB thực tế làm việc Sơ đồ 1: Phân loại máy móc, thiết bị theo mức độ sử dụng Cách phân loại này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị của các Doanh nghiệp. Qua đó có thể đưa ra các phương hướng sử dụng, kế hoạch sửa chữa, đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị trong thời gian tới… 4. Hao mòn và khấu hao Máy móc, thiết bị: 4.1. Hao mòn Máy móc, thiết bị : 4.1.1.Khái niệm hao mòn Máy móc, thiết bị: Hao mòn Máy móc, thiết bị là sự giảm dần về giá trị của Máy móc, thiết bị do sử dụng, do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hoặc tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Máy móc, thiết bị là tài sản cố định (TSCĐ) có giá trị lớn, tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất kinh doanh và chuyển dần giá trị của nó vào giá trị của sản phẩm. Sau mỗi lần sử dụng, giá trị của Máy móc, thiết bị sẽ bị giảm một phần, gọi là hao mòn. Hao mòn là quá trình thường xuyên, liên tục đối với Máy móc, thiết bị ngay cả khi dụng và khi không sử dụng. Sự hao mòn này chỉ có thể hạn chế chứ không thể loại bỏ. Sự hao mòn của Máy móc, thiết bị do hai yếu tố gây nên là yếu tố hữu hình và yếu tố vô hình. Hai loại yếu tố này dẫn tới hai loại hao mòn của Máy móc, thiết bị: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. 4.1.2. Hao mòn hữu hình: Hao mòn hữu hình là hao mòn gắn liền với quá trình sử dụng và sự tác động của yếu tố tự nhiên. Mức hao mòn này tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng Máy móc, thiết bị. Sự hao mòn này làm cho máy móc, thiết bị mất dần những thuộc tính kinh tế kỹ thuật của nó, do đó làm mất dần giá trị của máy móc, thiết bị dẫn đến giảm giá trị của chúng. C.Mác đã nhận xét sự hao mòn này là: “Sự hao mòn vật chất của Máy móc, thiết bị có hai loại : một loại hao mòn là do việc sử dụng Máy móc, thiết bị giống như đồng tiền bị hao mòn trong lưu thông. Một loại khác do sử dụng giống như lưỡi gươm không bị han gỉ khi nằm trong bao gươm " C.Mác, Tư bản, Tập I, quyển 1, trang 510. . Trong điều kiện bình thường, việc sử dụng máy móc, thiết bị gây ra hao mòn hợp lý và sẽ được bù đắp bằng chuyển dần giá trị của nó vào giá trị của sản phẩm. Đó chính là việc khấu hao máy móc, thiết bị. Những nhân tố ảnh hưởng đến hao mòn hữu hình phải kể đến là do chất lượng từ khâu chế tạo, chất lượng công tác lắp đặt, các nhân tố thuộc môi trường tự nhiên của khu vực sản xuất. Những tác động của nhân tố này có thể giảm đi đáng kể nếu Doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo dưỡng, bảo quản, quản lý máy móc, thiết bị, nhanh chóng đưa máy móc, thiết bị vào sản xuất kinh doanh, tuân thủ các nguyên tắc về an toàn kỹ thuật; nhanh chóng khai thác, sử dụng hết công suất máy để giảm thời gian khấu hao, tránh tình trạng máy móc, thiết bị ngừng hoạt động, hỏng hóc trước thời gian quy định. Bên cạnh đó Doanh nghiệp cần giáo dục tinh thần tự giác của người lao động trong việc tuân thủ công tác bảo quản và vận hành máy, nâng cao trình độ sử dụng, tạo điều kiện cho việc sử dụng máy móc, thiết bị tạo ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn ngày càng cao. 4.1.3. Hao mòn vô hình: Hao mòn vô hình máy móc, thiết bị là “tổn thất một phần máy móc, thiết bị không phụ thuộc vào việc chúng mất đi các thuộc tính kỹ thuật”( C.Mác, Tư bản, Tập I, quyển 1, trang 510. ). Hao mòn thường xảy ra dưới hai hình thức cơ bản: Hình thức thứ nhất: biểu hiện ở giá trị máy móc, thiết bị bị mất đi do tăng năng suất trong ngành sản xuất ra chúng. Hình thức này không dẫn đến cần thiết phải thay thế các thiết bị đang hoạt động bằng thiết bị mới. Bởi trình độ của thiết bị mới và thiết bị đang hoạt động là như nhau. Song việc áp dụng rộng rãi máy móc, thiết bị mới có giá thấp hơn dẫn tới việc máy móc, thiết bị mua sắm trước đó giờ kém hiệu quả hơn. Hình thức thứ hai: là do sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật làm xuất hiện ngày càng nhiều thế hệ máy móc, thiết bị mới tiên tiến và hiện đại hơn, có tính năng sử dụng hơn hẳn các thiết bị cũ, lầm cho nó trở nên lỗi thời, lạc hâu, sản phẩm kém tính cạnh tranh và dẫn đến việc là cần phải thay thế chúng. Đây chính là yếu tố làm cho hao mòn vô hình máy móc, thiết bị tăng rất nhanh. 4.2. Khấu hao Máy móc, thiết bị: Khấu hao máy móc, thiết bị là việc xác định bộ phận giá trị máy móc, thiết bị tương ứng với hao mòn được chuyển vào giá trị của sản phẩm được tính từ tiền bán sản phẩm hay từ doanh thu bán hàng và được tích luỹ lại trong quỹ khấu hao cơ bản. Mục đích của việc tính khấu hao trong Doanh nghiệp là để tính toán chính xác giá thành sản phẩm, bảo toàn vốn cố định của Doanh nghiệp và kế hoạch hoá công tác đầu tư và hoàn lại vốn đầu tư cho Doanh nghiệp. Thông qua khấu hao, Doanh nghiệp có thể tập hợp được một bộ phận vốn nhờ số tiền trích khấu hao từ giá trị của sản phẩm hàng hoá thực hiện. Số tiền này được trích vào quỹ khấu hao cơ bản của Doanh nghiệp và được dùng khi cần để đầu tư cho việc cải tiến, đổi mới máy móc, thiết bị. Quỹ khấu hao được sử dụng với hai mục đích sau: Một là : Doanh nghiệp sử dụng một phần trong quỹ vốn này khôi phục một phần giá trị máy móc, thiết bị thông qua việc sửa chữa, hiện đại hoá máy móc, thiết bị. Đây là công việc được tiến hành thường xuyên trên cơ sở sửa chữa dự phòng của Doanh nghiệp. Hai là : Doanh nghiệp sử dụng một phần còn lại để mua sắm thiết bị mới thay thế cho máy móc, thiết bị cũ không còn sử dụng được nữa. Đây không phải là công việc thường xuyên mà nó được tiến hành theo kế hoạch đổi mới Máy móc, thiết bị của Doanh nghiệp. Tiền tính khấu hao là hình thái tiền tệ của giá trị máy móc, thiết bị đang hoạt động được chuyển sang sản xuất và tính vào giá thành sản phẩm. Lượng tiền tính khấu hao hàng năm phụ thuộc vào hai yếu tố: Giá trị trung bình hàng năm của máy móc, thiết bị. Tỷ lệ khấu hao máy móc, thiết bị (là tỷ số phần trăm giữa số tiền trích khấu hao hàng năm với giá trị trung bình của máy móc, thiết bị). Tỷ lệ này cũng cho biết giá trị của máy móc, thiết bị được trích bù đắp trong bao nhiêu năm. Việc xác định tỷ lệ khấu hao là công việc hết sức quan trọng và cần thiết trong công tác quản lý máy móc, thiết bị. Nếu tỷ lệ này quá cao sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh kém. Ngược lại, nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ kéo dài thời gian tính khấu hao, kéo dài tuổi thọ của máy móc, thiết bị cũ, làm chậm quá trình áp dụng và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Do đó, việc xác định một mức khấu hao hợp lý là hết sức quan trọng. Tuy nhiên mức tỷ lệ khấu hao còn phụ thuộc vào quy định của Nhà nước về mức tính và trích quỹ khấu hao cơ bản. Mỗi loại máy móc, thiết bị khác nhau có có tỷ lệ khấu hao là không giống nhau. Những loại máy móc, thiết bị có hàm lượng khoa học công nghệ cao thường có thời gian khấu hao ngắn, tỷ lệ khấu hao cao và ngược lại. 4.3. Các phương pháp tính khấu hao: Việc áp dụng một phương pháp tính khấu hao thích hợp cho máy móc, thiết bị cũng hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng tới mức khấu hao được tính vào giá thành sản phẩm. Mỗi phương pháp lại có những ưu, nhược điểm nhất định. Sau đây là một số phương pháp tính khấu hao đang được áp dụng phổ biến trong các Doanh nghiệp: 4.3.1. Phương pháp khấu hao theo đường thẳng (khấu hao tuyến tính, hay khấu hao đều): Theo phương pháp này, mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao được tính ở mức không đổi qua các năm. Tức là việc phân bổ gía trị của máy móc, thiết bị ngang bằng nhau trong suốt thời gian sử dụng. Cách tính như sau: Trong đó : Mk: là mức khấu hao cơ bản cố định hàng năm T: Là thời gian sử dụng định mức của cả đời máy NG: Nguyên giá TSCĐ Từ đó ta xác định dược tỷ lệ khấu hao (Tk ) sau: Ưu điểm: mức khấu hao được phân bổ vào giá thành một cách đều đặn, làm cho giá thành ổn định. Hơn nữa việc tính toán lại đơn giản, chính xác. Hạn chế: do mức khấu hao là đều nhau nên thời gian thu hồi vốn chậm, máy móc, thiết bị khó tránh khỏi bị hao mòn vô hình. 4.3.2. Phương pháp khấu hao tổng hợp: Theo phương pháp này người ta phân chia máy móc, thiết bị thành từng nhóm để tính khấu hao sau đó tổng hợp lại để tính khấu hao cho toàn bộ Doanh nghiệp. Trong phương pháp khấu hao tổng hợp lại bao gồm các phương pháp sau: Phương pháp tỷ trọng: Trong phương pháp này người ta chia toàn bộ máy móc, thiết bị thành các nhóm tỷ lệ khấu hao tương tự. Sau đó xác định tỷ trọng của từng nhóm thiết bị và tính tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân. Công thức xác định: Trong đó: Tk: Fi: Zi: Tỷ lệ khấu hao bình quân tổng hợp. Tỷ trọng của nhóm thiết bị trong tổng số. Tỷ lệ khấu hao nhóm i. Từ đó ta xác định được mức khấu hao tổng hợp bình quân (Mk): Mk=NG*Tk (NG: Nguyên giá) Phương pháp khấu hao theo từng nhóm: Người ta sắp xếp máy móc, thiết bị theo loại, rồi tính tổng mức khấu hao của các loại (Mk), sau đó tính tỷ lệ khấu hao của máy móc, thiết bị toàn Doanh nghiệp. 