mở đầu
Trong quá trình thực hiện chuyển đổi nền kinh tế theo chủ trương đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhằm thích ứng và tạo điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, đấu thầu là một phương thức được áp dụng khá phổ biến, từng bước thay thế cho phương thức chỉ định thầu không còn phù hợp vớ
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng trúng thầu của Công ty xây dựng 20 (LICOGI 20), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Hiện nay, đấu thầu đã thực sự trở thành một phương thức cạnh tranh đặc thù và là hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp xây dựng. Do vậy, để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần phải hết sức coi trọng hoạt động này.
Tuy nhiên, ở nước ta hoạt động đấu thầu nhìn chung mới chỉ được thực hiện trong khoảng thời gian ngắn và chưa hoàn chỉnh về nhiều mặt. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp xây dựng còn chưa thực sự thích ứng với phương thức cạnh tranh mới này. Chính vì vậy, hoạt động đấu thầu tại các doanh nghiệp không tránh khỏi những bất cập và gặp những khó khăn dẫn đến kết quả không cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, việc làm của người lao động cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau một thời gian thực tập tại công ty Xây dựng 20 thuộc Tổng công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng - LICOGI, tôi nhận thấy đấu thầu là một vấn đề hết sức bức xúc trong hoạt động thực tiễn của công ty, đòi hỏi phải tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả và hoàn thiện về mọi mặt trong hoạt động đấu thầu của công ty. Vì vậy, tôi mạnh dạn đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thắng thầu của công ty xây dựng 20 - LICOGI 20” để hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề này được chia làm 3 phần:
Phần 1: Đấu thầu xây dựng và hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng trong lĩnh vực đấu thầu.
Phần 2: Tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu của công ty xây dựng 20 - LICOGI20.
Phần 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao khả năng thắng thầu của công ty xây dựng 20 - LICOGI 20
Đây là một đề tài rộng và còn mới mẻ về cả lý luận và thực tiễn ở nước ta, hơn nữa do trình độ và thời gian có hạn nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô cũng như các cán bộ của công ty Xây dựng 20 để bài viết được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các cô chú trong phòng Kinh tế - kế hoạch - công ty Xây dựng 20 và đặc biệt là thầy giáo đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập, nghiên cứu và hoàn thành bài viết này.
phần 1
đấu thầu xây dựng và hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng trong lĩnh vực đấu thầu
I-/ Đầu thầu xây lắp.
1-/ Thực chất của đấu thầu xây lắp.
Để triển khai một dự án đầu tư đã được phê duyệt, thẩm định người ta có thể áp dụng một trong ba phương thức sau: tự làm, chỉ định thầu và đấu thầu. Trong đó theo phương thức tự làm, chủ đầu tư sẽ tự mình làm hết các công đoạn từ khảo sát, thiết kế đến thi công xây lắp. Chỉ định thầu là hình thức đặc biệt, được áp dụng theo quy định của Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng đối với các gói thầu sử dụng vốn Nhà nước được phép chỉ định thầu. Bên mời thầu chỉ phương thảo hợp đồng với một nhà thầu do người có thẩm quyền quyết định đầu tư chỉ định, nếu không đạt yêu cầu mới thương thảo với nhà thầu khác. Trong trường hợp này công cụ ràng buộc hai bên chủ đầu tư và nhà thầu xây lắp chính là hợp đồng xây lắp. Phương thức đấu thầu được áp dụng rộng rãi với hầu hết các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Nếu đứng ở mỗi góc độ khác nhau sẽ có các cách nhìn nhận khác nhau về đấu thầu trong đầu tư xây dựng cơ bản.
* Đứng ở góc độ của chủ đầu tư: đấu thầu là một phương thức cạnh tranh trong xây dựng nhằm lựa chọn người nhận thầu (khảo sát, thiết kế, xây lắp,...) đáp ứng được yêu cầu kinh tế, kỹ thuật đặt ra cho việc xây dựng công trình.
* Đứng ở góc độ của nhà thầu: đấu thầu là một hình thức kinh doanh mà thông qua đó nhà thầu nhận được cơ hội nhận thầu khảo sát thiết kế, mua sắm máy móc thiết bị và xây lắp công trình.
* Đứng ở góc độ quản lý Nhà nước: đấu thầu là một phương thức quản lý thực hiện dự án đầu tư mà thông qua đó lựa chọn được nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu.
Từ những góc độ trên có thể thấy thực chất của đấu thầu thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
* Thứ nhất, đấu thầu là việc tổ chức hoạt động cạnh tranh trên hai phương diện:
+ Cạnh tranh giữa bên mời thầu (chủ đầu tư) và các nhà thầu (các đơn vị xây lắp).
+ Cạnh tranh giữa các nhà thầu.
Các quan hệ cạnh tranh này xuất phát từ quan hệ mua bán (cung - cầu) bởi vì đấu thầu xây dựng thực ra cũng là hoạt động mua bán và ở đây người mua là chủ đầu tư và người bán là các nhà thầu. Tuy nhiên, hoạt động mua bán này khác với hoạt động mua bán thông thường ở chỗ tính chất hàng hoá của sản phẩm xây dựng thể hiện không rõ do việc tiêu thụ diễn ra trước khi có sản phẩm và thực hiện theo giá dự toán (chứ không phải giá thực tế). Theo lý thuyết hành vi thì trong một vụ mua bán thì bao giờ người mua cũng cố gắng để mua được hàng hoá với mức giá thấp nhất ở chất lượng nhất định, còn người bán lại cố gắng bán được mặt hàng đó ở mức giá cao nhất có thể. Do đó, nẩy sinh sự cạnh tranh giữa người mua (chủ đầu tư) và người bán (nhà thầu). Mặt khác, do hoạt động mua bán này chỉ diễn ra với một người mua và nhiều ngườ bán nên giữa những người bán phải cạnh tranh với nhau để bán được sản phẩm của mình. Kết quả là thông qua việc tổ chức hoạt động cạnh tranh sẽ hình thành giá thầu hay giá dự toán công trình.
* Thứ hai, đấu thầu còn là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu quả kinh tế trong việc lựa chọn các đơn vị thi công xây lắp (các nhà thầu). Phương pháp này đòi hỏi việc so sánh, đánh giá giữa các nhà thầu phải diễn ra theo một quy trình và căn cứ vào một hệ thống các tiêu chuẩn nhất định. Kết quả cuối cùng sẽ tìm ra được một nhà thầu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về công trình của chủ đầu tư.
2-/ Một số văn bản liên quan đến hoạt động đấu thầu.
ở nước ta trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phương thức xây dựng cơ bản chủ yếu được áp dụng là tự làm và chỉ định thầu. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, phương thức đấu thầu ngày càng được áp dụng rộng rãi đối với các công trình mà Nhà nước cấp vốn, những công trình sử dụng vốn nước ngoài hỗ trợ (ODA) và cả một số công trình tư nhân bỏ vốn xây dựng. Trên cơ sở những quy định chung về xây dựng cơ bản mà Chính phủ đã ban hành, Bộ xây dựng, cơ quan quản lý Nhà nước về xây dựng cơ bản đã ban hành các quy chế đấu thầu. Văn bản đầu tiên về quy chế đấu thầu được ban hành từ khi chuyển sang cơ chế quản lý mới là Thông tư số 03-BXD/VKT (năm 1988) về “Hướng dẫn tạm thời thực hiện chế độ đấu thầu trong xây dựng cơ bản”. Ngày 12-2-1990, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 24-BXD/VKT về “Quy chế đấu thầu xây lắp”. Sau một thời gian thực hiện, ngày 3-3-1994, Bộ xây dựng đã ra Quyết định số 60-BXD/VKT về “Quy chế đấu thầu xây lắp” thay cho Quyết định số 24-BXD/VKT. Ngày 17-6-1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43-CP về “Quy chế đấu thầu”, ngày 25-2-1997 liên Bộ kế hoạch và đầu tư - xây dựng thương mại đã ra Thông tư số 2-TT/LB hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu trên. Tuy nhiên do những yêu cầu mới đặt ra của hoạt động xây dựng cơ bản nói chung và hoạt động đấu thầu nói riêng ngày 1-9-1999 Chính phủ ban hành Nghị định 88-1999/NĐ-CP về “Quy chế đấu thầu”. Gần đây, do đòi hỏi mới từ hoạt động thực tiễn, trong hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu xây dựng nói riêng, Chính phủ vừa mới ra Nghị định 12&14 bổ xung Quy chế đấu thầu vào ngày 20-5-2000. Đây là những văn bản pháp quy có giá trị hiện hành. Mặc dù còn có nhiều tranh luận xung quanh những văn bản pháp quy này nhưng có thể khẳng định rằng đó là những cơ sở pháp lý quan trọng góp phần tích cực trong việc đưa cơ chế đấu thầu vào thực tiễn một cách có nề nếp.
3-/ Hình thức lựa chọn nhà thầu và phương thức áp dụng.
3.1. Hình thức lựa chọn nhà thầu.
Việc lựa chọn nhà thầu có thể được thực hiện theo hai hình thức chủ yếu sau đây:
- Đấu thầu rộng rãi:
Đấu thầu rộng rãi là không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và ghi rõ các điều kiện và thời gian dự thầu. Đối với những gói thầu lớn, phức tạp về công nghệ, bên mời thầu phải tiến hành sơ tuyển để lựa chọn nhà thầu có đủ tư cách và năng lực tham gia dự thầu.
Hình thức đấu thầu này được khuyến khích áp dụng nhằm đạt tính cạnh tranh cao trên cơ sở tham gia của nhiều nhà thầu. Tuy nhiên hình thức này được áp dụng cho các công trình thông dụng, không có yêu cầu đặc biệt về kỹ thuật, mỹ thuật, cũng như không cần bí mật và tuỳ theo từng dự án cụ thể trong phạm vi một địa phương, một vùng, toàn quốc hoặc quốc tế.
- Đấu thầu hạn chế.
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mời một số nhà thầu có khả năng đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Hình thức đấu thầu này được áp dụng trong một số trường hợp sau:
+ Chỉ có một số nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của hồ sơ mời thầu nhưng tối thiểu phải có 3 nhà thầu có khả năng tham gia.
+ Các nguồn vốn sử dụng có yêu cầu tiến hành đấu thầu hạn chế.
+ Do yêu cầu về tiến độ thực hiện dự án được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp thuận.
3.2. Phương thức áp dụng.
Để thực hiện đấu thầu chủ đầu tư có thể áp dụng các phương thức chủ yếu sau:
- Đấu thầu 1 túi hồ sơ (1 phong bì).
Khi đấu thầu theo phương thức này, nhà thầu cần nộp những đề xuất về kỹ thuật, tài chính, giá bỏ thầu và những điều kiện khác trong 1 túi hồ sơ.
- Đấu thầu 2 túi hồ sơ (2 phong bì).
Khi đấu thầu theo phương thức này, nhà thầu cần nộp những đề xuất kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong từng túi hồ sơ riêng vào trong cùng 1 thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá, xếp hạng. Nhà thầu nào đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về tài chính (giá cả) để đánh giá.
Phương thức này được áp dụng cho những trường hợp sau:
+ Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có giá từ 500 tỷ đồng trở lên.
+ Các gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp.
+ Dự án được thực hiện theo hợp đồng chìa khoá trao tay.
Quá trình thực hiện phương thức này cụ thể như sau:
ã Giai đoạn thứ nhất: các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính (chưa có giá) để bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình.
ã Giai đoạn thứ hai: bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ xung hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu.
4-/ Những nguyên tắc cơ bản của công tác đấu thầu xâylắp.
Cũng như bất cứ một phương thức kinh doanh nào, phương thức kinh doanh theo chế độ đấu thầu cũng đòi hỏi phải có những nguyên tắc nhất định cần phải được tuân thủ để đạt hiệu quả cao. Những nguyên tắc này chi phối cả bên đầu tư lẫn bên dự thầu. Đó là các nguyên tắc sau:
4.1. Nguyên tắc công bằng.
Nguyên tắc này thể hiện quyền bình đẳng như nhau của các bên tham gia đấu thầu. Bên mời thầu phải đối xử một cách công bằng với mọi nhà thầu. Công bằng là rất quan trọng với các nhà thầu và cũng vì công bằng mà chủ đầu tư mới chọn được đúng nhà thầu thoả mãn một cách tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư. Các nhà thầu phải được bình đẳng về các thông tin cung cấp từ phía chủ đầu tư, được trình bày một cách khách quan các ý kiến của mình trong quá trình chuẩn bị hồ sơ cũng như trong buổi mở thầu.
4.2. Nguyên tắc bí mật.
Nguyên tắc này đòi hỏi chủ đầu tư phải giữ bí mật mức giá dự kiến của mình cho công trình đấu thầu, cũng như giữ bí mật các ý kiến trao đổi của các nhà thầu đối với chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm tránh thiệt hại cho chủ đầu tư trong trường hợp giá dự thầu thấp hơn giá dự kiến hay gây thiệt hại cho một bên dự thầu nào đó do thông tin bị lộ tới một bên khác.
