Một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại Công ty Điện máy - Xe đạp, xe máy

Lời nói đầu Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đánh giá kết quả hoạt động sản xuất - Kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao lợi nhuận là mục tiêu kinh tế hàng đầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó tạo điều kiện cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên, tăng tích luỹ đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tiết kiệm chi phí, nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại Công ty Điện máy - Xe đạp, xe máy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp như : Chủ doanh nghiệp, chủ nợ, nhà cung cấp, nhà nước . . . trong đó, mỗi đối tượng đều quan tâm trên những góc độ khác nhau. Đối với nhà nước, nắm được kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị để có thể đưa ra các chính sách quản lí kinh tế hợp lý. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị, nắm được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để đưa ra các quyết định nhằm tối đa hoá lợi nhuận và giá trị doanh nghiệp. Các chủ nợ, nhà cung cấp, khách hàng, quan tâm tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để làm căn cứ xây dựng mối quan hệ với đơn vị . . . . chính vì vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp là mối quan tâm hàng đầu của các chủ sở hữu và các nhà quản lí tài chính trong các doanh nghiệp. Lợi nhuận sẽ là nguồn nội lực tăng cường và biểu hiện trực tiếp sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Thời gian vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng XHCN các doanh nghiệp chuyển sang thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không còn được sự bao cấp của nhà nước như trước đây. Do đó các nhà quản trị kinh doanh đều quan tâm tới kết quả kinh doanh của đơn vị, họ đều ý thức được tầm quan trọng của việc nâng cao lợi nhuận đối với sự tồn tại và phát triển của mình trên thị trường. Thực tế sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp đã dần dần thích ứng với cơ chế thị trường, kinh doanh có lãi, góp phần thúc đẩy sự phát triển liên tục của nền kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn không ít doanh nghiệp không chuyển biến kịp với nền kinh tế dẫn tới tình trạng phá sản. Mặt khác, sự mất ổn định của nền kinh tế trong khu vực đã ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của các doanh nghiệp Việt Nam. Công ty Điện máy- xe đạp, xe máy (TODIMAX ) là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc bộ Thương Mại. Cũng như các doanh nghiệp nhà nước khác, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công ty đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Nhưng với sự cố gắng, quyết tâm của ban giám đốc, cùng toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty đã vượt qua những khó khăn, dần đi vào hoạt động ổn định có hiệu quả, lợi nhuận hàng năm được nâng cao, đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện rõ rệt và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước. Để tiếp tục duy trì và nâng cao lợi nhuận, đòi hỏi công ty phải thiết lập kế hoạch, định hướng phát triển và đề ra các biện pháp cụ thể phù hợp với điều kiện công ty và thích ứng với nền kinh tế thị trường. Trong thời gian thực tập tại công ty điện máy - xe đạp, xe máy. Với những kiến thức được trang bị trong nhà trường; cùng với tình hình thực tế của công ty được sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của Thạc sĩ : Lê Hương Lan và các cô, chú phòng tài chính - Kế toán, ban giám đốc công ty, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại công ty Điện máy - xe đạp, xe máy ~ Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, đánh giá khái quát tình hình hoạt động kinh doanh, lợi nhuận của công ty, từ đó đưa ra một số biện pháp nâng cao lợi nhuận cho công ty. Trên cơ sở đó, đề tài được chia làm ba chương như sau : - Chương I : Những vấn đề chung về lợi nhuận ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. - Chương II : Tình hình lợi nhuận tại công ty Điện máy - xe đạp, xe máy. - Chương III : Một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại công ty Điện máy - xe đạp, xe máy. Đây là lần đầu tiên tiếp xúc với thực tế, do thời gian và trình độ chuyên môn còn hạn chế, mặc dù đã có sự cố gắng lỗ lực của bản thân, nhưng bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý kiến phê bình của các thầy, cô giáo, các cô, chú trong công ty Điện máy - xe đạp xe máy để bài viết của em hoàn thiện về lí luận và thiết thực với thực tế. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương I Tổng quan về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường I -/ Nền kinh tế thị trường và ảnh hưởng của nó đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 1 Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã trải qua hai mô hình kinh tế cơ bản là mô hình kinh tế tự nhiên và mô hình kinh tế hàng hoá mà đỉnh cao của nó là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường xuất hiện như là yêu cầu khách quan không thể thiếu được của nền kinh tế hàng hoá. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường là hoạt động kinh tế chủ yếu nhằm tạo ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu khách hàng, tất cả các mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Trong cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trò quan trọng, quản lí vĩ mô nền kinh tế, các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau đều bình đẳng, tự chủ, tự do kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa liên kết hợp tác cùng phát triển, tự do hoá thương mại và cạnh tranh tạo ra khả năng cho thị trường phát huy vai trò tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng hoá. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện phát triển cạnh tranh hướng về hiệu quả thông qua các chính sách, hệ thống pháp luật, chế độ, điều lệ . . . nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế cơ bản quyết định tới sự phát triển của thị trường. Doanh nghiệp được hiểu “ Là một tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh ~ 1 Khác với cơ chế tập trung bao cấp, các Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không còn được sự bao cấp , họ phải tự chủ về tài chính và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động KD của mình. Mục tiêu cao nhất của Doanh nghiệp là thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng và tối đa hoá lợi nhuận . Hiến pháp nước CHXHCN Việt nam quy định “Mọi công dân có quyền bình đẳng trong kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật “. Đây là chính sách của nhà nước ta nhằm khuyến khích mọi cá nhân tham gia kinh doanh . 1 Nguồn : luật doanh nghiệp Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, căn cứ vào quan hệ sở hữu về vốn và tài sản ta có thể phân chia thành các loại như sau : -Doanh nghiệp nhà nước : Là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập tổ chức quản lí, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao. Nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước ở Việt nam, kinh tế nhà nước ( đại diện là các doanh nghiệp nhà nước ) giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện thông qua việc nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt, có khả năng điều tiết được các thành phần kinh tế khác. - Doanh nghiệp tư nhân: là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn mức vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động của doanh nghiệp. Thành phần kinh tế tư nhân (doanh nghiệp tư nhân) sau một thời gian dài bị kìm hãm phát triển, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã phát triển một cách đa dạng cả về số lượng và lĩnh vực kinh doanh góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước, tuy nhiên thành phần kinh tế này đã bộc lộ nhiều tiêu cực đòi hỏi có sự quản lí của nhà nước. - Doanh nghiệp liên doanh : Là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí kết giữa Chính phủ cộng hoà chủ nghĩa Việt Nam với chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Phát triển loại hình doanh nghiệp này nhằm thu hút vốn, khoa học công nghệ hiện đại và trình độ quản lí tiên tiến của nước ngoài phát triển sản xuất trong nước tăng xuất khẩu hàng hoá. - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư vốn đầu tư nước ngoài : Là doanh nghiệp do nhà nước đầu tư nước ngoài đầu tư vốn tại Việt Nam, được thành lập dưới hình thức của một công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân mang quốc tịch Việt nam. - Doanh nghiệp công ty : là những doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Công ty được chia làm hai loại : Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. + Công ty cổ phần là công ty trong đó : Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. + Công ty trách nhiệm hữu hạn : Là công ty, trong đó : Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt quá 50. Thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. * Phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng đủ ngay khi thành lập công ty và ghi rõ vào điều lệ, công ty không được phát hành bất cứ loại chứng khoán nào trong quá trình kinh doanh. 2/ ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với thị trường, thông qua thị trường thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng. Do đó nền kinh tế thị trường ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để thấy được ảnh hưởng của nó, trước hết ta đi nghiên cứu các đặc trưng của nền kinh tế thị trường: - Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Nhà nước chỉ định hướng ở tầm vĩ mô, quản lí bằng hành lang pháp lí. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường. - Trên thị trường hàng hoá rất phong phú, quan hệ giữa người mua và người bán là bình đẳng. Người mua được quyền lựa chọn, người bán phải tìm người mua. Người bán và người mua gặp nhau ở giá cả trên thị trường. Sự đa dạng và phong phú về chủng loại và số lượng hàng hoá trên thị trường một mặt phản ảnh trình độ cao của năng suất lao động xã hội, mặt khác nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường. Điều đó phản ánh trình độ phát triển của khoa học kĩ thuật, tựu chung là phản ánh trình độ cao của lực lượng sản xuất xã hội. Vì vậy, nói đến thị trường là nói đến một nền kinh tế phát triển cao. - Giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của qui luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả, còn lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được lợi ích của người mua lẫn lợi ích người bán . Tất nhiên, trong cuộc giằng co giữa người mua và người bán để hình thành giá cả thị trường, lợi thế sẽ nghiêng về phía người bán nếu cung ít, cầu nhiều và ngược lại lợi thế sẽ nghiêng về phía người mua nếu như cung nhiều, cầu ít. - Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ, hệ thống pháp luật của nhà nước. - Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của qui luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận, các đơn vị sản xuất kinh doanh phải đua nhau cải tiến kĩ thuật, áp dụng kĩ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất, bao gồm : cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm : Cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường ( người bán với những người bán, người mua với những người mua ). Hình thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận. Thông qua các đặc trưng của nền kinh tế thị trường ta thấy nó có tác dụng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như sau : Trước hết, cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp các chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ. Hai là, cơ chế thị trường kích thích tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. Sở dĩ như vậy là vì : trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu lợi nhuận nhiều nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên và đổi mới thường xuyên. Ba là, nền kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất. Thế mạnh của nền kinh tế thị trường là năng suất, chất lượng và hiệu quả, phát huy tiềm năng, thúc đẩy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh doanh. Nó mở ra cơ hội cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, nhưng đồng thời đòi hỏi sự đổi mới thường xuyên của doanh nghiệp để thích ứng với nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những ưu điểm đó, kinh tế thị trường cũng biểu hiện những khuyết điểm mà bản thân nó không tự giải quyết được như : Khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, chu kì kinh doanh . . . Nó ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và lợi ích xã hội, đòi hỏi có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thông qua sự quản lí, điều tiết các hoạt động của doanh nghiệp. Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện do đại hội VI đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng, nền kinh tế nước ta đang dần chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô của nhà nước. So với cơ chế quản lí trước đây, trong cơ chế thị trường, cách thức hoạt động của doanh nghiệp hoàn toàn mới, các doanh nghiệp là những đơn vị kinh tế độc lập, bình đẳng, tự chủ đối với hoạt động kinh doanh của mình và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Nhìn chung các doanh nghiệp đã dần thích nghi với cơ chế thị trường, hoạt động có hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ( đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước ) đang đứng trước những khó khăn như : Thiếu vốn đầu tư mở rộng sản xuất, trang thiết bị kĩ thuật hiện đại, trình độ quản lý thấp, bộ máy quản lí cồng kềnh, trang thiết bị còn lạc hậu . . . đó đang là những vấn đề được đặt ra để giải quyết trong quá trình xắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, nền kinh tế thị trường vừa tạo ra thời cơ, vừa đặt ra những thách thức đối với hoạt động của doanh nghiệp. Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những biện pháp linh hoạt trước những biến động của thị trường. II-/ Lợi nhuận và sự cần thiết phải nâng cao lợi nhuận 1. Khái niệm và bản chất của lợi nhuận : Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều đối tượng quan tâm tới kết quả kinh doanh - lợi nhuận của doanh nghiệp, do đó tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận, xét trên các góc độ khác nhau ta có các khái niệm khác nhau về lợi nhuận như sau : Các nhà kinh tế học cổ điển trước Mark cho rằng “ Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất gọi là lợi nhuận “ Mark khi lí luận về giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản, cho rằng “Giá trị thặng dư hay các phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi nó là lợi nhuận ~ * Các nhà kinh tế học hiện đại, mà đại diện là David - Beggs, Samuelson lại cho rằng : “Lợi nhuận là khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi ra” hay cụ thể hơn lợi nhuận được định nghĩa một cách đơn giản là “ Sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của một doanh nghiệp trong một thời kì nhất định “ Các khái niệm trên tuy được phát triển khác nhau song chúng đều có một điểm chung là họ đều cho rằng lợi nhuận là số thu dôi ra so với chi phí đã bỏ ra. Đó chính là bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Do đó chúng ta có thể hiểu lợi nhuận chính là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ hàng hoá dịch vụ so với chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Việc nắm bắt được bản chất của lợi nhuận có ý nghĩa quan trọng, giúp nhà quản trị đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình và từ đó có các biện pháp tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 2/ Vì sao phải nâng cao lợi nhuận 2.1/ ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế và với nhà nước. Nó là chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh cuối cùng của đơn vị. Nếu kinh doanh có lãi, chứng tỏ doanh nghiệp tổ chức sản xuất hợp lí, cải tiến kỹ thuật, chất lượng sản phẩm tốt, giảm chi phí, hạ giá thành đầu tư đúng hướng vào thị trường yêu cầu. Điều đó tạo cho doanh nghiệp có điều kiện củng cố uy tín, gọi vốn kinh doanh, vốn đầu tư phát triển sản xuất. Mặt khác, nó tạo điều kiện tăng thu nhập cho cán bộ, công nhân viên chức của đơn vị, doanh nghiệp có cơ sở tái sản xuất mở rộng qui mô kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế quốc dân. Ngược lại, nếu kinh doanh thua lỗ sẽ làm giảm thu nhập của người lao động, doanh nghiệp không duy trì được sản xuất và dẫn tới không giữ vững và ổn định nền kinh tế quốc dân. Như vậy, chỉ tiêu lợi nhuận có tác động rất lớn tới quản lí kinh tế tài chính và chỉ đạo sản xuất ở đơn vị. * Nguồn : Cac Mark toàn tập - NXB sự thật Nó là cơ sở đánh giá hiệu quả của một quá trình sản xuất - kinh doanh, là cơ sở để lập phương án phân phối lợi nhuận, đồng thời là căn cứ để phát triển sản xuất ở doanh nghiệp. Thông qua kết quả kinh doanh, nhà nước nắm được hiệu quả sản xuất - kinh doanh ở đơn vị. Từ đó có chính sách kinh tế hợp lí điều chỉnh các qui chế quản lí, bổ xung các chính sách xã hội có liên quan. Đồng thời nhà nước cũng xem xét các nguồn thu ( nộp ngân sách, tính khấu hao TSCĐ, thu các loại thuế . . ) cho hợp lí. Đối với các tổ chức kinh tế, các đối tượng có liên quan ( như ngân hàng, chủ nợ, người cung ứng, khách hàng, cổ đông . . . ). Cũng quan tâm tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, vì nó là căn cứ để tham gia liên doanh, góp vốn đầu tư, bảo đảm cho khả năng thanh toán công nợ và quan hệ khác trong cung cấp nguyên liệu, hợp đồng kinh tế . .. 2.2/ Vai trò của lợi nhuận : Thông qua ý nghĩa của việc nghiên cứu lợi nhuận ở trên ta thấy lợi nhuận có vai trò quan trọng đối với cả doanh nghiệp và xã hội. * Đối với doanh nghiệp: Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lí, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thật vậy, để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho nhu cầu của thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng, các nhà doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định. Họ phải thuê đất đai, lao động, tiền vốn trong quá trình kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. Họ mong muốn hàng hoá của họ được tiêu thụ với giá ít nhất cũng đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra, ngoài ra còn muốn có phần “ dôi ra ~ để mở rộng phát triển sản xuất, trả cổ tức, thưởng thêm cho các nhà quản lí, công nhân viên . . . Tức là họ mong muốn hoạt động kinh doanh của mình phải có lợi nhuận. Nếu như không có lợi nhuận thì họ sẽ không sẵn sàng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, lợi nhuận là động lực thôi thúc các doanh nghiệp phát triển mở rộng sản xuất. - Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát phản ảnh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp trên thị trường. Cơ chế quản lí mới đã xoá bỏ sự bao cấp của nhà nước các doanh nghiệp tự chủ về tài chính, phải chủ động tìm nguồn tài nguyên cho mọi nhu cầu sản xuất, chỉ tiêu của đơn vị, lợi nhuận không những trở thành mục đích thiết thực mà còn là động lực trực tiếp mở rộng sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không có lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ không mở rộng được qui mô sản xuất, không có điều kiện để thay đổi công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên . . . từ đó sản phẩm bán ra không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, giá thành cao dẫn đến thất bại trong cạnh tranh, về lâu dài có thể dẫn tới phá sản. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, chất lượng sản phẩm chủ yếu được quyết định bởi trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nên đòi hỏi vốn đầu tư lớn để phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, nhà nước không còn bao cấp về vốn, giá cả, lãi suất . . . nên lợi nhuận trở thành nguồn tài chính quan trọng đáp ứng cho nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, mặt khác nâng cao lợi nhuận, hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ làm tăng uy tín cho doanh nghiệp, đó là cơ sở quan trọng thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, đầu tư cho cải tiến máy móc kĩ thuật, công nghệ sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. - Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Để hoạt động sản xuất của doanh nghiệp diễn ra một cách liên tục, có hiệu quả, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí . . . các doanh nghiệp phải quan tâm tới người lao động một cách thoả đáng, thông qua chính sách tiền lương, thưởng. Nguồn cơ bản để doanh nghiệp thực hiện các chính sách đó với người lao động là lợi nhuận. Lợi nhuận là nguồn để trích lập các quĩ khen thưởng, phúc lợi . . . từ đó doanh nghiệp có thể giải quyết từng bước nhu cầu vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp, nhằm khuyến khích và kích thích người lao động tạo nên động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Thực tế đã chứng minh rằng việc áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyến khích công nhân hăng say lao động, giảm bớt ngày nghỉ, có trách nhiệm đến chất lượng sản phẩm, phát huy tốt nhất sức sáng tạo của người lao động trong sản xuất - kinh doanh. * Đối với xã hội : - Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh hiệu quả sản xuất của nền kinh tế. Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ bản của xã hội, có thể nói kết quả của toàn bộ nền kinh tế là tổng hợp kết quả sản xuất của tất cả các doanh nghiệp cộng lại. Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, do đó nó phản ánh hiệu quả sản xuất của nền kinh tế. Một nền kinh tế phát triển có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi về môi trường kinh doanh môi trường tài chính, đầu tư . . . cho doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh có lãi và nó tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư sản xuất, chi phí, giá thành, các chỉ tiêu đầu ra và chính sách tài chính quốc gia. - Thông qua tình hình lợi nhuận doanh nghiệp, nhà nước tiến hành thu thuế thu nhập doanh nghiệp, tăng tích luỹ cho xã hội, đồng thời ra các quyết định quản lí vĩ mô nền kinh tế một cách phù hợp. Lợi nhuận không những có vai trò quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội. Lợi nhuận doanh nghiệp thu được trong kì sẽ được chuyển vào ngân sách nhà nước thông qua các sắc thuế theo qui định của pháp luật. Đây là nguồn vốn để tiến hành tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế, củng cố tiềm lực quốc phòng, duy trì bộ máy quản lý hành chính, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân. Những vấn đề trên chỉ có thể giải quyết khi các doanh nghiệp trong nước làm ăn có hiệu quả với doanh lợi ngày càng cao. Qua việc phân tích trên ta thấy, lợi nhuận có vai trò quan trọng tới sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp và toàn bộ xã hội, doanh nghiệp muốn tăng trưởng, mở rộng sản xuất phải có tích lũy, tức là phải tạo ra nhiều lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi sẽ đưa nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển. Trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, để phù hợp với giai đoạn mới của nền kinh tế, nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách tài chính nhằm từng bước cải thiện môi trường kinh doanh buộc các doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, lấy thu bù chi và có lãi. Qua thực tiễn, đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước rất năng động, linh hoạt, kịp thời thích nghi với môi trường kinh doanh mới. Các doanh nghiệp này luôn quan tâm đến việc tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Kết quả là các doanh nghiệp này đã phát triển mạnh, đứng vững trong thị trường cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên, cũng còn không ít doanh nghiệp nhà nước còn rất lúng túng, chậm thích nghi với cơ chế thị trường, vẫn còn mang phong cách kinh doanh cũ, tâm lý ỉ lại, trông chờ vào nhà nước dẫn tới kết quả là làm ăn kém hiệu quả, lợi nhuận thu được thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài dẫn tới phải ngừng sản xuất, giải thể doanh nghiệp, gây tác động tiêu cực cho xã hội : Thất nghiệp, đời sống khó khăn, tệ nạn xã hội . . . Do đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, nâng cao lợi nhuận không chỉ là mục tiêu hàng đầu mà còn là điều kiện quyết định sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. III-/ Phương pháp xác định lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận ở doanh nghiệp : 1.Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp: Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, để tăng cường khả năng cạnh tranh thu nhiều lợi nhuận, các doanh nghiệp đều tiến hành đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó lợi nhuận doanh nghiệp có thể thu được từ các hoạt động khác nhau như : Hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường tổng lợi nhuận sẽ là tổng hợp lợi nhuận từ các hoạt động đó. Như vậy, lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm 3 bộ phận : Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất - kinh doanh. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính. Lợi nhuận thu được từ hoạt động bất thường. Ta có thể khái quát lại việc xác định lợi nhuận bằng công thức : = + + Lợi nhuận Lợi nhuận hoạt Lợi nhuận hoạt Lợi nhuận hoạt Doanh nghiệp động kinh doanh động tài chính động bất thường *Lợi nhuận hoạt động kinh doanh : Là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ trong năm tài chính của doanh nghiệp (***) Lợi nhuận hoạt Doanh thu Giá thành = - động kinh doanh Thuần Toàn bộ Trong đó : - Doanh thu thuần là số chênh lệch giữa tổng doanh thu với các khoản giảm giá, chiết khấu bán hàng, doanh thu của số hàng bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu. (***) Nguồn tài liệu: Thông tư số 64/199/TT-BTC Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ + Tổng doanh thu ( Thu nhập từ hoạt động kinh doanh ) có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nó đảm bảo trang trải các khoản chi phí, thực hiện tái sản xuất và các nghĩa vụ với nhà nước. Doanh thu bán hàng là nguồn thu quan trọng chủ yếu trong tổng nguồn thu từ hoạt động kinh doanh. Đó là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm và cung ứng dịch vụ cho khách hàng, sản phẩm được xác định là tiêu thụ khi được đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. + Các khoản giảm trừ bao gồm : Chiết khấu bán hàng : Là số tiền thưởng tính 1trên tổng doanh thu trả cho khách hàng do đã thanh toán tiền hàng trước thời hạn qui định. Chiết khấu bán hàng còn được gọi là chiết khấu thanh toán. Giảm giá hàng bán : Là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng qui cách, giao hàng không đúng thời gian, địa điểm ghi trong hợp đồng . . . ( do chủ quan của doanh nghiệp ). Ngoài ra, tính vào các khoản giảm giá còn bao gồm khoản thưởng cho khách hàng do trong một khoảng thời gian nhất định đã tiến hành mua một khối lượng lớn hàng hoá ( hồi khấu ) và khoản giảm trừ trên giá bán thông thường vì mua khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt ( bớt giá ) . Hàng bán bị trả lại : Là số hàng đã được coi là tiêu thụ ( đã chuyển giao quyền sở hữu, đã thu tiền hay được người m._.ua chấp nhận nợ ) nhưng bị người mua từ chối trả lại do người bán không thực hiện đúng hợp đồng đã kí kết như không phù hợp yêu cầu, tiêu chuẩn, qui cách kĩ thuật, hàng kém phẩm chất không đúng chủng loại . . . Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu : là các loại thuế theo luật định, áp dụng cho các loại hàng hoá thuộc phạm vi chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá . - Giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm, giá thành sản phẩm và các khoản chi phí gián tiếp như chi phí bán hàng, chi phí quản lí doanh nghiệp. + Giá thành sản phẩm : Là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó. Ta thấy giá thành sản phẩm được phân ra thành hai bộ phận giá thành sản xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm đó. Trong đó : Giá thành tiêu thụ sản phẩm : bao gồm chi phí trực tiếp liên quan việc tiêu thụ sản phẩm ( đóng gói, bao bì, vận chuyển, bảo quản . . . ) và chi phí Marketing ( điều tra nghiên cứu thị trường, quảng cáo giới thiệu sản phẩm, chi phí bảo hành . . . ). Giá thành sản xuất sản phẩm : Bao gồm toàn bộ chi phí bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất ra sản phẩm. Được xác định như sau : Giá thành hàng Giá thành Chênh lệch thành = + bán sản xuất phẩm tồn kho Chênh lệch thành Thành phẩm tồn Thành phẩm tồn = - phẩm tồn kho kho đầu kì kho cuối kì Giá thành sản Chi phí Chênh lệch giá trị = + xuất sản xuất sản phẩm dở dang Chênh lệch giá trị Sản phẩm dở Sản phẩm dở dang = - sản phẩm dở dang dang đầu kì cuối kì. Chi phí sản xuất sản phẩm bao gồm : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung và chi phí khấu hao tài sản cố định. Ta có thể khái quát việc xác định giá thành hàng bán theo sơ đồ sau Chênh lệch sản phẩm dở dang Chênh lệch thành phẩm tồn kho ( đầu kì - cuối kì ) ( đầu kì - cuối kì ) Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Giá thành sản phẩm Giá thành hàng bán Chi phí KHTSCĐ Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất Riêng đối với cơ sở thương nghiệp, giá vốn hàng bán được xác định như sau: Giá vốn Giá vốn Chênh lệch hàng hoá = + Hàng bán Hàng mua Tồn kho Giá vốn hàng mua bao gồm giá mua và chi phí thu mua hàng hoá, dịch vụ Giá vốn hàng mua = Giá mua + Chi phí thu mua Chênh lệch hàng tồn kho là khoản chênh lệch giữa hàng hoá tồn trong kho giữa đầu kì và cuối kì : Chênh lệch hàng hoá Hàng hoá tồn kho Hàng hoá tồn kho = - Tồn kho đầu kì cuối kì. Sau khi xác định được chỉ tiêu doanh thu thuần và giá vốn hàng bán (hay giá thành hàng bán) chúng ta có được chỉ tiêu tài chính trung gian là “ Lãi gộp “ Lãi gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán. + Chi phí bán hàng : Gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như : Tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị đóng gói, bảo quản . . . khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu bao bì, dụng cụ, đồ dùng chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bảo hành, quảng cáo . . . . + Chi phí quản lí doanh nghiệp : bao gồm các chi phí quản lí kinh doanh, quản lí hành chính, và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lí ở các phòng ban, chi phí vật liệu để dùng cho văn phòng, KHTSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác chung cho toàn doanh nghiệp như lãi vay, dự phòng, phí kiểm toán, tiếp tân, tiếp khách, công tác phí . . . Như vậy lợi nhuận của doanh nghiệp từ hoạt động kinh doanh được xác định bằng công thức : Lợi nhuận Doanh thu Giá vốn Chi phí bán hàng và = - - Từ kinh doanh Thuần Hàng bán quản lý DN Hay: Lợi nhuận Lãi Chi phí bán hàng = - từ kinh doanh gộp và quản lí doanh nghiệp Qua việc xác định trên ta có thể tổng kết cách xác định lợi nhuận hoạt động kinh doanh chủ doanh nghiệp theo sơ đồ sau: Doanh thu Doanh Lãi gộp Lợi nhuận từ HĐKD Chi phí BH&QL Tiêu thụ Thu Sản phẩm Thuần Giá vốn Hàng hoá hàng bán dịch vụ Các khoản giảm trừ * Lợi nhuận hoạt động tài chính : Là số chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính. Lợi nhuận Thu nhập Chi phí = - Hoạt động tài chính Hoạt động tài chính Hoạt động tài chính Trong đó : - Thu nhập hoạt động tài chính : Là khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại gồm : Thu về hoạt động góp vốn tham gia liên doanh, thu nhập về hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán dài hạn và ngắn hạn, thu nhập về cho thuê tài sản, thu nhập về các hoạt động kinh doanh khác như kinh doanh bất động sản, thu lãi tiền gửi, thu lãi cho vay vốn, hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn và dài hạn . . . - Chi phí hoạt động tài chính : là các khoản chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan đến hoạt động về vốn gồm : Chi phí về liên doanh không tính vào giá trị vốn góp, lỗ liên doanh, lỗ do bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn, chi phí đầu tư tài chính, chi phí liên quan đến cho vay vốn, chi phí liên quan đến mua bán ngoại tệ, lỗ do bán ngoại tệ, chi phí khấu hao TSCĐ thuê tài chính, giá trị gốc của bất động sản, dự phòng giảm giá đầu tư . .. *Lợi nhuận hoạt động bất thường : Là số chênh lệch giữa thu nhập hoạt động bất thường và chi phí hoạt động bất thường. Lợi nhuận Thu nhập Chi phí = - Hoạt động bất thường HĐ bất thường HĐ bất thường Trong đó : - Thu nhập hoạt động bất thường : Còn gọi là thu nhập đặc biệt là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra một cách đều đặn và thường xuyên. Những khoản thu nhập bất thường có thể do chủ quản của doanh nghiệp hay khách quan đưa đến gồm: Thu về nhượng bán, thanh lí TSCĐ, thu tiền phạt do vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ, thu các khoản nợ không xác định được chủ, các khoản thu nhập kinh doanh của năm trước bị bỏ sót hay lãng quên chưa ghi sổ kế toán năm nay mới phát hiện ra, hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và các khoản thu khó đòi, giá trị hàng bán bị trả lại của năm trước quá lớn không thể trừ vào doanh thu của năm sau. - Chi phí bất thường: là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với những hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những khoản chi phí bất thường có thể do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan đưa tới, gồm : Giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lí nhượng bán, tiền phạt do vi phạm hợp đồng, bị phạt thuế, truy nộp thuế, các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay sai sót khi vào sổ chênh lệch phải thu khó đòi hoặc dự phòng phải thu khó đòi ( không đủ ) hoặc khoản thu khó đòi mất chắc chắn mà chưa lập dự phòng, số tiền trả lại khách hàng do số lượng hàng bán bị trả lại của năm trước quá lớn không thể trừ vào doanh thu của năm sau. Ta có thể khái quát việc xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính và hoạt động bất thường như sau : Thu nhập Chi phí HĐ Thu nhập hoạt Chi phí HĐ hoạt động tài chính động bất thường bất thường tài chính Lợi nhuận Lợi nhuận HĐ HĐ tài chính Bất thường Đối với các doanh nghiệp thuộc những ngành nghề khác nhau thì tỷ trọng mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng số lợi nhuận doanh nghiệp có sự khác nhau. Thông thường các doanh nghiệp ( khác với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ ) hoạt động sản xuất kinh doanh tách rời với hoạt động tài chính, do đó cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm cả ba bộ phận trên. Trong đó, tỉ trọng lợi nhuận hoạt động kinh doanh chiếm tỉ lệ chủ yếu (80%-90% ) Phân tích cơ cấu lợi nhuận giúp doanh nghiệp xác định được phần lợi nhuận nào chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp từ đó tập trung tìm nguyên nhân và xây dựng các biện pháp nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thực tế, trong điều kiện các doanh nghiệp ở Việt nam hiện nay, hoạt động tài chính còn hạn chế, hoạt động bất thường xảy ra không thường xuyên và cũng không quan trọng như bản chất của nó ; hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chính tạo ra hầu hết lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chính vì vậy mục đích của đề tài là tập trung nghiên cứu và tìm giải pháp nâng cao lợi nhuận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Các chỉ tiêu tài chính đánh giá tình hình lợi nhuận doanh nghiệp: Lợi nhuận được xác định ở trên cho chúng ta biết tổng quát về kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp từ các hoạt động. Tuy nhiên, nó có hạn chế là chỉ phản ánh qui mô lợi nhuận, điều đó có thể dẫn tới những sai lầm khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh trong kỳ. Vì vậy, để đánh giá chính xác kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, các nhà kinh tế thường sử dụng các chỉ số doanh lợi. Đặc biệt, đối với các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp khi đầu tư vốn vào kinh doanh hoặc lựa chọn dự án đầu tư có hiệu quả, họ thường quan tâm tới các chỉ số về doanh lợi và những biến động của nó trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Có 3 chỉ tiêu cơ bản đánh giá tỉ lệ doanh lợi của doanh nghiệp như sau: 2.1. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm: Doanh lợi Lợi nhuận ròng Tiêu thụ = -------------------- x 100% Sản phẩm Doanh thu thuần Trong đó : Lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế) : là phần lợi nhuận còn lại sau cùng khi doanh thu khấu trừ tổng chi phí và thuế thu nhập doanh nghiệp. Doanh thu thuần: là tổng doanh thu, thu được từ hoạt động tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ, hàng hoá được coi là tiêu thụ khi được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận nợ. Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100 đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng thu được trong hoạt động sản xuất - kinh doanh sự thay đổi mức doanh lợi tiêu thụ phản ánh những thay đổi về hiệu quả, đường lối sản phẩm hoặc loại khách hàng mà nó phục vụ. Để sử dụng chỉ tiêu tài chính này đánh giá tỉ lệ doanh lợi so với doanh thu thuần của doanh nghiệp, người ta so sánh tỉ lệ doanh lợi tiêu thụ sản phẩm qua các thời kì khác nhau và với tỉ lệ doanh lợi tiêu thụ của ngành từ đó đưa ra nhận xét về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị và tìm các nguyên nhân cũng như giải pháp để khắc phục. 2.2/ Doanh lợi vốn : Doanh lợi Lợi nhuận ròng = ------------------- x 100 % Vốn Toàn bộ vốn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn được đầu tư, hay còn gọi là khả năng sinh lời của đầu tư (ROI: Return On Investment). Doanh lợi vốn đầu tư là chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả sử dụng tổng số vốn đầu tư vào doanh nghiệp, nó có quan hệ tới hiệu quả của hoạt động quản lý kinh doanh trong kì. Vốn đầu tư doanh nghiệp được chia thành 2 loại: Vốn cố định và Vốn lưu động, do đó khi xác định doanh lợi vốn người ta cũng xác định riêng cho từng loại vốn trên. - Doanh lợi vốn cố định : Doanh lợi vốn Lợi nhuận ròng = ----------------- x 100 % cố định Vốn cố định Chỉ tiêu này cho ta biết hiệu quả sử dụng một đồng vốn cố định, đặc biệt là vốn sử dụng máy móc thiết bị và phương tiện kĩ thuật. Do đó, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị công nghệ có hiệu quả. - Doanh lợi vốn lưu động : Doanh lợi Lợi nhuận ròng = ------------------ x 100 % Vốn lưu động Vốn lưu động Chỉ tiêu này cho ta thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn lưu động đặc biệt là sử dụng vốn nguyên vật liêụ và nhiên liệu. Điều đó khuyến khích doanh nghiệp tiết kiệm vốn lưu động, sử dụng đầy đủ hợp lí, tiết kiệm nguyên vật liệu trong kinh doanh. 2.3/ Doanh lợi vốn tự có : Doanh lợi vốn tự có phản ánh khả năng sinh lời của vốn tự có, hay nói cách khác nó là tỉ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư của chủ sở hữu, được xác định bằng công thức sau : Doanh lợi Lợi nhuận ròng = -------------------- x 100 % Vốn tự có Vốn tự có Chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà đầu tư, nó chỉ cho nhà đầu tư biết 1 đồng vốn nhà đầu tư bỏ ra sẽ đem lại bao nhiêu lợi nhuận, từ đó có thể đưa ra quyết định lựa chọn phương án đầu tư tối ưu. Việc phân tích các chỉ số doanh lợi ở trên cho ta thấy hình ảnh tương đối đầy đủ về kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong kì, nhưng nó có khiếm khuyết là yếu tố thời gian không được đề cập. Các chỉ số này là hình ảnh chụp nhanh ở một thời điểm nhưng có thể những biến chuyển thăng trầm của thời gian làm thay đổi cả bộ mặt của một thời điểm theo chiếu hướng thuận lợi hay bất lợi. Do đó, sẽ là thiếu sót nếu không nghiên cứu yếu tố thời gian trong việc phân tích các chỉ số về mức doanh lợi. Phương pháp biểu đồ được sử dụng để chỉ rõ xu hướng hoạt động sản xuất - kinh doanh của một doanh nghiệp, phương pháp này có thể được diễn tả như sau : Trục hoành biểu thị thời gian, trục tung sẽ là các chỉ số doanh lợi cần nghiên cứu. Như thế trên biểu đồ sẽ có hai đường biểu diễn theo thời gian, một đường biểu diễn tỉ suất doanh lợi trung bình ngành và đường biểu diễn tỉ số đó của doanh nghiệp cần nghiên cứu. Qua biểu đồ ta có thể đánh giá được xu hướng của từng chỉ tiêu doanh lợi. Ngoài các phương pháp sử dụng để đánh giá tình hình lợi nhuận doanh nghiệp ở trên, còn một phương pháp khác được sử dụng khá phổ biến là phương pháp phân tích tài chính DUPOUT . 2.4/ Phương pháp phân tích tài chính DUPONT để phân tích hình hình doanh lợi của doanh nghiệp: Phương pháp tài chính DUPONT được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới, đặc biệt là ở Mĩ để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nói chung và mức doanh lợi vốn nói riêng. Phương pháp này có ưu điểm là nó không những chia ra các chỉ số mức doanh lợi như : doanh lợi tiêu thụ, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn tự có mà còn thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các chỉ số trên. Đặc biệt phương pháp DUPONT cho người nghiên cứu thấy được nguồn gốc cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới những chỉ tiêu, từ đó có biện pháp nâng cao mức doanh lợi cho doanh nghiệp. Ta có thể khái quát phương pháp qua sơ đồ sau: Số vòng quay toàn bộ vốn tiêu thụ Doanh lợi vốn Doanh lợi tiêu thụ Doanh thu thuần Toàn bộ vốn Lợi nhuận ròng Lãi nợ vay Doanh thu thuần Vốn cố định Tổng chi phí Doanh thu thuần Vốn lưu động Chi phí SX dở dang Vốn bằng tiền Vật tư - Hàng hoá Thuế TNDN Doanh lợi tiêu thụ Phí tổn hàng bán Khấu hao Chi phí điều hành Các khoản phải thu Bên phải hình vẽ khai triển số vòng quay toàn bộ vốn. Phần này trình bày : tài sản dự trữ, khoản phải thu, và vốn bằng tiền cộng với tài sản cố định để cho ra tổng số vốn đầu tư. Doanh thu thuần chia cho tổng số vốn đầu tư để có số vòng quay toàn bộ vốn. Nhìn vào bên phải của hình chúng ta có thể thấy vòng quay toàn bộ vốn. Nhìn vào bên phải của hình chúng ta có thể thấy vòng quay toàn bộ vốn sẽ bị ảnh hưởng bởi những nhân tố nào. Trên cơ sở nếu doanh nghiệp muốn gia tăng vòng quay vốn thì cần phải phân tích các nhân tố quan hệ để có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bên trái hình vẽ, triển khai doanh lợi trên doanh thu thuần các loại chi phí cộng thêm thuế thu nhập doanh nghiệp được khấu trừ vào số doanh thu để có lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế). Lợi nhuận ròng được chia cho số doanh thu thuần để có doanh lợi tiêu thụ. Bên trái của hình cho ta thấy rõ những nhân tố ảnh hưởng tới doanh lợi tiêu thụ. Trên cơ sở đó doanh nghiệp muốn gia tăng mức doanh lợi tiêu thụ, thì nhân tố tổng chi phí của hàng tiêu thụ cần được quan tâm, cụ thể hơn có thể đi sâu phân tích các loại chi phí cấu thành để có thể có các biện pháp hợp lí và kịp thời. Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu : Số vòng quay Doanh thu thuần = ----------------- Toàn bộ vốn Toàn bộ vốn Doanh lợi Lợi nhuận ròng = ----------------- x 100 % Tiêu thụ Doanh thu thuần Doanh lợi vốn = Doanh lợi tiêu thụ x Số vòng quay toàn bộ vốn Doanh lợi Doanh lợi vốn = ----------------. Vốn tự có Tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn Doanh lợi vốn Hay = ----------------- 1 - Tỉ số nợ 2.5/ Phân tích điểm hoà vốn : Phân tích điểm hoà vốn được sử dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp nhằm phục vụ cho xây dựng kế hoạch về lợi nhuận và kế hoạch sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Đó là 1 kĩ thuật phân tích, hoạch định mức doanh lợi căn cứ trên những tương quan có sẵn giữa những phí tổn và doanh thu. Nó là phương pháp giúp ta xác định “Vị trí của điểm “ mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải tổng chi phí. Điểm đó chính là “Điểm hoà vốn“ là điểm mà tại đó với một khối lượng sản phẩm bán ra, doanh số đạt được chỉ đủ trang trải tổng chi phí chi ra, có nghĩa là không lãi, không lỗ. Tổng chi phí ở đây chia làm hai loại : Chi phí biển đổi : Là những chi phí sản xuất thay đổi theo mức độ hoạt động của doanh nghiệp, tức là theo khối lượng sản phẩm tạo ra. Nhưng nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì chi phí này luôn không đổi. Đó là các khoản chi phí như : Chi phí nguyên vật liệu, tiền lương công nhân viên trực tiếp sản xuất, hoa hồng . . . . Chi phí cố định : Là những chi phí không thay đổi theo sự biến động của khối lượng sản phẩm sản xuất, nhưng nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì chi phí này lại luôn biến đổi và biến đổi theo tỉ lệ nghịch. Bao gồm chi phí KHTSCĐ, tiền lãi vay, chi phí văn phòng, lương công nhân gián tiếp . . . Kĩ thuật