4.3.3. Các phương pháp khấu hao gia tăng: a. Phương pháp khấu hao số dư giảm dần: Theo phương pháp này, số khấu hao hàng năm được tính trên cơ sở một tỷ lệ khấu hao không đổi nhân với giá trị còn lại của TSCĐ (Máy móc, thiết bị). Mức khấu hao hàng năm giảm dần theo thang bậc luỹ thoái, tỷ lệ khấu hao theo phương pháp này thường lớn hơn so với tỷ lệ khấu hao trong phương pháp khấu hao cố định. Tỷ lệ này được xác định như sau: Trong đó: Tk: NGt: NG0: Tỷ lệ khấu hao hàng năm. Giá trị còn lại của máy móc, thiết bị ở cuối năm t. Nguyên giá TSCĐ. Ưu diểm: Tăng khả năng thu hồi vốn do trong những năm đầu tỷ lệ khấu hao là rất lớn. Nhược điểm: Số tích luỹ luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ không đủ bù đắp giá trị ban đầu của máy móc, thiết bị. b. Phương pháp tổng số: Mức khấu hao hàng năm trong phương pháp này được tính bằng cách nhân tỷ khấu hao mỗi năm với giá trị ban đầu của TSCĐ (Máy móc, thiết bị). Trong đó tỷ lệ mỗi năm về sau lại giảm dần. Được tính như sau: Trong đó: Tkt: T: t Tỷ lệ khấu hao năm t. Thời hạn phục vụ của Máy móc, thiết bị. Thời điểm (năm) cần tính khấu hao . Phương pháp tổng số có nhiều ưu điểm hơn so với phương pháp số dư giảm dần ở chỗ số khấu hao luỹ kế trong phương pháp tổng số đến năm cuối cùng sẽ đủ bù đắp giá trị ban đầu của TSCĐ (Máy móc, thiết bị). II. Nội dung và vai trò của công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị : 1.Nội dung của công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị : Bao gồm những nội dung sau: 1.1.Công tác tổ chức bố trí Máy móc, thiết bị: Công tác tổ chức bố trí máy móc, thiết bị nhằm tạo ra sự kết hợp chặt chẽ giữa sức lao động và tư liệu lao động cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, quy mô và công nghệ sản xuất. Do đặc điểm sản xuất có nhiều sự khác biệt với các Doanh nghiệp công nghiệp, các Doanh nghiệp xây dựng thường hoạt động trên phạm vi rộng, địa hình công trình đa dạng, phức tạp, tính cơ động của máy móc, thiết bị là tương đối cao và hầu hết các loại máy móc, thiết bị lại hoạt động trong điều kiện ngoài trời. Do đó công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị là hết sức phức tạp và khó khăn. Máy móc, thiết bị phải được lập hồ sơ chi tiết ngay từ khi mua về, phải được cập nhật hàng ngày về tình trạng kỹ thuật hoạt động của máy móc, thiết bị. Phải có sự bàn giao chặt chẽ về số và chất lượng cho bộ phận sản xuất thông qua hợp đồng bàn giao. Trong công tác này, điều quan trọng nữa là cần xác định các yêu cầu về trình độ kỹ thuật, năng lực của người vận hành máy móc, thiết bị . 2.2.Công tác sử dụng Máy móc, thiết bị: Trong công tác sử dụng máy móc, thiết bị lại bao gồm những nội dung như: Kế hoạch hoá công tác điều động và các định mức sử dụng máy móc, thiết bị; giám sát việc tuân thủ các quy trình, quy phạm, các quy định về an toàn lao động trong vận hành, sử dụng và sửa chữa máy móc, thiết bị; kế hoạch hoá nhu cầu về đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp vận hành máy móc, thiết bị; quy dịnh các tiêu chuẩn trình độ, cấp bậc thợ tương ứng theo quy định của Nhà nước đối với từng loại xe máy và thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý và sử dụng máy móc thiết bị; quy định các chế độ trách nhiệm đối với các xí nghiệp, các tổ, đội và thợ máy về các hỏng hóc và cách thức xử lý các sai phạm, thiệt hại theo quy định hiện hành… 2.3.Công tác bảo dưỡng, sửa chữa Máy móc, thiết bị: Nội dung của công tác này bao gồm việc theo dõi, kiểm tra, xác định trạng thái hoạt động của máy móc, thiết bị nhằm lập kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị định kỳ và đột xuất. Do ít có điều kiện đổi mới máy móc, thiết bị thường xuyên nên công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị là hết sức cần thiết nhằm duy trì trạng thái sản xuất ổn định, lâu dài của máy móc, thiết bị, đảm bảo quá trình sản xuất được diễn ra thường xuyên, liên tục, đảm bảo về cả số và chất lượng của sản phẩm đầu ra. 2.4. Công tác khấu hao Máy móc, thiết bị: Công tác khấu hao máy móc, thiết bị phải xác định được số năm định mức phục vụ của máy móc, thiết bị, qua đó xác định chính xác mức khấu hao hàng năm nhằm đảm trích đủ nguyên giá ban đầu của máy móc, thiết bị. Đây là công tác hết sức quan trọng, nó đảm bảo bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Doanh nghiệp, tránh tình trạng ăn vào vốn như nhiều Doanh nghiệp mắc phải. Công tác này cũng một mặt phải đảm bảo hạ giá thành sản phẩm mặt khác lại phải đảm bảo khấu hao máy móc, thiết bị một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất nguyên giá máy móc, thiết bị, giảm hao mòn cho máy móc, thiết bị. 2.5.Công tác đầu tư và đổi mới Máy móc, thiết bị: Việc mua sắm máy móc, thiết bị liên quan đến việc chi dùng vốn của Doanh nghiệp. Vì vậy các yếu tố về mặt kinh tế cần được xem xét, thẩm định một cách kỹ lưỡng nhằm đảm nảo sử dụng một cách hiệu quả sau này, đó là: mua loại thiết bị nào, dùng vào việc gì, mua của ai… Kế hoạch đầu tư mua sắm thiết bị mới của Doanh nghiệp gắn liền với kế hoạch về thị trường cũng như mục tiêu lợi nhuận lâu dài của Doanh nghiệp. Năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, giá gia công giảm là những mục tiêu trước nhất gắn với kế hoạch đầu tư mua sắm thiết bị mới của Doanh nghiệp. Vì vậy tuỳ theo điều kiện, khả năng huy động vốn, những yêu cầu phát triển mà có chính sách đầu tư thiết bị cho phù hợp với khả năng mọi mặt của Doanh nghiệp. Do đó, việc đầu tư, mua sắm máy móc, thiết bị cần tuân thủ các yêu cầu sau đây: Đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị phải phù hợp với khả năng huy động vốn và dự tính được khả năng thu hồi vốn cho Doanh nghiệp. Máy móc, thiết bị mua sắm phải đồng bộ, có kèm theo sự chuyển giao công nghệ một cách đầy đủ, có thể đưa thiết bị vào sản xuất kịp thời, đúng tiến độ, đảm bảo nắm bắt được cơ hội kinh doanh. Mua sắm đúng chủng loại máy móc, thiết bị mà Doanh nghiệp cần, đảm bảo các thông số kỹ thuật mà quá trình sản xuất của Doanh nghiệp yêu cầu, đảm bảo có nguồn cung cấp vật tư đầy đủ, phụ tùng thay thế sẵn có cũng như các dịch vụ đi kèm khác. Lựa chọn thiết bị, dây chuyền công nghệ phù hợp với trình độ mọi mặt của Doanh nghiệp. Chọn nhà cung cấp sao cho chi phí là nhỏ nhất. Thiết bị mới phải hiện đại hơn, năng suất, chất lượng cao hơn so với thiết bị hiện có của Doanh nghiệp. 2.Vai trò của công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị: Như phần trên đã khẳng định, máy móc, thiết bị có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp mà đặc biệt là đối với các Doanh nghiệp sản xuất và xây dựng. Do đó công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện qua những điểm cơ bản sau đây: Công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác sử dụng, kế hoạch hoá nguyên vật liệu, lao động, vốn…Đây là yếu tố cơ bản nhất của quá trình sản xuất, trong đó máy móc, thiết bị là yếu tố “phần cứng”, có vai trò then chốt trong việc chế tạo ra sản phẩm theo kế hoạch của nhà sản xuất. Kế hoạch sử dụng máy móc, thiết bị cũng kéo theo và gắn chặt với các kế hoạch khác của Doanh nghiệp mà trực tiếp là kế hoạch về nguyên vật liệu và kế hoạch sử dụng lao động. Công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị trong kế hoạch quản lý giá thành của sản phẩm. Trong cơ cấu giá thành của sản phẩm, giá trị của máy móc, thiết bị thường chiếm một tỷ trọng khá lớn. Do vậy quản lý và sử dụng tốt máy móc thiết bị sẽ làm tăng năng suất của máy móc, thiết bị, giảm chi phí máy trên mỗi sản phẩm, góp phần hạ giá thành sản phẩm. Trong các Doanh nghiệp xây dựng, máy móc, thiết bị ngoài việc đóng góp vào giá thành còn là một yếu tố có vai trò quan trọng trong việc xét điểm kỹ thuật trong các bài thầu. Do đó công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị còn có ý nghĩa rất lớn trong đấu thầu và là một yếu tố có tính quyến định nhất tới khả năng thắng thầu các công trình xây dựng lớn. Như đã khẳng định, máy móc, thiết bị thường chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng cơ cấu giá trị TSCĐ của Doanh nghiệp, điều này cũng có nghĩa là máy móc, thiết bị chiếm tỷ trọng rất lớn trong nguồn vốn cố định. Việc tăng cường công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị cũng đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn nói chung và vốn cố định nói riêng của Doanh nghiệp. Do máy móc, thiết bị có giá trị lớn lại ít có điều kiện trang bị mới, việc sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ là hết sức quan trọng, nó đảm bảo quá trình sản xuất được diễn ra một cách liên tục, đảm bảo chất lượng đầu ra, kéo dài tuổi thọ máy móc, thiết bị. Công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị chính là khâu đảm bảo cho những công việc này được thực hiện tốt hơn, bao gồm việc theo dõi, tổ chức bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ, sửa chữa đột xuất… Các Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, mức độ cạnh tranh gay gắt, công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị còn có nhiệm vụ xác định nhu cầu đổi mới, mua sắm trang thiết bị mới nhằm bắt kịp và vượt._. trước sự tiến bộ của ngành. Nhiệm vụ của công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở khía cạnh này phải xác định được tốc độ phát triển của công nghệ mới, xác định chính xác thời gian hoạt động của máy móc, thiết bị hiện tại, tính và trích quỹ khấu hao đầy đủ, chính xác, rút ngắn thời gian hoạt động của máy, giảm thiểu hao mòn vô hình, nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học kỹ thụât mới vào sản xuất. Tóm lại, vai trò, nhiệm vụ trung tâm của công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị nhằm phát huy, tận dụng tối đa công suất máy, góp phần sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn của Doanh nghiệp, tạo điều kiện tích luỹ, bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Doanh nghiệp. 