4.3. Nguyên tắc công khai.
Nguyên tắc này yêu cầu trừ những công trình đặc biệt thuộc bí mật quốc gia, những công trình còn lại đều phải đảm bảo công khai các thông tin cần thiết trong khi gọi thầu và trong giai đoạn mở thầu. Mục đích của nguyên tắc này cũng là nhằm thực hiện nguyên tắc công bằng và thu hút được nhiều hơn các nhà thầu, nâng cao chất lượng của công tác đấu thầu.
4.4. Nguyên tắc có năng lực.
Nguyên tắc này đòi hỏi chủ đầu tư cũng như các bên dự thầu phải có năng lực thực tế về kinh tế, kỹ thuật để thực hiện những điều cam kết khi đấu thầu. Nguyên tắc này được đặt ra để tránh thiệt hại do việc chủ đầu tư hay bên dự thầu không có đủ năng lực để thực hiện các cam kết của mình, làm mất đi tính hiệu quả của công tác đấu thầu, gây tổn thất cho Nhà nước.
4.5. Nguyên tắc bảo đảm cơ sở pháp lý.
Các bên tham gia đấu thầu phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về nội dung và trình tự đấu thầu, cũng như những cam kết đã được ghi nhận trong hợp đồng giao nhận thầu. Nếu không đảm bảo nguyên tắc này, cơ quan đầu tư và cơ quan quản lý đầu tư có quyền kiến nghị huỷ bỏ dự thầu.
II-/ Quá trình đấu thầu và hoạt động của doanh nghiệp xây dựng trong lĩnh vực đấu thầu.
Để tiện cho công việc nghiên cứu tiếp theo, chúng ta có thể quan niệm công tác dự thầu của các doanh nghiệp xây dựng như sau:
Công tác dự thầu là một mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng, nó bao gồm những công việc liên quan đến quá trình tìm kiếm và cạnh tranh thông qua hình thức đấu thầu để ký kết các hợp đồng xây lắp công trình.
Từ quan niệm đó ta có thể thấy công tác dự thầu là bước khởi đầu cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng và là hoạt động tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của các doanh nghiệp này. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể các vấn đề chủ yếu của việc tổ chức công tác dự thầu trong các doanh nghiệp xây dựng.
Theo quy định tại khoản 2, điều 9 của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ thì điều kiện đặt ra đối với một nhà thầu khi tham dự đấu thầu gồm:
- Có giấy đăng ký kinh doanh. Đối với nhà thầu mua sắm thiết bị phức tạp được quy định trong hồ sơ mời thầu, ngoài giấy đăng ký kinh doanh phải có giấy phép bán hàng thuộc bản quyền của nhà sản xuất.
- Có đủ năng lực về kỹ thuật và tài chính đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
- Chỉ được tham gia một đơn dự thầu trong một gói thầu dù là đơn phương hay liên danh dự thầu. Trường hợp Tổng công ty đứng tên dự thầu thì các đơn vị trực thuộc không được phép tham dự thầu với tư cách là một nhà thầu độc lập trong cùng một gói thầu.
Việc tổ chức công tác đấu thầu do chủ đầu tư đảm nhiệm. Tuỳ từng điều kiện cụ thể và loại hình đấu thầu trong nước hay quốc tế mà quá trình đấu thầu sẽ được tổ chức theo thể thức 3 giai đoạn gồm 12 bước được hướng dẫn trong “Bộ tài liệu hướng dẫn đấu thầu quốc tế” do Hiệp hội quốc tế và các kỹ sư tư vấn (FIDIC) soạn thảo năm 1953 hiện đang được áp dụng tại Việt Nam. Song song với quá trình đấu thầu do chủ đầu tư tổ chức thì các nhà thầu (các đơn vị xây lắp) cũng phải tiến hành các công việc cần thiết khi tham gia đấu thầu. Mặc dù có sự khác nhau đôi chút trong việc tham gia đấu thầu trong nước và đấu thầu quốc tế nhưng nhìn chung có thể phân chia, khái quát các công việc đó thành trình tự dự thầu gồm 5 bước theo sơ đồ sau:
(1)
Thu thập, tìm kiếm thông tin về công trình cần đấu thầu
(2)
Tham gia sơ tuyển (nếu có)
(3)
Chuẩn bị và lập hồ sơ dự thầu
(4)
Nộp hồ sơ dự thầu và tham gia mở thầu
(5)
Ký kết hợp đồng thi công (nếu trúng thầu)
Sơ đồ 1: Trình tự dự thầu xây lắp của các doanh nghiệp xây dựng
Bước 1: Tìm kiếm thông tin về công trình cần đấu thầu.
Đây được coi là bước đầu tiên của quy trình dự thầu của các doanh nghiệp xây dựng bởi nó chính là bước để người bán (các doanh nghiệp xây dựng) tiếp cận được với người mua (chủ đầu tư). Từ đó mới dẫn đến quan hệ giao dịch mua bán thông qua phương thức đấu thầu. Các nhà thầu có thể tìm kiếm thông tin về công trình cần đấu thầu thông qua các kênh thông tin chủ yếu sau đây:
* Thông báo mời thầu của bên mời thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đối với các công trình được tổ chức đấu thầu theo hình thức đấu thầu rộng rãi hoặc có sơ tuyển thì bên mời thầu sẽ tiến hành thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: đài, ti vi, báo chí,... Nội dung thông báo này thường bao gồm: tên và địa chỉ bên mời thầu; mô tả tóm tắt dự án, địa chỉ và thời gian xây dựng; chỉ dẫn tìm hiểu hồ sơ mời thầu; thời hạn, địa chỉ nhận hồ sơ mời thầu,...
* Thư mời thầu do bên mời thầu gửi tới: do mối quan hệ từ trước giữa bên mời thầu với nhà thầu, hoặc nhờ vào uy tín, vị trí của nhà thầu trên thị trường, các nhà thầu có thể được bên mời thầu trực tiếp mời dự thầu thông qua thư mời thầu trong trường hợp công trình được tổ chức đấu thầu hạn chế.
* Thông qua giới thiệu của đối tác trung gian: vì một lý do nào đó đặc biệt là do thị trường chưa hoàn chỉnh, các nhà thầu có thể không biết được về công trình cần đấu thầu một cách trực tiếp, họ vẫn có thể có được thông tin về công trình cần đấu thầu thông qua giới thiệu của nhà môi giới. Nhà môi giới có thể là cá nhân hoặc tổ chức, thậm chí là cán bộ công nhân viên của nhà thầu. Đây là cách thức tìm kiếm thông tin khá phổ biến của các nhà thầu ở Việt Nam hiện nay.
Điều cần chú ý ở bước này là dù cho nhà thầu tìm kiếm thông tin theo hình thức nào thì cũng phải nắm bắt được những thông tin cần thiết ban đầu về công trình đấu thầu, lấy đó làm cơ sở phân tích để đưa ra được quyết định có hoặc không tham dự thầu. Việc làm này sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh được việc phải bỏ ra những chi phí tiếp theo mà không đem lại cơ hội tranh thầu thực tế.
Bước 2: Tham gia sơ tuyển (nếu có)
Nếu công trình cần đấu thầu được bên mời thầu tổ chức có tiến hành sơ tuyển thì các nhà thầu sẽ phải nộp cho bên mời thầu một bộ tài liệu sơ tuyển. Thông thường, các nhà thầu sẽ phải trình bày trong hồ sơ tuyển những tài liệu sau đây:
- Cơ cấu tổ chức sản xuất của nhà thầu.
- Kinh nghiệm trong loại hình công tác.
- Nguồn nhân lực, trình độ quản lý, kỹ thuật, quy mô doanh nghiệp.
- Tình trạng tài chính những năm gần đây.
Mục tiêu đặt ra đối với bước này là vượt qua giai đoạn sơ tuyển. Tuy vậy, một vấn đề khác ở giai đoạn này mà nhà thầu cần chú ý đó là nắm bắt được các đối thủ cùng vượt qua sơ tuyển và tiến hành tìm kiếm thông tin về họ, làm căn cứ để đưa ra chiến lược tranh thầu thích hợp trong bước tiếp theo.
Bước 3: Chuẩn bị và lập hồ sơ dự thầu.
Trong bước này, trước hết, nhà thầu sẽ nhận được 1 bộ hồ sơ mời thầu do bên mời thầu cung cấp, với nội dung gồm:
- Thư mời thầu.
- Chỉ dẫn đối với nhà thầu.
- Hồ sơ thiết kế kỹ thuật kèm theo bản tiên lượng và chỉ dẫn kỹ thuật.
- Tiến độ thi công.
- Điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng.
- Bảo hành dự thầu.
- Mẫu thoả thuận hợp đồng và bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Công việc đầu tiên của nhà thầu là tiến hành nghiên cứu kỹ hồ sơ mời thầu. Đây là công việc rất quan trọng vì nó là xuất phát điểm để nhà thầu lập hồ sơ dự thầu và xác định xem khả năng của mình có thể đáp ứng được các yêu cầu đặt ra của bên mời thầu hay không. Đối với các vấn đề chưa rõ trong hồ sơ mời thầu, nhà thầu có thể tìm được lời giải thông qua tham gia hội nghị tiền thầu do bên thầu chỉ được đưa ra khi có cơ sở là biện pháp thi công và tổ chức thi công hợp lý vì giá dự thầu phản ánh chính xác nhận thầu của nhà thầu, phản ánh biện pháp thi công và tổ chức thi công. Đây chỉ là chỉ tiêu tổng hợp nhất và thực chất là chiến lược nhận thầu. Giá dự thầu cũng cần được tính toán cẩn thận để đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật chứ không chỉ đáp ứng về khối lượng và thời gian đồng thời phải đảm bảo tính khả thi của phương án đấu thầu cũng như phải nắm được chiến lược cạnh tranh.
Bước 4: Nộp hồ sơ dự thầu và tham gia mở thầu.
Việc nộp hồ sơ dự thầu sẽ diễn ra theo đúng thời gian và địa điểm quy định trong hồ sơ mời thầu. Nhà thầu phải nộp cho bên mời thầu trong tình trạng niêm phong. Thông thường, bên mời thầu sẽ yêu cầu nhà thầu nộp bộ hồ sơ dự thầu gốc và một số nhất định các bản sao được bỏ chung vào một gói bọc.
Cùng với việc nộp hồ sơ dự thầu, nhà thầu cũng phải nộp cho bên mời thầu một số tiền bảo lãnh dự thầu bằng từ 1% đến 3% tổng giá trị ước tính giá bỏ thầu hoặc bằng một mức nhất định đã quy định. Tiền bảo lãnh sẽ được trả lại cho những nhà thầu không đạt được kết quả sau khi công bố trúng thầu không quá 30 ngày kể từ ngày công bố. Nhà thầu sẽ không nhận lại tiền bảo lãnh dự thầu trong một số trường hợp sau:
- Trúng thầu nhưng từ chối thực hiện hợp đồng.
- Rút đơn dự thầu sau thời gian nộp thầu.
- Do vi phạm nghiêm trọng các quy định trong quy chế đấu thầu.
Đến một thời gian quy định (có thể trùng với thời gian nộp hồ sơ dự thầu), nhà thâu được tham gia vào cuộc mở thầu do bên mời thầu tổ chức tại địa điểm mà bên mời thầu đã quy định trong hồ sơ mời thầu. Theo quy định hiện hành thì việc mở thầu phải được tiến hành một cách công khai theo ngày, giờ và địa điểm quy định và không được quá 48 giờ kể từ thời điểm đóng thầu (trừ mời thầu tổ chức hoặc trao đổi công khai bằng văn bản với bên mời thầu). Một điều đáng quan tâm trong việc thực hiện những công việc tiếp theo là nhà thầu nên thực hiện đúng theo những chỉ định trong phần chỉ dẫn đối với nhà thầu trong hồ sơ mời thầu.
Tiếp theo, nhà thầu có thể xin phép chủ đầu tư cho đi thăm công trường để khảo sát thực tế nếu thấy cần thiết. Chi phí cho việc đi thực tế này thường do nhà thầu chịu. Nhà thầu nên cử những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm cả về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế, tài chính để đi khảo sát hiện trường. Điều này sẽ giúp cho nhà thầu nắm được thực địa làm cơ sở xây dựng giải pháp kỹ thuật thi công hợp lý cũng như nắm được tình hình thị trường nơi đặt công trình, đặc biệt là thị trường các yếu tố đầu vào cần cung cấp cho thi công công trình để có cơ sở cho việc lập giá dự thầu.
Sau khi nắm chắc nhiều thông tin về các phương diện, nhà thầu mới tiến hành công việc quan trọng nhất của công việc dự thầu và quyết định khả năng thắng thầu đó là lập hồ sơ dự thầu. Khi tiến hành công việc này, nhà thầu có thể sử dụng tư vấn liên quan đến việc lập biện pháp thi công và các giải pháp kỹ thuật. Nội dung của hồ sơ dự thầu thường bao gồm:
- Đơn dự thầu.
- Bản sao giấy đăng ký kinh doanh hoặc chứng chỉ nghề nghiệp.
- Tài liệu giới thiệu năng lực nhà thầu.
- Biện pháp thi công tổng thể và biện pháp thi công chi tiết các hạng mục công trình.
- Tổ chức thi công và tiến độ thực hiện hợp đồng.
- Bản dự toán giá dự thầu.