phân tích hoà vốn được thể hiện rõ qua sơ đồ sau : Biểu đồ trình bày sản lượng Doanh thu và chi phí lợi nhuận trên trục hoành, chi phí và 60 lợi nhuận trên trục tung, chi phí cố định vẫn giữ nguyên dù sản lượng có Đường doanh thu P* Chi phí biến đổi thay đổi. Biến phí là 1.500 đ E mỗi đơn vị sản phẩm , như 30 vậy tổng chi phí sẽ gia tăng Đường chi phí thêm 1.500 đ khi sản xuất chi phí cố định thêm một đơn vị. Doanh thu 20 được tượng trưng bởi đường thẳng Q* xuất phát từ gốc toạ độ 0 0 20 40 Sản lượng (Tại sản lượng tiêu thụ = 0, doanh thu= 0) và gia tăng tương ứng với mức sản lượng. Độ dốc của đường thẳng doanh thu lớn hơn độ dốc đường thẳng chi phí và doanh nghiệp thu được 2.500 đ mỗi đơn vị và chi ra tương ứng 1.200 đ chi phí biến đổi. Điểm hoà vốn E (Q* = 40 ; DT = 30) là giao điểm của 2 đường doanh thu và tổng chi phí. Trước điểm này ( khi sản lượng < Q*) thì doanh nghiệp chịu lỗ. Sau điểm này (khi sản lượng tiêu thụ lớn hơn Q*) doanh nghiệp có lãi. Điểm hoà vốn được xác định là điểm tại đó Q = Q* ; P = P* Với : Tổng chi phí cố định Q* = ------------------------------------------ Giá bán chi phí biến đơn vị - đổi đơn vị sản phẩm sản phẩm Sản lượng hoà vốn Q* chỉ ra cho nhà quản trị tài chính biết được sản lượng tối thiếu mà doanh nghiệp cần tiêu thụ trong kì là bao nhiêu mà với chi phí và giá bán sản phẩm nhất định không bị lỗ. Tại mức sản lượng hoà vốn, cứ mỗi đơn vị sản phẩm tiêu thụ tăng thêm, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận bằng hiệu số giữa giá bán đơn vị sản phẩm với chi phí biến đổi đơn vị. Thông thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị trong một thời kì nhất định, giá bán sản phẩm được xác định trước dựa vào tình hình thị trường, lợi nhuận kế hoạch được xây dựng ở đầu kỳ căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp. Nhà quản trị doanh nghiệp, thông qua phương pháp này, có thể xác định được mức sản lượng cần tiêu thụ trong kì để đạt được mức lợi nhuận mong muốn : Sản lượng cần Tổng chi phí Mức lãi cố định + mong muốn Tiêu thụ trong kì = ---------------------------------------- Giá bán - Biến phí Đơn vị sản phẩm đơn vị sản phẩm Phân tích điểm làm vốn dựa vào sản lượng hoà vốn, như phân tích ở trên, cung cấp cho nhà quản trị doanh nghiệp một chỉ tiêu tài chính quan trọng trong phân tích và lập kế hoạch lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là nó chỉ xác định được ở các doanh nghiệp chỉ kinh doanh một loại sản phẩm và giá bán được cố định trong suốt kì phân tích, điều này không phù hợp với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, hầu hết các doanh nghiệp đều đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh với mức giá bán thường xuyên thay đổi. Do đó, các doanh nghiệp này xác định điểm hoà vốn căn cứ vào doanh thu tiêu thụ. Doanh thu Tổng chi phí cố định = -------------------------- Hoà vốn 1 - Tỉ lệ biến phí trên doanh số Doanh thu cần đạt để có được mức lãi mong muốn ( được xây dựng trong kế hoạch đầu kì của doanh nghiệp ) được xác định như sau : Doanh thu Tổng chi phí Lãi cố định + mong muốn = ------------------------------------- Mong muốn 1 - Tỷ lệ biến phí trên doanh số Phương pháp này đã khắc phục được khiếm khuyết của cách xác định dựa vào sản lượng hoà vốn, mặt khác nó chỉ đòi hỏi một lượng dữ liệu tối thiểu : chỉ cần 3 chỉ số : doanh thu trong kì, chi phí cố định và chi phí biến đổi ; Tổng doanh thu và tổng chi phí đã có sẵn trong các báo cáo hàng năm và tài liệu về đầu tư. Tổng chi phí sẽ được tách ra thành chi phí cố định và chi phí biến đổi, chi phí cố định có thể lấy ra trong bảng lãi lỗ của báo cáo kinh doanh, còn biến phí được xác định bằng cách lấy tổng chi phí trừ đi chi phí cố định vừa xác định ở trên. IV-/ Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp: Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát, phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó nó chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố có quan hệ với hoạt động kinh doanh doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có một cách nhìn tổng quát ta có thể phân chúng thành 2 nhóm nhân tố cơ bản : nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. 1. Các nhân tố bên trong: Nhân tố bên trong là các yếu tố có liên quan chặt chẽ tới doanh nghiệp, ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp và trong phạm vi, khả năng của mình, doanh nghiệp có thể tác động chúng theo chiều hướng có lợi. Nó bao gồm các nhân tố sau : 1.1. Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá: Chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là những khoản chi phí liên quan tới việc sản xuất ra sản phẩm và đưa sản phẩm đó tới tay người tiêu dùng, bao gồm : chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung; chi phí khấu hao TSCĐ và các khoản chi phí liên quan tới tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá như : đóng gói, bao bì, vận chuyển, bảo quản sản phẩm, chi phí điều tra, nghiên cứu thị trường, bảo hành sản phẩm. Đó là các yếu tố đầu và mà doanh nghiệp phải nghiên cứu ảnh hưởng của nó để có biện pháp giảm thiểu chi phí góp phần tăng lợi nhuận. - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Là những khoản chi phí liên quan tới việc sử dụng nguyên liệu, vật liệu phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí nguyên liệu thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng chi phí, do đó nó tác động chặt chẽ tới lợi nhuận. Chi phí nguyên vật liệu được xác định như sau : Chi phí Định mức Giá đơn vị = x Nguyên vật liệu Tiêu hao NVL NVL Định mức tiêu hao nguyên vật liệu được các nhà quản lí quan tâm và thường được xây dựng kế hoạch sản xuất, đòi hỏi phải được quản lí và kiểm tra thường xuyên nhằm sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu cho sản xuất. Giá đơn vị nguyên vật liệu, phụ thuộc vào giá mua trên thị trường và các khoản chi phí bỏ ra liên quan tới quá trình thu mua vật tư. Tất cả các nhân tố ( định mức tiêu hao vật tư, gía mua nguyên vật liệu và chi phí thu mua ) đều ảnh hưởng tới tổng chi phí và tác động tới lợi nhuận doanh nghiệp. Đòi hỏi các doanh nghiệp không những phải tìm các biện pháp để giảm tối thiểu các khoản chi phí trên mà còn phải xác định mức ảnh hưởng của từng nhân tố đến chi phí vật tư để có các biện pháp thích hợp. - Chi phí nhân công trực tiếp: Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm các khoản tiền lương, thưởng và phụ cấp của công nhân trực tiếp tham gia vào sản xuất. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, do cơ sở vật chất trang thiết bị kĩ thuật còn lạc hậu, năng suất lao động chưa cao, còn sử dụng nhiều lao động trực tiếp vào sản xuất, do đó chi phí nhân công trực tiếp còn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí sản xuất. Để giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm biện pháp giảm chi phí tiền lương công nhân trực tiếp trên một đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên, việc hạ thấp tiền lương phải hợp lí, vì tiền lương là một hình thức thù lao trả cho người lao động, với sự phát triển của xã hội và đời sống ngày càng cải thiện đòi hỏi tiền lương cũng phải được nâng cao. Mặt khác, tiền lương hợp lí sẽ là đòn bẩy kích thích sự sáng tạo và tinh thần hăng say làm việc. Do đó, các doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư, đổi mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, tăng năng suất lao động đảm bảo gia tăng tiền lương cho người lao động nhưng tốc độ tăng tiền lương không vượt quá tốc độ tăng của sản xuất. - Chi phí về quản lí sản xuất kinh doanh: Bao gồm chi phí sản xuất chung và chi phí quản lí doanh nghiệp, làcác khoản chi phí liên quan tới bộ máy quản lí doanh nghiệp và của phân xưởng, như tiền lương cho nhân viên quản lí phân xưởng nhân viên quản lí doanh nghiệp, chi phí văn phòng, chi phí khấu hao TSCĐ . . . Tinh giảm bộ máy quản lí đang là vấn đề đặt ra ở các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ quản lí sản xuất - kinh doanh cho nhân viên quản lí, tăng hiệu xuất làm việc, điều đó sẽ góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp. - Các khoản chi phí liên quan tới việc tiêu thụ sản phẩm : Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm là để bán, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, vì vậy hoạt động tiêu thụ sản phẩm luôn được doanh nghiệp quan tâm đầu tư nhiều công sức, tiền của nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng và thắng được đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, ta đã biết chi phí tiêu thụ sản phẩm là một yếu tố chi phí đầu vào, việc tăng chi phí này sẽ làm tăng tổng chi phí và làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp khi xây dựng kế hoạch về khoản chi phí này phải cân nhắc giữa những chi phí bỏ ra và hiệu quả của nó thể hiện qua công tác tiêu thụ sản phẩm. 1.2. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Nếu như chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là các yếu tố đầu vào mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm tạo ra thu nhập để bù đắp khoản chi phí đó và tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ được xác định : Khối lượng Giá bán Doanh thu = Sản phẩm x đơn vị Tiêu thụ trong kì Sản phẩm * Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì : Phản ánh kết quả hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Nhìn chung, khối lượng sản phẩm tiêu thụ càng lớn chứng tỏ công tác tiêu thụ tốt, hoạt động kinh doanh có hiệu quả và có lãi. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc vào nhiều nhân tố : + Khối lượng sản phẩm sản xuất và chất lượng của sản phẩm khối lượng sản phẩm sản xuất đảm bảo đúng kế hoạch, thường xuyên, liên tục sẽ tạo điều kiện tăng sản lượng sản phẩm tiêu thụ. Ngược lại, nếu sản xuất sản phẩm quá ít hay quá nhiều ( Tức là không đảm bảo kế hoạch sản xuất ), mẫu mã không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng sẽ dẫn tới không đảm bảo khối lượng sản phẩm cung cấp cho khách hàng hoặc là hàng hoá không tiêu thụ được gây ứ đọng vốn. Chất lượng sản phẩm tiêu thụ cũng ảnh hưởng lớn tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, sản phẩm với chất lượng cao đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng sẽ được thị trường chấp nhận và có khả năng tiêu thụ được nhiều. Nâng cao chất lượng sản phẩm liên quan tới nhiều khâu như nâng cao trang thiết bị, máy móc kĩ thuật trình độ công nhân . . . và nó cũng tác động không nhỏ tới chi phí sản xuất. Vì vậy các doanh nghiệp phải lựa chọn công nghệ sản xuất hợp lí vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm vừa phù hợp với trình độ công nhân và mức chi phí đầu tư hợp lí. + Kết cấu mặt hàng tiêu thụ : Trong nền kinh tế thị trường, để hạn chế rủi ro kinh doanh, hầu hết các doanh nghiệp đều đa dạng hoá ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của mình, do đó sản phẩm kinh doanh cũng cần phải đa dạng hoá, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh tổng hợp kết quả tiêu thụ của các mặt hàng đó. Việc nghiên cứu nhân tố này giúp doanh nghiệp xây dựng cơ cấu mặt hàng kinh doanh hợp lí, phù hợp với tình hình doanh nghiệp và biến động của thị trường. Trong