Lời nói đầu
Nền kinh tế thị trường trong những năm gần đây đang diễn ra một sự thay đổi lớn lao trên các mặt sản xuất, kinh doanh dịch vụ cho tới cả văn hoá xã hội. Điều khởi nguyên và cốt yếu của quá trình này là nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng ở mức độ cao của con người. Những nhu cầu này không chỉ dừng lại ở sự đòi hỏi về mặt lượng, sự nâng cao về mặt chất mà còn đòi hỏi được đáp ứng về mặt tinh thần. Thêm vào đó, các nhu cầu này luôn luôn thay đổi cùng với t
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm phát triển đa dạng hoá sản phẩm tại Nhà máy chế tạo thiết bị & kết cấu thép, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời gian, cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Trên góc độ đó, đa dạng hoá sản phẩm trở thành một xu thế phát triển tất yếu, là một nhân tố mang lại sự thắng lợi trong cạnh tranh cũng như trong việc chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Việt nam là một nnước đang ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường, một môi trường kinh doanh bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp mà tiêu chí cuối cùng là cạnh tranh để tồn tại, phát triển và đưa đất nước tiến lên, do đó đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết và có ý nghĩa đặ biệt quan trọng hơn bao giờ hết.
Nhận thức được tầm quan trọng và vai trò quyết định của đa dạng hoá sản phẩm đối với sự sống còn của doanh nghiệp, thời gian qua nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ Xây dựng đã tận dụng tối đa năng lực máy móc thiết bị, khai thác triệt để tiềm năng trí tuệ của nhà máy để thực hiện phương án đa dạng hoá sản phẩm . Đây là một sự lựa chọn sáng suốt và đúng đắn của nhà máy, tuy nhiên trong quan trọng thực hiện vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định.
Trong thời gian thực tập tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép, nhận thấy việc đa dạng hoá sản phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty trong cơ chế mới, em đã mạnh dạn lựa chọn và nghiên cứu đề tài : "Một số biện pháp nhằm phát triển đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép". Em hy vọng được đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào việc hoàn thiện công tác đa dạng hoá sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần chính
Phần I : Một số lý luận cơ bản về đa dạng hoá sản phẩm trong doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng công tác đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép .
Phần III: Một số biện pháp nhằm phát triển đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép.
Phần I
Một số lý luận cơ bản về đa dạng hoá sản phẩm trong doanh nghiệp.
I. Khái niệm, nội dung, hình thức của đa dạng hoá sản phẩm
1. Khái niệm đa dạng hoá sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường số lượng, chủng loại sản phẩm, hàng hoá dịch vụ hết sức đa dạng, phong phú nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng. Một doanh nghiệp chỉ có thể được coi là làm ăn có hiệu quả khi các sản phẩm cuả doanh nghiệp được tiêu thụ với mức giá thị trường và số lượng theo khả năng đáp ứng nhất. Muốn vậy doanh nghiệp phải gắn được sản phẩm của mình với người tiêu dùng, tức là phải xác định được một danh mục và cơ cấu sản phẩm có hiệu quả nhất. Tuy nhiên tính hiệu quả của cơ cấu và danh mục sản phẩm lại phụ thuộc vào những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định. Khi các điều kiện đó thay đổi thì cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp cũng phải thay đổi theo để thích ứng với điều kiện mới. Chính vì vậy cơ cấu cảu sản phẩm của doanh nghiệp luôn là một cơ cấu động.
Nếu cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp thay đổi theo hướng thu hẹp lại, đảm bảo sự tập trung cao hơn về sản xuất thì doanh nghiệp phát triển theo hướng chuyên môn hoá. Ngược lại cơ cấu sản phẩm đựơc mở rộng, danh mục sản phẩm được tăng thêm thì có nghĩa doanh nghiệp phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm.
Vậy đa dạng hoá sản phẩm là gì?
Có nhiều định nghĩa về đa dạng hoá sản phẩm như:
"Đa dạng hoá sản phẩm là một chiến lược nhằm giảm bớt rủi ro bằng cách góp chung rủi ro của nhiều loại tài sản có mức lợi tức của từng loại khác nhau ".
"Đa dạng hoá sản phẩm là quá trình mở rộng một cách hợp lý danh mục sản phẩm, cơ cấu sản phẩm sao cho phù hợp với nhu cầu thị trường và xã hội, phù hợp với điều kiện của môi trường, doanh nghiệp nhằm tạo ra cơ cấu, danh mục sản phẩm hợp lý và có hiệu quả của doanh nghiệp".
Vậy bản chất của đa dạng hoá sản phẩm là quá trình mở rộng hợp lý danh mục và cơ cấu sản phẩm nhằm tạo nên cơ cấu sản phẩm có hiệu quả của doanh nghiệp công nghiệp.
2.Nội dung của đa dạng hoá sản phẩm.
Tùy theo từng giai đoạn phát triển và các yêu cầu từ phía thị trường, môi trường kinh doanh ... mỗi doanh nghiệp có các chiều hướng đa dạng hoá khác nhau. Trên thực tế các doanh nghiệp thường tiến hành các hướng đa dạng hoá sau:
a. Đa dạng hoá mở rộng.
Theo xu hướng này doanh nghiệp tiến hành đa dạng hoá dựa trên việc kết hợp các yếu tố:
Đa dạng hoá sản phẩm trên nền chuyên môn hoá.
- Đa dạng hoá sản phẩm dựa trên cơ sở kết hợp sản phẩm chuyên môn hoá và mở rộng chủng loại sản phẩm cùng công nghệ .
-Đa dạng hoá sản phẩm dựa trên cơ sở tận dụng khả năng thừa của máy móc công nghệ và nguyên vật liệu chính.
b. Đa dạng hoá thu hẹp.
- Đa dạng hoá sản phẩm bằng cách thu hẹp sản phẩm chuyên môn hoá, mở rộng sản phẩm có thể sử dụng cơ sở vật chất có sẵn.
-Khép kín dây chuyền sản xuất, tận dụng tối đa mọi nguồn lực cho sản phẩm chuyên môn .
- Thu hẹp sản phẩm chuyên môn hoá, chuyển hướng sản xuất.
c. Đa dạng hoá thực sự:
- Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sang lĩnh vực mới không có mối liên hệ nào về công nghệ hoặc thương mại với các hoạt động hiện có của doanh nghiệp.
Biểu 1: Các xu hướng đa dạng hoá sản phẩm (trang bên)
3. Hình thức đa dạng hoá sản phẩm .
Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Các hình thức của đa dạng hoá sản phẩm thường có sự đan xen trong cách thể hiện. Có một số hình thức đa dạng hoá sau:
a. Chiến lược đa dạng hoá đồng tâm.
- Là việc mở rộng danh mục sản phẩm từ sản phẩm truyền thống nhằm đáp ứng các nhu cầu thị trường thường xuyên biến động. Trong sản xuất kinh doanh công nghiệp hình thức đa dạng hoá đồng tâm thường được diễn ra theo hai hướng.
* Đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở sản phẩm gốc chuyên môn hoá.
Đây là hình thức đa dạng hoá đã phát triển từ lâu và đem lại hiệu quả cao. Thông thường khi doanh nghiệp càng mở rộng đa dạng hoá thì trình độ
Biểu 1: Các xu hướng đa dạng hoá sản phẩm
Xu hướng
Ví dụ
Nội dung
Nguyên nhân
Công việc đã giải quyết
1. Đa dạng hoá sản phẩm trên nền CMH
Công ty dệt Vĩnh Phú
Tăng thêm kiểu cách, mẫu mã và hình thức nội dung của sản phẩm
Sản phẩm gốc bị mất thị trường do mẫu mã đơn điệu
Điều tra thị trường, nâng cấp và đầu tư thiết bị , thiết kế sản phẩm mới.
2.Kết hợp sản phẩm CMH và mở rộng sản phẩm cùng công nghệ
Công ty sứ Hải Dương
Hoàn thiện và nâng cao chất lượng sứ dân dụng, phát triển sứ điện, sứ mỹ nghệ.
Sản phẩm gốc bị mất thị trường và kém sức cạnh tranh do mẫu mã và chất lượng kém
Điều tra thị trường, thiết kế sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh về chất lượng
3.Tận dụng khả năng sản xuất thừa
Công ty động cơ Nam Định
Làm dịch vụ cơ khí, điện dân dụng và công nghiệp
Sản phẩm gốc bị mất thị trường do nhu cầu về sản phẩm giảm
Phát huy khả năng lao động và công suất thiết bị
4.Thu hẹp sản phẩm CMH. Mở rộng sản phẩm sử dụng cơ sở vật chất hiện có
Công ty xe đạp Xuân Hoà
- Giảm số lượng sản xuất xe đạp
- Xản xuất sản phẩm trang thiết bị nội thất bằng kim loại (bàn ghế...)
Sản phẩm gốc bị mất thị trường do nhu cầu về sản phẩm giảm
Điều ra thị trường thiết kế sản phẩm mới
5.Khép kín cơ sở vật chất hiện có
Dệt kim Hà Nội
Huy động hết công suất, sản xuất sợi, quần áo dệt kim
Sản phẩm có uy tín trên thị trường và tiềm lực đầu tư
Đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới
6. Thu hẹp sản xuất chuyên môn
Công ty chế biến lâm sản Hải Dương
Từ bánh mỳ, mỳ sợi- sản xuất nghiền ớt, tỏi, bánh kẹo, sản xuất bia.