Trong bước công việc này thì những công việc quan trọng và đòi hỏi nhiều công sức đó là: lập biện pháp thi công; tổ chức thi công và bản dự toán giá dự thầu. Các nhà thầu cần chú ý rằng, giá dự thầu, ngày nghỉ theo quy định của pháp luật. Trong cuộc họp mở thầu bên mở thầu thường công bố công khai hai chỉ tiêu đó là giá bỏ thầu và thời gian thi công của từng nhà thầu. Đây là những thông tin mà nhà thầu cần lưu giữ để làm căn cứ rút kinh nghiệm và đánh giá đối thủ cạnh tranh trong những lần tiếp theo.
Bước 5: Ký kết hợp đồng thi công (nếu trúng thầu).
Nếu nhận được thông báo trúng thầu của bên mời thầu, nhà thầu trúng thầu phải gửi cho bên mời thầu thống báo chấp nhận đàm phán hợp đồng trong một thời hạn nhất định kể từ khi nhận được thông báo trúng thầu. Sau đó, theo lịch đã thống nhất hai bên tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng. Nhà thầu trúng thầu cũng sẽ phải nộp cho bên mời thầu một khoản bảo lãnh hợp đồng, một khoản bảo lãnh hợp đồng bằng 10% đến 15% tổng giá trị hợp đồng và được nhận lại bảo lãnh hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng có hiệu lực cho đến khi thời gian bảo lãnh của hợp đồng hết hạn. Việc tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng bao thầu công trình phải theo đúng luật để hợp đồng phù hợp với pháp luật quy định và kế hoạch của Nhà nước, phù hợp với nguyên tắc bình đẳng hai bên cùng có lợi, có thưởng, có phạt.
III-/ ý nghĩa của việc nâng cao khả năng thắng thầu của các doanh nghiệp xây dựng.
Đấu thầu được thực hiện trên nhiều lĩnh vực nhưng rõ nét nhất vẫn là lĩnh vực xây lắp. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, phương thức đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng cơ bản tỏ ra có vai trò to lớn đối với cả bên chủ đầu tư, nhà thầu và Nhà nước. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét vai trò của việc nâng cao khả năng thắng thầu đối với các doanh nghiệp xây dựng.
Bất kỳ doanh nghiệp xây dựng nào khi tham gia vào quá trình đấu thầu với tư cách là một nhà thầu thì mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất là phải thắng thầu. Chính mục tiêu quan trọng hàng đầu này sẽ phát huy được tính năng động, sáng tạo trong việc tìm kiếm cơ hội tham gia dự thầu. Họ phải tích cực tìm kiếm các thông tin về các công trình mời thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng, gây dựng các mối quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước, tự tìm cách để tăng uy tín của mình để có thể biết được cơ hội dự thầu và ngoài ra còn có khả năng được chỉ định thầu.
Việc tham gia đấu thầu, trúng thầu và thực hiện dự án đầu tư theo hợp đồng làm cho nhà thầu phải tập trung đồng vốn của mình vào một trọng điểm đầu tư. Việc tập trung vào dự án đầu tư cũng giúp cho nhà thầu nâng cao được năng lực kỹ thuật, công nghệ của mình theo yêu cầu của công trình. Ngay từ quá trình đấu thầu nếu trình độ kỹ thuật, công nghệ của nhà thầu không cao thì khả năng trúng thầu của nhà thầu là thấp. Hơn nữa nếu trình độ kỹ thuật, công nghệ không cao mà trúng thầu thì nhà thầu sẽ có thể bị thua lỗ. Vấn đề đặt ra với các nhà thầu là phải có kế hoạch đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao năng lực kỹ thuật và công nghệ. Điều đó không chỉ có ý nghĩa trong việc thực hiện đúng tiến độ và chất lượng của công trình như đã ký kết trong hợp đồng đối với công trình đã ký mà còn góp phần vào việc nâng cao khả năng thắng thầu của doanh nghiệp trong thời gian tới.
Trong giai đoạn hiện nay, khi thị trường kinh doanh xây dựng cơ bản diễn ra khá sôi động và cạnh tranh gay gắt, cùng với yêu cầu đặt ra đối với các dự án đầu tư về mặt kinh tế, kỹ thuật cao đòi hỏi các nhà thầu phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của mình trong quá trình tham dự thầu và thực hiện các công trình đã thắng thầu. Từ đó góp phần giúp doanh nghiệp nâng cao và hoàn thiện các mặt tổ chức, quản lý, về lao động, vật tư, máy móc, tài chính,...
Bên cạnh đó ta còn thấy được rằng: việc thắng thầu của doanh nghiệp sẽ tạo được việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao số sử dụng của máy móc thiết bị, vật tư,.... Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phần 2
tình hình thực hiện công tác đấu thầu của công ty xây dựng 20 - LICOGI 20
I-/ Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
1-/ Khái quát về Tổng công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng - LICOGI
Là một doanh nghiệp Nhà nước, Tổng công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng - Bộ xây dựng (Infastructure Development and Contruction Corporation), tên giao dịch là LICOGI, là đơn vị chuyên ngành thi công xây lắp, từng tham gia thi công tại hầu hết các công trình trọng điểm có ý nghĩa chính trị, kinh tế, quốc phòng của đất nước từ những năm đầu của thập kỷ 60 đến nay: khu gang thép Thái Nguyên; nhà máy nhiệt điện Phả Lại; các nhà máy thủy điện Hoà Bình, Trị An, Vĩnh Sơn, Thác Mơ, Yaly; các nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Hà Tiên; nhà máy Apatit LaoCai; nhà máy sản xuất bóng đèn hình Orion-Hanel; lăng và bảo tàng Hồ Chí Minh; nhà họp Chính phủ; trụ sở UNDP với khu ngoại giao đoàn tại Hà Nội; trường ĐH Kiến trúc Hà Nội...
Tổng công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng được thành lập theo Quyết định số 998/BXD-TCLĐ của Bộ trưởng Bộ xây dựng. Hiện nay, trực thuộc Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng có 3 công ty xây dựng, 7 công ty cơ giới và xây lắp, 1 xí nghiệp lắp máy điện nước, 1 công ty cơ khí, 1 công ty vật tư và sản xuất vật liệu xây dựng, 2 trường đào tạo công nhân kỹ thuật cơ giới và xây dựng, với đội ngũ hơn 7.000 cán bộ, kỹ sữ và công nhân kỹ thuật hành nghề giàu kinh nghiệm thi công xây lắp.
Trải qua 40 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng đã khẳng định được thế mạnh của một đơn vị chuyên ngành trong thi công xây lắp và ngày càng được sự tín nhiệm của chủ đầu tư trong nước và ngoài nước, trở thành một đối tác quan trọng đối với các chủ đầu tư. Đứng trước đòi hỏi ngày càng cao trong xây ựng hiện đại, trong những năm gần đây, Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng đã và đang tích cực đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị, đồng thời không ngừng học hỏi để nắm bắt thị trường thông tin mới, phục vụ cho nhu cầu xây dựng trong thế đi lên của xã hội.
2-/ Quá trình hình thành và phát triển của công ty xây dựng 20.
Công ty xây dựng 20 - LICOGI 20 là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng (BXD) đã trải qua gần 20 năm hoạt động trong lĩnh vực thi công cơ giới và xây dựng cơ bản, đạt được nhiều thành tích đáng kể. Được thành lập từ những năm đầu của thập kỷ 80, công ty Xây dựng 20 đã tham gia thi công nhiều công trình quan trọng của đất nước như: đường cao tốc Bắc Thăng Long - Nội Bài, nhà ga T1 sân bay Nội Bài, nhà máy Bột ngọt MIWON, nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thuỷ điện Hoà Bình,... khu chế xuất An Đồn - Đà Nẵng, khu chế xuất Sóc Sơn - Nội Bài,... cũng như nhiều công trình lớn nhỏ khác. Các công trình này đều vận hành và sử dụng tốt, được đánh giá cao, đã khẳng định khả năng nỗ lực hoạt động của công ty. Trong quá trình hình thành và phát triển, công ty Xây dựng 20 đã nhiều lần được Đảng và Nhà nước khen thưởng về những nỗ lực phấn đấu của công ty trong lĩnh vực thi công cơ giới và xây dựng cơ bản. Có thể khái quát quá trình phát triển của công ty thành hai giai đoạn chính:
2.1. Giai đoạn từ khi thành lập (1980) đến khi được sắp xếp lại (1993).
Tiền thân của công ty Xây dựng 20 là trung tâm nghiên cứu kinh tế kỹ thuật thi công cơ giới trực thuộc Liên hiệp các xí nghiệp thi công cơ giới - Bộ xây dựng được thành lập theo Quyết định số 194-BXD-TCCB ngày 21/1/1980. Trong giai đoạn này, do đòi hỏi khách quan cũng như chủ quản để phù hợp với cơ chế mới, công ty đã trải qua một lần đổi tên gọi như sau:
- Quyết định số 154/B._.XD-TCLĐ ngày 5/4/1992 đổi tên thành Xí nghiệp xử lý nền móng và thiết kế xây lắp.
Đặc trưng nổi bật trong giai đoạn phát triển này của công ty là tham gia thi công xử lý nền móng, thí nghiệm nền móng và một số ít các công trình xây dựng có quy mô nhỏ thuộc các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông,... Hoạt động thi công cơ giới của công ty không mang tính cạnh tranh, công ty luôn chiếm ưu thế trong lĩnh vực này. Đây là những tiền đề, là động lực cho những bước phát triển của công ty.
2.2. Giai đoạn từ khi được thành lập lại (2/1993) cho đến nay.
Cũng như các doanh nghiệp Nhà nước khác cần được sắp xếp lại cho phù hợp với tình hình và định hướng phát triển kinh tế của đất nước trong nền kinh tế chuyển đổi, ngày 20/2/1993, căn cứ vào quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 388/HĐBT (ngày 20/11/1991) và Nghị định số 156/HĐBT (7/5/1992) sửa đổi bổ sung Nghị định số 388/HĐBT, Bộ trưởng Bộ xây dựng đã ký Quyết định số 061A/BXD/TCLĐ ngày 20/2/1993 thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước với tên gọi là xí nghiệp xử lý nền móng xây dựng trực thuộc Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng, theo hình thức hạch toán kinh tế độc lập. Quyết định này đánh dấu một bước chuyển đổi lớn trong quá trình phát triển của công ty, cho phép công ty có đầy đủ điều kiện để phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, năng động sáng tạo tìm ra phương hướng và biện pháp phát triển của mình nhằm hoạt động có hiệu quả phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Sau khi được thành lập lại, công ty đã nhanh chóng sắp xếp lại tổ chức, ổn định quá trình sản xuất, bắt kịp nhịp độ sôi động đang diễn ra trên thị trường kinh doanh xây dựng. Đến đầu năm 1996, công ty được đổi tên thành công ty xây dựng 20 trực thuộc Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng, sau khi được sáp nhập thêm một số đội xây dựng từ công ty xây dựng 18 về theo Quyết định số 01/BXD-TCLĐ ngày 2/1/1998. Sự thay đổi này đã giúp công ty mở rộng năng lực sản xuất của mình.
Trong những năm đầu của giai đoạn này, thế mạnh chủ yếu của công ty vẫn là thi công cơ giới các công trình và hạng mục công trình do Tổng công ty giao. Đây chính là nguồn thu chính của công ty. Tuy nhiên, trong những năm gần đây bên cạnh việc thực hiện thi công các công trình do Tổng công ty giao thì công ty đã mạnh dạn tự tìm kiếm và tiêu thụ sản phẩm xây lắp thông qua đấu thầu. Để thích ứng với nền kinh tế thị trường, công ty đã và đang đa dạng hoá ngành nghề hoạt động kinh doanh, nâng cao và cải tiến năng lực máy móc thiết bị thi công, mở rộng thị trường, tìm kiếm và huy động thêm vào nguồn vốn. Cụ thể là, ngoài việc tiếp tăng cường nhận thầu và thi công các công trình thuộc những ngành nghề là thế mạnh của công ty như: xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng, các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện,... công ty còn tiến hành đăng ký bổ sung một số ngành nghề mới như: thi công các công trình giao thông, nhận thầu lắp đặt thiết bị công nghệ,... Cùng với việc đa dạng hoá, mở rộng ngành nghề, công ty đã đầu tư đồng bộ một số dây chuyền máy móc thiết bị thi công đường như: búa rung, máy ép thuỷ lực và được Tổng công ty bổ sung thêm một số thiết bị như: cần trục, máy ép thuỷ lực,... nên đã nâng cao ưu thế cạnh tranh trên thị trường xử lý nền móng mở rộng hoạt động trên thị trường cả nước.