3. Một số quan điểm đánh giá hiệu quả công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị: Máy móc, thiết bị là một bộ phận lớn nhất, chủ yếu nhất trong tư liệu lao động và có ý nghĩa quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của mỗi Doanh nghiệp. Chính vì vậy, công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị đang là vấn đề thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu bởi lẽ thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh đang tồn tại những lãng phí lớn trong sử dụng máy móc, thiết bị. Để đánh giá hiệu quả của công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị người ta thường đứng trên một số quan điểm sau: 3.1.Một là: quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị theo đúng công dụng: Mỗi loại máy móc, thiết bị có những tính năng, tác dụng và nhiệm vụ riêng trong quá trình sản xuất, chế tạo ra sản phẩm. Do đó vấn đề đặt ra là cần phải sử dụng thiết bị vào những công việc phù hợp với mục đích chế taọ ra nó của nhà thiết kế, sản xuất. Sử dụng máy móc, thiết bị đúng mục đích, đúng công việc góp phần nầg cao năng suất máy, tận dụng được công suất thiết kế, giảm lãng phí công suất máy. Khi được bố trí theo đúng thời gian, không gian, phù hợp với tính năng của máy còn có tác dụng phân bổ hợp lý giá trị của máy móc, thiết bị vào giá trị của sản phẩm, giảm hao mòn vô hình bằng việc khấu hao nhanh máy móc, thiết bị. 3.2.Hai là: quản lý và sử dụng máy móc thiết bị theo đúng định mức: Định mức sử dụng máy móc, thiết bị quy định mức tham gia của máy móc, thiết bị vào quá trình sản xuất trong các giai đoạn nhất định. Mức tham gia này được tính toán sao cho đó là mức tối ưu nhất, phù hợp với khả năng hiện tại của máy móc, thiết bị. Khi đó sự tham gia của máy móc, thiết bị một mặt phát huy hết công suất sử dụng, mặt khác vẫn duy trì được thời gian sử dụng lâu dài, hạn chế được những tổn thất do việc sử dụng vượt định mức gây ra. Do vậy việc quản lý và sử dụng máy móc thiết bị theo đúng định mức không chỉ cho phép sử dụng tối đa năng lực sản xuất hiện có mà còn có ý nghĩa duy trì khả năng sử dụng máy móc, thiết bị lâu dài. 3.3.Ba là: quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm: Chất lượng dây chuyền công nghệ sản xuất có ý nghĩa to lớn và hết sức quan trọng trong việc quyết định chất lượng đầu ra của quá trình sản xuất. Công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho máy móc thiết bị hoạt động liên tục trong trạng thái ổn định, đảm bảo tỷ lệ chính phẩm sản xuất ra ở mức cao nhất. Chất lượng sản phẩm đầu ra phản ánh chính xác nhất chất lượng máy móc thiết bị, qua đó phản ánh chất lượng công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của doanh nghiệp. 3.4.Bốn là: quản lý và sử dụng máy móc thiết bị phải nhằm giảm hao mòn hữu hình và vô hình. Việc làm giảm hao mòn hữu hình thể hiện ở việc tăng hệ số sử dụng máy móc, thiết bị về thời gian và tăng năng suất hiện tại của máy móc, thiết bị trong khả năng cho phép nhằm làm cho hao mòn hữu hình chủ yếu là do sử dụng vào sản xuất hợp lý, tránh tình trạng máy móc, thiết bị không hoạt động mà vẫn phải tính và trích khấu hao. Công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị còn cho phép tận dụng tối đa công suất, cho phép khấu hao nhanh nhất giá trị của máy móc, thiết bị, nhanh chóng đưa thiết bị mới vào sản xuất, giảm hao mòn giá trị do yếu tố vô hình. 3.5.Năm là: Quản lý và sử dụng máy móc thiết bị theo đúng chế độ bảo dưỡng, sửa chữa theo kế hoạch: Bảo dưỡng và sửa chữa (định kỳ hay đột xuất, sửa chữa lớn, vừa hay nhỏ) là một nội dung trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Tuân thủ đúng chế độ bảo dưỡng và sửa chữa định kỳ, nâng cao tuổi thọ máy móc, thiết bị, tăng khả năng hoạt động liên tục, thường xuyên của máy móc, thiết bị. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, máy móc, thiết bị ngày càng nhanh chóng lạc hậu, việc sửa chữa lớn, thay thế những yếu tố cơ bản sẽ có tác dụng làm giảm tính lạc hậu của máy móc, thiết bị hiện có của Doanh nghiệp so với máy móc, thiết bị mới hoàn toàn đồng thời có khả năng tận dụng được những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, tạm thời tiết kiệm được các khoản đầu tư lớn ngay một lúc cho việc mua sắm mới hoàn toàn máy móc, thiết bị. 3.6.Sáu là: Quản lý và sử dụng máy móc thiết bị nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh tổng hợp: Quản lý và sử dụng máy móc thiết bị là việc sử dụng chúng vào nhiều mục đích khác nhau, phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Cho dù mang các hình thức khác nhau nhưng mục tiêu cuối cùng của các hoạt động của các Doanh nghiệp là đều nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, Doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào một yếu tố nào đó, mà cần phải có sự kết hợp giữa các yếu tố, trong đó sự kết hợp giữa vốn, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và lao động là sự kết hợp cơ bản nhất. Máy móc, thiết bị khi được bố trí hợp lý, khoa học, kết hợp với việc thường xuyên nâng cao khả năng hoạt động của máy, tận dụng công suất máy móc, thiết bị sẽ góp phần tiết kiệm vốn đầu tư, nguyên vật liệu, lao động…làm cho giá thành sản phẩm liên tục giảm, tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ hơn cho Doanh nghiệp, mang lại những thuận lợi cho các kế hoạch về thi trường và lợi nhuận của Doanh nghiệp. III. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị: Quản lý và sử dụng máy móc thiết bị là một nội dung quan trọng trong công tác quản trị sản xuất của Doanh nghiệp. Do đó nó cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. 1.Nhân tố chất lượng máy móc, thiết bị: Chất lượng máy móc, thiết bị có liên quan nhiều tới nguồn gốc, xuất xứ của Máy móc, thiết bị, thời điểm sản xuất và công nghệ để sản xuất ra Máy móc, thiết bị đó. Với Doanh nghiệp thì chất lượng máy móc, thiết bị không phải là nhân tố chủ quan nhưng nó có ảnh hưởng tới công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Việc đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị cần xuất phát từ nhu cầu của thị trường, dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ, năng lực làm chủ máy móc, thiết bị của người công nhân trong Doanh nghiệp. Trình độ công nghệ của máy móc, thiết bị áp dụng vào Doanh nghiệp phải đảm bảo tính phù hợp với môi trường cả trong và ngoài Doanh nghiệp: nhu cầu thị trường, trình độ phát triển của ngành, trình độ công nghệ hiện tại của Doanh nghiệp (tay nghề công nhân, khả năng nắm bắt công nghệ mới…), trình độ tổ chức bộ máy quản lý công nghệ trong công ty…Máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ càng cao đòi hỏi công tác tổ chức quản lý càng phức tạp, khó khăn hơn, tuy nhiên hiệu quả mang lại cũng rất lớn nếu làm tốt công tác này. 2.Nhân tố có liên quan đến nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: Trong cơ chế thị trường, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp gắn liền với nhu cầu của thị trường. Doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào? Việc trả lời câu hỏi sản xuất như thế nào thuộc về trách nhiệm của các nhà quản lý và sử dụng máy móc thiết bị trong Doanh nghiệp. Hay nói cách khác, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp quy định trực tiếp tới công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Ta có thể thấy điều này qua: Máy móc, thiết bị có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng sản phẩm, Doanh nghiệp lại dựa trên nhu cầu của thị trường về chủng loại sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng, công dụng, và đặc biệt là nhu cầu của thị trường về chất lượng của sản phẩm… từ đó xác định yêu cầu cho công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Bộ phận quản lý và sử dụng máy móc thiết bị cần nắm rõ mối quan hệ này nhằm xác định chính xác nhu cầu về số, chất lượng, chủng loại máy móc, thiết bị, đảm bảo quá trình sản xuất được tiến hành một cách thuận lợi và hiệu quả nhất. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đòi hỏi ngày càng cao hơn. Công tác quản lý máy móc, thiết bị còn phải đưa ra những quyết định đâu là thời điểm nên đưa công nghệ mới vào áp dụng; trình độ công nghệ nên ở mức độ nào là thích hợp; nên đổi mới cả dây chuyền công nghệ hay chỉ nên hiện đại hoá ở một khâu nào đó, một công đoạn trong quá trình sản xuất nhằm sử dụng hiệu quả nhất cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, đồng thời vẫn đảm bảo cung cấp những gì thị trường cần, đồng thời vẫn có khả năng bảo vệ môi trường. 3.Nhân tố thuộc về con người: Trong các yếu tố của quá trình sản xuất thì con là yếu tố quan trọng hàng đầu. Con người giữ vị trí trung tâm trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất. Máy móc, thiết bị dù có hiện đại đến đâu cũng là do con người chế tạo ra. Tuy nhiên ở đây ta đề cập tới yếu tố con người thuộc Doanh nghiệp. Từ tư duy của người lãnh đạo cho tới ý thức trách nhiệm và thái độ lao động của người công nhân đều có ảnh hưởng tới quá trình sản xuất của Doanh nghiệp nói chung và tới công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị nói riêng. Để đánh giá chất lượng người lao động, người ta đánh giá trình độ học vấn và khả năng nhận thức cuả người lao động. Hai tiêu chuẩn này phản ánh khả năng tiếp thu trình độ công nghệ mới, hiện đại hơn khi Doanh nghiệp đưa công nghệ mới vào sản xuất. Hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng của người công nhân vận hành. Người công nhân có trình độ tay nghề cao thường có khả năng đánh giá chính xác tình trạng hoạt động của máy móc, thiết bị trong từng thời kỳ sản xuất qua đó cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác phục vụ cho công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Bên cạnh đó người công nhân có ý thức, trách nhiệm cao luôn biết yêu quý máy móc, thiết bị như “con”, luôn vận hành máy theo đúng các quy trình, quy phạm, tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc an toàn khi vận hành máy, thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng máy móc, thiết bị của Doanh nghiệp. Xét trên góc độ người quản lý, người quản lý giỏi phải là người nắm chắc cả về lý thuyết lẫn kỹ năng thực hành, có khả năng quyết định và đưa ra các sáng kiến cải tiến, những cách thức thao tác vừa đơn giản lại vừa đạt hiệu quả cao. Người quản lý kỹ thuật giỏi cũng cần phải giỏi cả về kinh tế. Bởi lẽ các giải pháp kỹ thuật không thể không xét trên khía cạnh kinh tế vì xét cho cùng tất cả các hoạt động của Doanh nghiệp dù trên giác độ nào thì cuối cùng vẫn không ngoài mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn mà cụ thể là mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. 4.Nhân tố đảm bảo yếu tố đầu vào cho sản xuất: Nguyên, nhiên, vật liệu là các yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Máy móc, thiết bị không thể hoạt động thường xuyên, liên tục nếu khâu đảm bảo các yếu tố đầu vào này không đảm bảo cung cấp một cách thường xuyên, liên tục. Công tác đảm bảo yếu tố đầu vào trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng của các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị, như: hệ số sử dụng máy móc, thiết bị về thời gian; hệ số sử dụng máy móc, thiết bị về số lượng; hệ số sử dụng định mức máy móc, thiết bị; hệ số sử dụng máy móc, thiết bị thực tế; về khả năng huy động công suất; về kế hoạch cung ứng sản phẩm cũng như khả năng khấu hao hết máy móc, thiết bị. Để đảm bảo nâng cao các hệ số trên đây, trước tiên khâu đảm bảo yếu tố đầu vào phải cung cấp đúng lúc, kịp thời cả về số, chất lượng và chủng loại các yếu tố đầu vào. 5.Nhân tố cơ sở vật chất kỹ thuật của Doanh nghiệp: Nhân tố này phản ánh khả năng tiếp nhận và vận dụng thành công việc đưa máy móc, thiết bị vào sản xuất. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Doanh nghiệp là điều kiện cần, là nền tảng ban đầu cho phép sử dụng hiệu quả hay không hiệu quả máy móc, thiết bị của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần căn cứ vào điều kiện này trước khi quyết định đưa loại máy móc, thiết bị nào vào áp dụng trên cơ sở vừa đảm bảo theo đúng xu hướng phát triển của ngành đồng thời có thể tận dụng được một cách tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có. Tuy nhiên đây không phải là yếu tố dàng buộc nhu cầu đổi mới của Doanh nghiệp. Một Doanh nghiệp mạnh không bao giờ lệ thuộc vào cái mình đang có hay chưa có. Doanh nghiệp cũng có thể quyết định đầu tư mới toàn bộ khi biết chắc chắn rằng quyết định đó là đúng đắn, có cơ sở khoa học rõ ràng mặc dù đầu tư ban đầu là rất lớn và có thể hoàn toàn không tận dụng được cái đang có. 6.Nhân tố thuộc về hệ thống trao đổi, xử lý thông tin: Ngày nay thông tin có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Giá trị của thông tin nhiều khi lớn hơn giá trị của các yếu tố vật chất mà Doanh nghiệp sẽ đầu tư. Bởi lẽ thông tin là cơ sở đáng tin cậy nhất khi đưa ra một quyết định. Một quyết định mà Doanh nghiệp đưa ra chỉ đúng đắn và đáng tin cậy khi có đầy đủ thông tin. Ngày nay, Doanh nghiệp không chỉ cần biết tới việc làm tốt công việc của mình mà còn phải biết Doanh nghiệp khác làm gì, làm như thế nào…trong đó có cả các đối thủ của Doanh nghiệp để từ đó có biện pháp phấn đấu làm tốt hơn các đối thủ cạnh tranh. Đó là yếu tố đảm bảo khả năng thắng lợi trong cạnh tranh. Vì vậy quyết định đầu tư vào công việc thu thập và xử lý thông tin là một sự đầu tư đúng đắn và sẽ là có giá trị hơn nếu công việc này đi trước một bước so với đối thủ cạnh tranh. Trong thời đại ngày nay, với sự bùng nổ hệ thống thông tin cùng với sự ra đời của các thiết bị điện tử đã tạo ra một cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Người quản lý không còn bó hẹp công việc quản lý của mình trong nội bộ Doanh nghiệp mà cần phải nắm được những thay đổi về công nghệ trong phạm vi ngành mình cũng như trong phạm vi toàn xã hội, toàn cầu nhằm lựa chọn cho Doanh nghiệp những công nghệ phù hợp nhất với xu hướng phát triển của toàn xã hội. Nếu không nắm được nguồn thông tin này, Doanh nghiệp chắc chắn sẽ không thể tồn tại trong kỷ nguyên mới-kỷ nguyên công nghệ thông tin. 7.Nhân tố về điều kiện tự nhiên: Con người ngày nay đang dần vượt ra sự tác động không thuận lợi của điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên ở một mức độ nào đó con người vẫn ít nhiều chịu sự tác động của của điều kiện này, không thể tránh được hoàn toàn sự tác động này. Điều kiện tự nhiên là một trong các yếu tố gây nên hao mòn hữu hình của máy móc, thiết bị. Công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị cần phải có biện pháp giảm thiểu sự tác động này. Sự tác động của điều kiện tự nhiên lên máy móc, thiết bị thể hiện càng rõ nét hơn. Do đặc điểm thi công các công trình hầu hết ở điều kiện ngoài trời, điều kiện thi công phức tạp, nhiều loại địa hình khác nhau, tính cơ động của máy móc, thiết bị là rất cao nên công tác quản lý máy móc, thiết bị gặp rất nhiều khó khăn. Trong điều kiện như vậy, công tác bảo dưỡng là yếu tố hết sức quan trọng nhằm duy trì khả năng hoạt động thường xuyên của máy móc, thiết bị. Bên cạnh đó, công tác khấu hao cũng có vai trò không kém phần quan trọng, yêu cầu phải tính toán sát sao và chính xác. IV. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị: Trong các doanh nghiệp sản xuất và xây dựng, máy móc, thiết bị vừa là bộ phận TSCĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cơ cấu TSCĐ của doanh nghiệp vừa là lực lượng sản xuất chính tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp, là nguồn mang lại doanh thu chính. Do đó để đánh giá hiệu quả sử dụng người ta đi sâu phân tích các chỉ tiêu về các mặt: số lượng, thời gian và năng suất Máy móc, thiết bị. Sau đây là một số nhóm chỉ tiêu thường được dùng trong việc đánh giá hiệu quả công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị trong các doanh nghiệp: 1. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình sử dụng số lượng máy móc, thiết bị: Để đi vào phân tích nhóm chỉ tiêu này người ta phân chia máy móc, thiết bị ra thành: Máy móc, thiết bị hiện có: là tất cả những máy móc, thiết bị được tính vào bảng cân đối TSCĐ và ghi vào danh mục tài sản của doanh nghiệp trong kỳ phân tích và thuộc quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp, không phụ thuộc vào hiện trạng và vị trí của nó. Máy móc, thiết bị đã lắp đặt: là những máy móc, thiết bị đã lắp đặt trong dây chuyền sản xuất, đã chạy thử và có khả năng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh. Máy móc, thiết bị làm việc thực tế: là những máy móc, thiết bị đã lắp đặt và đã dược sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu được xác định như sau: + Hệ số lắp đặt thiết bị hiện có (Hi): Hi = Số lượng thiết bị đã lắp đặt bình quân Số lượng thiết bị hiện có bình quân Hệ số này phản ánh trình độ kịp thời của việc lắp đặt số lượng máy móc, thiết bị hiện có và có thể huy động vào sản xuất. + Hệ số sử dụng thiết bị đã lắp đặt vào sản xuất (Hsl): Hsl = Số thiết bị làm việc thực tế bình quân Số thiết bị đã lắp đặt bình quân Hệ số này cho thấy số lượng máy móc, thiết bị có khả năng có thể huy động vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp tại thời điểm đánh giá. + Hệ số sử dụng máy móc, thiết bị hiện có (Hs) : Hs = Số thiết bị làm việc thực tế bình quân Số thiết bị hiện có bình quân Hệ số này phản ánh một cách khái quát tình hình sử dụng số lượng máy móc, thiết bị hiện có của doanh nghiệp. -> Mối quan hệ giữa ba chỉ tiêu này được thể hiện qua công thức sau: 2. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc, thiết bị : Để đánh giá tình hình sử dụng máy móc, thiết bị về mặt thời gian người ta dùng các chỉ tiêu sau: . . Trong đó: Hcd: Ht : Tt : Tcd : Tci : Hệ số sử dụng thời gan chế độ. Hệ số sử dụng thời gian làm việc thực tế. Thời gian làm việc thực tế của TB (là thời gian máy tham gia vào qua trình sản xuất bao gồm cả thời gian chuẩn bị cho máy làm việc). Thời gian làm việc theo chế độ của TB (là thời gian làm việc do chế độ quy định). Thời gian làm việc có ích của TB (là thời gian máy tham gia vào quá trìng sản xuất sản phẩm hợp cách). 3.Chỉ tiêu phản ánh tình hình sử dụng năng lực sản xuất của Máy móc, thiết bị: Mức năng suất của máy móc, thiết bị là khối lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian máy hao phí (giờ máy, ca máy, ngày máy). Được xác định như sau: . Trong đó U : Q : Tm: Mức năng suất TB. Khối lượng sản phẩm do thiết bị sản xuất ra. Khối lượng thời gian máy hao phí để sản xuất ra khối lượng sản Q. Người ta thường so sánh chỉ tiêu này với số kế hoạch hoặc số của kỳ gốc và người ta có số tương đối phản ánh trình độ hoàn thành kế hoạch (hay biến động) về năng suất thiết bị: . Trong đó: U1: U0: Năng suất thực tế kỳ phân tích. Năng suất kỳ gốc (hay số kế hoạch). Hay: . Trong đó: U1: Utk: Năng suất thực tế kỳ phân tích. Công suất thiết kế. Qua ba chỉ tiêu trên, người ta xác định được chỉ tiêu tổng hợp như sau: Hệ số sử dụng tổng hợp MM.TB = Hệ số sử dụng năng suất MM.TB x Hệ số sử dụng t/gian của MM.TB x Hệ số sử dụng số lượng MM.TB Ngoài các chỉ tiêu trên, người ta còn đưa ra một số chỉ tiêu thể hiện mối quan hệ giữa máy móc, thiết bị với TSCĐ, với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Mối quan hệ giữa máy móc, thiết bị sản xuất và TSCĐ: Tỷ trọng giá trị MM.TB trong tổng giá trị tài sản cố định = Tổng giá trị bình quân MM.TB đang s/dụng Tổng giá trị bình quân TSCĐ đang sử dụng Tỷ trọng này phản ánh lượng giá trị máy móc, thiết bị trong tổng cơ cấu giá trị TSCĐ của doanh nghiệp. Tỷ trọng này phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng ngành. Mối quan hệ giữa tỷ trọng này và hiệu suất sử dụng TSCĐ đang được dùng vào hoạt động sản xuất được thể hiện như sau: Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Hiệu suất sử dụng MM.TB sản xuất x Tỷ trọng giá trị MM.TB sản xuất trong TSCĐ Mối quan hệ giữa tổng hợp việc sử dụng máy móc, thiết bị sản xuất đến kết quả sản xuất kinh doanh: Tình hình sử dụng về mặt số lượng, thời gian và năng lực sản xuất của máy móc, thiết bị sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mối quan hệ này được thể hiện như sau: KLSP sản xuất ra trong 1 ngày làm việc = Số máy đã lắp đặt bình quân x Số ngày làm việc thực tế BQ của một máy x Độ dài bình quân một ca máy x x Hệ số ca Máy x Hệ số sử dụng TB đã lắp đặt x Năng suất bình quân một ca máy Từ mối quan hệ này, người ta có thể xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố sử dụng máy móc, thiết bị tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ./. * * * Phần II Phân tích thực trạng công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị ở công ty xây dựng số 1-vinaconco 1, thuộc tổng công ty vinaconex I. Một số đặc đIểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của công ty có ảnh hưởng tới công tác quản lý và sử dụng Máy móc thiết bị: 1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty. Công ty xây dựng số 1 là doanh nghiệp Nhà nước loại một, là thành viên của Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam-VINACONEX. Công ty có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có tài khoản và con dấu riêng. + Tên giao dịch của công ty : Công ty xây dựng số một. + Tên viết tắt : VINACONCO 1. + Trụ sở chính : Nhà D9 –Phường Thanh Xuân Bắc, Quận Thanh Xuân-Hà Nội. + Điện thoại : 8.543.813 - 8.543.205 + Fax : 8.541.679 + Vốn pháp định : 14.070.000.000 VNĐ (số liệu năm 1997) + Các lĩnh vực hoạt động chính: Xây dựng các công trình công nghiệp, công cộng, nhà ở và xây dựng khác. Trang trí nội thất, sân vườn. Sản xuất vật liệu xây dựng thoát nước, cấu kiện bê tông. Sản xuất ống cấp thoát nước, phụ tùng, phụ kiện. Kinh doanh nhà ở. Kinh doanh vật liệu xây dựng. Xây dựng đường bộ tới cấp III; cầu, cảng, sân bay loại vừa và nhỏ. Xây dựng kênh, mương, đê, kè, trạm bơm thuỷ lợi loại vừa và nhỏ; các công trình hạ tầng đô thị và khu công nghiệp. Xây dựng các công trình xử lý chất thải loại vừa và nhỏ. Tiền thân của công ty xây dựng số 1 là công ty xây dựng Mộc Châu- thuộc Bộ xây dựng, được thành lập từ năm 1973, có nhiệm xây dựng toàn bộ khu công nghiệp Mộc Châu- Sơn La. Từ năm 1977 đến năm 1981, Công ty xây dựng Mộc Châu đổi tên thành Công ty xây dựng số 11, trực thuộc Bộ xây dựng, trụ sở đóng tại Xuân Mai, Hà Sơn Bình (nay là Hà Tây), có nhiệm vụ xây dựng nhà máy Bê tông Xuân Mai và tham gia xây dựng Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình. Từ năm 1981 đến năm 1984, Công ty được Bộ xây dựng chuyển trụ sở về Hà Nội; được Nhà nước và Bộ xây dựng giao nhiệm vụ xây dựng khu nhà lắp ghép tấm lớn Thanh Xuân, Hà Nội. Năm 1984, Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số 196/CT đổi tên Công ty xây dựng số 11 thành Liên hợp xây dựng nhà ở tấm lớn số1 –trực thuộc Bộ xây dựng, với nhiệm vụ chính là xây dựng nhà ở cho Thủ đô Hà Nội. Đến năm 1991, Công ty đổi tên thành Liên hợp xây dựng số 11, trực thuộc Bộ xây dựng. Năm 1995, theo chủ trương đổi mới các Doanh nghiệp Nhà nước, ngày 15/4/1995, Bộ xây dựng ra Quyết định sáp nhập Liên hợp xây dựng số 1 vào Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam-VINACONEX và đổi tên thành : Công ty xây dựng số 1-VINACONCO 1 như ngày nay. Cho đến nay, Công ty đã có gần 30 năm hoạt động trong ngành xây dựng, công ty đã khẳng định được vị thế và uy tín của của mình trong nhiều năm qua bằng chất lượng và tiến độ thi công các công trình xây dựng, công ty đã tham gia xây dựng nhiều công trình có quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế cũng như trong quan hệ ngoại giao với các nước bạn. Với đội ngũ công nhân lành nghề, giàu kinh nghiệm, với trang thiết bị, máy móc tương đối hiện và đồng bộ, Công ty đã vững bước trên con đường phát triển chung của Đất nước, góp phần tích cực vào công cuộc CNH-HĐH đất nước. Với những thành tích đó công ty đã được tặng nhiều phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Bộ xây dựng và của Tổng công ty; nhiều tập thể, cá nhân của Công ty cũng đạt nhiều thành tích cao trong lao động, sản xuất và đã được tặng nhiều băng khen của các cấp. Phát huy những thành tích đã đạt được, Công ty đang tiếp tục ra sức phấn đấu xây dựng Công ty ngày càng vững mạnh toàn diện, vững bước tiến vào thế kỷ mới, thế kỷ XXI. 2. Một số đặc điểm kinh tế-kỹ thuật chủ yếu có ảnh hưởng tới công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của công ty. 2.1. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty xây dựng số 1: a. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty: Cơ cấu tổ chức bao gồm: Giám đốc Công ty : là người đứng đầu Công ty, đại diện pháp nhân cho công ty. Phó giám đốc công ty : Công ty có 3 phó giám đốc: Phó giám đốc thi công; Phó giám đốc kinh doanh; Phó giám đốc hành chính. Các phó giám đốc có nhiệm vụ giúp việc cho giám đốc về các lĩnh vực mà mình phụ trách: +Phó giám đốc thi công: có nhiệm vụ giúp việc giám đốc về các lĩnh vực : kỹ thuật thi công, tiến độ lịch trình thi công, điều động máy móc, thiết bị thi công, tham mưu về hướng phát triển của công ty về các mặt kỹ thuật… +Phó giám đốc kinh doanh: có nhiệm vụ giúp việc giám đốc trong lĩnh vực kinh doanh: khuếch trương hình ảnh của Công ty; cung cấp các thông tin về các nhà thầu khác (đối thủ cạnh tranh); phân tích các khía cạnh tài chính của các bài thầu, đưa ra giá dự thầu…; đề xuất các phương hướng phát triển Công ty trong tương lai… +Phó giám đốc hành chính: giúp việc giám đốc trong các vấn đề về tổ chức hành chính Công ty, tổ chức các tổ đội sản xuất; tổ chức nhânh sự, tham mưu về kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực trong tương lai,… Các phòng ban chức năng: Công ty có 4 phòng ban chức năng : +Phòng kinh doanh-tiếp thị: có chức năng tiếp cận với các nhà mời thầu, lập hồ sơ mời thầu về khía cạnh tài chính, thẩm định tài chính dự án đấu thầu, lập dự toán công trình; đảm bảo nguồn cung ứng nguyên vật liệu; mở rộng thị trường;… +Phòng kinh tế-kỹ thuật : có chức năng đưa ra các giái pháp kỹ thuật thi công; hoạch định năng lực thi công; giám sát thi công, chịu tránh nhiệm về chất lượng của công trình thi công và các chức năng khác phục vụ lãnh đạo và các phòng ban khác trong Công ty. +Phòng tổ chức-hành chính: có chức năng tổ chức nhân sự của công ty, điều động nhân sự, đưa ra các kế hoạch tổ chức trong thời gian tới của Công ty…công tác kế hoạch tiền lương… +Phòng tài chính-kế toán: có nhiệm vụ hạch toán, tập hợp các số liệu, thông tin tài chính của các công trình, hạng mục công trình nhằm đưa ra một giải pháp tối ưu, mang lại hiệu quả kinh tế cao; chi tất cả các khoản chi trong Công ty… Ngoài các phòng ban chức năng, dưới Công ty còn có 7 xí nghiệp trực thuộc, 6 đội xây dựng-điện nước và ban chủ nhiệm các công trình. Các xí nghiệp, đội trực thuộc được Công ty cho phép thành lập các bộ phận quản lý, hạch toán nội bộ, được dùng lực lượng sản xuất của đợn vị và có thể thuê thêm lao động ngoài theo thời điểm thi công, bảo đảm an toàn và chất lượng; có nghĩa vụ về các khoản đóng góp, giao nộp lên công ty cũng như nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước;… b.Sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty: Với cơ cấu tổ chức như trên, bộ máy của công ty được tổ chức theo sơ đồ sau: đội xd số102 đội xd số104 đội xd số 106 đội xd số108 đội xd- trang trí đội đIện nước Ban chủ nhiệm c.trình Giám đốc công ty Phòng kd.tt Phòng kt-k.th Phòng tc-kt Phòng tc-hc Xn xd số1 Xn xd số2 Xn xd số3 Xn xd số4 Xn xd số 5 Xn lắp ghép Xn cơ giới Trạm trộn bê tông PGĐ THI CÔNG PGĐ KINH DOANH pgđ hành chính Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của công ty. Trong công ty xây dựng số 1 chia làm hai cấp quản lý là: cấp công ty và cấp xí nghiệp. Chỉ có công ty mới có tư cách pháp nhân đầy đủ mà giám đốc là người đại diện, người giữ vai trò chỉ đạo chung đồng thời là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước và Tổng công ty về mọi hoạt động kinh doanh của công ty, đại diện cho toàn bộ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên công ty. Công ty trực tiếp tham gia vào các mối quan hệ giao dịch, ký kết hợp đồng với khách hàng, các cơ quan quản lý và thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. Công ty có con dấu riêng, có tài khoản độc lập tại ngân hàng; được giao quyền tự chủ trong quản lý và sử dụng vốn. ở cấp quản lý xí nghiệp, các xí nghiệp không có tư cách pháp nhân đầy đủ, tức là chỉ được phép tham gia ký kết các hợp đồng khi được công ty uỷ quyền. Giữa các xí nghiệp cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau, phụ trợ và bổ sung cho nhau. Trong các xí nghiệp, bộ máy tổ quản lý được tổ chức theo đồ sau: giám đốc xí nghiệp Phòng kế toán Phòng vật tư Phòng k.tế-k.thuật đội mộc đội đIện nước đội sắt thép đội nề đội… pgđ hành chính pgđ thi công Sơ đồ 3: Tổ chức bộ máy quản lý ở các xí nhgiệp. 2.2. Tính chất và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty: Khi mới thành lập, công ty xây dựng số 1 có nhiệm vụ chủ yếu là tham gia hoạt động xây dựng các công trình dân dụng: nhà ở, cơ sở hạ tầng hoặc được chỉ định xây dựng một số công trình phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế như xây dựng khu nhà lắp ghép tấm lớn Thanh Xuân-Hà Nội, khu công nghiệp Mộc Châu- Sơn La, nhà máy xi măng Xuân Mai, nhà máy thuỷ điện Hoà Bình…và một số công trình khác theo kế hoạch chỉ đạo của Bộ xây dựng và Nhà nước. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và được sáp nhập vào Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam-VINACONEX, công ty đã mở rộng phạm vi lĩnh vực hoạt động, mở rộng phạm vi thị trường, nâng cao năng lực thi công với sự đầu tư máy móc, thiết bị tương đối hiện đại và đồng bộ. Hiện nay, các lĩnh vực hoạt động chính của công ty được xác định là: Xây dựng các công trình công nghiệp, công cộng, nhà ở và xây dựng khác. Trang trí nội thất, sân vườn. Sản xuất vật liệu xây dựng thoát nước, cấu kiện bê tông. Sản xuất ống cấp thoát nước, phụ tùng, phụ kiện. Kinh doanh nhà ở. Kinh doanh vật liệu xây dựng. Xây dựng đường bộ tới cấp III; cầu, cảng, sân bay loại vừa và nhỏ. Xây dựng kênh, mương, đê, kè, trạm bơm thuỷ lợi loại vừa và nhỏ; các công trình hạ tầng đô thị và khu công nghiệp. Xây dựng các công trình xử lý chất thải loại vừa và nhỏ. Do nắm bắt tốt nhu cầu xây dựng của xã hội, cùng với sự đầu tư, hiện đại hoá máy móc, thiết bị, không ngừng nâng cao tay nghề của đội ngũ kỹ sư và công nhân kỹ thuật cùng với sự không ngừng tích cực tìm kiếm mở rộng thị trường, công ty đã tham gia đấu ._. 