Sản phẩm gốc bị mất thị trường
Đầu tư xây dựng bộ phận sản xuất mới
7. Kinh doanh tổng hợp
Nhiều doanh nghiệp
Tranh thủ mọi cơ hội trong kinh doanh
Để hỗ trợ lẫn nhau sản xuất các sản phẩm
Làm tất cả những gì có thể làm
CMH sẽ giảm sút. Tuy nhiên trong hình thức này đa dạng hoá và trình độ chuyên môn hoá lại có mối quan hệ rất biện chứng bơỉ các lý do sau:
- Thứ nhất: là bản thân sản phẩm CMH của doanh nghiệp cũng phải được hoàn thiện cải tiến về hình thức và nội dung, tăng thêm về kiểu cách mẫu mã để đáp ứng yêu cầu thị trường hết sức đa dạng. Đó là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh giữ và mở rộng thị phần. Vì vậy sản phẩm CMH của doanh nghiệp được đánh theo hình thức biến đổi chủng loại
- Thứ hai: Tại một số doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ CMH thường không sử dụng hết các nguồn lực sẵn có. Vì vậy trong khi nâng cao một cách hợp lý trình độ chuyên môn hoá theo phương hướng phát triển chỉ đạo của doanh nghiệp thì doanh nghiệp vẫn cần mở rộng danh mục sản phẩm để tận dụng năng lực sản xuất của nhà máy thiết bị, tận dụng nguyên vật liệu thừa... nhằm đáp ứng các nhu cầu khác của thị trường. Theo lý do này, đa dạng hoá sản phẩm chính là doanh nghiệp tạo ra "tuyến sản phẩm " hỗ trợ quan trọng cho việc phát triển CMH.
- Thứ ba: Mặc dù có nhiều hình thức đa dạng hoá sản phẩm nhưng nếu như đa dạng hoá sản phẩm được dựa trên cơ sở nền tảng là các điều kiện vật chất kỹ thuật của CMH ban đầu thì việc đa dạng hoá sản phẩm sẽ giảm bớt nhu cầu đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế rủi ro. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp chính là yếu tố quyết định việc có nên đa dạng hoá sản phẩm dựa trên chuyên môn hoá.
Như vậy CMH sản xuất luôn phải được coi là nhiệm vụ trung tâm và là phương hướng chủ đạo trong phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như quan niệm cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp là cơ cấu động phải thường xuyên hoàn thiện đổi mới đảm bảo cho các doanh nghiệp thích ứng với sự vận động của môi trường kinh doanh thì bản thân sản phẩm CMH của doanh nghiệp cũng phải được đa dạng hoá và được đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp chính là một giải pháp mang tính chiến lược lâu dài. Để đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và ổn định cần có một chiến lược CMH và đa dạng hoá hợp lý trong doanh nghiệp.
* Phát triển đa dạng hoá sản phẩm trên cơ sở các sản phẩm đa dạng hoá được sử dụng trên kỹ thuật công nghệ và các yếu tố hiện có của doanh nghiệp.
áp dụng hình thức này, doanh nghiệp vừa vận dụng được lợi thế về nguồn lực sẵn có của mình như kỹ thuật công nghệ, máy móc thiết bị, lao động nguồn nguyên liệu... để có thể sản xuất thêm và đưa ra thị trường được những sản phẩm có chất lượng cao, hình thức đẹp phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
* Đa dạng hoá đồng tâm thường được sử dụng theo các hình thức cụ thể là:
- Đa dạng hoá sản phẩm từ sản phẩm CMH
- Đa dạng hoá sản phẩm từ việc hoàn thiện phục vụ trong quá trình tiêu thụ.
- Đa dạng hoá sản phẩm hoàn thiện tốt hơn, đầy đủ hơn, triệt để hơn các yếu tố của quá trình sản xuất.
- Đa dạng hoá sản phẩm từ hướng cải tiến hợc đổi mới một bộ phận, hoặc một số chi tiết của sản phẩm CMH.
- Đa dạng hoá sản phẩm nhằm vào sự thay đổi của nhu cầu thị trường hoặc đi sâu vào các thị trường ngách.
b. Đa dạng hoá kết khối.
Là hình thức đa dạng hoá mà trong một doanh nghiệp tập hợp nhiều loại hình thức sản xuất kinh doanh thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Biểu 2: Phân loại các hình thức đa dạng hoá sản phẩm (trang bên)
4.Sự cần thiết khách quan của đa dạng hoá sản phẩm .
Hoạt động trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp thường hướng tới 2 mục tiêu cơ bản là:
- Tạo ra hàng hoá và dịch vụ với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
- Đạt được lợi nhuận tối đa sau mỗi kỳ kinh doanh trên cơ sở nâng cao hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Cũng thấy rõ rằng, sản phẩm của doanh nghiệp càng có chất lượng cao, mẫu mã phong phú thì càng tiêu thụ được nhiều, doanh thu càng lớn, lợi nhuận càng cao. Muốn thế thì tất yếu doanh nghiệp phải xác định cho mình được một cơ cấu sản phẩm hợp lý, phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm cho phù hợp với thị yếu của thị trường và xã hội, phù hợp với điều kiện của môi trường doanh nghiệp (cơ hội, biến động của giá cả, thu nhập tính cạnh tranh, luật pháp). Nói cách khác, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tự bản thân doanh nghiệp đã tạo cho mình khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ngày nay, đa dạng hoá sản phẩm đã trở thành xu hướng khách quan không chỉ ở nước ta mà còn ở nhhiều nước trên thế giới. Từ các tổ chức kinh tế lớn như tập đoàn kinh doanh đến doanh nghiệp độc lập với quy mô khác nhau cũng thực
Biểu 2: Phân loại hình thức đa dạng hoá sản phẩm
Cách tiếp cận
Hình thức
Đặc điểm chủ yếu
Nội dung
Điều kiện thực hiện
Ưu điểm
Xét theo sự biến
Biến đổi chủng loại
Hoàn thiện và cải tiến thị trường hiện có
Thị trường hiện tại và thị trường mới
Hoàn thiện về hình thức SP- nội dung SP hoặc cả hai
Có thể ứng dụng thực hiện rộng rãi
Phát triển chuyên môn hoá, sử dụng hợp lý nguồn lực hiện có
đổi của danh mục
sản phẩm
Đổi mới chủng loại
Tạo ra SP mới
Thị trường hiện có và thị trường mới
Đưa ra SP mới tuyệt đối hoặc SP mới tương đối
Phải nghiên cứu nhu cầu thị trường. Qui trình nghiên cứu công nghệ SX cần đầu tư lớn
để duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá
Hỗn hợp
Kết hợp cả hai hình thức trên
Kết hợp cả hai hình thức trên
Xét theo tính chất nhu cầu
ĐDHSP theo chiều sâu nhu cầu
Cải tiến SP hiện có tạo thêm nhiều thang dòng và mặt hàng mới
Tăng thêm kiểu cách, mẫu mã của cùng 1 loại SP.
Phải phân khúc (phân đoạn) nhu cầu thị trường SP.
Phát triển chuyên môn hoá theo chiều sâu , duy trì mở
sản phẩm
ĐDHSP theo chiềurộng nhu cầu
Mở rộng chủng loại sản phẩm
Chế tạo SP có kết cấu, công nghệ SX, giá trị sử dụng khác nhau.
Đòi hỏi tiềm lực tài chính, công nghệ lớn để xây dựng DN quy mô lớn, cơ cấu SX phức tạp
rộng thị trường tiêu thụ. Sử dụng hợp lý các nguồn lực hiện có
ĐDHSP theo hướng thoát ly sản phẩm gốc
SP mới - thị trường mới
SP mới không liên quan đến SP ban đầu về giá trị sử dụng và công nghệ SX.
Có nhu cầu và sức cạnh tranh lớn. Đầu tư lớn
Xéttheo phương
Sử dụng tổng hợp các chất có ích trong một loại NVL
Sản xuất một số loại có giá trị sử dụng khác nhau
Đầu tư lớn. Nhu cầu sản phẩm nhiều
Giảm được chi phí các yếu tố đầu vào. Hạ giá thành, tăng
thức thực hiện
SP khác nhau nhưng có chung NL gốc
Mở rộng chủng loại sản phẩm
Sản xuất 1 số loại sản phẩm có giá trị khác nhau
Nhu cầu sản phẩm có quan hệ trong SX lớn
sức cạnh tranh mơ rộng thị trường
Trên góc độ
ĐDHSP trên cơ sở nguồn lực hiện có
Hạn chế khả năng mở rộng danh mục sản phẩm của doanh nghiệp
Dựa trên năng lực sản xuất hiện có
Tận dụng hợp lý nguồn lực hiện có, đầu tư mới, hạn chế
phương thức thực
hiện
Nguồn lực hiện có và đầu tư bổ sung
Mở rộng danh mục SP doanh nghiệp
Khắc phục khâu thiếu hoặc khâu SX mà DN còn thiếu
Đòi hỏi phải có đầu tư (chỉ giữ vị trí bổ sung)
rủi ro. Nâng cao trình độ kỹ thuật, tăng sức cạnh tranh, mở
ĐDHSP bằng đầu tư mới
Sản xuất sản phẩm mới
Đưa ra SP mới mà khả năng hiện tại không đáp ứng được
Nhu cầu đầu tư lớn
rộng thị trường
hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sự phát triển các xu thế này được giải thích bằng các lý do sau:
4.1. Nhu cầu thị trường về các loại sản phẩm công nghiệp rất phong phú, đa dạng và thường xuyên thay đổi.
Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có đối sách để đảm bảo sự thích ứng với thị trường. Doanh nghiệp phải theo sát thị trường nắm chắc và dự báo nhu cầu của thị trường để sản xuất hàng hoá. Trong cơ chế thị trường, người mua đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và trao đổi như thế nào? Nói cách khác, ở đây người bán giữ một vai trò phụ thuộc. Người mua chỉ mua những gì họ cần và phù hợp với khả năng thanh toán. Để tối đa hoá thoả dụng, họ không thụ động trước người sản xuất mà còn là lực lượng "đối tượng" với nhà sản xuất. Còn người bán họ chỉ bán những gì mà người tiêu dùng cần, tức là họ phải tìm ra thị trường, tìm ra nhu cầu và khả năng thanh toán của sản phẩm và dịch vụ mà họ định hướng.