Những nỗ lực kể trên của công ty trong giai đoạn phát triển này đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Trong đó kết quả đầu tiên phải kể đến là công ty đã tìm được một chỗ đứng cho mình trên thị trường kinh doanh xây dựng, và vị trí của công ty trong tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng. Cụ thể là công ty đã tham gia thi công nhiều công trình lớn do Tổng công ty giao và một số công trình và hạng mục công trình mà công ty đã thắng thầu như: cầu Bắc Thăng Long - Nội Bài, kính Đáp Cầu, công viên Đống Đa, cọc cát Viện 7 Hải Dương,... Số vốn kinh doanh của công ty không ngừng tăng lên từ 2.100.000 VND khi mới được thành lập, đến nay gần 39 tỉ đồng. Từ năm 1995 đến nay, công ty luôn đạt mức tăng trưởng cao của doanh thu cũng như giá trị tổng sản lượng, mức tăng hàng năm khoảng 17%. Tuy nhiên, kể từ năm 1996 đến nay, do những khó khăn chung của toàn ngành cũng như những hạn chế của công ty, nên doanh thu của công ty đã bị giảm sút đáng kể và thường xuyên không ổn định. Chúng ta có thể thấy được qua bảng sau:
Bảng 1: Doanh thu của công ty xây dựng 20 giai đoạn 96-99
Đơn vị: VND
Năm
Doanh thu
1996
43.461.398.035
1997
33.147.203.195
1998
41.001.640.396
1999
40.661.815.000
Bên cạnh những kết quả đã đạt được kể trên, trong những năm gần đây, đời sống của cán bộ công nhân viên công ty không ngừng được cải thiện, nâng cao về mọi mặt.
Qua những đánh giá khái quát trên có thể thấy được đặc trưng nổi bật của công ty từ khi được thành lập lại đến nay của công ty xây dựng 20 là đã và đang từng bước thích nghi với cơ chế thị trường tạo nên cái nhìn khả quan về khả năng phát triển trong hoạt động sản xuất của công ty trước mắt cũng như về lâu dài.
II-/ Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hoạt động đấu thầu của công ty xây dựng 20.
1-/ Ngành nghề kinh doanh và thị trường hoạt động.
Theo “Chứng chỉ hành nghề kinh doanh” số 411 - BXD/CSXD ngày 4/10/1997, công ty xây dựng 20 có năng lực hành nghề xây dựng như sau:
* Thực hiện các công việc xây dựng gồm:
- Nạo vét và bồi đắp mặt bằng, đào đắp công trình.
- Thi công các loại móng công trình.
- Xây lắp các kết cấu công trình.
- Lắp đặt các thiết bị cơ - điện - nước công trình.
- Hoàn thiện xây dựng.
- Kiểm tra địa chất bằng các phương pháp xuyên tĩnh, nén tĩnh, siêu âm.
* Thực hiện xây dựng các công trình gồm:
- San đắp nền và xử lý nền móng các loại công trình.
- Xây dựng các công trình giao thông nhóm B: đường bộ, sân bay, bến cảng.
- Xây dựng các công trình thuỷ lợi: kênh, mương, đê, đập, hồ chứa nước vừa và nhỏ, ống dẫn, trạm bơm.
- Xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp (đường điện hạ thế, hệ thống cấp thoát nước, vệ sinh môi trường).
- Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp có giá trị xây lắp bằng 1/2 nhóm B.
Như vậy, công ty xây dựng 20 có ngành nghề kinh doanh rộng tạo ra khả năng nhận thầu thi công và thực hiện khá đa dạng về các chủng loại công trình và chủng loại công việc xây dựng. Cùng với điều đó, đối tượng phục vụ của công ty cũng đa dạng tương ứng và thuộc nhiều khu vực khác nhau cho nên trong quá trình tìm kiếm thông tin và tạo lập quan hệ cần nắm bắt được đặc điểm khác biệt và có biện pháp tiếp thị phù hợp với từng đối tượng phục vụ.
Về mặt thị trường, trong những năm gần đây do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và sự tăng tích luỹ trong dân nhờ thu nhập được cải thiện đã làm cho thị trường kinh doanh xây dựng ở Việt Nam đang diễn ra rất sôi động, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các đơn vị kinh doanh xây dựng nói chung và công ty xây dựng 20 nói riêng. Mặt khác, đường lối đổi mới đúng đắn đã đem lại sự khởi sắc cho hệ thống các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xây dựng nói riêng. Điều đó làm xuất hiện nhiều doanh nghiệp xây dựng mạnh trực thuộc các Tổng công ty lớn như: Tổng công ty xây dựng Hà Nội, Tổng công ty xuất nhập khẩu VINACONEX, Tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng, Tổng công ty xây dựng Sông Đà... Và sự tham gia của các doanh nghiệp xây dựng nước ngoài đã làm cho tính cạnh tranh trên thị trường xây dựng Việt Nam trở nên ngày càng gay gắt tạo ra nhiều thách thức trong việc cạnh tranh giành cơ hội bao thầu xây lắp của công ty.
Ngoài ra việc tham gia đấu thầu các công trình trong nước đầu tư bằng vốn nước ngoài như FDI, ODA, đòi hỏi công ty phải có khả năng tham gia đấu thầu quốc tế.
2-/ Cơ cấu tổ chức quản lý và cơ cấu tổ chức sản xuất.
2.1. Cơ cấu tổ chức quản lý.
Một trong những nhân tố khá quan trọng có ảnh hưởng lớn đến khả năng trúng thầu của công ty cần phải kể đến đó là cơ cấu tổ chức quản lý. Hịên nay công ty có một bộ máy quản lý tinh giản, gọn nhẹ, đủ năng lực và thuận tiện cho công tác quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty xây dựng 20 có thể được khái quát theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty xây dựng 20
Phòng Kinh tế - Kế hoạch
Phòng Kế toán tài chính
Phòng Tổ chức hành chính
Phòng Công nghệ
Phòng Vật tư
Giám đốc công ty
Phó giám đốc phụ trách xây dựng
Phó giám đốcphụ trách cơ giới
Theo sơ đồ này, chúng ta có thể thấy được rằng: bộ máy tổ chức quản lý của công ty được thiết lập theo kiểu cơ cấu tổ chức trực tuyến chức năng. Nghĩa là, trong công ty, giám đốc công ty là người lãnh đạo cao nhất và nắm quyền ra quyết định về tất cả các vấn đề sản xuất kinh doanh của công ty. Giúp việc và tham mưu cho giám đốc gồm 02 phó giám đốc và các phòng ban chức năng. Các phòng ban chức năng có nhiệm vụ tham mưu cho toàn bộ hệ thống trực tuyến. Những quyết định quản lý do các phòng ban chức năng nghiên cứu, đề xuất, khi được giám đốc công ty thông qua mới biến thành mệnh lệnh được truyền đạt từ trên xuống dưới theo tuyến đã quy định.
Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng bộ phận cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty như sau:
- Giám đốc công ty: là người lãnh đạo cao nhất, quán xuyến các công việc cho các phó giám đốc và phòng ban chức năng. Giám đốc công ty là người chịu trách nhiệm trước Tổng công ty về việc thực hiện kế hoạch được giao và điều hành chung mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
- Phó giám đốc: có 02 phó giám đốc.
+ Phó giám đốc cơ giới: phụ trách về lĩnh vực thi công cơ giới.
+ Phó giám đốc xây dựng: giúp giám đốc công ty về lĩnh vực xây dựng.
- Phòng tổ chức hành chính: có nhiệm vụ nghiên cứu cải tiến tổ chức quản lý, xây dựng các chức năng và nhiệm vụ cho các bộ phận, thực hiện tuyển chọn, đề bạt sử dụng cán bộ, lập kế hoạch về nhu cầu lao động, đào tạo phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
- Phòng kinh tế kế hoạch: có nhiệm vụ lập kế hoạch ngắn hạn và dài hạn, báo cáo về Tổng công ty triển khai thực hiện kế hoạch trong nội bộ công ty, nắm bắt và khai thác các thông tin trên thị trường, lập dự toán thầu các công trình, thu hồi vốn và thanh quyết toán công trình, lập định mức, tính lương.
- Phòng công nghệ thi công: chịu trách nhiệm trong việc xây dựng tiến độ thi công các công trình và hạng mục công trình, theo dõi và quản lý hồ sơ dự thầu, tình trạng máy móc thiết bị, sửa chữa và bảo dưỡng máy móc thiết bị của công ty.
- Phòng tài chính - kế toán: có nhiệm vụ quản lý về mặt tài chính, cung cấp tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cũng như cho các xí nghiệp và đội sản xuất trực thuộc. Lập báo cáo tài chính hàng kỳ, theo dõi biến động về tài chính, đảm bảo thực hiện tiết kiệm và kinh doanh có lãi.
- Phòng vật tư: có nhiệm vụ tổ chức cung ứng vật tư kịp thời, đồng bộ, đúng số lượng, chất lượng và chủng loại, lập kế hoạch về cung ứng vật tư, giám sát tình hình sử dụng vật tư, tổ chức khai thác sản xuất thu mua vận chuyển bốc dỡ vật tư.
2.2. Cơ cấu tổ chức sản xuất.
Sản phẩm của công ty mang tính đơn chiếc, mỗi một công trình đòi hỏi phải sản xuất thi công trong những điều kiện khác nhau. Vì vậy việc tổ chức sản xuất của công ty thay đổi theo từng công trình cụ thể về cả cơ cấu và nguồn nhân lực.
Tuy nhiên có thể khái quát một sơ đồ tổ chức công trường của công ty một cách khái quát nhất theo sơ đồ sau:
Tổ chức hành chính (Trưởng phòng)
Phòng kỹ thuật(Trưởng phòng)
Chỉ huy trưởng công trình(Giám đốc điều hành)
Phòng vật tư(Trưởng phòng)
Ban an toàn lao động
Xưởng sản xuất và bảo dưỡng thiết bị xe máy
Tổ xây dựng
Tổ trắc địa
Tổ điện nước
Tổ hoàn thiện
Quản lý chungPhó Giám đốc
Như vậy: cơ cấu tổ chức quản lý và sản xuất của công ty xây dựng 20 là tương đối gọn nhẹ và hợp lý. Sự phân công trách nhiệm và quyền hạn là khá rõ. Chính điều này có tác dụng tích cực trong hoạt động quản lý và sản xuất của công ty. Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng: công ty chưa có một bộ phận nào chuyên trách về mảng đấu thầu, một bộ phận hết sức quan trọng đối với công ty.
3-/ Đặc điểm về lao động.
Lao động trong ngành xây dựng cơ bản là nguồn gốc sáng tạo ra các công trình công nghiệp, dân dụng; là nhân tố cơ bản quyết định nhất của lực lượng sản xuất kinh doanh. Khác với các ngành khác, lao động trong ngành xây dựng mang tính không ổn định, thay đổi theo mùa vụ, phải làm việc ngoài trời và luôn thay đổi nơi làm việc. Vì vậy, trong công tác đấu thầu, lao động là một trong số các nhân tố quyết định doanh nghiệp có trúng thầu hay không. Bởi lẽ năng lực của nhà thầu được thể hiện một phần ở trình độ lao động.
Tính đến ngày 1/2/2000, công ty xây dựng 20 có 268 cán bộ công nhân viên. Trong đó số cán bộ khoa học nghiệp vụ là 85 người, chiếm 31,71% (với 65 người đã qua đại học chiếm 76,47%) và số người đã qua đào tạo trung cấp, cao đẳng chiếm 23,52%. Số lao động nữ trong toàn công ty là 27 người chiếm 10,07% thấp hơn nhiều so với tỷ lệ lao động nữ chung của toàn ngành (gần 30%). Công ty đã cố gắng không tuyển lao động nữ vào làm những việc nặng nhọc. Lực lượng công nhân sản xuất của công ty là 194 người chiếm 72,88%. Số công nhân có bậc thợ cao từ bậc 4 trở lên chiếm hơn 50% trong tổng số công nhân sản xuất. Với cơ cấu lao động như vậy có thể thấy công ty có lực lượng lao động với chất lượng khá cao và cũng đã có sự chuyên môn hoá khá sâu về ngành nghề (xem biểu) tạo nên một ưu thế cho công ty khi tham gia dự thầu. Tuy nhiên công ty không chỉ dừng tại đó mà luôn chú trọng đến việc nâng cao trình độ năng lực của cán bộ công nhân viên để tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho công ty giành thắng lợi khi tham dự thầu.
Biểu 2: Bảng tổng hợp lao động theo ngành nghề và bậc thợ
(Tính đến ngày 01/04/00)
Ngành nghề
Tổng số
Nữ
Ngành nghề
Tổng số
Nữ
Bậc thợ
1
2
3
4
5
6
7
A. Cán bộ nghiệp vụ
B. Công nhân kỹ thuật & LĐ
- Kỹ sư xây dựng
32
- Công nhân lái xe ô tô
7
5
1
1
- Kỹ sư xây dựng thuỷ lợi
3
- Công nhân lái máy ủi
23
3
10
2
7
1
- Kỹ sư địa chất công trình
2
- Công nhân lái máy cạp xích
2
1
1
- Kỹ sư trắc địa
2
- Công nhân lái máy đào
9
2
2
2
3
- Kỹ sư khoan thăm dò
1
- Công nhân lái máy cẩu
4
2
1
1
- Kỹ sư kinh tế xây dựng
2
1
- Công nhân đóng cọc
2
2
- Kỹ sư máy xây dựng
7
1
- Công nhân đo đạc
2
1
1
- Kỹ sư động lực
6
- Công nhân sửa chữa cơ khí
13
3
6
1
5
1
- Kỹ sư điện
1
- Công nhân hàn
11
2
2
7
1
1
- Cử nhân kinh tế
2
1
- Công nhân điện
6
1
2
2
2
- Cử nhân kế toán
7
4
- Công nhân tiện
1
1
- Cao đẳng tin học
1
1
- Công nhân máy xây dựng
5
1
4
- Trung cấp xây dựng
5
1
- Công nhân nề
29
2
14
5
6
4
- Trung cấp kế toán
2
2
- Công nhân mộc
33
5
25
3
- Trung cấp vật tư
1
1
- Công nhân sắt
17
1
10
5
2
- Nhân viên hành chính
4
2
- Công nhân nước
1
1
- Bảo vệ
3
- Công nhân sơn vôi
1
1
- Lái xe con
4
- Công nhân lao động phổ thông
19
4
2
6
7
4
Tổng
85
14
181
13
4-/ Đặc điểm về máy móc thiết bị và cơ sở vật chất.