20 triệu đồng khi thực hiện biện pháp này nhưng hiệu quả mang lại từ việc giảm thời gian gián đoạn thi công các công trình có thể lên đến hèng trăm triệu thậm chí cả tỷ đồng, củng cố thêm uy tín cho công ty... 2. Biện pháp 2: Nâng cao hệ số thời gian làm việc của máy móc, thiết bị: 2.1. Cơ sở lý luận: Khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong quá trình sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có thời gian hoạt động của máy móc, thiết bị. Khối lượng sản phẩm tạo ra tỷ lệ thuận với thời gian máy hoạt động. Do đó sử dụng tốt thời gian làm việc của máy có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Hệ số này còn phản ánh trình độ sử dụng máy móc, thiết bị của mỗi Doanh nghiệp. Thông qua đó ta có thể thấy được khả năng huy động công suất máy cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Hệ số thời gian làm việc của máy móc, thiết bị bao gồm hai loại. Một là hệ số thời gian theo chế độ, được đo bằng thời gian làm việc thực tế (bao gồm cả thời gian chuẩn bị cho máy làm việc) chia cho thời gian làm việc theo chế độ của máy móc, thiết bị (là thời gian theo chế độ quy định). Loại hệ số này cho biết tình hình sử dụng thời gian máy theo chế độ. Thường thì có sự khác nhau về giá trị của hệ số này trong các ngành khác nhau, trong ngành xây dựng luôn thấp hơn trong các ngành sản xuất khác, đồng thời cũng có sự khác nhau giữa các loại máy móc, thiết bị trong cùng ngành xây dựng. Thứ hai là hệ số sử dụng thời gian làm việc thực tế, được đo bằng thời gian làm việc có ích của máy móc, thiết bị chia cho thời gian làm việc thực tế. Hệ số này phản ánh trình độ sử dụng thời gian thực tế của máy móc, thiết bị bằng việc tạo ra những chính phẩm. Trong các Doanh nghiệp, nếu hệ số này càng cao, thể hiện trình độ sử dụng máy móc, thiết bị về mặt thời gian sẽ càng cao. Hai loại hệ số này có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp. 2.2.Cơ sở thực tiễn: Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, tình hình sử dụng máy móc, thiết bị về mặt thời gian ở Công ty là chưa cao, nhất là hệ số sử dụng thời gian chế độ. Nguyên nhân của vấn đề một phần do yếu tố khách quan, trong ngành xây dựng cũng có những khó khăn chung, tuy nhiên một phần tồn tại xuất phát từ phía Công ty. Trong năm 2001, hệ số sử dụng thời gian chế độ máy móc, thiết bị của Công ty đạt mức chung là 0,25, trong số đó cũng có những loại máy móc, thiết bị có hệ số này tương đối cao, như: ôtô tự đổ (Hcđ=0,56), ôtô vận tải thường (Hcđ=0,575) nhưng những loại máy móc, thiết bị có tính chuyên dụng cao thì hệ số này đạt rất thấp như: xe tải chuyên dụng (Hcđ=0,178), máy đóng cọc (Hcđ=0,165), lý do là các máy này chỉ được dùng trong rất ít loại công trình hoặc chỉ trong một công đoạn nào đó của quá trình thi công công trình. Vì lẽ đó, việc nâng cao hơn nữa các hệ số này là một yêu cầu đặt ra cho Công ty. Tuy nhiên đó là một bài toán khó, không dễ gì đi tìm lời giải cho Công ty xây dựng số1 nói riêng cũng như cho các Công ty khác trong toàn ngành xây dựng nói chung. Do tầm quan trọng của vấn đề, em xin đưa ra vài hướng nhằm nâng cao hơn nữa các hệ số này như sau: 2.3.Phương thức tiến hành: Thực tế trong thời gian qua, các hệ số này chưa cao là do máy móc, thiết bị của Công ty chưa có đủ việc làm. Đây là yếu tố chịu nhiều ràng buộc như: khả năng vốn, đội ngũ lao động, nhu cầu xây dựng…nhưng khả năng tăng cao hơn nữa các hệ số này trên thực tế là vẫn có thể thực hiện được. Để thực hiện được điều này, phương án quan trọng và có khả năng nhất là làm tốt hơn nữa khả năng tiếp thị, mở rộng thị trường của Công ty mặc dù việc đầu tư lớn cho nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty là một tất yếu. Nhưng việc mở rộng thị trường sẽ tạo ra nhiều hơn khối lượng công việc, Công ty sẽ có điều kiện phát huy hết công suất máy máy móc, thiết bị. Như trên đã nói, hiện nay thị trường của Công ty chủ yếu tập trung ở khu vực miền Bắc mà thị phần chủ yếu là các tỉnh, thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng…), những nơi có nhu cầu xây dựng lớn nhưng lại phải đương đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh hơn Công ty. điều này ảnh hưởng nhiều tới khả năng trúng những gói thầu lớn. Vì vậy, Công ty vẫn nên coi nhiệm vụ mở rộng thị trường xuống phía Nam và các vùng lân cận là nhiệm vụ quan trọng. Bên cạnh những nhiệm vụ trên, việc mở rộng thị trường thuê máy móc, thiết bị cũng là một giải pháp hiệu quả để tận dụng công suất máy móc, thiết bị, hạn chế việc thừa công suất một cách lãng phí. Hiện Công ty chỉ mới huy động một phần nhỏ công suất máy cho các nhu cầu xây dựng của các xí nghiệp thuộc Công ty (khoảng 22% thời gian định mức), việc cho thuê máy hiện nay cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ công suất máy. Do đó đi đôi với việc mở rộng thị trường xây dựng của Công ty, việc mở rộng thị trường thuê máy của Công ty cũng sẽ góp một phần không nhỏ trong nâng cao hệ số sử dụng máy móc, thiết bị. Một giải pháp được đề cập ở phần trước cũng là một giải pháp hữu hiệu cho việc nâng cao hơn nữa hệ số này, đó là bố trí lại hợp lý máy móc, thiết bị. Nó sẽ tạo điều kiện sử dụng máy một cách đều đặn, tránh tình trạng có lúc không huy động đủ công suất máy, có lúc lại thiếu việc cho máy, ảnh hưởng tới thời gian hoạt động có ích của máy móc, thiết bị. 2.4.Dự kiến hiệu quả mang lại: Đây tuy là một biện pháp không hề rễ ràng đối với bất cứ Công ty nào nhưng nó là một giải pháp tất yếu nếu Công ty muốn tồn tại và phát triển. Nếu làm tốt công tác này, hiệu quả mang lại sẽ bao trùm lên toàn bộ mục tiêu chung của Công ty, bởi lẽ máy móc, thiết bị là một lực lượng sản xuất quan trọng và chủ yếu của Công ty. Các hệ số sử dụng máy móc, thiết bị cao sẽ gián tiếp phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn vốn cố định của Công ty. Hiện nay, bình quân số ngày làm việc chung của máy móc, thiết bị của Công ty mới chỉ đạt khoảng 20 đến 23 ngày/tháng, hệ số sử dụng thời gian thực tế của máy móc, thiết bị là 0,88, nếu biện pháp này được thực hiện sẽ có khả năng mở rộng quy mô khối lượng công việc, nâng số ngày làm việc của máy lên 25 đến 27 ngày/tháng, đồng thời giảm thời gian máy hoạt động không tải, nâng hệ số thực tế lên trên 0,9. Các con số này sẽ có ảnh hưởng tích cực đến số doanh thu của Công ty. 3.Biện pháp 3: Hoàn thiện công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng theo kế hoạch: Có thể nói công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng theo kế hoạch ở Công ty xây dựng số 1 là một thế mạnh trong những năm trở lại đây. Tuy nhiên, do tầm quan trọng to lớn của nó đối với những Doanh nghiệp xây dựng nên em xin đưa ra một vài ý kiến hoàn thiện hơn nữa công tác này ở Công ty xây dựng số 1. 3.1.Cơ sở lý luận: Chế độ sửa chữa dự phòng theo kế hoạch là tổng hợp các biện pháp kỹ thuật, tổ chức, phục vụ bảo dưỡng, kiểm tra và sửa chữa. Những biện pháp đó được tiến hành theo kế hoạch nhằm giảm hao mòn, ngăn ngừa sự cố, đảm bảo sự hoạt động bình thường của máy móc, thiết bị. Máy móc, thiết bị chiếm vị trí quan trọng trong tổng năng lực sản xuất của Doanh nghiệp, ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm đầu ra, đến yêu cầu của việc tổ chức cân đối, tính nhịp nhàng và tính liên tục. Xét về mặt vốn cố định, giá trị của máy móc, thiết bị chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn cố định của Doanh nghiệp. Công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng theo kế hoạch góp phần làm giảm hao mòn vô hình, kéo dài tuổi thọ của máy móc, thiết bị khi Doanh nghiệp chưa có điều kiện đầu tư mua sắm mới. Vì vậy làm tốt công tác này chính là góp phần chung vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh của Công ty. Mỗi máy móc, thiết bị đôi khi là những mắt xích quan trọng, nhất là các dây chuyền sản xuất hiện đại, tính chuyên môn hoá cao, nếu một bộ phận máy móc, thiết bị hỏng sẽ kéo theo sự ngừng trệ của cả dây chuyền sản xuất và cả quá trình sản xuất. Việc bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ theo kế hoạch thường không gây ảnh hưởng tới lịch trình sản xuất bởi vì công việc này đã được xác định từ trước, nội dung bảo dưỡng, sửa chữa cũng đã được lên kế hoạch từ trước. Do đó sẽ giảm tối đa việc ngừng máy có ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Công tác này cũng bao gồm việc kiểm tra trường xuyên, do đó cũng phát hiện một cách kịp thời những sai hỏng nhỏ nhất, tiến hành sửa chữa tại chỗ, tránh tình trạng phát sinh thành những hỏng hóc lớn, phải di chuyển, sửa chữa lớn vì ngừng máy cũng như chi phí cho sửa chữa, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh chung của Công ty. 3.2.Cơ sở thực tiễn: Mặc dù công tác bảo dưỡng, sửa chữa đã được xây dựng thành bản quy chế nội bộ, phổ biến rộng rãi trong toàn thể Công ty và mang lại nhiều kết quả tốt nhưng do việc điều chuyển máy móc, thiết bị mang nhiều tính đột xuất, kế hoạch chưa thực sự rõ ràng nên việc kiểm tra tình trạng kỹ thuật máy móc, thiết bị tại chỗ, công tác bảo dưỡng tại chỗ của Công ty chưa thực sự được tiến hành như kế hoạch đã đề ra. Do đó số máy móc, thiết bị được tiến hành sửa chữa lớn và vừa của Công ty vẫn ở mức cao. Hàng năm việc sửa chữa lớn và vừa của Công ty cũng đã lên tới hàng chục lượt, chi phí cho loại sửa chữa này có khi lên tới hàng trăm triệu đồng, gây lãng phí không nhỏ về sức người, sức của cho Công ty. Cũng trong thời gian qua, do việc bố trí máy móc, thiết bị chưa thực sự hợp lý nên việc điều chuyển qua lại nhiều lần máy móc, thiết bị giữa các xí nghiệp đã có ảnh hưởng nhiều tới chất lượng máy móc, thiết bị, công tác bảo dưỡng, sửa chữa tại chỗ chưa được các xí nghiệp phát huy hết tinh thần trách nhiệm của mình, việc báo cáo định kỳ về tình trạng máy móc, thiết bị cho Công ty chưa được tuân thủ theo đúng quy chế. Vì vậy việc nắm tình hình ở cấp Công ty là chưa sát thực tế, các kế hoạch về nhu cầu, nội dung sửa chữa, công tác chuẩn bị nhân công, kỹ thuật cho sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiều trường hợp phát sinh ngoài dự kiến đã xảy ra. Do vậy công tác này ở Công ty xây dựng số 1 cần phải được tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới. 3.3.Phương thức tiến hành: Để khắc phục những hạn chế nêu trên, trong thời gian tới, Công ty nên thực hiện theo các nội dung sau: Tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các bộ phận có liên quan. Như phần trên đã đề cập, Công ty nên áp dụng chế độ thuê và cho thuê máy móc, thiết bị đối với các xí nghiệp trên cơ sở hạch toán độc lập chi phí ca máy đồng thời áp dụng nghiêm ngặt chế độ thưởng phạt đối với các đơn vị và cá nhân có liên quan. Các xí nghiệp này phải tuân thủ nguyên tắc chế độ lập biên bản về tình trạng máy móc, thiết bị trước khi nhận bàn giao và trạng thái kỹ thuật định kỳ trong thời gian sử dụng máy đồng thời nếu trong thời gian đó diễn ra việc sửa chữa, bảo dưỡng theo kế hoạch đã xác định, xí nghiệp phải có trách nhiệm tiến hành cùng với các nhân viên kỹ thuật