Như vậy sự đòi hỏi của nhu cầu thị trường buộc các doanh nghiệp phải tiến hành đa dạng hoá sản phẩm và nhờ đó doanh nghiệp mới chiếm được thị trường tiêu thụ sản phẩm.
4.2. Tiến bộ khoa học- kỹ thuật.
Tiến bộ khoa học - kỹ thuật làm xuất hiện những nhu cầu mới, rút ngắn chu kỳ sống của sản phẩm và tạo ra nững khả năng sản xuất mới, tức là làm xuất hiện những cơ hội kinh doanh mới. Tất cả những tác động này đòi hỏi doanh nghiệp phải biết tranh thủ nắm bắt để phát triển.
Cùng với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật thì chu kỳ sản phẩm giảm đi. Vì vậy doanh nghiệp luôn phải xem xét, đánh giá được sản phẩm đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống, nếu đang ở giai đoạn suy thoái thì doanh nghiệp sẽ không sản xuất mặt hàng đó mà tìm cách cải tiến sản phẩm đa dạng hoá để giảm được hao phí lao động xã hội.
4.3.Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp công nghiệp và giữa các sản phẩm công nghiệp với nhau.
Trong điều kiện sản xuất phát triển cao, cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt thì đa dạng hoá càng có vai trò rất quan trọng chiếm vị trí chủ chốt trong chiến lược sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Đa dạng hoá giúp doanh nghiệp đưa ra thị trường những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng. Nhờ đó, doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh đã đặt ra. Ngược lại đa dạng hoá sản phẩm đòi hỏi sự nhanh nhạy với thị trường và sự đổi mới, phát triển không ngừng của doanh nghiệp.
Mặt khác, khi hoạt động trong kinh tế thị trường, doanh nghiệp bị chi phối bởi quy luật cạnh tranh. Quy luật đòi hoi doanh nghiệp phải có những chiến lược thị trường với vũ khí cạnh tranh có hiệu quả. Hàng hoá dịch vụ trước khi được đưa ra phải được nghiên cứu tỷ mỷ doanh nghiệp phải biết mình xâm nhập vào thị trường bằng vũ khí gì, chất lượng, giá cả hay đa dạng hoá sản phẩm. Và có thể nói rằng việc xác định cho mình một danh mục, cơ ccấu sản phẩm hợp lý là một trong những vũ khí cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp.
Tóm lại, để có thể tồn tại và phát triển, đạt được những thành công trong sản xuất kinh doanh thích ứng với cơ chế thị trường, tránh được rủi ro luôn thu được lợi nhuận cao, thì đa dạng hoá sản phẩm là một tất yếu khách quan đối với mỗi doanh nghiệp công nghiệp.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng hoá sản phẩm.
Việc xác định phương hướng và nội dung đa dạng hoá sản phẩm gắn liền với kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Và để đạt được mục tiêu hiệu quả của kế hoạch, cần phải phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là những nhân tố cơ bản sau:
1. Nhu cầu của thị trường.
Trong điều kiện cơ hế thị trường, mỗi doanh nghiệp phải bám sát cầu của thị trường, sản xuất và đưa ra những sản phẩm (dịch vụ) mà thị trường cần. Việc điều tra, phân tích nhu cầu thị trường phải được coi là một trong những công tác quan trọng hàng đầu trong quản lý doanh nghiệp. Tuỳ theo yêu cầu thực hiện những nội dung khác nhau của quản lý công nghiệp việc điêù tra, phân tích nhu cầu được tập trung vào những nội dung cụ thể khác nhau. Nếu để xác định qui mô hợp lý của doanh nghiệp, người ta quan tâm đến tổng lượng nhu cầu mỗi loại sản phẩm (dung lượng thị trường), để xác định phương hướng đa dạng hoá sản phẩm, người ta lại quan tâm đến nội dung sau:
a. Kiểu cách, mẫu mã, kích cỡ mỗi loại sản phẩm mà thị trường đòi hỏi.
Việc phân khúc thị trường có ý nghĩa quan trọng trong việc phân tích nhu cầu thị trường về mỗi loại sản phẩm. Bởi vì để cung lượng hàng hoá dịch vụ ở mức sản lượng, chất lượng nào đó, doanh nghiệp sẽ phân tích phân đó (ở mỗi phân đoạn khác nhau thì đặc điểm này lại khác nhau. Do đó, việc xác định đúng phân đoạn quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp.
b. Tính phức tạp về kết cấu sản phẩm và công nghệ sản xuất đó.
c. Nhu cầu các sản phẩm có liên quan trong tiêu dùng : Nghĩa là, phân tích bề rộng nhu cầu các loại sản phẩm. Để xác định phương hướng đa dạng hoá sản phẩm cần phải xem xét điều kiện để sản xuất các loại sản phẩm ấy.
d. Các loại sản phẩm có thể thay thế: Việc nghiên cứu, phân tích này nhằm hạn chế những rủi ro trong khi phát triển đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp.
e. Sự vận động của sản phẩm trong chu kỳ sống của nó. Việc đa dạng hoá sản phẩm nhằm vào sản phẩm đang suy thoái sẽ làm tăng độ rủi ro trong kinh doanh
Như vậy việc nghiên cứu phân tích nhu cầu để xác định phương hướng và mức độ đa dạng hoá sản phẩm không chỉ ở mặt lượng mà còn có tính chất nhu cầu và quan hệ với các sản phẩm có liên quan khác.
2. Khả năng của mỗi doanh nghiệp
Nhu cầu thị trường về các loại sản phẩm vật chất và các loại dịch vụ đa dạng và thường xuyên vận động. Chính điều đó đã tạo nên các cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp cần phải năng động và nhạy bén nắm bắt các cơ hội kinh doanh, phản ánh chúng trong cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ. Trong quá trình ấy phải đánh giá đúng khả năng hiện có và có thể có của doanh nghiệp. Việc phân tích khả năng cả doanh nghiệp được thực hiện theo nhiều góc độ khác nhau: khả năng các yếu tố của quá trình sản xuất (nhân, tài, vật lực), khả năng của các tài sản hữu hình và tài sản vô hình...Trong mô hình cạnh tranh, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm từ đánh giá khả năng các yếu tố, cần đánh giá đúng mức khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nghĩa là xuất phát từ những yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, kiểu cách, giá cả, thời gian cung ứng các sản phẩm, cần xem xét so với các đối thủ khác, trước hết là những đối thủ cạnh tranh có thế lực nhất, xem doanh nghiệp có những lợi thế, yếu thế gì? Bỏ qua điều này sẽ tránh khỏi thất bại trong khi phát triển đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp.
Như vậy, việc đánh giá khả năng của doanh nghiệp đã vượt khỏi phạm vi từng doanh nghiệp riêng biệt, mà được xem xét trong mối quan hệ với các doanh nghiệp có liên quan. Để thực hiện việc này việc thu thập thông tin và đưa doanh nghiệp tham gia các tổ chức liên kết thích ứng có tầm quan trọng đặc biệt.
3. Các quan hệ liên kết kinh tế
Việc mở rộng các quan hệ liên kết kinh tế giữa các chủ thể kinh tế là một xu hướng khách quan. Việc tham gia các quan hệ liên kết kinh tế tác động trực tiếp tới việc xác định phương hướng và nội dung đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua liên kết kinh tế sẽ tạo điều kiện tăng khả năng của doanh nghiệp nhờ việc tranh thủ sự hỗ trợ của bên ngoài. Việc tăng khả năng này thể hiện không chỉ là khắc phục những khâu yếu trên dây chuyền sản xuất, mà còn là sự hỗ trợ về vốn, về năng lực nghiên cứu và triển khai... Còn tăng khả năng sản xuất ra các sản phẩm mới, đáp ứng kịp nhu cầu mới phát sinh.
4. Trình độ tiêu chuẩn hoá
Nhân tố mang tính tổ chức kỹ thuật này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển tổ chức sản xuất kinh doanh khi xây dựng nền sản xuất lớn trong công nghiệp. Nó đòi hỏi tất cả các sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất và đưa ra thị trường phải theo tiêu chuẩn thống nhất. Tiêu chuẩn này không chỉ là cơ sở để Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, theo dõi, giám sát hoạt động của doanh nghiệp, mà còn là cơ sở để tổ chức mối liên hệ sản xuất của các doanh nghiệp có liên quan.
5. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành.
Tuỳ theo đặc thù của từng ngành kinh tế đảm niệm các chức năng khác nhau trong nền kinh tế quốc dân mà doanh nghiệp trong ngành cần có cơ cấu sản phẩm đáp ứng các chức năng đó. Thông thường cơ cấu sản phẩm của một ngành kinh tế là rất lớn và đa dạng. Sản phẩm CMH thường không đáp ứng đủ các yêu cầu do đơn điệu. Tất yếu phải có một tuyến sản phẩm hỗ trợ do đó doanh nghiệp cần phải đa dạng hoá. Ví dụ đi cùng với sản phẩm đường là các sản phẩm khác như cồn, giấy, rượu...
Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp. Việc phân tích những nhân tố ấy cho phép tạo thành cơ sở khoa học để đưa ra các phương án khác nhau về xác định phương hướng và nội dung của đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp. Từ các phương án đưa ra, người ta có thể so sánh trên nhiều phương diện khác nhau để lựa chọn.