Trong hồ sơ dự thầu các nhà thầu giới thiệu năng lực về thiết bị và xe máy thi công, nó chứng minh cho bên mời thầu về khả năng huy động nguồn lực về xe máy thi công bảo đảm thi công công trình đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư. Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến thắng thầu khi tham gia dự thầu. Nguồn lực máy móc thiết bị và xe máy thi công của doanh nghiệp thể hiện thông qua tổng giá trị máy móc thiết bị và xe máy thi công hiện có của doanh nghiệp về số lượng, chủng loại máy móc thiết bị đó. Hơn nữa, năng lực về máy móc thiết bị của doanh nghiệp còn được thể hiện ở trình độ hiện đại của chúng, tức là máy móc thiết bị của doanh nghiệp sử dụng có hiện đại so với trình độ công nghệ hiện tại trong ngành xây dựng hay không. Chỉ tiêu này được thể hiện thông qua các thông số kỹ thuật về đặc tính sử dụng, công suất và phương pháp sản xuất của công nghệ, số năm sử dụng, quốc gia sản xuất, và giá trị còn lại của máy móc thiết bị. Bên cạnh đó, mức độ hợp lý hay đồng bộ của máy móc thiết bị hiện có của doanh nghiệp cũng phản ánh năng lực bố trí máy móc thiết bị của doanh nghiệp. Đó chính là tính đồng bộ trong sử dụng máy móc thiết bị với điều kiện đặc thù về địa lý, khí hậu, địa chất, nguyên vật liệu, là sự phù hợp giữa giá cả và chất lượng cho công nghệ đó sản xuất ra.
Nhận thức được tầm quan trọng của nhân tố này đến khả năng thắng thầu của mình, công ty luôn chú trọng đến việc đầu tư hợp lý cho máy móc thiết bị. Hàng năm công ty thường xuyên có kế hoạch đầu tư mới và sửa chữa máy móc thiết bị. Chính vì vậy công ty có năng lực khá lớn về máy móc thiết bị (xem biểu 3).
Bảng 3: Năng lực về thiết bị xe máy thi công của công ty xây dựng 20
STT
Tên và ký hiệu máy móc thiết bị
Số lượng
Năm đưa vào sử dụng
Nước sản xuất
Công suất hoặc đặc trưng kỹ thuật
Tự động hay bán tự động
Giá trị còn lại (%)
Đơn vị tính
Công suất
1
Máy khoan cọc nhồi KH125
1
95
Nhật
Chiều sâu khoan (m)
1,7,65
2
50
2
Máy đóng cọc búa rung BII1
3
82,84,87
LX
Công suất ĐC búa Kw
60
2
30-50
3
Máy đóng cọc búa rung BII-2M
2
86-92
LX
Công suất ĐC búa Kw
40
2
30-60
4
Máy đóng cọc bản nhựa
1
87
LX
Chiều sâu cọc đóng (m)
12
2
30
5
Máy búa rung BBIIC20/11
1
86
LX
Công suất ĐC búa Kw
40
2
20
6
Đầu búa rung DZ-90
1
99
TQ
Công suất động cơ Kw
90
2
90
7
Đầu búa rung 60Kw
2
99
Nhật
Công suất động cơ Kw
60
2
90
8
Đầu búa Diezen 1,8T
2
92
TQ
Trọng lượng va đập kg
1800
2
50
9
Máy đóng cọc ALIMAX
1
83
Thuỵ Điển
Chiều sâu cọc đóng m
10
2
20
10
Máy ép cọc bê tông 60T và 100T
4
92
Việt Nam
Lực ép đầu cọc
100
2
40
11
Máy xúc VOLVO641
1
81
Thuỵ Điển
Công suất động cơ Kw
59
2
30
12
Máy ủi DF75
1
88
LX
Công suất mã lực
75
2
40
13
Máy ủi T100 và T130
2
93
LX
Công suất mã lực
100
2
40
14
Cần trục DEX-251
1
95
LX
Trọng tải tấn
25
2
50
15
Cần trục KC - 4561
1
93
LX
Trọng tải tấn
16
2
40
16
Cần trục KC - 3562
1
92
LX
Trọng tải tấn
10
2
50
17
Cần trục ADK - 125
1
90
Đức
Trọng tải tấn
12,5
2
50
18
Cần trục xích COBELCO
1
99
Nhật
Trọng tải tấn
50
2
80
19
Ô tô KAMAZ
1
93
LX
Trọng tải tấn
14
2
40
20
Ô tô IFA V50
2
91
Đức
Trọng tải tấn
5
2
30
21
Ô tô du lịch
4
99-97
Nhật
Số chỗ ngồi
4
2
22
Máy nén khí DK - 9M
1
92
LX
áp suất nén khí kg/cm2
10
2
23
Máy siêu âm
1
97
Hà Lan
2
60
24
Máy phát điện 220KVA-62,5-200
4
99
LX
Công suất KWA
62,5-200
2
90
25
Dàn đóng cọc 3,5T
2
96
LX
Chiều sâu cọc đáy m
12
2
70
26
Máy khoan đứng
1
95
LX
Công suất Kw
7
2
50
27
Bộ đầm nén tĩnh 1.000T
1
96
Việt Nam
Lực nẽn tĩnh T
1000
2
40
28
Kích thuỷ lực 500T
5
94-96
TQ
Lực ép đầu cọc T
500
2
35-50
29
Kích thuỷ lực 800T
2
95
TQ
Lực ép đầu cọc T
800
2
50
30
Trạm bơm kích thuỷ lực
4
95
TQ
Công suất Kw
7
2
40
31
Máy cắn uốn liên hợp
1
96
TQ
Công suất Kw
5
2
60
32
Đối trọng bê tông 630 quả
1
95
Việt Nam
Trọng lượng 1 quả
2,5
2
50
33
Máy trộn bê tông 250-505 lít
4
96
Việt Nam
Dung tích thùng trộn
250-550
2
60
34
Máy thuỷ chuẩn
3
97
Thuỵ Sĩ
Cấp chính xác
2,5
2
70
35
Máy cắt sắt liên hợp
1
96
TQ
Công suất Kw
2
2
70
36
Máy kinh vĩ 375 N55480
1
96
LX
Cấp chính xác theo độ
00’20”
2
60
37
Bộ dàn ép tĩnh
1
94
VN
Mức chịu tải T
1
2
50
38
Máy đầm dùi A300
2
96
LX
2
40
39
Máy bơm nước HONDA
2
95
Nhật
Công suất Kw
15
2
40
Trong quá trình thi công các công trình, công ty thường sử dụng số thiết bị xe máy sẵn có đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra một cách độc lập. Tuy nhiên, hầu hết máy móc thiết bị của công ty đã khấu hao trên 50% giá trị nên đã ảnh hưởng lớn đến năng suất và hiệu quả hoạt động cũng như khả năng thắng thầu của công ty.
5-/ Đặc điểm về nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu trong xây dựng cơ bản là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình thi công, nguyên vật liệu trực tiếp tạo nên thực thể của công trình, nếu thiếu nó thì quá trình thi công không thể tiến hành được. Nguyên vật liệu chiếm tới 60-80% giá trị công trình, đồng thời nó cũng chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu vốn của công ty. Trong công tác đấu thầu, nguyên vật liệu giữ một vai trò khá quan trọng, bởi lẽ nó là yếu tố cấu thành đơn giá dự thầu, góp phần quyết định đến hiệu quả công tác đấu thầu. Mặt khác, nguyên vật liệu cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình. Do đó, nó ảnh hưởng đến uy tín của công ty khi tham gia dự thầu.
Trong những năm gần đây, công ty thường xuyên sử dụng các nguyên vật liệu phổ biến, dễ thu mua nên được quản lý theo nguyên tắc không lưu kho dự trữ ít. Đồng thời thực hiện việc phân cấp quản lý vật tư, giao quyền chủ động cho cấp dưới trong việc mua sắm vật tư trên cơ sở đơn giá dự toán. Vì vậy công ty đã giảm bớt được hao hụt mất mát cũng như tạo khả năng khai thác các nguồn nguyên vật liệu tại chỗ phục vụ cho việc thi công các công trình. Cách quản lý này là phù hợp với cung cách quản lý nguyên vật liệu trong ngành xây dựng là thi công trên địa bàn rộng và luôn thay đổi, thị trường nguyên vật liệu ở nước ta trong những năm gần đây phát triển mạnh và phân bố rộng khắp. Việc tận dụng được nguồn nguyên vật liệu tại chỗ đã có ảnh hưởng tích cực tới giá thành xây lắp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh cũng như khả năng thắng thầu của công ty.
6-/ Đặc điểm về vốn sản xuất kinh doanh.
Cũng giống như các doanh nghiệp xây dựng khác trong ngành nguồn vốn sử dụng trong sản xuất kinh doanh của công ty là khá lớn và ứ đọng nhiều, hay nói khác đi vòng quay của vốn rất chậm. Chính vì vậy, khả năng về tài chính của công ty cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến lợi thế của công ty trong quá trình tham dự thầu. Nhân tố này được thể hiện thông qua chỉ tiêu quy mô của vốn kinh doanh cũng như khả năng huy động vốn ngắn hạn và dài hạn của công ty.
Nguồn vốn của công ty được chia thành vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định được sử dụng chủ yếu để mua sắm máy móc thiết bị. Còn với vốn lưu động, do giá trị sản phẩm xây dựng lớn, chu kỳ sản xuất xây dựng dài, phần xây dựng dở dang có giá trị lớn nên tỷ trọng của vốn lưu động trong vốn sản xuất là cao, đồng thời hiệu quả sử dụng của nó có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động chung của toàn công ty. Khi đánh giá hồ sơ dự thầu của các nhà thầu, chủ đầu tư rất quan tâm đến tình hình tài chính nói chung và đặc biệt quan tâm đến tình hình sử dụng và khả năng huy động vốn lưu động để thi công công trình.
Chúng ta có thể xem xét khái quát đặc điểm về vốn và sử dụng vốn của công ty qua bảng sau:
Bảng 4: Bảng cân đối Tài sản - nguồn vốn của công ty qua một số năm gần đây
Tên tài sản
Năm 1996
97
98
99
A. Tổng số TS có
27.423.621.362
31.512.392.273
37.109.678.903
39.787.189.925
I. TSLĐ
16.384.195.122
22.622.865.804
29.392.851.176
31.782.172.918
II. TSCĐ
11.039.426.240
8.889.526.969
7.717.327.727
7.605.017.007
B. Tổng số TS nợ
27.423.621.362
31.512.392.273
37.109.678.903
39.787.189.925
I. Nợ phải trả
20.609.234.880
22.049.931.996
27.776.581.837
29.187.176.582
II. N.vốn chủ sở hữu
6.814.186.982
9.462.460.283
9.333.097.066
10.600.013.343
1. N.vốn kinh doanh
6.572.069.259
9.317.027.589
9.317.027.889
9.782.782.197
1.1. N.vốn kinh doanh
5.597.717.948
6.042.676.278
6.042.676.278
6.078.972.107
1.2. N.vốn lưu động
974.351.311
3.274.351.311
3.274.351.311
3.703.810.090
Bảng 5: Bảng tổng hợp bên có và bên nợ của 2 năm cuối
Đơn vị: VND
Năm
Thông tin tài chính
Năm 1996
97
98
99
1. Tổng bên có
27.423.621.362
31.512.392.273
37.109.678.903
39.787.189.925
2. Tổng bên có thực tế
20.609.234.880
22.049.931.996
27.776.581.837
29.187.176.582
3. Tổng bên nợ
27.423.621.362
31.512.392.273
37.109.678.903
39.787.189.925
4. Tổng bên nợ thực tế
16.384.195.122
22.622.865.804
29.392.851.176
31.782.172.918
5. Lợi nhuận trước thuế
403.116.056
509.464.520
226.746.510
372.840.176
6. Lợi nhuận sau thuế
302.337.042
382.098.396
170.059.882
203.180.325
Số liệu hiện nay:
- Tổng số dư tại ngân hàng : 351.896.873
- Tổng số khách hàng nợ nhà thầu : 23.059.140.098
- Tổng số nhà thầu nợ : 7.292.084.167
- Số tiền tín dụng : 9.768.304.905
Qua bảng trên cho thấy, trong những năm vừa qua cho thấy quy mô tài chính của công ty là khá lớn, tăng lên trong các năm tuy nhiên tỷ lệ tăng còn thấp (99 so với 98 tăng 7,2%). Vốn đầu tư vào tài sản lưu động là cao trong cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh của công ty (97: 71,79%; 98: 79,20%; 99: 79,88%).