chuyên môn của xí nghiệp cơ giới và Công ty. Tình trạng kỹ thuật máy cũng phải được lập biên bản và lưu lại trong hồ sơ kỹ thuật khi điều chuyển máy đi. Tăng cường công tác chuẩn bị trước khi sửa chữa: chuẩn bị về thiết kế, về công nghệ, về máy móc, thiết bị cho việc sửa chữa. Việc chuẩn bị chỉ đạt hiệu quả cao khi nắm rõ hồ sơ kỹ thuật của máy móc, thiết bị. Ngược lại, công tác chuẩn bị tốt sẽ đảm bảo quá trình bảo dưỡng, sửa chữa diễn ra đúng kế hoạch, nhanh chóng đưa máy móc, thiết bị trở lại sản xuất. Thực hiện phương pháp sửa chữa nhanh: cố gắng bố trí thời gian sửa chữa nằm ngoài thời gian sản xuất, áp dụng phương pháp sửa chữa tiên tiến như: thay cả bộ phận, cả cụm máy cũ cần sửa chữa bằng cả bộ phận, cả cụm máy mới. Như vậy vẫn có thể đảm bảo trong thời gian sửa chữa, máy vẫn có thể hoạt động bình thường. áp dụng phương pháp sửa chữa xen kẽ: trong cùng một lúc có thể tiến hành sửa chữa nhiều loại máy móc, thiết bị nhưng đảm bảo vẫn có loại máy móc, thiết bị đó đang hoạt động. Theo cách này, sẽ không làm gián đoạn việc thi công công trình vì thiếu chủng loại máy móc, thiết bị, cho phép quá trình hoạt động vẫn được tiến hành bình thường, liên tục. 3.4. Hiệu quả dự kiến: Nhờ phân cấp rõ ràng đối với từng loại sửa chữa, bảo dưỡng sẽ phát hiện kịp thời sự cố. Những sửa chữa tại chỗ sẽ làm giảm hỏng hóc lớn, dẫn đến phải đại tu, gây nhiều lãng phí. Tăng cường hơn nữa công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết bị sẽ có tác dụng kéo dài tuổi thọ, tăng cường khả năng đóng góp của máy móc, thiết bị, giảm hao mòn vô hình, góp phần vào việc sử dụng vốn có hiệu quả. Nó cũng tăng cường tính liên tục trong quá trình thi công các công trình, đảm bảo việc thi công, bàn giao công trình đúng tiến độ. Ta có thể dự kiến kết quả mang lại do việc thực hiện biện pháp này mang lại qua bảng sau: Biểu 18: Tình hình sửa chữa đột xuất máy móc thiết bị và hiệu quả dự kiến sau khi thực hiện biện pháp. SốTT Nội dung Sửa chữa đột xuất 2001 Hiệu quả dự kiến SC vừa-nhỏ (lượt) SC lớn (lượt) Tổng CP (1000đ) SC vừa-nhỏ (lượt) SC lớn (lượt) Tổng CP (1000đ) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cơ quan Cty. XNXD số 1. XNXD số 2. XNXD số 3. XNXD số 4. XNXD số 5. XN cơ giới. Đội XD 102. Đội XD 104. Đội XD 105. Đội XD 108. Đội điện nước. 14 2 3 2 3 1 32 2 3 1 2 3 2 0 0 1 0 1 18 0 0 0 1 0 45.450 1.800 2.100 12.500 2.700 8.600 97.600 2.200 3.150 1.700 7.800 3.700 17 1 1 2 2 2 35 0 1 0 1 1 1 0 0 0 0 0 12 0 0 0 0 0 30.000 1.000 1.000 600 2.000 3.000 63.000 0 1.000 0 1.000 1.000 Cộng: 68 23 189.300 53 13 108.000 Tuy việc thực hiện giải pháp này chỉ làm giảm 80 triệu cho chi phí sửa chữa đột xuất nhưng sẽ có tác dụng lớn trong việc hạn chế tối đa thời gian ngừng máy để sửa chữa, tăng khả năng hoạt động liên tục của máy, đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình... 4.Biện pháp 4: Tiếp tục đầu tư cải tiến, nâng cao năng lực của máy móc, thiết bị : Trước sự đòi hỏi ngày cang cao của thị trường xây dựng , công tác đầu tư cải tiến, mua sắm mới, thay thế máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu là đòi hỏi thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao năng lực thi công các công trình của công ty. Công ty xây dựng số 1 cũng không nằm ngoài những đòi hỏi đó. 4.1.Cơ sở lý luận: Máy móc, thiết bị là tư liệu lao động quan trọng, là cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi Doanh nghiệp. Nó thể hiện năng lực sản xuất, quyết định đến chủng loại sản phẩm đầu ra và quy mô kinh doanh của Doanh nghiệp. Do vậy trong các Doanh nghiệp sản xuất và xây dựng, trước mỗi quá trình sản xuất việc đầu tư, trang bị máy móc, thiết bị là một đòi hỏi trước tiên. Việc sử dụng các loại máy móc, thiết bị lại bị hao mòn dần theo thời gian, bao gồm cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Trong quá trình sản xuất, qua mỗi chu kỳ, một phần giá trị của máy móc, thiết bị đã chuyển dần vào giá trị của sản phẩm, và giá trị này sẽ chuyển hết khi máy móc, thiết bị được khấu hao hết. Bên cạnh đó với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật đã làm cho máy móc, thiết bị ngày càng nhanh chóng lạc hậu, mất dần những ưu thế của các giá trị vô hình trong máy móc, thiết bị. Mặc dù do đặc thù của ngành xây dựng, việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất gặp nhiều khó khăn hơn so với cấc ngành khác nhưng không phải ở tất cả các khâu. Có những công đoạn chủ yếu đòi hỏi lao động thủ công chân tay nhưng cũng có những loại công việc chỉ có máy móc, thiết bị mới có thể đảm nhận hoặc thực hiện với năng suất cao hơn rất nhiều. Do đó khi áp dụng tiến bộ mới trong các khâu này sẽ làm tăng năng suất chung của cả Công ty. 4.2.Cơ sở thực tiễn: Thực tế ở Công ty xây dựng số 1 cho thấy, việc đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị là một hướng đi đúng. Trong những năm qua Công ty luôn chú trọng công tác này nhưng như ta đã thấy, mặc dù hệ số đổi mới máy móc, thiết bị là tương đối cao nhưng tỷ trọng máy móc, thiết bị hiện đại trong đó vẫn còn hết sức khiêm tốn. Hầu hết máy móc, thiết bị có giá trị lớn đều là những máy móc, thiết bị đã qua sử dụng hoặc máy “bãi”. Điều này đã gây một số khó khăn trong công tác tính khấu hao của công ty và chưa có đóng góp thực sự nhiều cho công tác hiện đại hoá máy móc, thiết bị, cho trình độ công nghệ chung của Công ty. Mặt khác, sự phát triển chung của ngành kinh tế cũng đang tạo ra những khó khăn cũng như thuận lợi nhất định cho Công ty. Những khó khăn đến từ việc nhu cầ xây dựng ngày càng gia tăng, đòi hỏi Công ty muốn thắng thầu những công trình lớn phải tiếp tục đầu tư, hiện đại hoá năng lực của máy móc, thiết bị. Công việc này đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Tuy nhiên cũng có những thuận lợi do việc mở cửa nền kinh tế mang lại, nhu cầu lớn sẽ cho phép Công ty phát huy hết nguồn lực vốn có; việc chuyển giao công nghệ được tiến hành dễ dàng hơn. Ngoài ra, những thách thức từ phía các đối thủ cạnh tranh trong ngành xây dựng cũng đang đặt ra những yêu cầu bức thiết phải tiếp tục đầu tư, cải tiến năng lực máy móc, thiết bị hiện tại của Công ty. Trên địa bàn Hà Nội, thị trường truyền thống bấy lâu nay của Công ty, đang có những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn Công ty rất nhiều. Những Công ty này có truyền thống rất lâu đời, với trang bị hiện đại. Do đó, để đứng vững trong thị trường truyền thống, phát triển những thị trường mới, không có cách nào khác là Công ty phải không ngừng nâng cao năng lực thi công của mình. 4.3. Phương thức tiến hành: Để có thể tiếp tục đầu tư, cải tiến năng lực của máy móc, thiết bị, theo em, Công ty cần phải làm những công việc sau đây: Công việc trước tiên Công ty phải làm là tiến hành phân loại máy móc, thiết bị. Công vệc này có thể dựa trên một cuộc tổng điều tra trong quy mô toàn Công ty nhằm xác định lại một cách chính xác số lượng máy móc, thiết bị hiện có, năng lực thực tế ra sao, trình độ công nghệ đang ở mức nào so với các đối thủ cạnh tranh cũng như so với tốc độ phát triển của ngành mình. Việc phân loại máy móc, thiết bị có thể được tiến hành theo hai cách: phân loại theo chủng loại và phân loại theo công nghệ. Việc phân loại theo chủng loại cho phép xác định được chủng loại máy móc, thiết bị hiện có của Công ty, qua đó đánh giá được tính hợp lý trong cơ cấu để có kế hoạch đầu tư đúng. Phân loại theo trình độ công nghệ cho phép Công ty đánh giá năng lực thực tế của máy móc, thiết bị công ty mình, qua đó có thể so sánh tương quan với các đơn vị khác trong ngành. Dựa trên các số liệu thống kê về tình hình sử dụng máy móc, thiết bị trong thời gian qua để từ đó cân đối lại nhu cầu về máy móc, thiết bị, đánh giá tình hình thừa, thiếu, tình hình lãng phí công suất máy. Để xác định nhu cầu máy móc, thiết bị cho tương lai tới, Công ty cần dựa trên cơ sở nhiệm vụ kế hoạch trung và dài hạn của Công ty nhằm đầu tư đúng phương hướng. Kết quả của công việc này cho phép Công ty đưa ra một cách chính xác nhu cầu về máy móc, thiết bị. Đồng thời trên cơ sở máy móc, thiết bị hiện có sẽ cho phép hoạch định đúng nhu cầu đầu tư, cải tiến năng lực máy móc, thiết bị, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải mà hiệu quả mang lại không cao. Việc xác định sẽ mua máy móc, thiết bị của ai, bằng phương thức nào là việc làm cũng không kém phần quan trọng. Công ty nên ưu tiên lựa chọn mua máy móc, thiết bị của những nước có truyền thống, có uy tín trong sản xuất loại thiết bị công ty đang có nhu cầu và đã được sử dụng rộng rãi trong các đơn vị khác trong ngành cũng như coi trọng các trào hàng đến từ các nước đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ mới vào sản xuất như Mỹ,Nhật, Pháp, Đức… Các Doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc tạo nguồn vốn tài trợ cho kế hoạch đầu tư mới cho máy móc, thiết bị. Nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi là nguồn vốn quan trọng của Công ty nhưng lại chưa đủ lớn để có thể tài trợ cho kế hoạch đổi mới máy móc, thiết bị. Vì vậy nguồn vốn vay ngân hàng dài hạn, nguồn tự tài trợ sẽ là những nguồn quan trọng nhất mà Công ty nên tập trung khai thác. Với nguồn nội bộ, Công ty có thể khai thác từ nguồn quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao máy móc, thiết bị. Đặc biệt với những loại máy móc, thiết bị đã cũ, lạc hậu Công ty nên tiến hành khấu hao nhanh, thanh lý nhằm nhanh chóng thu hồi vốn đưa vào nguồn vốn tài trợ cho kế hoạch đầu tư cải tiến máy móc, thiết bị. Sau khi máy móc, thiết bị được đầu tư, mua sắm mới việc quan trọng tiếp theo là nhanh chóng đưa chúng vào khai thác, sử dụng, nhằm mau chóng khấu hao, tận dụng tối đa sự đóng góp của máy . 