III. Các ưu nhược điểm khi tiến hành đa dạng hoá sản phẩm.
Có thể nói rằng, đa dạng hoá sản phẩm đã só những đóng góp tích cực nhất định đối với bản thân doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoá sản phẩm cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế. Cụ thể là:
a. ưu điểm:
- Đa dạng hoá sản phẩm góp phần tạo chủng lại hàng hoá phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá của thị trường.
- Nhờ đa dạng hoá sản phẩm, nhiều doanh nghiệp sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực, đảm bảo việc làm, thu nhập cho người lao động.
- Đa dạng hoá sản phẩm thúc đẩy cạnh tranh làm các doanh nghiệp tự hoàn thiện mình để nâng cao trình độ kỹ thuật, cải tiến sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp qua đa dạng hoá sản phẩm đã dần từng bước thích ứng với cơ chế thị trường.
b. Nhược điểm:
- Phần lớn các trường hợp thực hiện đa dạng hoá sản phẩm mang tính tự phát, việc xác định phương hướng đa dạng hoá sản phẩm còn mò mẫm, cầu may, chụp giật. Nhiều doanh nghiệp qua đa dạng hoá sản phẩm, có doanh nghiệp qui mô nhỏ, kỹ thuật lạc hậu còn dàn trải qua nhiều sản phẩm dẫn đến không hiệu quả.
- Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm thường được xem xét giải quyết trong phạm vị từng doanh nghiệp, thiếu tầm nhìn chiến lược về khôn gian và thời gian nên hiệu quả kinh tế quốc dân không được đảm bảo.
- Xu hướng thoát ly chuyên môn hoá ban đầu và kinh doanh tổng hợp diễn ra đậm nét. Nhiều doanh nghiệp đi chệch khỏi quĩ đạo, mục tiêu Nhà nước, xã hội cần và khuyến khích.
c. Một số nguyên nhân chủ yếu gây nên những nhược điểm trên.
- Đa dạng hoá sản phẩm tiến hành trong điều kiện thiếu cơ sở lý luận phương pháp luận rõ ràng và thống nhất. Công tác nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường còn mang tính chủ quan, phiến diện.
- Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển khoa học kỹ thuật và đa dạng hoá sản phẩm chưa giải quyết toàn diện. Đây là nguyên nhân việc đa dạng hoá sản phẩm thiếu cơ sở vật chất để thực hiện. Vì vậy nhiều sản phẩm được đa dạng hoá kém sức cạnh tranh, không tồn tại bền vững trên thị trường.
- Công tác quản lý Nhà nước đối với quá trình đa dạng hoá sản phẩm của doanh nghiệp còn nhiều khiếm khuyết, thiếu định hướng và hướng dẫn hợp lý, chưa có chính sách bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước.
- Nguyên nhân khách qan mang tính lịch sử của quan trọng hình thành và phát triển của một số doanh nghiệp, có doanh nghiệp được xây dựng nhưng không rõ nhiệm vụ sản xuất, trình độ trang bị kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ.
Phần II
Thực trạng công tác đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép.
I. Quá trình hình thành và phát triển của nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép.
1. Các giai đoạn hình thành và phát triển
Nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép được hình thành và phát triển qua 4 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Tiền thân của nhà máy là xưởng Cơ khí 63 được thành lập theo quyết định số 343 TNT/TC ngày 20- 4-1963 do thứ truởng Bộ Nông trường Nguyễn Văn Trí ký.
Xưởng hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Đội cơ khí - Bộ Nông trường.
Chức năng: sửa chữa , phục hồi, đạI tu các loại ôtô máy kéo, máy động lực.
Nhiệm vụ: Đảm bảo kịp thời việc sửa chữa các máy nông nghiệp, ôtô, máy động lực phục vụ cho sản xuất tại các nông trường quốc doanh thuộc các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hoà Bình, Hà Tây.
Tổng cán bộ công nhân viên chức: 82 người.
Giai đoạn II: Theo quyết định số 159 NT/ TCCB- QĐ ngày 23-6-1984 do Bộ trưởng Nông nghiệp ký, Xưởng Cơ khí 63 được chuyển thành nhà máy Cơ khí Nông nghiệp 3 - Hà Nam Ninh. Lúc này nhà máy đã chuyển sang hoạt động dưới sự quản lý của bộ Nông nghiệp mà trực tiếp là tổng cục trang bị kỹ thuật - Bộ Nông nghiệp.
Chức năng: Đại tu, sửa chữa phục hồi ôtô máy kéo, máy động lực của các nông trường, các sở Nông nghiệp. Các trạm máy kéo của Bộ Nông nghiệp thuộc tỉnh Hà nam ninh, Hà sơn bình, Hải Hưng.
Nhiệm vụ : Thực hiện khoảng 300 á 400 đầu xe /năm
Giai đoạn III: Theo quyết định số 46- NN- TCCB/QĐ ngày 12-2-1992 của Bộ Nông nghiêp và Công Nghiệp Thực phẩm. Nhà máy Cơ khí Nông nghiệp 3 được đổi tên thành nhà máy Cơ điện 3- Hà Nam Ninh. Đây là giai đoạn nhà máy hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của Tổng cục Cơ khí - Kỹ thuật, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Tổng số cán bộ công nhân viên gồm 300 người
Chức năng chủ yếu của nhà máy trong giai đoạn này là:
- Trung đại tu sửa chữa phục hồi ô tô máy kéo.
- Phục hồi, sửa chữa các thiết bị, dây chuyền chế biến lương thực nông sản.
- Sản xuất các dây chuyền chế biến sau thu hoạch như máy xay sát liên hoàn, máy sản xuất tinh bột, máy xay thức ăn gia súc.
- Sản xuất các tư liệu tiêu dùng trong nông nghiệp như máy tuốt lúa, máy tẽ ngô...
Nhiệm vụ của nhà máy.
- Đáp ứng nhu cầu sửa chữa ôtô, máy kéo của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tại các tỉnh Hà nam Ninh và lân cận.
- Đáp ứng nhu cầu các sản phẩm Cơ khí nông nghiệp của người nông dân trong nội tỉnh và các tỉnh bạn.
Đây là giai đoạn phát triển mạnh của nhà máy. Trong giai đoạn này hầu hết các sản phẩm, dịch vụ đều do nhà máy tự khai thác, hạch toán độc lập, số lượng công việc nhiều, mức lương cao, phúc lợi đảm bảo, đời sống người lao động được cải thiện.
Giai đoạn IV: Sau năm 1996, do tình trạng thiếu việc làm, theo quyết định số 638/BXD- TCLĐ ngày 1-10-1997, nhà máy được đổi thành nhà máy Chế tạo thiết bị và kết cấu thép trực thuộc Công ty Xây dựng và lắp máy 10 - Tổng Công ty lắp máy Việt nam - Bộ Xây dựng.
Tổng số cán bộ công nhân viên gần 200 người.
Trong giai đoạn này, nhà máy từ lĩnh vực chuyên môn cơ khí nông nghiệp đã chuyển hẳn sang lĩnh vực cơ khí xây lắp của ngành xây dựng. Sự chuyển đổi này đã ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy.
Hoạt động trong sự quản lý của bộ xây dựng, nhà máy có một số chức năng sau:
- San lấp, xây dựng nền móng
- Gia công các thiết bị, kết cấu thép trong xây dựng.
- Chế tạo khung nhà, cột điện, cột truyền dẫn, cột phát sóng bằng thép.
- Bình bể, áp lực.
- Đường ống lớn.
- Các sản phẩm cơ khí tư liệu sản xuất và dân dụng.
Nhiệm vụ của nhà máy trong giai đoạn này.
- Đảm bảo thực hiện tốt các kế hoạch sản xuất theo đúng tiến độ chất lượng do Công ty chủ quản giao xuống.
- Được phép hạch toán độc lập phần công việc do nhà máy tự khai thác.
-Bảo toàn và phát triển nguồn vốn đã được Nhà nước giao, hoàn thành các nghĩa vụ đối với cấp trên và Nhà nước.
-Tổ chức quản lý lao động, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước.
Để phù hợp với tiến độ đổi mới phát huy được tính sáng tạo độc lập tự chủ trong sản x._.uất kinh doanh, tuy là một đơn vị trực thuộc Tổng Công ty nhưng nhà máy đã được phép:
- Thực hiện song song chế độ hạch toán độc lập và chế độ hạch toán báo sổ đối với những công việc do nhà máy tự khai thác hoặc do cấp trên giao xuống.
- Có tài khoản, con dấu riêng để tiện quan hệ công tác.
- Được phép ký các hợp đồng kinh tế với các đối tác ngoài nhà máy theo sự phân cấp của Công ty lắp máy 10 và Tổng Công ty.
Nhà máy có đăng ký kinh doanh tại thị xã Phủ lý - tỉnh Hà nam. Đồng thời cũng là nơi sản xuất kinh doanh chính của nhà máy.
Nhà máy có tư cách pháp nhân chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật trong phạm vi trách nhiệm quyền hạn của mình.
Ngoài việc sản xuất kinh doanh của nhà máy tại thị xã Phủ lý - tỉnh Hà Nam khi công trình mà cấp trên giao cho ở các địa bàn khác nhà máy cần phải chủ động đưa máy móc thiết bị, người lao động đến để thi công.
Trải qua 4 giai đoạn phát triển, nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép đã được chuyển qua nhiều đơn vị quản lý, từ Bộ Nông trường sang Bộ Nông nghiệp và cuối cùng là Bộ Xây dựng. Điều đó ảnh hưởng tới công tác quản lý và tổ chức sản xuất của nhà máy bởi vì chuyên môn của nhà máy được sử dụng chưa thật hợp lý.
Đối với lĩnh vực xây dựng thì nhà máy chỉ là một đơn vị thành viên trực thuộc cấp 4 với cấp chủ quản trực tiếp là Công ty lắp máy và xây dựng số 10.