Trong cơ cấu nguồn vốn, tỷ lệ nợ phải trả của công ty là quá cao (1997: 69,97%; 98: 74,85%; 99: 73,35%), tương ứng tỷ lệ vốn nợ/vốn chủ sở hữu cũng lớn (lớn hơn 1). Chính vì vậy, công ty rất rễ gặp rủi ro khi có sự biến động về tài chính. Đặc biệt trong 2 năm 97 và 98, nguồn vốn kinh doanh của công ty không thay đổi thể hiện sự yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Qua đây có thể khẳng định, tình hình tài chính của công ty là không khả quan. Đây là một bất lợi của công ty trong công tác tham dự thầu.
III-/ Tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu của công ty xây dựng 20 trong thời gian vừa qua.
1-/ Kết quả của công tác đấu thầu trong một số năm vừa qua.
Là một doanh nghiệp Nhà nước có bề dày lịch sử hình thành và phát triển, tuy nhiên công ty xây dựng 20 mới chỉ thực sự chuyển sang hạch toán kinh tế độc lập kể từ năm 1993. Hơn nữa, công ty mới sát nhập thêm 1 số đội xây dựng của công ty xây dựng 18 kể từ năm 1995. Trong suốt những năm trước đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chủyêú là thi công cơ giới. Các công trình và hạng mục công trình mà công ty thi công phần lớn là do Tổng công ty giao cho hoặc được chỉ định thi công từ phía các chủ đầu tư. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn từ khi được thành lập đến khi đổi tên thành công ty xây dựng 20 (1995) thì công tác đấu thầu của công ty là quá yếu nếu không nói là không có. Chỉ từ đầu năm 1996, công ty mới từng bước tham gia vào quá trình cạnh tranh trực tiếp trên thị trường, khi mà chỉ bằng cách tham gia đấu thầu thì công mới có khả năng ký kết được hợp đồng xây dựng và thi công cơ giới. Điều này cũng phù hợp với thực tiễn khách quan từ cả hai phía: môi trường kinh doanh và công ty. Bởi vì phương thức đấu thầu chỉ được áp dụng một cách chuẩn mực tại Việt Nam kể từ khi “Quy chế đấu thầu” được ban hành kèm theo Nghị định 43/CP của Chính phủ vào ngày 16/7/1996. Đồng thời chỉ từ thời điểm đó công ty mới có năng lực tham gia thi công các công trình xây dựng.
Như vậy, nếu xét về mặt thời gian thì công tác đấu thầu mới được thực hiện tại công ty trong vòng hơn 3 năm gần đây. Cụ thể công ty đã tham gia đấu thầu và trúng thầu khoảng 20 công trình và hạng mục công trình, với tổng giá trị nhận thầu thực hiện là 12.837.014.000 VND. Nhìn chung, các công trình mà công ty thắng thầu nằm ở địa bàn của miền Bắc, giá trị công trình không lớn, thời gian thực hiện không kéo dài. Hơn nữa số lượng các công trình xây dựng còn chiếm tỷ lệ nhỏ mà phần lớn là tham gia thi công cơ giới của các công trình và hạng mục công trình. Chúng ta có thể thấy rõ hơn về vấn đề này qua phần “Đánh giá tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu của công ty xây dựng 20” ở phần sau:
2-/ Quá trình thực hiện hợp đồng đấu thầu của công ty xây dựng 20.
Công tác đấu thầu của công ty cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào trong ngành đều chịu ảnh hưởng không nhỏ của quá trình thực hiện. Nhận thức được tầm quan trọng của quá trình thực hiện đối với hoạt động đấu thầu cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của toàn công ty nên ngoài việc coi trọng cải tiến cách thức tổ chức quản lý, ban lãnh đạo của công ty đã lựa chọn ra những cán bộ có năng lực và kinh nghiệm để giao nắm các trọng trách chủ yếu trong hoạt động đấu thầu.
Về mặt trình tự, có thể phân chia quá trình thực hiện hoạt động đấu thầu của công ty thành các bước như đã khái quát trong phần 1 cụ thể là:
- Thu thập, tìm kiếm các thông tin về công trình cần đấu thầu.
- Tham gia sơ tuyển (nếu có).
- Chuẩn bị và lập hồ sơ dự thầu.
- Nộp hồ sơ dự thầu và tham gia mở thầu.
- Ký kết hợp đồng thi công (nếu trúng thầu).
2.1. Tìm kiếm thông tin về công trình cần đấu thầu.
Đây là bước công việc khởi đầu và hết sức quan trọng với hoạt động đấu thầu của công ty bởi lẽ chỉ khi nào biết được những thông tin về công trình cần đấu thầu thì mới có thể thực hiện được các bước tiếp theo. Hiện nay, công việc này đối với công ty còn khá yếu, chưa có một bộ phận nào trực tiếp đảm nhận, thực hiện. Nó được thực hiện bởi tất cả cán bộ công nhân viên trong công ty, thông qua các nguồn thông tin và cách tiếp cận khác nhau, cụ thể là:
Biểu 6: Các công trình đã trúng thầu của công ty xây dựng 20
TT
Tên công trình
Địa điểm
Chủ đầu tư
Giá trị hợp đồng
Thời gian thi công
Thành phần công việc
Pháp nhân đấu thầu
1
Câu lạc bộ Hà Nội
Hà Nội
Liên doanh CLB Hà Nội
385.000.000
1996
Xây lắp toàn bộ phần san nền, cọc, sàn đài và phần thân tổ hợp tổng diện tích 3.000m2
TCT
2
Khu chế xuất Nội Bài
Hà Nội
Tập đoàn RENONG
569.800.000
1996
Làm toàn bộ phần san lấp mặt bằng và xây dựng hạ tầng với tổng diện tích 50ha
CTT
3
Nhà thi đấu TDTT Hải Dương
Hải Dương
Sở TDTT Hải Dương
200.200.000
95-96
Xây dựng toàn bộ nhà thi đấu và các công trình phục vụ TDTT 2.000m2
CT
4
Nhà máy lắp ráp ô tô Ford
Hải Dương
Công ty Ford Việt Nam Ltd
1.069.040.000
96-97
Thi công toàn bộ phần san nền và thử cọc
TCT
5
Nhà máy bia TIGER
Hà Tây
Công ty Bia Việt Nam
817.880.000
96-97
Thi công phần móng và xây dựng phần thân
TCT
6
Lãnh sứ quán Mỹ tại VN
TP. HCM
Công ty LD Việt - Mỹ
400.400.000
98-99
Bê tông khối lớn phần thô
TCT
7
Nhà máy nhiệt điện Phả Lại
Phả Lại
TCT Điện lực Việt Nam
462.000.000
99
Nhà điều hành kênh tháo nước, kho than
TCT
8
Hội sở ngân hàng Công thương
Hà Nội
NHCT Việt Nam
210.000.000
98-99
Móng và tầng hầm
CT
9
NM CB thực phẩm Nghĩa Mỹ
Hải Dương
BQL dự án NMCB thực phẩm Nghĩa Mỹ
460.000.000
98-99
- Thí nghiệm cọc
- Xây dựng một số hạng mục
CT
10
Khu CN Thăng Long
Hà Nội
BQL dự án KCN Thăng Long
476.000.000
98
Xây dựng cầu cố định
CT
11
Nhà trụ sở văn phòng Hanvico
Hải Phòng
Hanvico
322.000.000
97-9._.ý trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các công nghệ hiện có hoặc đi thuê. Việc công ty đưa ra một công nghệ thi công độc đáo so với đối thủ cạnh tranh và đáp ứng tốt nhất các yêu cầu đặt ra của chủ đầu tư sẽ làm tăng khả năng thắng thầu của công ty lên nhiều hơn.
* Chiến lược liên kết.
Theo chiến lược này công ty có thể liên doanh để tranh thầu và liên doanh để thi công công trình. Trong thời gian tới công ty nên nghiên cứu cụ thể và trình lên tổng công ty xây dựng và phát triển hạ tầng việc liên doanh liên kết với một số đơn vị trực thuộc tổng công ty như công ty xây dựng 18, công ty lắp máy và điện nước (LICOGI 19) nhằm nâng cao năng lực thi công công trình lớn đòi hỏi thi công từ A-Z.
- Chiến lược thay đổi thiết kế công trình.
Việc thực hiện chiến lược này chỉ được thực hiện trên cơ sở sự chấp nhận của chủ đầu tư và khả năng của công ty trong việc thay đổi thiết kế một cách hợp lý hơn và đem lại lợi ích lớn hơn cho chủ đầu tư. Với việc áp dụng chiến lược này, công ty có thể sẽ đượcc hủ đầu tư giành cho việc thực hiện công trình với 1 sự kiểm tra nhất định của các cơ quan thiết kế và tư vấn có uy tín.
Trên đây là một số chiến lược tranh thầu mà công ty có thể áp dụng trong quá trình tranh thầu với mỗi chiến lược có những điểm khó khăn cũng như thuận lợi nhất định, gắn liền với những điều kiện cụ thể. Vì vậy việc nghiên cứu kỹ và vận dụng hợp lý một chiến lược tổng hợp nhằm đem lại hiệu quả cao hơn trong việc tham gia đấu thầu là cần thiết đối với công ty trong thời gian dài. Tuy nhiên, chất lượng và giá có thể coi là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Tác dụng của việc áp dụng của giải pháp: Qua việc điều tra nghiên cứu thị trường, công ty có thể biết được tình hình cạnh tranh trên thị trường kinh doanh xây dựng, biết được những công trình cần đấu thầu, tình hình của thị trường vật liệu xây dựng, máy móc thi công và lao động,... Trong số các thông tin trên có thể khẳng định rằng thông tin về các gói thầu là hết sức quan trọng bởi đây chính là mục tiêu phấn đấu đầu tiên của công ty trong quá trình tham dự thầu. Thông qua việc tìm kiếm các gói thầu cho phép công ty có thể tham gia được nhiều cuộc thầu hơn. Từ đó có thể biết được khả năng, năng lực hiện tại của mình, sức mạnh và uy tín của công ty như thế nào; Tích luỹ được một số kinh nghiệm của công ty nhất là trong lĩnh vực lập hồ sơ dự thầu; Tăng cường khả năng thắng thầu của công ty từ đó tạo thêm uy tín cho công ty trên thị trường xây dựng, tạo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của công ty.
1.3. Điều kiện áp dụng giải pháp:
- Phải tổ chức ra một bộ phận chuyên nghiên cứu về thị trường xây dựng. Do những giới hạn của công ty nên trong thời gian tới công ty cần xây dựng một bộ phận tiếp thị trực thuộc phòng kinh tế - kế hoạch đồng thời chịu sự lãnh đạo trực tiếp của giám đốc công ty.
- Bố trí cán bộ có kiến thức toàn diện, am hiểu về Marketing, có khả năng ngoại giao tốt,... vào bộ phận tiếp thị.
- Trang bị cho họ tất cả các công cụ, phương tiện một cách cơ bản để tiến hành điều tra nghiên cứu.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho bộ phận này làm việc một cách tốt nhất như thời gian, thù lao,...
2. Giải pháp 2: Xác định giá bỏ thầu hợp lý.
2.1. Nội dung của giải pháp:
Như chúng ta đã biết, giá bỏ thầu thường là một tiêu chuẩn quan trọng để bên mời thầu xét tuyển bởi nó liên quan trực tiếp đến khoản chi phí đầu tư của chủ đầu tư. Nếu giá bỏ thầu thấp thì chủ đầu tư sẽ giảm được chi phí xây dựng nên nhà thầu dễ có khả năng trúng thầu hơn và ngược lại nếu giá bỏ thầu cao thì khả năng trúng thầu sẽ thấp hơn. Hơn nữa, giá bỏ thầu còn liên quan đến lợi nhuận để lại của công ty theo công thức:
Gdt = D + P
Trong đó:
D là giá thành xây lắp.
P là lợi nhuận để lại.
Theo cách tính này thì thường giá thành ít thay đổi, nếu giá bỏ thầu thấp thì lợi nhuận để lại cũng thấp. Công ty muốn kinh doanh có hiệu quả thì bắt buộc phải tính giá bỏ thầu hợp lý để đảm bảo vừa thắng thầu vừa có lãi khi trúng thầu.
Tuy nhiên, đây vẫn còn là một vấn đề nan giải đối với công ty những năm vừa qua. Có nhiều công trình mà công ty tham dự thầu với mức giá bỏ thầu quá cao so với mức giá của đối thủ cạnh tranh hoặc giá do chủ đầu tư đưa ra nên đã bị trượt, cũng có những công trình công ty đưa ra giá bỏ thầu quá thấp nên mặc dù có trúng thầu nhưng không đảm bảo chi phí chi ra và không đem lại lợi nhuận. Chính vì vậy, công tác tính giá bỏ thầu hợp lý là một việc làm hết sức cần thiết đối với công ty thời gian tới.
- Trước hết công ty cần trang bị cho phòng kinh tế kế hoạch những công cụ, phương tiện hiện đại nhất để cán bộ tính giá ở đây có thể tính toán, đơn giá ca máy, giá nguyên vật liệu tại các địa phương mà công trình sẽ được thi công, máy vi tính, máy in, điện thoại,....