đó phải xác định được một số mặt hàng kinh doanh chủ đạo để tập chung đầu tư nhằm tăng mức doanh thu cho doanh nghiệp. Ngoài hai nhân tố trên, khối lượng sản phẩm tiêu thụ còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như thị trường tiêu thụ sản phẩm, giá cả hàng hoá, chất lượng dịch vụ sau bán hàng . . . . *Giá bán sản phẩm : Khi các nhân tố khác không đổi, giá bán đơn vị sản phẩm tăng sẽ làm doanh thu tiêu thụ sản phẩm, tuy nhiên việc tăng giá sẽ ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Giá bán sản phẩm có thể do doanh nghiệp xác định giá bán phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của mình. Marketing tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp và giá bán của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường và các doanh nghiệp phải xác định cho mỗi loại sản phẩm một mức giá bán hợp lí đảm bảo bù đắp các khoản chi phí bỏ ra và được thị trường chấp nhận. 1.3. Công tác tổ chức quản lí quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức quản lí hoạt động sản xuất - kinh doanh là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức tốt, có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo đầy đủ kế hoạch về số lượng và chất lượng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả của sản xuất sẽ làm tăng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu bán hàng và do đó lợi nhuận được nâng cao. Quá trình tổ chức quản lí kinh doanh bao gồm các khâu như định hướng chiến lược phát triển doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh doanh, phương án kinh doanh, tổ chức kiểm tra, đánh giá và có biện pháp điều chỉnh. Thực hiện tốt các khâu của quá trình kinh doanh giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động và đó là điều kiện để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 2. Các nhân tố bên ngoài : Nhân tố bên ngoài là tập hợp tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp mà bản thân doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nghiên cứu các nhân tố này giúp doanh nghiệp có các biện pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh cuả mình thích nghi với các nhân tố này. Nó bao gồm các nhân._.ử thách đối với công ty, hoạt động kinh doanh thực hiện trong điều kiện có tác động của các yếu tổ chủ quan và khách quan như sau: * Nguyên nhân chủ quan: 1.Hoạt động nghiên cứu thị trường chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Chi phí hàng năm cho quảng cáo, xúc tiến bán còn rất thấp (dưới 2% chi phí gián tiếp) đội ngũ nhân viên chuyên trách Marketing hầu như chưa có làm cho công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường gặp nhiều khó khăn. Xác định giá bán sản phẩm chưa hợp lý so với giá vốn hàng bán. 2. Cơ cấu nguồn vốn còn bất hợp lý, chủ yếu là vay nợ ngắn hạn, vốn tự có thấp gánh nặng trả nợ lãi vay đã ảnh hưởng bất lợi tới tình hình tài chính công ty và gây nhiều khó khăn trong việc thu hút thêm vốn đầu tư phát triển kinh doanh . 3. Nguồn vốn kinh doanh bị chiếm dụng lớn, khoản phải thu chiếm 10 % so với doanh thu thuần và có xu hướng gia tăng. 4. Việc tinh giảm đội ngũ lao động gián tiếp chưa được thực hiện triệt để, công tác tổ chức, tuyển dụng lao động trong các phòng ban đơn vị còn nhiều bất hợp lý. Phương châm “ Triệt để tiết kiệm” đã được quán triệt trong toàn công ty song kết quả thấp. Kinh phí cho đào tạo, nâng cao trình độ lao động chưa được đầu tư thoả đáng. * Nguyên nhân khách quan: 1.Hậu quả của cơ chế tập chung quan liêu bao cấp còn nặng nề, đòi hỏi phải có thời gian nhất định mới khắc phục được. Trên thực tế, các Doanh nghiệp Nhà nước quen được hưởng sự bao cấp và bảo hộ của Nhà nước nên gặp nhiều khó khăn khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, độ nhạy cảm với tín hiệu của thị trường (như quan hệ cung cầu, lãi suất, cạnh tranh) còn thấp. 2. ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đã tác động sâu sắc tới toàn bộ nền kinh tế và hoạt động kinh doanh Công ty TODIMAX. Cùng với việc triển khai một số luật thuế làm cho tốc độ mua bán giảm gần như bị chững lại, sức mua dân cư giảm sút đã tác động tới mặt hàng kinh doanh chính của Công ty. Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu thay đổi theo chiều hướng hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng tiêu dùng, phương tiện đi lại khó khăn nên kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng giảm đã ảnh hưởng tới nguồn hàng và doanh thu công ty . 3. Vốn đầu tư của Công ty do cấp trên cấp còn eo hẹp, sự hỗ trợ vốn của cơ quan chủ quản để mở rộng kinh doanh còn rải rác và không thường xuyên. 4.Giá cả thị trường thường xuyên biến động, cạnh tranh ngày càng gay gắt gây sức ép mạnh về giá cả và chất lượng hàng hoá cũng tác động mạnh tới kết quả kinh doanh của công ty. Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Công ty trong những năm qua. Để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh trong thời gian tới đòi hỏi công ty phải có những biện pháp thích hợp. Điều này sẽ được giải quyết ở chương sau. Chương III một số biện pháp nâng cao lợi nhuận cho Công ty điện máy - xe đạp, xe máy I/- Định hướng phát triển kinh doanh của Công ty trong thời gian tới: Sau thời gian đổi mới, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp Nhà nước ra đời và phát triển trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã đứng vững xong còn những dấu ấn thời kỳ bao cấp, quen dựa dẫm, ỉ lại vào cấp trên, vào Nhà nước. Để tồn tại và thích ứng với cơ chế hiện nay, các doanh nghiệp không những phải đề ra được kế hoạch hoạt động sản xuất cho đơn vị trong năm mà phải có những định hướng, chính sách kinh doanh mang tính chiến lược. Với chức năng, nhiệm vụ được Bộ thương mại giao phó. Trong thời gian qua Công ty Điện máy- xe đạp, xe máy đã quyết tâm thực hiện các mục tiêu đề ra, khôi phục hoạt động kinh doanh và cải thiện đời sống cho người lao động. Năm 1999, hoạt động kinh doanh của Công ty gặp nhiều khó khăn, doanh thu tiêu thụ giảm mạnh chi phí còn rất cao, chưa giải quyết dứt điểm các khoản nợ đọng, khả năng huy động thêm vốn còn nhiều hạn chế. Bước sang năm 2000, đây là năm cuối cùng của thế kỷ, cùng là năm thứ ba Công ty đổi mới hoạt động. Nhận định những khó khăn và thuận lợi chung của nền kinh tế đất nước, kết hợp với tình hình của đơn vị, Công ty đề ra cho mục tiêu kinh doanh của năm 2000 và một số năm tiếp theo là: "Giải quyết một cách cơ bản những tồn tại cũ, kinh doanh có lãi, duy trì và phát triển một số mặt hàng kinh doanh chủ yếu, ổn định mọi hoạt động của đơn vị, tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động". Để thực hiện mục tiêu trên, Công ty xây dựng kế hoạch năm 2000 với các chỉ tiêu sau: - Doanh thu tiêu thụ đạt 320 tỷ đồng, trong đó các mặt hàng kinh doanh chính là: Tủ lạnh, xe máy, điều hoà, vật liệu xây dựng... - Tổng quỹ lương tăng 20% so với năm 1999, đạt 5.027 triệu đồng. Hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước, trích nộp đầy đủ các quỹ đặc biệt, quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi... theo quy định hiện hành. - Công tác xuất khẩu năm 2000 đơn vị sẽ chuyển hướng tìm hiểu thị trường SNG, Đông Âu, để trao đổi hàng tạo thêm chủng loại mới. Phấn đấu đạt giá trị xuất khẩu 70.000 USD (khoảng 1,0 tỷ đồng). - Kim ngạch nhập khẩu đạt 5.000.000 USD (khoảng 70 tỷ VNĐ) tăng 5% so với năm 1999, tập chung vào mặt hàng truyền thống là xe máy, ô tô, kim loại màu và triển khai thêm một số mặt hàng hoà chất như: nhựa, dầu và đơn vị có thị trường tiêu thụ. - Tận dụng các nguồn thu, các thương vụ kinh doanh, cố gắng hạn chế rủi ro, có chiến lược lắp ráp và bán hàng xe máy phù hợp, chớp thời cơ, tiết kiệm chi phí không cần thiết, quyết tâm định mức lợi nhuận năm 2000 đạt 6 tỷ đồng. - Lao động định biên dự kiến giảm đến mức cao nhất trên cơ sở động viên và tạo điều kiện để người lao động về nghỉ theo chế độ. II/- Một số biện pháp nâng cao lợi nhuận cho Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy: 1- Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh: Trong cơ chế thị trường, có 3 loại hình kinh doanh, chủ yếu là chuyên môn hoá, đa dạng hoá và kinh doanh tổng hợp. Trong đó, đa dạng hoá là hình thức kinh doanh phổ biến và có hiệu quả nhất, nó vừa đảm bảo hạn chế rủi ro trong kinh doanh, vừa tạo điều kiện tập trung vào một số mặt hàng kinh doanh chủ đạo. Mặt khác, để nâng cao kết quả kinh doanh, lợi nhuận, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng cho mình cơ cấu kinh doanh hợp lý. Căn cứ vào hoạt động điều kiện Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy là mặt hàng kinh doanh chính, chiếm 70% tổng doanh thu và đem lại lợi nhuận chủ yếu cho Công ty. Như vậy Công ty chưa thực hiện đa dạng hoá mặt hàng, còn tập trung nhiều vào một mặt hàng(xe máy), rủi ro kinh doanh khá cao nếu như có sự thay đổi về chính sách XNK Nhà nước hay nhu cầu thị trường về mặt hàng xe máy thay đổi. Mặt khác mặt hàng xe máy Trung Quốc Công ty lại phụ thuộc rất nhiều vào công tác nhập linh kiện xe máy từ Trung Quốc. Xuất phát từ thực tế đó, Công ty cần đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, xây dựng cơ cấu mặt hàng hợp lý theo hướng sau: - Khôi phục một số mặt hàng điều kiện truyền thống như: Tủ lạnh, ti vi, ô tô, điều hoà, bóng điện đây là các mặt hàng kinh doanh truyền thống, có thị trường tiêu thụ ổn định và Công ty có nhiều năm kinh nghiệm kinh doanh các mặt hàng này. Mặc dù trong năm 1998 kinh doanh các mặt hàng này có sự suy giảm đáng kể xong đã có dấu hiệu phục hồi vào năm 1999, mặt khác đây là các mặt hàng mà nhu cầu trên thị trường tương đối ổn định. Nếu như Công ty có biện pháp tích cực nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp dịch vụ sau bán hàng (bảo hành, sửa chữa...) thì đây vẫn sẽ là những mặt hàng đem lại nguồn thu ổn định và đảm bảo đa dạng hoá kinh doanh cho Công ty. - Duy trì sự phát triển kinh doanh mặt hàng xe máy, xác định đây là mặt hàng kinh doanh chủ đạo Công ty trong những năm tới. Mặc dù tiêu thụ mặt hàng này có dấu hiệu chững lại nhưng theo các nhà kinh tế tốc độ mua bán mặt hàng này vẫn được duy trì trong vòng 5 năm nữa. Do đó, Công ty cần tăng cường các dịch vụ hỗ trợ bán hàng đặc biệt bảo hành, sửa chữa , mở rộng hình thức cấp tín dụng cho khách hàng thông qua mua bán trả góp, đồng thời xây dựng kế hoạch nhập khẩu linh kiện và lắp đặt xe máy một cách khoa học, đảm bảo cung cấp kịp thời sản phẩm cho khách hàng. - Đẩy mạnh tiêu thụ các mặt hàng mới như hoá chất, vật liệu xây dựng, nhôm. Đây là các mặt hàng có nhiều tiềm năng có khả năng thay thế các mặt hàng truyền thống. Thực tế doanh thu tiêu thụ các mặt hàng này của Công ty tăng nhanh qua các năm song tỉ trọng cũng như giá trị còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, vì vậy Công ty cần có kế hoạch tìm nguồn hàng ổn định cho các mặt hàng này, mở rộng thị trường tiêu thụ thông qua các kênh phân phối như cửa hàng và các đại lý bán lẻ, phấn đấu trong năm 2000 mặt hàng này sẽ chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu ngành hàng và dần thay thế các mặt hàng truyền thống trước đây. Bên cạnh đó Công ty cần tích cực tìn thêm một số mặt hàng mới như phụ tùng ô tô, nhựa, phân bón... các mặt hàng này hiện nay đang có thị trường tiêu thụ rộng rãi; phát triển mặt hàng này sẽ đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh đồng thời mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho Công ty. Tuy nhiên, Công ty cũng cần cân nhắc giữa doanh thu, chi phí cũng như thị trường tiêu thụ và các đổi thủ cạnh tranh hiện có trên thị trường. Trên cơ sở phân tích tình hình tiêu thụ hàng hóa của Công ty cũng như xu hướng biến động của hàng hóa trên tiêu thụ, tôi xin đưa ra một cơ cấu mặt hàng để Công ty nghiên cứu áp dụng trong thời gian tới: Mặt hàng Giá trị (Tr.