Sơ đồ 1: Quan hệ quản lý của nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép
Bộ Xây dựng
Tổng Công ty lắp máy Việt nam
Công ty xây dựng và lắp máy 10
Nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép
2. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nhà máy
2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của nhà máy.
Bộ máy tổ chức quản lý của nhà máy được xây dựng theo cơ cấu trực tuyến chức năng. Đây là một loại hình được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
Cơ cấu tổ chức quản lý được thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức quản lý của nhà máy
Giám đốc nhà máy
P. Giám đốc điều hành sản xuất
P. Giám đốc kỹ thuật
Phòng kinh tế -kỹ thuật
Phòng kế toán tài vụ
Phòng vật tư
Phòng
TC- HC bảo vệ
Đội tạo phôi i
Đội tạo phôi ii
p. xưởng cơ khí
Tổ sửa chữa
tổ tạo phôi 1
tổ tạo phôi 2
tổ tạo phôi 3
Hàn - rèn
tổ tạo phôi 1
tổ tạo phôi 2
tổ tạo phôi 3
tổ tiện
tổ nguội
phay
Tổ cơ điện
Theo sơ đồ trên:
* Giám đốc nhà máy : là quản trị viên cao cấp, là người thay mặt và đại diện cho nhà máy trước Nhà nước và cấp trên. Trong nhà máy giám đốc là người có quyền hạn cao nhất trong việc ra quyết định và chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động phụ trợ.
Giám đốc được bổ nhiệm theo quyết định của chủ tịch hội đồng quản trị Tổng Công ty, hoạt động dưới sự điều hành chỉ đạo của giám đốcc Công ty lắp máy 10.
* Phó giám đốc nhà máy :
+Phó giám đốc điều hành sản xuất : Có nhiệm vụ thực hiện mọi quyết định của giám đốc trong các công việc
- Điều hành sản xuất các phân xưởng.
- Lập kế hoạch sản xuất chung với sự tham mưu của phòng kinh tế kỹ thuật
- Phối hợp quá trình sản xuất của các phân xưởng cho đồng bộ, thống nhất.
- Kiểm tra tiến độ sản xuất của toàn nhà máy
- Cùng giám đốc ký các hợp đồng sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực chuyên môn.
- Phó giám đốc kỹ thuật: Có nhiệm vụ thực hiện mọi quyết định của giám đốc trong mọi lĩnh vực.
- Phối hợp cùng phòng kinh tế lập qui trình công nghệ, lập định mức các loại.
- Thiết kế kiểm tra nghiên cứu kỹ thuật
- Tham mưu cho giám đốc khi ký kết hợp đồng trong lĩnh vực kỹ thuật chất lượng .
- Kiểm tra, giám sát qui trình công nghệ và các biện pháp khắc phục sự cố kỹ thuật trong nhà máy.
* Các phòng ban chức năng: Gồm 4 phòng chính.
+ Phòng kế toán tài vụ: Nhân viên gồm 5 người có nhiệm vụ :
- Lập kế hoạch tài chính cho nhà máy.
- Có biện pháp tạo vốn khi nhà máy có nhu cầu.
- Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tổ chức quản lý tốt tài chính, quỹ tiền mặt, đảm bảo thu đủ, nộp đủ, chi chính xác không hao hụt, mất mát.
- Tổ chức thanh quyết toán công trình về mặt tài chính.
- Lập báo cáo tài chính theo qui định
- Thực hiện đúng nghĩa vụ nộp ngân sách.
-Tham mưu cho giám đốc về việc sử dụng vốn có hiệu quả.
- Báo cáo lưu trữ hồ sơ chứng từ kế toán theo qui định.
+ Phòng Tổ chức - Hành chính - Bảo vệ: 8 người.
Có nhiệm vụ làm công tác quản trị nhân sự trong nhà máy bao gồm:
- Thành lập, giải thể các đơn vị nhỏ trong nhà máy.
- Sắp xếp lao động theo đúng ngành nghề, chức vụ...
- Lập kế hoạch tiền lương - kế hoạch sử dụng quĩ phúc lợi
- Tổ chức công tác tuyển chọn lao động
- Tổ chức công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho nguời lao động
-Thực hiện công tác hành chính quản trị của nhà máy
- Đảm bảo an ninh trật tự, an toàn lao động
- Đảm bảo vệ sinh môi trường
- Thực hiện các chế độ chính sách cho người lao động như: Lương hưu, bảo hiểm, khen thưởng...
+ Phòng kinh tế - kỹ thuật : đây là phòng chức năng có nhiệm vụ :
- Lập kế hoạch tổ chức sản xuất
- Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
- Lập kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị
- Lập dự toán vật tư, nhân công, khấu hao, lên đơn giá cho từng lô hàng
- Lập kế hoạch xây dựng cơ bản
- Khảo sát thị trường, đưa ra các chiến lược kinh doanh
- Đưa ra qui trình công nghệ cụ thể cho việc sản xuất các sản phẩm riêng biệt của từng công trình xây lắp.
- Xây dựng các loại định mức: Nhân công, vật tư, nguyên nhiên vật liệu cho từng lô sản phẩm cụ thể.
- Kiểm tra giám sát việc thực hiện sản xuất ở các mặt: Tiến độ thời gian, chất lượng kỹ thuật.
- Điều hành đôn đốc xử lý mọi sự cố về kỹ thuật giữa các đơn vị sản xuất
-Triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học- kỹ thuật, phát huy sáng kiến cải tạo, nâng cao năng suất lao động.
- Tham mưu cho giám đốc trong việc ký kết các hợp đồng kinh tế ở các mặt: hiệu quả tiến độ, chất lượng ...
+ Phòng vật tư: Trên cơ sở các thông tin do ban giám đốc và các phòng ban cung cấp, phòng vật tư chịu trách nhiệm:
- Lập kế hoạch cung cấp vật tư phục vụ cho sản xuất .
- Cung ứng vật tư, nguyên nhiện vật liệu đúng thòi hạn, đủ về số lượng, đúng về chất lượng.
- Đảm bảo yêu cầu: Hàng mua về phải có mức giá thấp hơn so với mức giá chung.
- Lập kế hoạch dự trữ, tổ chức thu mua, bảo quản vật tư, phế liệu thừa của nhà máy .
2.2. Cơ cấu tổ chức sản xuất của nhà máy
Quá trình tổ chức sản xuất của nhà máy được tiến hành theo các trình tự sau:
* Đối với các mặt hàng sản phẩm do cấp trên giao: (Trực tiếp là Công ty xây dựng và lắp máy 10).
-Giám đốc nhận kế hoạch sản xuất từ Công ty, sau đó phân công công việc cho hai phó giám đốc. Phó giám đốc kỹ thuật sẽ cùng bộ phận kỹ thuật của phòng kinh tế -kỹ thuật xây dựng qui trình sản xuất, xây dựng các định mức chỉ tiêu.
- Phó giám đốc điều hành sản xuất cùng bộ phận kinh tế của phòng kinh tế - kỹ thuật xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng phân xưởng, đội về tiến độ thời gian thực hiện công việc: số lượng công nhân, thời gian hoạt động của máy móc thiết bị, yêu cầu về chủng loại, số lượng , thời gian cung ứng vật tư.
- Sau đó giám đốc sẽ duyệt báo cáo của hai phó giám đốc và ký lệnh sản xuất cho các phân xưởng, đội phòng ban có liên quan. Ví dụ như:
- Phòng tổ chức phải cùng phân xưởng tuyển lao động theo đúng yêu cầu công việc.
- Phòng kinh tế kỹ thuật phải lên qui trình công nghệ cho từng sản phẩm, định mức lao động, vật tư ... kế hoạch sản xuất của từng loại sản phẩm.
- Phòng tài vụ phải lo vốn để phòng vật tư mua nguyên liệu đầu vào, tiền mặt để trả lương.
- Tổ sửa chữa phải đảm bảo máy móc thiết bị hoạt động tốt.
- Các phân xưởng phải lên kế hoạch sản xuất cho từng đội, từng loại máy: Đội 1 làm gì, trong bao lâu...
Thông thường đối với các mặt hàng do cấp trên giao, nhà máy thường chỉ lo tổ chức sản xuất, còn hầu hết vật liệu, nguyên nhiên vật liệu là do Công ty chuyển xuống, đơn giá, định mức thường được sử dụng theo qui định chung. Phòng tài vụ hạch toán báo sổ sau đó thanh quyết toán với Công ty.
* Đối với những mặt hàng sản phẩm do nhà máy tự khai thác:
Tuỳ theo từng loại sản phẩm nhà máy sẽ thực hiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế linh hoạt.
Các sản phẩm nhỏ, sửa chữa, thay thế.. khách hàng có thể trực tiếp ký với quản đốc phân xưởng hoặc trưởng phòng kinh tế kỹ thuật sau khi thông qua giám đốc. Công tác điều độ sản xuất được trực tiếp trưởng phòng hoặc quản đốc phân xưởng trực tiếp chỉ đạo. Phần lợi nhuận được chia lại cho phân xưởng 10% và phòng kinh tế kỹ thuật 10%.
Thời gian sử dụng máy móc thiết bị kỹ thuật sẽ được tính riêng để tiện khấu hao.
Đơn giá do nhà máy qui định:
Ví dụ: Tiền điện 850 đồng/kw giờ
- Giá một ca máy tiện T6M 16 là 70.000đồng
- Giá một ca máy hàn 30A là 20.000 đồng
- Giá cắt một chai hơi (cắt hơi oxy) là 150.000đồng
Mức lương công nhân không thấp hơn 25.000 đồng/ngày.
Loại công việc này thường ít, tỷ trọng số lượng không cao nên hầu hết lợi nhuận đều được bổ sung vào quĩ phúc lợi nhằm tăng thu nhập của người lao động.