- Về phương pháp tính giá:
Về mặt nguyên tắc, phương pháp tính giá bỏ thầu của công ty hiện nay là khá chính xác, nó được xác định dựa vào các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá ca máy hiện hành như đã nêu trong chương 2, cụ thể là:
- Chi phí TT Tj
+ Chi phí vật liệu: VLj = Qj x DVL + VLfj (1)
+ Chi phí nhân công trực tiếp: NCj = Qj x Dncj (2)
+ Chi phí máy thi công: Mj = Qj x Dm x K (3)
- Chi phí chung: Cj = NCj x P
- Lãi dự kiến: Lj = (Tj + Cj) x R
- Thuế VAT: Thj
- DGj = Tj + Cj + Lj + Thj ị Đơn giá dự thầu =
Tuy nhiên trong công thức tính toán giá bỏ thầu theo phương pháp này của công ty vẫn còn có những hạn chế nhất định như: thứ nhất, công ty chưa đưa chênh lệch nguyên vật liệu vào tính giá vì khi phát sinh chi phí chênh lệch nguyên vật liệu thì công ty là người phải chịu, làm giảm khoản lợi nhuận để lại của công ty. Vì vậy, trong thời gian tới công ty cần đưa chênh lệch nguyên vật liệu vào để đảm bảo có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Việc tính toán chi phí nguyên vật liệu cần được tính toán theo công thức:
VLj = Qj x DVL + CVL
Trong đó: CVL là chênh lệch nguyên vật liệu (nếu có).
Thứ hai, trong việc tính chi phí nhân công trực tiếp, công ty chưa tính đến yếu tố bậc thợ. Điều đó có nghĩa là công ty đã quy các loại bậc thợ cho các công việc là như nhau. Đây là một điều bất hợp lý trong việc tính toán chi phí nhân công trực tiếp. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần tính toán chi tiết hơn cho từng loại bậc thợ theo công thức sau:
NCj = Qj x DNCj
Trong đó: DNCj là đơn giá một công của bậc thợ trong đơn giá xây dựng cơ bản của Nhà nước.
Thứ ba, trong việc tính toán chi phí sản xuất chung, công ty hiện đang áp dụng tỷ lệ chi phí sản xuất chung là 58,5%. Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm chi phí quản lý, điều hành, chi cho sự nghiệp,... Trong khi đó lực lượng lao động gián tiếp của công ty chiếm 27,62%. Vì thế ta có thể thấy rằng chi phí chung hiện nay của công ty là tương đối cạnh tranh nó ảnh hưởng không nhỏ đến giá bỏ thầu, đến khả năng thắng thầu của công ty.
Vấn đề đặt ra trong thời gian tới cho công ty là cần thiết phải cắt giảm các khoản chi phí chung này bằng cách giảm bớt chi phí điều hành, chi sự nghiệp,... nhằm giảm mức chi phí chung xuống còn khoảng 50%.
Thứ năm, tỷ lệ dự kiến của công ty thường không ổn định. Việc làm này là phi hợp lý với điều kiện chung của thị trường xây dựng hiện nay, công ty không thể đặt ra một tỷ lệ lãi dự kiến như nhau cho mọi công trình. Tuy nhiên, việc xác định tỷ lệ lãi dự kiến của công ty dựa vào những dự đoán chủ quan của công ty mà chưa căn cứ vào môi trường kinh doanh như thị trường xây dựng và các đối thủ cạnh tranh.
Hơn nữa, nhiều khi công ty đưa ra tỷ lệ này quá cao so với đối thủ cạnh tranh nên đã không thắng thầu. Đây cũng là một vấn đề công ty cần phải điều chỉnh ngay cho thích hợp với điều kiện mới của ngành cũng như của công ty.
Với cách tính giá dự thầu nói trên, công ty có khả năng đưa ra giá thành xây lắp công trình một cách hợp lý hơn. Trên cơ sở đó công ty có thể đưa ra giá thầu có khả năng cạnh tranh hơn so với giá bỏ thầu theo cách tính cũ.
- Về việc đưa ra mức giá bỏ thầu.
Đây là một bước công việc quan trọng trong hoạt động đấu thầu của công ty. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả cuối cùng. Việc công ty đưa ra mức giá bỏ thầu nào để bảo đảm được tính cạnh tranh cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng công trình như: địa điểm, thời gian, yêu cầu kinh tế, kỹ thuật. Theo tôi công ty có thể áp dụng một trong 4 chính sách về giá sau để vừa đảm bảo thắng thầu vừa hiệu quả cho công ty.
+ Chính sách định giá cao:
Để áp dụng theo chính sách này, trước hết công ty cần xem xét, nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh cùng tham dự thầu. Nếu công ty xét thấy mình có những điều kiện thuận lợi cho việc thi công xây lắp mà các đối thủ khác không có hoặc có nhưng không thể cạnh tranh với công ty như công nghệ thi công đặc biệt, nguồn nhân lực giỏi,... thì công ty có thể áp dụng chính sách này. Trong trường hợp này bắt buộc các chủ đầu tư phải chấp nhận giá cao. Tuy nhiên giá bỏ thầu của công ty vẫn không được vượt giá xét thầu của chủ đầu tư.
Giá bỏ thầu = ĐG + D% * ĐG
Trong đó: +D% là tỷ lệ % tăng giá.
+ Chính sách định giá thấp:
Khi công ty xét thấy việc thi công có lợi như tận dụng được các nguồn lực sản xuất, công trình đang tham gia đấu thầu gần một công trình đang thi công, điều kiện cung cấp nguyên vật liệu và các điều kiện vận chuyển khác thuận lợi thì công ty có thể áp dụng chính sách này nhằm đưa ra mức giá bỏ thầu thích hợp.
Giá bỏ thầu = ĐG - D% * ĐG
Trong đó -D% là tỉ lệ % giảm giá.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý khi áp dụng chính sách này là: mức giá bỏ thầu tối thiểu phải bù đắp lại các chi phí thực tế đã bỏ ra khi thi công công trình. Hơn nữa, công ty cần phải đảm bảo được các điều kiện kỹ thuật tương đương với các đối thủ cạnh tranh mới có thể giành được thắng lợi trong quá trình tham gia dự thầu.
+ Chính sách linh hoạt theo giá thị trường.
Để áp dụng được chính sách này công ty cần căn cứ vào tình hình thị trường xây dựng để đưa ra giá bỏ thầu hợp lý. Chẳng hạn khi nhu cầu đầu tư của xã hội thấp, cầu về đầu tư xây dựng thấp thì công ty cần phải đưa ra giá dự thầu thấp mới có khả năng đảm bảo thắng thầu và ngược lại. Hoặc khi giá cả trên thị trường vật liệu xây dựng có xu hướng giảm thì công ty cần phải đưa ra mức giá bỏ thầu thấp,...
+ Chính sách phân hoá sản phẩm.
Thực hiện chính sách này khi xác định giá bỏ thầu công ty cần phân biệt theo từng khu vực địa lý (vì mỗi khu vực gắn với những điều viện về giao thông, nguyên vật liệu đều có những điểm thuận lợi và khó khăn nhất định), hoặc phân biệt theo kế hoạch, theo mùa,... Trên cơ sở đó, công ty mới có thể đưa ra được mức giá bỏ thầu phù hợp.
Bên cạnh những chính sách nêu trên, công ty cần phải nghiên cứu chính sách khác như: khuyến khích theo giá trị công trình, theo điều kiện tạm ứng vốn và thanh toán vốn, theo điều kiện tín dụng,...
2.2. Tác dụng của việc áp dụng giải pháp.
- Việc áp dụng biện pháp này giúp công ty có thể đưa ra một mức giá bỏ thầu hợp lý, linh hoạt trong việc lựa chọn mức giá bỏ thầu sát với giá xét thầu của chủ đầu tư.
- Hoàn thiện công tác tính giá của công ty, góp phần tăng khả năng thắng thầu cho công ty khi tham gia đấu thầu xây dựng các công trình.
- Công ty có thể cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh khác bằng giá dự thầu của mình.
- Góp phần vào quá trình phát triển và tăng trưởng của công ty.
2.3. Điều kiện áp dụng giải pháp:
Để thực hiện giải pháp này một cách có hiệu quả, công ty cần phải đảm bảo một số điều kiện sau:
- Trang bị một số trang thiết bị cần thiết phục vụ tích cực cho công tác tính giá dự thầu của công ty như: Máy tính, các văn bản hiện hành,...
- Cần phải cử cán bộ có kinh nghiệm, trình độ đi khảo sát thực tế nhằm xem xét lại các thông tin mà bên mời thầu đã cung cấp, nhất là xem xét lại bản vẽ kỹ thuật đã hợp lý, chính xác chưa so với điều kiện cụ thể tại chân công trình, xem xét lại giá và điều kiện cung cấp nguyên vật liệu, sự thuận lợi của điều kiện giao thông,...
- Các cán bộ lập giá phải luôn được đào tạo kiến thức mới nhất về giá xây dựng và sự quản lý của Nhà nước. Đồng thời đội ngũ này cần phải tính toán một cách chính xác, trung thực với điều kiện thực tế, không ngừng tự tích luỹ kinh nghiệm trong công tác lập giá dự thầu.
- Giải pháp này cần phải được thực hiện một cách liên tục và triệt để.
3. Giải pháp 3: Nâng cao năng lực về xe máy thi công của công ty trên cơ sở sử dụng hợp lý năng lực hiện có kết hợp với đầu tư mới một cách có trọng điểm.
3.1. Nội dung của giải pháp:
Năng lực xây dựng của một doanh nghiệp xây dựng được thể hiện thông qua năng lực về tài chính, máy móc thiết bị, kinh nghiệm thi công, nhân lực,... Trong số 4 nội dung trên thì năng lực về thiết bị xe máy thi công của công ty là một nội dung khá quan trọng. Nó thể hiện khả năng của công ty trong việc tham gia những công trình lớn yêu cầu kỹ thuật cao, hoặc khả năng trong việc cùng tham gia thi công nhiều công trình. Đây cũng là một nhân tố được chủ đầu tư xét đến một cách khá kỹ lưỡng trong quá trình xét tuyển nhà thầu. Bởi lẽ nếu như năng lực về thiết bị xe máy thi công của công ty lớn thì công ty có khả năng đảm bảo thực hiện đúng tiến độ thi công cũng như chất lượng của công trình. Chính vì vậy năng lực về thiết bị xe máy thi công cũng ảnh hưởng đến khả năng thắng thầu của công ty.
Hơn nữa, nếu xét vè mặt thực tiễn của công ty thì có thể thấy rằng năng lực về thiết bị và xe máy thi công của công ty hiện nay là khá lớn. Tuy nhiên, trong tổng số thiết bị và xe máy thi công của tông ty thì khoảng 60% là do Liên Xô (cũ) sản xuất và được đầu tư vào những năm 80, công suất thực tế của thiết bị và xe máy thi công còn lại rất thấp dẫn đến chi phí sử dụng máy móc thiết bị là cao, chất lượng và tiến độ thực hiện thấp.
Chính những lý do nêu trên đòi hỏi trong thời gian tới công ty cần có giải pháp thích hợp để giải quyết vấn đề tăng cường năng lực về thiết bị và xe máy thi công của công ty.
Do những khó khăn về tài chính hiện nay cũng như những đòi hỏi về mặt hiệu quả kinh tế nên công ty không thể đầu tư mới hàng loạt những thiết bị và xe máy thi công mà cần phải kết hợp giữa sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn năng lực hiện có kết hợp với đầu tư mới một cách có trọng điểm.
* Sử dụng hợp lý năng lực hiện có:
Hiện nay công ty cần tiến hành đánh giá lại giá trị còn lại, phân chia số thiết bị xe máy thi công dựa vào giá trị còn lại của nó, điều này gây khó khăn trong việc quản lý nguồn lực này. Vì vậy công ty cần phân loại thành 2 nhóm sau:
- Nhóm 1: những thiết bị và xe máy thi công còn có khả năng phục hồi và cải tiến nâng cấp. Đây là những thiết bị xe máy thi công có giá trị còn lại vào khoảng 35%-70%. Đối với nhóm này cần phải có kế hoạch cụ thể để sửa chữa và nâng cấp, phát động phong trào cải tiến kỹ thuật trong phạm vi nội bộ công ty nhằm khôi phục và nâng cao giá trị sử dụng của khối lượng thiết bị và xe máy thi công thuộc nhóm này. Giải pháp áp dụng có thể là tiến hành thay thế từng bộ phận đặc điệt là những bộ phận cung cấp động lực.
- Nhóm 2: những thiết bị và xe máy thi công còn lại quá cũ và lạc hậu, giá trị sử dụng còn lại dưới 35%. Trong thời gian tới công ty cần đề xuất với Tổng công ty về việc thanh lý số thiết bị và xe máy thi công cũ này nhằm bổ xung vào nguồn đầu tư mới.
Chú ý: tỷ lệ % giá trị còn lại của thiết bị và xe máy thi công đưa ra ở đây chỉ mang tính gợi ý, dựa vào ý kiến chủ quan, công ty cần tiến hành nghiên cứu cụ thể để xác định tỷ lệ này.
* Đầu tư mới thiết bị và xe máy thi công một cách có trọng điểm.
Việc đầu tư mới là hết sức cần thiết, giúp công ty có thể áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác. Tuy nhiên vấn đề khó khăn chính trong việc này vẫn là vấn đề vốn đầu tư. Vì vậy, công ty nên chọn đầu tư mới một số thiết bị và xe máy thi công thực sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay như:
- Máy trộn bê tông công suất 600 lít - 1 chiếc.