đ) Tỉ trọng (%) - Xe máy 122.500 35 - Tủ lạnh 52.500 15 - Ô tô 10.500 3 - Điều hoà 35.000 10 - Ti vi 8.750 2,5 - Bóng điện 10.500 3 - Nhôm 17.500 5 - Hoá chất 40.850 11,5 - Vật liệu xây dựng 35.000 10 - Phụ tùng ô tô 10.500 3 - Phân bón 7.000 2 Cộng 350.000 100 Cơ cấu mặt hàng trên đây được xây dựng với sự tham khảo ý kiến từ phía các cô chú phòng Kế toán và phòng Kinh doanh và nó cũng phù hợp với chiến lược phát triển kinh doanh do ban lãnh đạo Công ty đề ra là đa dạng hoá mặt hàng điều kiện trên cơ sở tập trung vào một số mặt hàng chính... Để thực hiện được điều đó đòi hỏi sự quyết đoán linh hoạt của ban lãnh đạo, lỗ lực của các phòng kinh doanh, cửa hàng để xây dựng cơ cấu mặt hàng tối ưu cho Công ty. 2/- Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa: Chúng ta đều biết rằng, trong cơ chế thị trường việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào với khối lượng bao nhiêu đều do thị trường quyết định. Mặt khác nhu cầu trên thị trường thường xuyên biến động. Nếu doanh nghiệp nắm bắt được xu hướng thay đổi của thị trường và điều chỉnh hoạt động kinh doanh phù hợp với nó thì sẽ tồn tại, phát triển ngược lại sẽ bị thị trường đào thải. Vì vậy các doanh nghiệp không thể xem nhẹ công tác nghiên cứu thị trường, nó giúp Công ty thích nghi với thị trường và thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng. Công tác nghiên cứu thị trường của Công ty điện máy - xe đạp, xe máy trong những năm qua chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức, hoạt động tiêu thụ đang có dấu hiệu suy giảm. Do đó Công ty cần tập trung cho công tác này thông qua việc thành lập ban Marketing độc lập thực hiện hai mảng công việc chủ yếu. + Mảng thứ nhất: Chuyên trách về nghiên cứu nhu cầu khách hàng về hàng hóa Công ty đang kinh doanh như chủng loại chất lượng, giá cả. + Mảng thứ hai: Thực hiện công tác hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, tuyên truyền, xúc tiến bán. Như vậy bộ phận này sẽ cần 7 người có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực kinh doanh, hoạt động thị trường. Các thành viên này sẽ được ban Giám đốc bổ nhiệm từ 3 phòng kinh doanh của công ty (phòng kinh doanh xe máy, Phòng kinh doanh Điện lạnh và phòng kinh doanh Vật tư ). Cử ra một trưởng ban chịu trách nhiệm quản lý các nhân viên trong ban, lập kế hoạch phân công công tác, lập báo cáo nghiên cứu thị trường và trình ban giám đốc phê duyệt; liên hệ với các phòng ban có liên quan để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Sáu thành viên còn lại được chia làm 2 nhóm thực hiện hai mảng công việc chính đã nêu ở trên. Việc thành lập một ban Marketng độc lập, chuyên trách về lĩnh vực nghiên cứu thị trường sẽ tăng cường công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường cho Công ty. Tuy nhiên, đây không phải là công việc đơn giản vì hiện nay hầu hết nhân viên Công ty được đào tạo trong thời kỳ bao cấp kiến thức chuyên môn về thị trường còn hạn chế. Do đó cần có các biện pháp sau: - Đào tạo, nâng cao kiến thức về thị trường và nghiên cứu thị trường cho nhân viên đặc biệt là nhân viên chuyên trách về thị trường. - Trưởng ban Marketing phải thường xuyên báo cáo hoạt động nghiên cứu thị trường cho ban Giám đốc và đề xuất cac biện pháp xử lý kịp thời những vướng mắc phát sinh. - Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa ban Marketing với các phòng ban chức năng để xây dựng chiến lược, tiêu thụ hàng hóa cho Công ty. 3/- Sử dụng tiết kiệm chi phí kinh doanh: Chi phí là những khoản doanh nghiệp chi ra phục vụ cho sản xuất- kinh doanh. Trong cơ chế thị trường tất cả cá doanh nghiệp buộc phải giảm chi phí, hạ giá thành để nâng cao lợi nhuận. Xuất phát từ thực trạng hoạt động Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy trong năm qua, ta thấy chi phí (đặc biệt là chi phí giá vốn) còn ở mức rất cao so với doanh thu. Trong 2 năm 1997, 1998 chi phí đã vượt doanh thu thuần gây thua lỗ cho Công ty. Trước tình hình đó, Công ty cần thực hiện các biện pháp sau: - Tiết kiệm chi phí thu mua hàng hoá thông qua việc quản lý chặt chẽ khâu vận chuyển hàng hóa từ cơ sở sản xuất về kho và các cửa hàng Công ty; khâu nhập khẩu hàng từ Trung quốc. Hiện nay Công ty có một đội xe gồm 15 chiếc chuyên vận chuyển và thu mua hàng hóa nhưng do xe đã cũ lại không được sửa chữa thường xuyên do đó chỉ có 10 xe hoạt động được, mặt khác việc vận chuyển hàng hóa từ Trung quốc gặp nhiều khó khăn, làm tăng cước phí vận chuyển hàng hoá. Vì vậy, Công ty cần giao nhiệm vụ cho các phòng kinh doanh lập kế hoạch tu bổ, sửa chữa xe. - Tích cực tìm kiếm nguồn hàng với chi phí thấp, ổn định, thiết lập mối kinh doanh chặt chẽ với nhà cung ứng đảm bảo cung ứng nguồn hàng kịp thời, chất lượng cao phục vụ công tác kinh doanh của Công ty. Quyết tâm hạ chi phí giảm giá vốn xuống 90% doanh thu thuần. - Thực hiện tiết kiệm các khoản chi phí gián tiếp (chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp), tăng cường các chi cho hoạt động bán hàng như quảng cáo, nghiên cứu thị trường, ... đồng thời quản lý chặt chẽ các khoản chi phí như: Chi phí văn phòng, chi phí tiếp khách... nhằm giảm thiểu các khoản không cần thiết, phấn đấu đưa mức chi phí gián tiếp xuống 23 tỷ đồng chiếm 7% so với doanh thu thuần như kế hoạch mà Công ty đề ra. Cùng với mức doanh thu thuần dự kiến là 350 tỷ đồng, thì lợi nhuận Công ty sẽ đạt khoảng 10 tỷ đồng với mức doanh lợi tiêu thụ 3%, đây chính là mức lợi nhuận mục tiêu của Công ty trong năm 2000. Muốn vậy, cần nâng cao ý thức tự giác tiết kiệm của toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty và sự quản lý sát sao của ban lãnh đạo. 4/- Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn: Muốn tiến hành sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp cần phải mua sắm các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu, hàng hóa, máy móc thiết bị, trả lương cho công nhân... Do đó cần có nguồn vốn để tài trợ cho các khoản chi tiêu đó. Mặt khác các nguồn vốn khác nhau có chi phí khác nhau, vì vậy Công ty cần xây dựng cho mình cơ cấu vốn tối ưu mà ở đó chi phí bình quân vốn là thấp nhất. Qua xem xét cơ cấu vốn Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy cho thấy tỷ trọng nợ Công ty là rất cao (chiếm khoảng 95,9% tổng nguồn vốn) trong đó chủ yếu là nợ ngắn hạn, chiếm tới gần 94%, đây là cơ cấu không hợp lý, cho nên trong thời gian tới Công ty cần có các biện pháp để xây dựng cơ cấu vốn hợp lý hơn: - Tích cực đàm phán với các ngân hàng để giảm các khoản nợ đến hạn và giảm chi phí lãi vay trong năm 2000, đánh dấu thành công đáng kể của Công ty đã kéo dài thời hạn trả nợ cho các khoản vay đến hạn 5 tỷ đồng, giảm gần 1 tỷ đồng lãi vay. Tuy nhiên đây vẫn là con số nhỏ bé so với khoản nợ ngắn hạn Công ty hiện nay 50 tỷ đồng, dự kiến năm 2000 khoản nợ đến hạn 15 tỷ, lãi vay (kể cả lãi vay quá hạn) là 3,5 tỷ. Do đó Công ty xin ra thêm hạn nợ, với cam kết Công ty sẽ thanh toán dần các khoản nợ, dưới sự bảo lãnh của cấp chủ quản (Bộ thương mại). - Chủ động tìm kiếm nguồn vốn trung và dài hạn như: vốn ngân sách cấp bổ sung, vay ngân hàng, phát hành trái phiếu, vốn vay từ cán bộ, công nhân viên Công ty.. để dần thay thế nguồn vốn ngắn hạn. Trong cơ chế thị trường với kết quả kinh doanh đạt được năm 1999 (lãi 5 tỷ đồng) thì việc sử dụng vốn vay (từ ngân hàng, phát hành trái phếu) sẽ khuếch đại kết quả kinh doanh và tiết kiệm được thuế từ khoản lãi vay. Mặt khác, hiện nay thủ tục vay ngân hàng có nhiều cải tiến, đã có mức lãi trần cho vay hợp lý nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất điều kiện của đơn vị. Đặc biệt với các doanh nghiệp Nhà nước, việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại quốc doanh không cần thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đây là các khoản vay dài hạn, lãi suất phải trả cao, bên cạnh đó các khoản nợ của Công ty còn tồn đọng lớn, việc huy động thêm vốn từ ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới. Vì vậy, ngoài nỗ lực hoàn thiện các điều kiện vay của Công ty, cần có sự bảo lãnh của cấp chủ quản. Hiện nay, vốn NSNN cấp bổ sung cho Công ty rất ít, lại không liên tục, vốn vay từ ngân hàng ngày càng trở nên khó khăn, trước tình hình đó Công ty cần nghiên cứu hình thức huy động vốn trung và dài hạn bằng cách phát triển hình thức vay từ cán bộ nhân viên Công ty. Đây được xem là biện pháp huy động vốn có hiệu quả nhất bởi nó tránh được thủ tục phiền hà khi đi vay, cắt giảm các khoản chi phí không cần thiết mà lại huy động vốn kịp thời, phát huy nội lực bên trong Công ty. Muốn vậy, Công ty cần xây dựng một mức lãi suất hợp lý, thời gian thanh toán linh hoạt... đảm bảo lợi ích người cho vay. Với tình hình kinh doanh hiện nay, cơ cấu vốn mục tiêu Công ty cần xây dựng trong những năm tới như sau: Nguồn vốn Tỷ trọng (%) 1. Nợ ngắn hạn 70 - Nợ ngân hàng 40 - Nợ ngắn hạn khác 30 2. Vốn dài hạn 30 - Vay ngân hàng 5 - Vay công nhân 10 - Vốn chủ sở hữu 15 Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu và huy động kịp thời nguồn vốn là điều kiện cần để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhưng vấn đề quan trọng là quản lý và sử dụng nguồn vốn đó như thế nào có hiệu quả. Trong những năm qua, quản lý vốn còn lãng phí, không hiệu quả, thu nhập mang lại nhưa tương xứng với nguồn vốn bỏ ra. Vì vậy, Công ty cần: - Quản lý chặt chẽ vốn cố định bao gồm hệ thống nhà xưởng, kho tàng, cửa hàng, văn phòng Công ty... Tiết kiệm chi phí văn phòng, chỗ làm việc xắp xếp khoa học các cửa hàng, sử dụng có hiệu quả nhà xưởng kho tàng. Quản lý có hiệu quả vốn cố định sẽ giảm 10% khoản chi phí này cho Công ty. - Quản lý vốn lưu động, công tác kế hoạch thu mua và dự trữ hàng hóa một cách khoa học, vừa tiết kiệm chi phí lưu kho đồng thời đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng cần nhanh chóng giải quyết các khoản phải thu. Tuy chính sách cung cấp tín dụng cho khách hàng cũng là biện pháp tài chính của Công ty để đẩy nhanh tiêu thụ hàng hóa. Nhưng với tỷ lệ khoản phải thu rất lớn hiện nay (chiếm 10% doanh thu thuần) trong đó 70% là phải thu từ khách hàng, đã làm giảm kỳ luân chuyển vốn, giảm hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh và vòng quay vốn lưu động... Vì vậy Công ty cần có biện pháp tích cực vận động các con nợ nhằm giảm khoản phải thu xuống 5% doanh thu thuần. 