Các sản phẩm, dịch vụ lớn có giá trị cao như: Nhà xưởng, bình bể... các hợp đồng do đích thân giám đốc hoặc phó giám đốc được uỷ quyền ký sau khi thông qua giám đốc Công ty. Lúc này công tác điều độ sản xuất cũng được tiến hành giống như khi nhà máy sản xuất theo kế hoạch cấp trên giao. Nhưng có một số điểm khác biệt:
- Nhà máy tự lo mua vật tư, nguyên vật liệu
- Đơn giá, định mức do nhà máy tự xây dựng
-Thời gian, chất lượng, giá cả của hợp đồng do nhà máy chủ động bàn với khách hàng.
- Hạch toán độc lập
- Phần lãi sẽ được trích nộp cấp trên theo qui định của Tổng Công ty.
Tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép, phương pháp sản xuất chủ yếu là phương pháp sản xuất theo nhóm. Do vậy việc bố trí máy móc thiết bị và người lao động theo nhóm chế tạo sản phẩm. Tại nhà máy có 3 nhóm sản xuất chính là:
+ Phân xưởng cơ khí: Chuyên sản xuất các sản phẩm có liên quan đến gia công cơ khí như gò, hàn, tiện, nguội, phay, bào, nguyên liệu đầu vào và hầu hết là bán thành phẩm như phôi đúc, phôi cắt từ đội tạo phôi I và II đưa sang.
+ Đội phôi I: Gồm 4 tổ chính:
-Tổ rèn: Tạo phôi nhỏ như Bulông, Êcu tho cho cơ khí, vai, bích, đệm cho lắp ráp.
- Tổ tạo phôi I: Cắt thép khổ lớn theo qui cách thiết kế, chủ yếu là tôn thép có d> 12mm và kích thước nhỏ hơn 2m*2m
- Tổ tạo phôi 2: Cắt thép khổ nhỏ theo qui cách thiết kế, chủ yếu là tôn thép có d> 12mm và kích thước nhỏ hơn 2*2m
- Tổ tạo phôi 3: Cắt thép định hình phi tiêu chuẩn như dầm U; I; L; T; phục vụ cho việc làm xà cột...
+ Đội tạo phôi II: Gồm 3 tổ nhưng không có tổ rèn. Cả 3 tổ đều làm các công việc như của đội I nhưng chủ yếu là cắt thép có độ dày d> 12mm.
Sơ đồ 3: Sơ đồ quan hệ sản xuất
Giám đốc
Kế hoạch sản xuất
Đội tạo phôi I
Đội tạo phôi 2
Phân xưởng cơ khí
Đảm bảo máy móc hoạt động tốt
Hàng bán thành phẩm
Tổ sửa chữa
Theo phươnng pháp sản xuất theo nhóm nên nhà máy đã:
- Giảm bớt thời gian chuẩn bị kỹ thuật.
- Giảm bớt thời gian hoạt động của máy móc thiết bị.
- Tận dụng tối đa năng lực sản xuất
- Nâng cao năng suất lao động
- Tránh tình trạng xây dựng định mức nhiều lần.
2.3. Đặc điểm về sản phẩm, về thị trường về nguyên vật liệu đầu vào.
Do nhà máy là một đơn vị trực thuộc cấp 4 nên hầu hết sản phẩm của nhà máy là do Công ty giao xuống.
Đối với nhà máy, việc làm gì, làm ở đâu, số lượng bao nhiêu, vào thời gian nào là một vấn đề khó khăn.
Tuy nhà máy có khai thác được việc bên ngoài nhưng tổng giá trị không lớn vì sản xuất cho Công ty và sản xuất tự khai thác có kế hoạch không khớp nhau.
Mặt khác nhà máy là doanh nghiệp chế tạo trong ngành xây dựng nên sản phẩm đa dạng, phong phú, nhiều chủng loại.
Mỗi công trình là nhà máy phải chế tạo một loại sản phẩm, mỗi một loại sản phẩm lại đòi hỏi chủng loại vật tư riêng.
Đối với nhà máy, việc chuyên môn hoá sản phẩm là hết sức khó khăn, thị trường sản phẩm của nhà máy chỉ phụ thuộc vào các công trình xây lắp mà Công ty trúng thầu.
Ví dụ như:
- Thuỷ điện YALY nhà máy chế tạo máy thông gió, cửa chống cháy.
- Nhiệt điện Phả lại 2 nhà máy chế tạo hệ thống giảm áp, các CiCLO lọc bụi.
- Xi măng Bút Sơn nhà máy chế tạ khung nhà xưởng...
Có thể nhận thấy:
Thị trường hẹp khó dự đoán.
Sản phẩm phục vụ đơn ngành, khó tiêu thụ rộng
Nguyên liệu đặc chủng, dễ phụ thuộc vào nhà cung cấp.
2.4. Đặc điểm về lao động
Là nhà máy chuyên sửa chữa đại tu ô tô, máy kéo gần 30 năm nên hầu hết lao động của nhà máy thạo việc sửa chữa. Sau năm 1997, nhà máy chuyển sang Bộ xây dựng làm nhiệm vụ chế tạo thiết bị và kết cấu thép nên lao động của nhà máy vẫn chưa quen với cách làm việc của ngành Xây lắp.
Bảng số 3: Bảng kê số lượng , chất lượng công nhân của nhà máy tính đến 15-10 - 1998.
Số TT
Nghề
Bậc
I
II
III
IV
V
VI
VII
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
Điện
Phay- Bào
Nguội
Rèn
Đúc
Hàn
Mộc
Sơn
Lái máy
Gò
Tiện
Sửa chữa
Mài - Doa
Luyện kim
Nhiên liệu
Vận hành
Lái xe
Tổng số
7
3
6
4
12
13
3
8
1
16
21
18
2
1
11
4
3
123
1
1
2
1
1
1
3
1
1
1
2
6
102
2
1
1
1
2
2
3
5
3
4
1
1
1
1
3
6
1
1
1
3
2
4
1
1
121
2
2
3
3
2
1
2
1
6
1
1
1
1
2
2
1
3
1
Bảng số 4: Bảng thống kê chất lượng cán bộ khoa học kỹ thuật
STT
Chức danh cán bộ
Tổng số
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Kỹ sư cơ khí chế tạo
Ký sư kinh tế
Kỹ sư cơ khí sửa chữa
Kỹ sư động lực
Trung cấp kế toán
Trung cấp cơ khí
Trung cấp xây dựng
Trung cấp điện
Trung cấp y tế
Văn thư
Thống kê
Giáo viên dạy nghề
Bảo vệ
Giữ trẻ + B7
5
4
7
7
3
3
3
2
1
1
1
1
3
2
Tổng cộng: 43 người
Qua hai bảng trên cho thấy:
- Tỷ lệ gián tiếp của nhà máy còn cao = 35%
- Tỷ lệ công nhân, cán bộ xây dựng quá thấp
- Tỷ lệ công nhân, kỹ sư sửa chữa ôtô quá nhiều
Điều đó làm phân tán nguồn lực lao động của nhà máy vì hầu hết người lao động và cán bộ quản lý làm trái nghề ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng lao động và thu nhập.
2.5. Đặc điểm về máy móc thiết bị
Như trên đã nêu, hầu hết máy móc thiết bị của nhà máy là phục vụ cho công tác sửa chữa ôtô, máy kéo, do đó trang bị máy móc phục vụ cho hoạt động xây lắp, chế tạo của nhà máy hầu như thiếu. Theo kiểm kê của nhà máy cuối năm 1999 danh mục máy móc thiết bị của nhà máy gồm:
Bảng số 5: Danh mục TSCĐ cuối năm 1996
Số TT
Tên máy và ký hiệu
Số lượng
Tình trạng KT
% Chất lượng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
Máy tiện Tiệp Khắc
Máy tiện Việt nam T6M16
Máy tiện Việt nam T6M20
T616
T630
T630L
Máy tiện Liên Xô 136
1K62
1K20
16516
Máy cần cẩu của Liên Xô
Máy dột dập Việt nam (25T)
Máy dột dập Trung quốc (30T)
Máy phay Trung Quốc
Liên Xô
Việt nam
Máy bào Việt nam
Máy sọc Trung Quốc
Khoan Cầu
Máy hàn Việt nam
Máy nén khí
Máy cắt tự động
Máy đột bích
Máy lốc sóng
Máy lốc vuông
Máy mài xupáp - trục cơ
Máy mài hai đá phẳng
Máy phát điện
Chai hơi
Mỏ cắt khí
Cẩu nhỏ
Cẩu ngang
2
1
3
1
1
2
1
1
1
2
1
2
1
2
2
3
4
6
3
6
2
2
3
2
1
1
46
30
3
1
Hỏng
làm việc
-
-
-
-
Hỏng
Làm việc
-
-
Hỏng
1hỏng- 1 làm việc
-
-
-
-
-
-
-
Làm việc
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
20%
40%
40%
30%
30%
40%
40%
25%
25%
30%
30%
30%
-
-
-
-
-
40%
-
80%
70%
70%
70%
40%
30%
30%
30%
30%
30%
80%
Tại nhà máy, phần lớn máy móc thiết bị phục vụ cho sửa chữa. Tuy có mua thêm một số thiết bị mới như Cẩu ngang 300 triệu hoặc máy cắt tư động, máy lốc...nhưng với yêu cầu của một nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép thì còn thiếu nhiều. Do tính chất đặc thù của sản phẩm xây lắp hầu hết số lượng là phi tiêu chuẩn đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao nên nếu như nhà máy không có hệ thống máy móc thiết bị phù hợp thì khả năng gia công sản phẩm của nhà máy sẽ giảm đi nhiều.
Hiện nay hầu hết các sản phẩm có kích thước >ặ 800 nhà máy đều không gia công được. Hoặc các sản phẩm cơ khí nặng trên 800kg đều không được đưa vào máy tiện hoặc phay vì không có cẩu tự hành...