4.4. Dự kiến kết quả mang lại: Sự đầu tư máy móc, thiết bị đúng hướng sẽ tạo ra cho Công ty có một cơ cấu máy móc, thiết bị hợp lý, tránh tình trạng việc thừa công suất loại máy này nhưng lại thiếu công suất loại máy kia. Sự đầu tư đúng hướng sẽ làm giảm đáng kể hao mòn vô hình máy móc, thiết bị, việc khấu hao máy được hợp lý hơn, có điều kiện giảm giá thành xây dựng của Công ty. Máy móc, thiết bị tốt là một điều kiện quan trọng đảm bảo khả năng thắng thầu các công trình quy mô lớn; đảm bảo tiến độ thi công công trình, tiết kiệm sức người, sức của, thời gian và góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Trong thời gian tới, công ty nên đầu tư thêm một số loại máy mà hiện nay các loại máy này có với số lượng ít, chưa đủ đảm bảo đáp ứng nhu cầu của công ty. Theo em, công ty nên đầu tư một số loại máy sau cũng như một số kết quả mang lại như trong bảng sau: Bảng 19: Một số loại máy móc thiết bị cần đầu tư và hiệu quả mang lại. Số TT Loại máy cần đầu tư Số lượng Đ/chuyển khi đầu tư (lượt) CP điều chuyển Chi phí (1000đ) Tăng/giảm (1000đ) 1 2 3 4 5 6 7 Máy ủi. ô tô tự đổ. ô tô vận tải thường. Xe tải chuyên dụng Xe bơm bê tông. Máy khoan cọc nhồi. Máy xoa mặt bê tông. 2 3 3 1 1 1 1 10 (-5) 25 (-9) 25 (-9) 6 (-5) 15 (-6) 7 (-5) 15 (-6) 2.100 2.200 2.250 900 1.700 7.500 1.900 -1.105 -1.055 -1.050 -823 -800 -6.450 -950 Cộng: 12 103 (-55) 18.000 -12.233 (Các số âm trong ngoặc thể hiện số lượt điều chuyển máy được giảm xuống khi biện pháp này được thực hiện). 5.Biện pháp 5: Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ người cán bộ quản lý và người công nhân vận hành máy. 5.1.Cơ sở lý luận: Trong các tư liệu lao động thì máy móc, thiết bị được chế tạo gồm nhiều bộ phận phức tạp và không phải lúc nào con người cũng sử dụng một cách thành thạo và sử dụng hết các tính năng tác dụng của nó. Máy móc, thiết bị có nhiệm vụ chuyền dẫn sự tác động của con người vào đối tượng lao động, làm thay đổi hình thái tự nhiên của nó để biến chúng thành những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do vậy giữa con người và máy móc, thiết bị có mối quan hệ qua lại nhất định với nhau. Con người chế tạo ra máy móc, thiết bị, làm chủ máy móc và tiêu thụ sản phẩm do chúng tạo ra. Máy móc, thiết bị chỉ có thể tạo ra được những sản phẩm có chất lượng khi chúng được điều khiển bởi con người hiểu biết, có trình độ. Mặt khác, khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng với trình độ ngày càng cao, làm cho máy móc, thiết bị ngày càng tinh vi hiện đại hơn và khó khăn hơn trong việc nắm bắt được cách thức vận hành chúng, buộc con người phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề của mình. Vì vậy vấn đề đào tạo nâng cao trình độ quản lý cho người cán bộ và nâng cao kỹ năng vận hành máy cho người công nhân trực tiếp sản xuất có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty. 5.2.Cơ sở thực tiễn: Mặc dù với kinh nghiệm 30 năm trưởng thành và phát triển, nhưng do nền kinh tế vẫn chưa thực sự vận hành theo quỹ đạo của nền kinh tế thị trường, nhiều tư tương, lề lối làm việc của của một nền kinh tế chậm phát triển còn “ngự trị” trong tâm tưởng của một số cán bộ quản lý, chưa thực sự lấy thước đo hiệu quả làm thước đo cho mọi công việc. Do đó vẫn còn nhiều bất cập trong trong công tác quản. Việc đào tạo một lớp người quản lý mới, đào tạo nguồn nhân lực nhất là đội ngũ lao động kỹ thuật của Công ty vẫn chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả đào tạo chưa cao. Trong cơ chế thị trường, chất lượng và tiến độ thi công các công trình là yếu tố quyết địng tới sự sống còn của Công ty. Máy móc, thiết bị dù có hiện đại đến đâu chăng nữa vẫn cần có sự tác động của con người. Trong những năm qua đã có nhiều lượt cán bộ được đào tạo, đào tạo lại nhưng phần nhiều trong số họ vẫn chưa qua các lớp đào tạo chính quy, cơ bản; việc đào tạo chỉ được tiến hành khi có nhu cầu chứ chưa mang tính chiến lược. Nếu việc đầu tư, hiện đại hóa máy móc, thiết bị diễn ra nhanh chóng thì với đội ngũ lao động hiện tại là chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới. 5.3.Phương thức tiến hành: Đối với công nhân vận hành máy: với những người trong danh sách biên chế, họ là những người gắn bó lâu dài với Công ty vì vậy cần quan tâm trước hết đến họ. Tổ chức các khoá học ngắn hoặc trung hạn nhằm đào tạo, đào tạo lại với mục đích trang bị thêm kiến thức lý thuyết, nâng cao hơn nữa tay nghề của họ, không nên trao máy cho những người mà yêu cầu đòi hỏi vượt khỏi khả năng, trình độ thực của người công nhân… Đối với những công nhân được thuê theo hợp đồng mùa vụ, tại địa bàn thi công công trình cần cho họ tham gia các khoá tập huấn ngắn về quy trình vận hành máy, có sự giám sát của cán bộ kỹ thuật. Với cán bộ kỹ thuật cơ giới: họ là những bác sĩ của máy móc, thiết bị. Hiện công ty có đội ngũ kỹ sư cơ khí chưa đủ mạnh để có thể giám sát toàn bộ máy móc, thiết bị của Công ty. Phương hướng trong thời gian tới Công ty có thể tuyển dụng thêm đội ngũ kỹ sư cơ khí; cử cán bộ đi học tại chức đồng thời quan tâm đến công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ kỹ sư hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ đổi mới. Chính họ sẽ là những người thầy phục vụ cho công tác bồi dưỡng kỹ thuật trong công ty. Đối với cán bộ quản lý: cán bộ quản lý phải là người có hiểu biết về khoa học kỹ thuật. Ngoài ra, họ phải am hiểu về kinh tế nhằm quản lý một cách có hiệu quả nhất việc sử dụng máy móc, thiết bị. Do vậy công tác tuyển dụng đầu vào phải đảm bảo các yếu tố này. Bên cạnh đó cần bồi dưỡng kiến thức quản lý, kinh tế cho tất cả đội ngũ kỹ sư trong Công ty, cho các cán bộ kỹ thuật thuộc các phòng, ban, đội kỹ thuật nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị trong Công ty. 5.4.Dự kiến kết quả mang lại: Nhân tố con người là nhân tố trung tâm nhất, quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định tới sự thành bại trong kinh doanh của Công ty. Với những biện pháp trên, Công ty sẽ củng cố thêm cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên của Công ty, tạo ra một đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, một cơ cấu lao động hợp lý cho phép phát huy cao độ nội lực của mình, có trình độ quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị, khai thác tối đa năng lực của máy móc, thiết bị. Chính đội ngũ lao động này sẽ tối đa hoá doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Phấn đấu đến năm 2005, 100% công nhân vận hành máy đều đạt trình độ bậc thợ từ bậc 5 trở lên và đều qua các trường đào tạo chuyên ngành. Việc thực hiện tốt biện pháp này sẽ cho những kết quả dự kiến như bảng sau: Biểu 20: Số lượng kỹ sư và CN cơ khí bậc cao hiện tại, phương hướng bổ sung và hiệu quả dự kiến. Số TT Nội dung Năm 2001 Phương hướng KS CN Mức đảm nhiệm CV(%) KS CN Mức đảm nhiệm CV(%) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cơ quan Cty. XNXD số 1. XNXD số 2. XNXD số 3. XNXD số 4. XNXD số 5. XN cơ giới. Đội XD 102. Đội XD 104. Đội XD 106. Đội XD 108. Đội điện nước. 4 0 0 2 0 0 9 0 1 0 2 1 9 5 4 6 4 4 25 5 5 5 7 6 100 95 93 100 95 93 97 95 100 95 100 99 4 _ _ 2 _ 1 11 _ 1 _ 2 2 9 7 6 6 6 7 28 6 5 7 7 7 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Cộng: 19 85 23 101 * * * kết luận Các ngành công nghiệp sản xuất vật chất là nguồn gốc của sự giàu có trong xã hội. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sự phát triển của sản xuất đã tạo ra các cuộc cách mạng xã hội, đánh dấu là sự ra đời của các phương thức sản xuất, các chế độ xã hội mà các chế độ xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chế độ xã hội trước. Các chế độ xã hội này, khẳng định ưu thế của mình bằng năng suất vượt trội hơn các xã hội trước. Ngày nay, máy móc, thiết bị đã trở thành một lực lượng sản xuất chủ yếu nhất trong các Doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng. Do đó việc tăng cường công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị là một yêu cầu bức thiết đối với các Doanh nghiệp này. Trước những đòi hỏi cấp bách và sự thay đổi nhanh chóng của thị trường xây dựng, Công ty xây dựng số 1 luôn ý thức được rằng, muốn đứng vững và phát triển trên thị trường, cần phải có thực lực về con người và máy móc, thiết bị. Bởi vậy từ khi mới thành lập đến nay, Công ty luôn quan tâm đề công tác phát triển năng lực thi công. Công ty đã có nhiều cố gắng trong đầu tư mua sắm, hiện đại hoá công tác thi công các công trình, làm tốt công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị, đảm bảo cho hoạt động sản xuất được nhịp nhàng, liên tục và đạt hiệu quả cao. Nhưng do mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, quy mô sản xuất kinh doanh chưa thực sự lớn nên hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cũng như trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị của Công ty vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn và cần dược hoàn thiện hơn nữa trong thời gian tới. Từ những vấn đề đó, từ tập thể ban lãnh đạo cho đến toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty đều thấy được việc tăng cường hơn nữa cho công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị sẽ là một động lực quan trọng góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty, quản lý tốt máy móc, thiết bị cũng đồng nghĩa với việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của Công ty. Đề tài này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu nghiêm túc, khoa học nhằm đưa ra một số giải pháp cho việc giải quyết một số vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng máy móc, thiết bị trong công ty. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp, trường ĐHKTQD. 2. Giáo trình Kinh tế và tổ chức sản xuất, trường ĐHKTQD. 3. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp , trường ĐHKTQD 4. Giáo trình Kinh tế xây dựng, trường ĐHKTQD. 5. Giáo trình Quản trị sản xuất và tác nghiệp, ĐHKTQD. 6. Giáo trình Phân tích kinh doanh, ĐHKTQD. 7. Giáo trình Thống kê doanh nghiệp, ĐHKTQD 8. C.Mac, Tư bản, tập 1, quyển I. 9. Tạp chí xây dựng, các số: 5, 7/2000; 5, 6/2001. 10. Tạp chí công nghiệp, các số: 7, 9, 10/2001. 11. Báo cáo tổng kết, báo cáo tài chính... các năm 1998,1999,2000,2001 và kế hoạch năm 2002, Công ty Xây dựng số 1. 12. Quy chế quản lý và sử dụng máy móc thiết bị, Tổng công ty VINACONEX 13. Các tài liệu tham khảo khác... Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29808.doc