5/- Hoàn thiện dây truyền lắp giáp xe máy IKD: Nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá bán là yếu tố cơ bản nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy có hai dây truyền lắp giáp, xe máy IKD tại Gia Lâm - Hà Nội, được đưa vào sử dụng từ năm 1997 với tổng giá trị đầu tư 300 tỉ đồng (đã khấu hao 90 tỉ) với công suất thiết kế 13.000 xe máy/1 dây truyền-1năm. Nhưng hiện nay mới chỉ đạt 50% công suất, với lượng tiêu thụ xe máy tăng nhanh trong 2 năm 1998, 1999 Công ty đã phải thuê một số cơ sở lắp giáp khác tại Hà Giang và Lạng Sơn, điều này đã ảnh hưởng tới chất lượng, cũng như hoạt động tiêu thụ mặt hàng xe máy Công ty, hơn nữa đây đang là mặt hàng chỉ đạo tạo ra phần lớn thu nhập và lợi nhuận. Vì vậy, hoàn thiện dây truyền lắp giáp xe máy IKD đang là vấn đề bức bách cần giải quyết muốn vậy Công ty cần: - Quản lý chặt chẽ các công đoạn quá trình lắp giáp xe máy để tìm nguyên nhân làm giảm công suất hoạt động dây truyền và có biện pháp xử lý kịp thời. - Nâng cao trình độ, kỹ thuật cho công nhân, có thể mời chuyên gia nước ngoài làm tư vấn. - Đảm bảo đầy đủ, kịp thời các nguyên liệu đầu vào linh kiện xe máy nhập khẩu đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra liên tục. - Cải tiến, tu sửa trang thiết bị, máy móc, có biện pháp xử lý kịp thời khi có sự cố kỹ thuật xảy ra. Theo ước tính của các chuyên gia, nếu đảm bảo tốt các yếu tố vừa nêu, công suất thực hiện sẽ đạt 80% công suất thiết kế (tức đạt khoảng 20.000 xe máy 1 năm của cả 2 dây truyền) và như vây sẽ đảm bảo số lượng, chất lượng hàng hóa xe máy cho tiêu thụ trong các năm tới. 6/- Hoàn thiện bộ máy quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động: Đối với mỗi Công ty, tổ chức bộ máy quản lý đóng vai trò quyết định sự thành công trong kinh doanh. Đây chính là bộ phận đề ra và theo dõi, chỉ đạo các kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Không ngừng cải tiến và hoàn thiện bộ máy quản lý là cơ sở cho sự phát triển lâu dài của Công ty. Nhìn chung, cơ cấu quản lý phòng ban Công ty hiện nay là khả năng hợp lý. Các phòng ban chức năng được tổ chức, sắp xếp phù hợp với các lĩnh vực chuyên môn như phòng Kế toán tài chính; phòng kinh doanh; phòng tổ chức hành chính. Phòng kinh doanh được tách riêng thành 3 phòng độc lập nhằm quản lý tốt hơn hoạt động kinh doanh của từng nhóm hàng, ngành hàng, như phòng kinh doanh xe đạp, xe máy; phòng kinh doanh Điện máy; phòng kinh doanh Vật tư. Các chi nhánh, cửa hàng của Công ty hoạt động một cách độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của đơn vị mình. Đây là các ưu thế mà Công ty cần phát huy hơn nữa trong thời gian tới, bên cạnh đó cần tăng cường quản lý, giám sát các phòng ban, đơn vị trực thuộc; các đơn vị này được đặt dưới sự quản lý chung cuả ban Giám đốc nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong các đơn vị kinh doanh. Công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên cần được quan tâm đầu tư. Hiện nay, Công ty có 640 cán bộ, nhân viên, chỉ có 70% được đào tạo chuyên nghiệp, trong đó 85% đào tạo trong cơ chế cũ, chưa đáp ứng được nhiệm vụ kinh doanh của Công ty. Mặt khác trong những năm qua, hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, kinh phí giành cho đào tạo còn eo hẹp. Vì vậy, thời gian tới Công ty cần chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ kinh tế và quản trị kinh doanh cho nhân viên Công ty với phương châm khuyến khích nhân viên tự bỏ kinh phí đào tạo với sự hỗ trợ giúp đỡ của Công ty. Cần tinh giảm bộ máy quản lý, giảm chi phí gián tiếp. Hiện nay lao động gián tiếp chiếm 35% tổng số lao động Công ty, song hiệu quả lao động thấp, theo đánh giá ban lãnh đạo Công ty chỉ cần 1/2 số lượng nhân viên gián tiếp này cũng có thể hoàn thành tốt khối lượng công việc của Công ty. Do đó, Công ty cần tích cực vận động cán bộ, nhân viên đủ tiêu chuẩn về nghỉ theo chế độ. Tuy nhiên, đây là công việc không đơn giản, muốn thực hiện thành công cần có sự quan tâm thoả đáng tới lợi ích người lao động khi về nghỉ như: trợ cấp hưu trí, trợ cấp khó khăn... Cổ phần hoá Công ty, chuyển sang hình thức Công ty cổ phần, đây là hình thức khá phổ biến trên thế giới và đã phát huy những ưu điểm của nó như nâng cao hiệu quả quản lý, huy động thêm vốn cho Công ty.. Mặt khác, đây đang là chính sách, tổ chức , sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước của Nhà nước; do đó nếu Công ty tiến hành cổ phần hoá sẽ được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước. Tuy nhiên, công việc này cũng sẽ vấp phải những khó khăn chung như: xác định giá trị Công ty, lợi ích Công ty và người lao động. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh Công ty đang gặp khó khăn, do đó số lượng cổ phiếu bán ra bên ngoài không đáng kể mà chủ yếu sẽ do người lao động của Công ty mua. III/- Một số kiến nghị: Để thực hiện có hiệu quả các giải pháp trên, tôi xin đề xuất một số kiến nghị với Nhà nước, Bộ thương mại và các cơ quan hữu quan, tạo điều kiện hỗ trợ cho Công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 1/- Kiến nghị với Nhà nước: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Chúng ta thực hiện xoá bỏ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp, trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh. Thực tế, trong những năm gần đây vốn ngân sách cấp bổ sung rất ít, hiện nay Công ty đang có dự án hoàn thiện dây truyền lắp giáp xe máy IKD, đây là dây truyền có tính kỹ thuật cao, khi hoàn thành sẽ mang lại lợi ích lớn cho Công ty, nhưng cần có sự hỗ trợ vốn kịp thời từ phía Nhà nước. - Bộ Tài chính cần xem xét việc giảm mức thuế nhập khẩu và VAT đối vơí một số mặt hàng kinh doanh Công ty như tủ lạnh, điều hoà, linh kiện xe máy. Đặc biệt khâu nhập khẩu linh kiện xe máy IKD với thuế nhập khẩu hiện nay là 60% và VAT 20%, đây là mức khá cao, Công ty lại phải nộp ngay khâu nhập làm ảnh hưởng từ luồng tiền của Công ty. Bên cạnh đó, cơ quan hải quan cần tăng cường kiểm soát chặt chẽ các hoạt động buôn lậu, nhập khẩu xe máy trái phép theo thống kê của cơ quan thuế, các hoạt động này chiếm 20% thị phần xe máy Trung Quốc ở Việt Nam, và nó đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động tiêu thụ của Công ty. - Nhà nước cần xem xét giảm bớt thủ tục phiền hà khi doanh nghiệp đi công chứng tài sản thế chấp của mình. Hện nay, nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp cho doanh nghiệp rất ít (thể hiện nguồn vốn tự có thấp), mặt khác khoản nợ của công ty lớn, công ty muốn huy động thêm vốn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh cần phải có tài sản thế chấp, xuất phát từ thực trạng của Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy tài sản mà công ty có thể đem thế chấp là quyền sử dụng đất, tuy nhiên do thủ tục hành chính rườm rà, việc công chứng quyền sử dụng đất gặp khó khăn do vậy công ty chưa sử dụng được quyền sử dụng đất của mình làm vật thế chấp khi vay vốn từ ngân hàng. 2/- Kiến nghị với Bộ Thương mại: Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy trực thuộc Bộ thương mại và chịu sự quản lý chung của ngành. Kết quả kinh doanh của Công ty sẽ ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của cả ngành Thương Mại. Bởi vậy, tôi xin đề xuất một số kiến nghị với Bộ Thương mại như sau: - Có biện pháp hữu hiệu, giúp đỡ Công ty nâng cao hiệu quả kinh doanh đặc biệt là hỗ trợ về vốn, mở rộng kinh doanh, ký kết các hợp đồng kinh tế với bạn hàng. Bộ Thương mại có thể nhân danh cấp chủ quản đứng ra bảo lãnh cho Công ty vay vốn từ ngân hàng giải quyết khó khăn về vốn kinh doanh. Thống nhất quản lý chế độ tài chính - kế toán trong toàn ngành. Ngoài ra Bộ Thương mại cần có sự chỉ đạo cho các Công ty trong ngành giải quyết sòng phẳng vốn trong thanh toán nội bộ. Thời gian vừa qua tình trạng nợ đọng, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các đơn vị trong ngành khá nghiêm trọng, riêng Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy khoản phải thu từ càc đơn vị trong ngành chiếm tới 50% khoản phải thu của Công ty. Tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động tìm các đối tác kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các đơn vị trong toàn ngành. kết luận Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp là định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước ta để củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của các DNNN trong nền kinh tế thị trường. Đây cũng là mục tiêu đối với bản thân mỗi doanh nghiệp nói chung và với Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy nói riêng. Song cho tới nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau trong việc đưa ra các giải pháp nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Sau thời gian thực tập tại Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy, cơ sở tiếp xúc với thực tế cùng với những kiến thức được trang bị trong nhà trường, với sự giúp đỡ của thạc sĩ Lê Hương Lan và các cô, chú trong cơ quan đã tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Thông qua những nội dung được trình bày ở các chương, chuyên đề đã định ra và giải quyết được một số vấn đề sau. 1. Khái quát lợi nhuận, vai trò lợi nhuận đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, phương pháp xác định lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận. Từ đó đưa ra các biện pháp chung mà các doanh nghiệp đã thực hiện có hiệu quả trong thời gian qua nhằm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 2- Phần 2 của chuyên đề đã nêu nên khái quát tình hình tài chính của Công ty, tình hình biến động lợi nhuận và các chỉ tiêu doanh lợi trong thời kỳ 1997-1999, phân tích 2 mảng chính ảnh hưởng tới lợi nhuận là tình hình thực hiện doanh thu và chi phí của Công ty. Trên cơ sở đó, đưa ra các nhận xét đánh giá về kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân chủ yếu của nó, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp ở chương sau: 3. Phần cuối tập chung đưa ra các biện pháp nâng cao lợi nhuận cho Công ty và đề xuất một số kiến nghị với Nhà nước và Bộ thương mại (cơ quan chủ quản của Công ty). Chuyên đề được hoàn thành song do thời gian về trình độ chuyên môn còn hạn chế, nên vẫn còn một số vấn đề chưa được phân tích sâu sắc và triệt để, rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn đọc. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thạc sĩ Lê Hương Lan, các cô, chú phòng Tài chính-kế toán Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy tạo kinh doanh cho em hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này. Mục lục Danh mục tài liệu tham khảo ---------------&------------- - Quản trị tài chính Doanh nghiệp - NXB Thống kê 1998 -Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh trường Đại học Kinh tế quốc dân -Kinh tế vĩ mô NXB Giáo dục 1997 -Quản trị tài chính doanh nghiệp - Nguyễn Hải Sản NXB Thống kê -Giáo trình quản trị doanh nghiệp - Phó giáo sư - Phó tiến sĩ - Lê Văn Tâm - Trường đại học Kinh tế quốc dân -Giáo trình kế toán tài chính - Phó tiến sĩ - PGS Lê Văn Tâm - Trường đại học Kinh tế quốc dân -Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII -Luật thuế GTGT -Luật thuế TNDN -Cac Mark toàn tập - NXB Sự thật -Các tạp chí NH - Tài chính năm 1998 - 2000 Tạp chí Thương mại năm 1998 - 2000 ------------------------------------------------------- ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29816.doc
Tài liệu liên quan