2.6. Đặc điểm về vốn sản xuất kinh doanh
Biểu 6: Cơ cấu vốn của nhà máy
Cơ cấu vốn
1997 (Tỷ đồng)
1998 (Tỷ đồng)
1999(Tỷ đồng)
Vốn cố định
3,6
3,4
3,8
Vốn lưu động
0,4
0,5
0,7
Vốn vay
0,3
0,4
Tỷ trọng vốn vay/ vốn lưu động
60%
57%
Là doanh nghiệp Nhà nước , nguồn vốn của nhà máy chủ yếu là vốn ngân sách, vốn do nhà máy tự tích luỹ chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Nguồn vốn ngân sách chủ yếu là vốn cố định được tính bằng giá trị tài sản cố định, máy móc thiết bị nhưng vốn cố định lại không phục vụ hoàn toàn cho sản xuất vì máy móc thiết bị phục vụ cho sửa chữa chứ không phải cho chế tạo.
Vốn lưu động rất ít vì hầu hết nhà máy làm hàng gia công
Chỉ khi hàng nhà máy khai thác được lúc đó nhà máy mới huy động vốn lưu động.
1 chu kỳ sản xuất thường từ 5-7 tháng do đó tốc độ lưu chuyển vốn chậm.
Có thể nói hiệu quả sử dụng vốn của nhà máy thấp.
2.7.Đặc điểm về chi phí và giá thành
Đối với các sản phẩm nhà máy gia công của Công ty thì giá thành được Công ty tính toán, nhà máy chỉ tính các khoản mục chi phí trong quá trình gia công như:
- Chi phí nguyên vật liệu phụ.
- Chi phí nhiên liệu.
- Chi phí năng lượng
- Chi phí tiền lương, bảo hiểm xã hội
- Chi phí khấu hao
- Chi phí quản lý phân xưởng
- Chi phí quản lý doanh nghiệp
- Chi phí khác
Để sau khi kết thúc quá trình gia công, Công ty trích trả lại cho nhà máy. Đối với các sản phẩm do nhà máy sản xuất thì giá thành sản phẩm của nhà máy chính là giá thành công xưởng vì nhà máy không phải lo khâu tiêu thụ.
Chi phí để tính giá thành bao gồm tất cả các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất sản phẩm.
III. Phân tích thực trạng công tác đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy.
1.Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3 năm 1997- 1999.
Kết quả sản xuất kinh doanh được thể hiện ở bảng tổng kết sau:
Bảng 7: Kết quả sản xuất kinh doanh 1997- 1999.
Các chỉ tiêu
Đơn vị tính
1997
1998
1999
Khối lượng sản phẩm
Hàng gia công
Hàng khai thác
Giá trị tổng sản lượng
Hàng gia công
Hàng khai thác
Tổng doanh thu
Hàng gia công
Hàng khai thác
Nộp ngân sách
Lương bình quân
Lợi nhuận
Tấn
Tỷ đồng
Tỷ đồng
Triệu đồng
đồng
Triệu đồng
36
30
6
1,22
0,84
0,38
1,68
1,15
0,53
78
410.000
210
78
75
3
0,92
0,73
0,19
1,33
1,08
0,25
63
360.000
160,6
91
83
8
1,049
0,88
0,269
1,436
0,926
0,41
60
380.000
130
Bước sang năm 1999 tổng số lao động chưa có việc làm của nhà máy là 60%. Cho đến tận tháng 4- 1999 Công ty mới giao cho nhà máy một số mặt hàng gia công phục vụ công trình Phả Lại II và YALY nhưng cũng chỉ đủ việc làm cho nhà máy tới tháng 9.
Cuối tháng10, nhà máy phải gửi 50 công nhân sang đơn vị bạn để tạo điều kiện thu nhập cho lao động trong nhà máy.
Năm 1999 nhà máy gặp nhiều khó khăn, thể hiện ở các mặt sau:
- Do ít việc làm, địa điểm công trình xa, đội ngũ gián tiếp nhiều nên việc tổ chức sản xuất và quản lý lao động của nhà máy chưa được chặt chẽ.
Công tác giám sát vật tư, tổ chức sản xuất không thống nhất giữa định mức và thực tế cho nên khi quyết toán thường bị chậm, chất lượng sản phẩm còn kém do trình độ tay nghề công nhân chưa cao, chưa thạo việc, do máy móc không chuyên dụng và qui trình công nghệ chưa hợp lý.Các yếu tố trên làm ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lao động, tới hiệu quả kinh doanh, tới cơ hội tìm kếm thị trường của nhà máy thấp.
Bước sang năm 2000, để nhà máy thực sự tồn tại và phát triển ổn định thì nhà máy phải xây dựng được một hệ thống các giải pháp đồng bộ mang tính cách mạng từ yếu tố con người đến yếu tố thị trường, từ chiến lược kinh doanh đến phương pháp thực hiện.
Đó là bài toán khó đặt ra không chỉ đối với lãnh đạo nhà máy, Công ty mà thậm chí cả lãnh đạo Tổng Công ty.Chọn các giải pháp nào có khả thi trong hoàn cảnh sản xuất cầm chừng của nhà máy đang được cấp trên quan tâm.
Trước mắt trong năm 2000 lãnh đạo nhà máy duy trì được như năm 1999 với mục tiêu cụ thể là:
Giá trị tổng sản llượng: 1,2 tỷ đồng
Lợi nhuận : 0,3 tỷ đồng
Lương bình quân : 380.000 đồng/người/ tháng
2. Phân tích thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép.
a. Sự cần thiết phải đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy.
Cũng như hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp ra đời trong cơ chế KHH tập trung, ngay từ ngày đầu thành lập nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép được trang bị máy móc thiết bị và đào tạo nguồn lao động chỉ để phục vụ cho việc chuyên môn hoá các dịch vụ sửa chữa trung đại tu các loại ôtô, máy động lực, máy kéo... của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Sau năm 1996 nhà máy được chuyển về Tổng Công ty lắp máy Việt nam thuộc Bộ Xây dựng. Với các nhiệm vụ mới phục vụ cho ngành xây lắp nhà máy đã tỏ ra có nhiều bất cập trong công tác xây dựng chiến lược kinh doanh, tổ chức sản xuất ...Với hệ thống máy móc thiết bị chuyên dùng, nguồn lao động có chuyên môn khác biệt việc chế tạo sản phẩm phục vụ cho xây lắp là điều khó đối với nhà máy.
Một vấn đề đặt ra với nhà máy là cần phải tìm một hướng đi mới sao cho phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật và tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh tối ưu.
Trải qua 4 năm 1996-1999 vừa tìm tòi, vừa cố gắng nhà máy bước đầu đã ghi nhận một số kết quả đáng mừng. Cho dù kế hoạch cấp trên giao ít cũng như không ổn định, máy móc thiết bị thiếu và người lao động chưa quen việc nhưng nhà máy vẫn hoàn thành các kế hoạch của Công ty giao.
Bước đầu nhà máy đã tìm được thị trường mới nhằm tận dụng các nguồn lực có sẵn như máy móc thiết bị, công nhân, quản lý.
Trong 3 năm giá trị hàng hoá dịch vụ mà nhà máy tự khai thác thường chiếm từ 28% đến 31% và chiếm tới gần 29% tổng doanh thu.
Mặc dù là nhà máy thực hiện chuyên môn hoá sản xuất nhưng qua kết quả sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là kết quả sản xuất kinh doanh những mặt hàng ngoài kế hoạch, lãnh đạo nhà máy đã nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng thị trường sản phẩm, sản xuất sản phẩm theo hướng mở rộng chủng loại, đa dạng hoá các loại hình sản xuất dịch vụ nhằm tận dụng tối đa nămg lực máy móc thiết bị, khai thác triệt để tiềm năng người lao động của nhà máy để phấn đấu ổn định sản xuất cũng như phấn đấu đạt các chỉ tiêu kinh tế như giá trị tổng sản lượng, doanh thu, lợi nhuận , lương, nôp ngân sách...
Đứng trước sự chuyển đổi cơ chế quản lý, có thể nói giai đoạn 1996-1999 nhà máy gặp rất nhiều khó khăn trong công tác sản xuất kinh doanh.
- Sản xuất các mặt hàng mới thì nhà máy không đủ máy móc thiết bị cũng như chưa có đội ngũ công nhân chuyên ngành.
- Dịch vụ sửa chữa truyền thống gần như không có vì chức năng nhiệm vụ mới của nhà máy được Tổng Công ty qui định khác: sản xuất thiết bị và lắp đặt thiết bị mới...
Năm 1997, danh mục máy móc thiết bị nhà máy cần phải được đầu tư mới để phục vụ cho việc sản xuất lắp đặt kết cấu thép là:
Bảng 8: Máy móc thiết bị cần đầu tư
Tên máy móc thiết bị
Đơn vị tính
Sản lượng cần có
Đơn giá (USD)
Công suất
Máy cắt đột 40 tấn
Máy cắt đột 8 tấn
Máy cắt đột 25 tấn
Máy búa các loại
Máy lốc tôn
Máy lốc ống
Máy cắt hơi tự động
Máy cắt hơi tay
Máy hàn argong
Máy nén khí
Cẩu ngang
Cẩu trục đứng
Lò tôi
Lò gang thép
Cái
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
-
3
1
1
6
2
1
6
10
2
3
1
3
1
1
4000
1200
2000
800
12.000
4300
6000
500
3800
1300
25.000
6000
11.000
35.000
35 kw
10 kw
25 kw
Từ 25- 30 kw
80 kw
125 kw
25 at
11 at
25 TCK
25 at
80 kw
15 tấn
1 tấn/ca
1 tấn/ ca
Riêng khoản đầu tư mới đã lên tới 104.000 USD tương đương 1,5 tỷ đồng, đó là chưa kể đến các chi phí cho việc đào tạo lại chuyên môn của người lao động, thay đổi cơ cấu tổ chức quản lý, cơ cấu sản xuất cũng như việc thay đổi sắp xếp lại các dây chuyền sản xuất cũ, lắp đặt dây chuyền sản xuất mới.
Mặt khác đầu tư mới sẽ dẫn đến việc chuyển máy móc thiết bị cũ ra khỏi nhà máy. Chuyển đi đâu, chi phí cho công tác bảo duỡng về chuyển số máy móc thiết bị mới này như thế nào cũng là vẫn đề hết sức nan giải của nhà máy trong hoàn cảnh nhà máy và Công ty thiếu vốn trầm trọng.
Xuất phát từ ý tưởng ban đầu là tìm việc làm để ổn định đời sống công nhân, qua từng bước thử nghiệm nhà máy đã dần nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc mở rộng cơ câú dịch vụ sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường.
Trong 3 năm 1996- 1998 danh mục dịch vụ và sản xuất sản phẩm của nhà máy từng bước được tạo lập theo các số liệu thống kê sau: (trang bên)
Tuy tỷ trọng doanh thu của các sản phẩm dịch vụ do nhà máy khai thác còn thấp so với tổng doanh thu nhưng điều đó đã chứng tỏ hướng đi đúng của nhà máy trong việc xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với hoàn cảnh của nhà máy trong giai đoạn chuyển đổi.
Việc nhà máy mở rộng loại hình kinh doanh và sản xuất sản phẩm đã góp phần vào việc tạo doanh thu, lợi nhuận, từng bước tạo công việc, thu nhập cho người lao động trong nhà máy giúp nhà máy dần ổn định.
b. Thực trạng công tác đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy.
Cho tới năm 1999, tại nhà máy chế tạo thiết bị và kết cấu thép tồn tại hai hướng chuyên môn hoá chính là:
-Chuyên môn hoá dịch vụ sửa chữa ôtô, máy động lực... Loại hình CMH này xuất phát từ cơ sở ban đầu của nhà máy là xưởng sửa chữa ôtô của Bộ Nông trường.
-Chuyên môn hóa sản xuất thiết bị và kết cấu thép. Loại hình CMH này được hình thành từ nhiệm vụ, chức năng mới của nhà máy từ khi nhà máy chuyển sang Bộ Xây dựng.
Thực tế sản xuất kinh doanh của Nhà máy trong thời gian qua chính là việc kết hợp giữa sản xuất và dịch vụ. Vì vậy đa dạng hoá của nhà máy luôn xoay quanh 2 trọng tâm chính là CMH sửa chữa và CMH sản xuất thiết bị xây lắp.
Bảng 9: Tình hình thực hiện chế tạo sản phẩm dịch vụ khai thác
Tên sản phẩm dịch vụ
Đơn vị tính
1996
1997
1998
SL
DT (Nghìn đông)
Tỷ trọng
SL
DT (nghìn đồng)
Tỷ trọng
SL
DT (nghìn đồng)
Tỷ trọng
Tên sản phẩm:
1. Máy tuốt lúa đạp chân.
2. Máy tuốt lúa có động cơ
3. Bàn tẽ ngô thủ công
4. Xe cải tiến
5. Phụ tùng thay thế
6. Bánh lồng
Tên dịch vụ
1. Cân bơm cao cấp
2. Mài khuỷu
3.Thay tổng thành
4. Thay hơi
5. Đóng thuỳ bệ
7.Trung, đại tu
Cái
-
-
-
kg
Cái
Cái
-
Lần
Bộ
-
Cần
13
8
50
50
500
12
60
30
6
40
12
3
300
1200
150
150
6
600
40
120
1200
600
4300
15.000
2,2%
5,6%
4,3%
4,3%
1,7%
4,1%
1,4%
2%
4,1%
13,9%
30%
26%
15
12
26
40
700
15
80
53
7
50
15
4
300
1150
130
150
6,2
600
40
60
1200
600
4500
15.000
2,2%
6,75%
1,,65%
2,9%
2,1%
19,9%
1,5%
1,5%
4,1%
14,7%
33%
29,3%
10
15
20
40
600
15
90
60
10
60
27
7
300
1150
130
150
62
650
40
60
1200
600
4500
15.000
1%
5,3%
0,8%
1,9%
1,2%
3%
1,2%
3,7%
11%
37,4%
32,4%
86,8%
b1. Đa dạng hoá sản phẩm từ CMH bằng các sản phẩm và dịch vụ do nhà máy tự khai thác.
Với hình thức đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ từ CMH, nhà máy đã dần ìm được thị trường riêng cho mình và đã tránh được tình trạng chờ việc hoàn toàn từ cấp trên.
Dựa trên mức tăng trưởng về khối lượng sản phẩm cũng như doanh thu của các mặt hàng, dịch vị đa dạng hoá nhà máy đã khẳng định chiến lược đa dạng hoá sản phẩm là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh. Từ đó nhà máy đã thống kê được các chỉ tiêu định mức cơ bản cho từng loại dịch vụ và sản phẩm như thời gian lao động, chi phí, doanh thu, lợi nhuận.
Bảng 10: Sản lượng sản phẩm đa dạng hoá từ sản phẩm CMH
Tên chi tiết
ĐV tính
KL (Kg)
Tổng CP
Tổng DT
Lợi nhuận
Thời gian (h)
1.Máy tuốt lúa
2.Máy tuốt lúa động cơ
3.Bàn tẽ ngô
4. Xe cải tiến
5. Bánh lông
6. Phụ tùng
Cái
-
-
-
Đôi
Kg
84
163
36
40
103
1
260.000
1.050.000
130
145.000
450.000
6000đ
300.000
1.200.000
150.000
150.000
600.000
650.000
40.000
150.000
20.000
35.000
150.000
500đ/kg
18
40
6
10
23
Bảng 11 : Số lượng dịch vụ đa dạng hoá
Tên dịch vụ SC
Thời gian SC(h)
Chi phí SC(đồng)
Doanh thu
Tổng Lợi nhuận (đ)
Đơn vị tính
1. Cân bơm cao áp
2. Mài khuỷu
3.Thay tổng thành
4.Thay hơi
5. Đóng thuỳ bệ
6.Đại tu toàn bộ
3
6
72
36
96
23
20.000
80.000
100.000
400.000
3.500.000
11.000.000
40.000
120.000
12.000
600.000
430.000
15.000.000
20.000
40.000
200.000
200.000
800.000
4.000.000
Lần
-
-
-
-
-
Bảng 12: Tỷ trọng của từng sản phẩm và dịch vụ
Tên sản phẩm dịch vụ
1997
1998
1999
TổngLN (nghìn đ)
Tỷ trọng
TổngLN (Nghìn đ)
Tỷ trọng
TổngLN (nghìn đ)
Tỷ trọng
1. Máy tuốt lúa đạp chân
2. Máy tuốt lúa có động cơ
3.Bàn tẽ nglô
4.Xe cải tiến
5. Phụ tùng thay thế
6.Bánh lồng
7. Cân bơm
8. Mài khuỷu
9.Thay tổng thành
10. Thay hơi
11.Đóng thuỳ bệ
12.Đại tu
Tổng
520
1200
1000
1750
250
1800
1200
1200
1200
8000
9600
12.000
38.820
1,33
3,09
2,2
4,5
0,6
4,6
3,09
3,09
3,09
20,6
24,7
30,9
600
1800
520
1400
350
2250
1600
2120
1400
10.000
12.000
16.000
50.040
1,1
3,2
1
2,7
0,7
4,49
3,19
4,2
2,7
19,9
23,9
31,9
400
2250
400
1400
300
2250
1800
2400
2000
12.000
21.600
28.000
74.800
0,05
3
0,05
1,8
0,04
3
24,3
3,2
2,6
16
28,8
37,4
Lãnh đạo nhà máy đã nhận định:
- Cơ cấu sản phẩm dịch vụ thay đổi qua các năm
- Cơ cấu sản phẩm dịch vụ phụ thuộc vào các thay đổi từ phía người tiêu dùng.
- Cơ cấu phục vụ nông nghiệp thay dổi do cơ cấu nông nghệp chuyển dịch theo hướng cơ giới hoá.
b2. Đa dạng hoá sản phẩm bằng cách đẩy mạnh CMH nhằm tận dụng triệt để các yếu tố của quá trình sản xuất thông qua cấu tạo các sản phẩm do Công ty giao xuống. CMH sản phẩm của nhà máy chủ yếu là gia công kết cấu thép, chế tạo các thiết bị kim loại đen tiêu chuẩn và phi tiêu chuẩn phục vụ cho các ngành kinh tế khác.
Với hệ thống máy móc thiết bị được trang bị bổ sung theo biểu thống kê sau:
Biểu 13: Máy móc thiết bị được nhà máy đầu tư cho sản phẩm CMH.
Tên máy móc thiết bị
Đơn vị tính
Số lượng
Giá trị còn lại (%)
Nguyên giá (USD)
Công suất
Máy cắt đột 40T
Máy cắt đột 8T
Máy cắt đột hơi tay
Cẩu ngang
Cẩu trục
Máy nén
Cái
-
-
-
-
-
1
1
2
1
1
1
40
60
70
95
40
50
4000
1200
500
25.000
6000
1300
40 tấn
8 tấn
11 at
80 kw
1,5 tấn
25 at
Nhà máy thực ra chỉ có thể sản xuất được các sản phẩm nhỏ, có kỹ thuật bé độ dày thấp, độ chính xác không cao ví dụ như: xà, cột, thép, bích, vai đệm, bằng gang, thép mỏng... hoặc ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0197.doc