- Máy khoan cọc nhồi công suất 65 mét và 35 m - 2 chiếc.
- Cần cẩu trọng tải 45-60 tấn - 2 chiếc.
- Búa rung - 1 chiếc.
- Máy bơm bê tông 1 chiếc
-Máy phát điện - 1 chiếc.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng khi tiến hành áp dụng biện pháp này là cần phải có phương pháp đánh giá hiệu quả cụ thể của việc đầu tư mới. Trên cơ sở đó, công ty mới có thể đưa ra quyết định đầu tư mới một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu thi công thực tế và hiệu quả kinh tế kỹ thuật.
Công ty có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật khác nhau khi tiến hành đánh giá hiệu quả của việc đầu tư mới thiết bị và máy móc thi công. Theo tôi thì công ty nên chú ý tới một số chỉ tiêu cơ bản sau đây:
+ Chỉ tiêu giá trị hiện tại dòng (NPV).
Trong đó:
- Bt là các khoản thu năm t do việc đầu tư đem lại.
- Ct là chi phí bỏ ra ở năm t (tại thời điểm ban đầu là vốn đầu tư còn các năm tiếp theo là chi phí vận hành).
- n tuổi thọ của dự án đầu tư mua máy móc thiết bị.
- r suất thu hồi vốn đầu tư.
Việc đầu tư được coi là khả thi về mặt tài chính nếu NPV >0. Trong trường hợp có nhiều phương án lựa chọn cùng đạt yêu cầu khả thi thì chọn phương án có NPV lớn nhất.
+ Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư (T): chỉ tiêu này phản ánh thời gian cần thiết để thu hồi vốn đầu tư và được xác định dựa vào phương trình:
Chỉ tiêu này được sử dụng trong trường hợp so sánh giữa các phương án đầu tư khác nhau bằng 2 chỉ tiêu NPV và IRR là không có kết quả do có cùng giá trị 2 chỉ tiêu này. Trong trường hợp đó chúng ta lựa chọn phương án có T thấp.
+ Chỉ tiêu suất hoàn vốn nội bộ (IRR).
Là lãi suất chiết khấu mà ứng với nó giá trị hiện tại dòng = 0. Tức là IRR là nghiệm của phương trình:
Nếu vốn đầu tư là vốn vay thì việc đầu tư sẽ hoà vốn nếu t = IRR và có lãi nếu r<IRR.
Chú ý: việc áp dụng các chỉ tiêu trên để xem xét phương án đầu tư chỉ được áp dụng cho phương án đầu tư có giá trị lớn về cả mặt kinh tế và kỹ thuật. Ngoài ra nếu như chỉ đơn thuần là trang bị bổ xung một số ít máy móc thiết bị thì không nhất thiết phải tính toán cụ thể các chỉ tiêu này.
3.2. Tác dụng của việc áp dụng giải pháp:
- Góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý TSCĐ nói chung và thiết bị xe máy thi công nói riêng của công ty.
- Nâng cao năng lực về thiết bị xe máy thi công của công ty. Trên cơ sở đó giúp công ty tăng khả năng cạnh tranh khi tham dự đấu thầu.
- Đảm bảo công ty có thể thực hiện thi công các công trình theo đúng tiến độ và chất lượng đã ký kết với chủ đầu tư, giữ được uy tín. Góp phần nâng cao được vị trí của công ty trên thị trường kinh doanh xây dựng.
3.3. Điều kiện áp dụng giải pháp:
- Cần phải lập kế hoạch cụ thể về việc phân nhóm máy móc thiết bị thành 2 nhóm như đã nêu, xây dựng kế hoạch sửa chữa, thanh lsy máy móc thiết bị.
- Cử cán bộ có năng lực và kinh nghiệm trong việc mua sắm thiết bị máy móc đi tìm hiểu giá cả, chất lượng,... của những thiết bị máy móc cần mua sau đó báo cáo với công ty.
- Công ty cần phải kết hợp sử dụng quỹ đầu tư phát triển và tài trợ từ Tổng công ty để mua sắm máy móc thiết bị.
4. Giải pháp 4: Lập kế hoạch tiến độ thi công hợp lý.
4.1. Nội dung của giải pháp.
Tiến độ thi công công trình bao gồm tổng tiến độ thi công và tiến độ thi công từng giai đoạn.
Tổng tiến độ thi công là tổng số thời gian xây dựng công trình, nó xác định thời hạn cuối cùng của quá trình xây dựng công trình, đây cũng là thời hạn bắt đầu đưa công trình vào sử dụng.
Tiến độ thi công ở từng giai đoạn là hạn định lượng thời gian cho phép thi công ở mỗi giai đoạn từ giai đoạn chuẩn bị đến giai đoạn hoàn thiện công trình tính chất công việc của từng giai đoạn và thời gian thi công quyết định mức độ khẩn trương trên công trường. Cũng từ tính chất và khối lượng công việc và thời hạn thi công cho phép lựa chọn các biện pháp thi công thích hợp. Trong từng biện pháp thi công phải lựa chọn loại thiết bị phù hợp nhất về tính năng tác dụng, về công suất, thiết bị có thích hợp với công trường hay không, có công nhân vận hành hay không, cũng từ cơ sở đó mà xác định được nhu cầu vật tư, nhiên liệu, năng lượng cho mỗi giai đoạn thi công cụ thể.
Như vậy, tiến độ thi công là căn cứ rất cơ bản để tổ chức thi công xây dựng công trình. Thực hiện đúng tiến độ thi công sẽ đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao cho cả nhà thầu lẫn chủ đầu tư. Trong thực tiễn, khi xem xét đánh giá các nhà thầu, chủ đầu tư cũng rất quan tâm đến tiến độ thi công công trình của nhà thầu. Nếu như nhà thầu nào đưa ra được tiến độ thi công hợp lý, phù hợp với các yêu cầu đưa ra của chủ đầu tư thì khả năng thắng thầu của nhà thầu đó sẽ cao và ngược lại.
Xét về mặt thực tiễn tại công ty, có thể thấy rằng việc đưa ra tiến độ thi công chưa hợp lý là một trong những nguyên nhân chính làm cho công ty trượt thầu. Tiến độ thi công của công ty đưa ra thường là quá dài, không đáp ứng dược yêu cầu của chủ đầu tư. Hơn nữa, trong quá trình thi công công trình, công ty còn nhiều lần không thực hiện theo đúng tiến độ đã xây dựng như công trình 108 Trần Hưng Đạo,...
Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của công ty đối với các chủ đầu tư. Chính vì vậy việc đưa ra tiến độ thi công hợp lý là một việc làm hết sức quan trọng đối với công ty.
Trong thời gian vừa qua, công ty nên sử dụng sơ đồ GANT để lập kế hoạch tiến độ thi công. Đây là một phương pháp khá đơn giản, dễ nhận biết song nó có nhược điểm là:
- Không thể hiện rõ mối quan hệ giữa các công việc, không rõ quy trình công nghệ. Nếu dự án gồm nhiều công việc thì nhược điểm này càng rõ nét hơn.
- Không thấy rõ công việc nào là chủ yếu, có tính chất quyết định đối với tổng tiến độ thực hiện dự án để tập trung chỉ đạo.
- Không thuận tiện khi phân tích đánh giá các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật của bản thân sơ đồ và của cả dự án, không phù hợp với công trình lớn, khối lượng công việc phức tạp.
Vì vậy, trong thời gian tới công ty nên nghiên cứu xem xét phương pháp sơ đồ PERT để lập tiến độ thi công. Phương pháp này có những ưu điểm sau:
- Dễ nhận biết các công việc và thời gian thực hiện chúng.
- Dễ nhận biết mối quan hệ giữa các công việc, quá trình công nghệ và sự phát triển logic của lịch trình.
- Phát hiện được đường đi dài nhất (đường găng) từ khi khởi công đến khi kết thúc từ đó thấy được những công việc quyết định nhất đến tiến độ do đó thấy được trọng tâm cần chỉ đạo,...
Trong những công trình phức tạp, bao gồm hàng ngàn công việc liên quan đến nhau thì công ty cũng nên sử dụng phần mềm PERT để lập tiến độ thi công nhằm giúp cho việc lập được nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, công ty cũng nên áp dụng các phương pháp mới trong việc lập tiến độ thi công công trình như: phần mềm Microsoft Project 98,... Việc áp dụng theo phương pháp này tuy mới mẻ nhưng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
4.2. Tác dụng của việc áp dụng giải pháp.
- Bảo đảm được tiến độ, chất lượng và các điều kiện khác của chủ đầu tư đặt ra từ đó tạo lòng tin, độ tin cậy cao đối với chủ đầu tư. Điều này sẽ rất thuận lợi cho công ty khi tham gia đấu thầu các công trình khác ở địa phương chủ đầu tư hay các vùng lân cận.m
- Rút ngắn được thời gian thi công một cách hợp lý nhất, tạo điều kiện nhanh chóng thi công các công trình khác, giảm bớt được chi phí, khoản tiền phát sinh thấp.
4.3. Điều kiện áp dụng giải pháp.
Để thực hiện giải pháp này một cách có hiệu quả thì công ty xây dựng 20 cần phải đảm bảo được những điều kiện sau:
- Các cán bộ lập hồ sơ dự thầu phải hiểu sâu sắc các yêu cầu của chủ đầu tư đặt ra cho các nhà thầu ở bản vẽ thiết kế công trình về tiến độ thi công và chất lượng công trình,...
- Các cán bộ lập tiến độ thi công phải nắm chắc những kiến thức cơ bản nhất về lập tiến độ thi công như sơ đồ GANT, sơ đồ PERT, phần mềm Microsoft Project 98.
- Toàn bộ cán bộ của công ty đặc biệt là cán bộ lập kế hoạch tiến độ thi công phải nhiệt tình làm việc khi có yêu cầu.
5. Giải pháp 5: Tăng cường công tác thu vốn và huy động vốn.
Như đã trình bày trong phần trước, tình hình tài chính của công ty trong những năm vừa qua là không khả quan. Có thể nêu lại một số điểm đáng chú ý:
- Tổng số vốn nợ trên vốn chủ sở hữu là khá lớn: năm 1999 là 2,75 lần.
- Tổng số tiền khách hàng nợ là quá lớn: 23.059.140.098 đồng trên tổng số nguồn vốn là 39.787.189.925.
- Số tiền mặt còn ở ngân hàng là quá nhỏ: 351.865.873
Vì vậy, trong điều kiện hiện nay công ty cần phải đẩy nhanh quá trình thu hút vốn của mình. Nếu như toàn bộ số tiền khách hàng nợ được thu hồi hết thì hệ số vốn nợ trên vốn sở hữu của công ty sẽ nhỏ hơn, tình hình tài chính của công ty sẽ được lành mạnh hoá. Tuy nhiên đây không phải là việc so thể giải quyết ngay màng cần phải có thời gian bởi nó gắn liền với những giàng buộc khác như: khả năng thanh toán của khách hàng, công ty muốn giàng buộc quan hệ với khách hàng,...
Bên cạnh biện pháp trên, công ty cần tăng cường công tác tạo vốn dưới nhiều hình thức sau:
- Tiến hành thanh lý vật tư tồn kho và máy móc thiết bị đã quá lạc hậu, sử dụng không hiệu quả. Trên cơ sở đó có thể giảm thiểu được lượng vốn lưu động còn ứ đọng ở khâu sản xuất và thu được một số tiền nhất định từ việc thanh lý máy móc thiết bị.
- Tiến hành chỉ đạo thi công nhanh, dứt điểm các công trình đã ký kết nhằm thu được vốn đầu tư do chủ đầu tư thanh toán.
- Nhanh chóng ban hành quy chế vay vốn trong nội bộ công ty với một mức lãi suất thích hợp nhằm khuyến khích người cho vay và đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Tập trung thực hiện triệt để tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh đặc biệt là chi phí quản lý chung.
- Tích cực xây dựng mối quan hệ bền vững, tốt đẹp với các tổ chức tài chính để có khả năng vay vốn và được nhận bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh hợp đồng một cách thuận tiện.
- Xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt với các nhà cung ứng nguyên vật liệu để có thể tranh thủ được nguồn vốn của họ nhờ vào việc trả chậm, giảm bớt được chi phí thu mua nguyên vật liệu phục vụ cho thi công công trình.
Trên đây là một số giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong hoạt động đấu thầu của công ty trong thời gian qua và góp phần nâng cao khả năng thắng thầu trong thời gian tới. Để có thể đạt được mục đích nêu trên, công ty không nên áp dụng một cách riêng biệt bất kỳ một biện pháp nào mà cần có sự phối hợp một cách hài hoà trong việc thực hiện các biện pháp đó.
Tuy nhiên, để có thể phát huy được vai trò to lớn của cơ chế đấu thầu trong đầu tư xây dựng cơ bản thì không chỉ cần có sự nỗ lực phấn đấu của các nhà thầu mà cần phải có sự quản lý đúng hướng và triệt để từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước, chỉ có như vậy thì mới có thể khắc phục những nguyên nhân khách quan gây khó khăn cho các doanh nghiệp xây dựng trong tham dự thầu nói riêng và sản xuất kinh doanh nói chung. Với mục đích đó, sau đây tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị đối với Nhà nước.
- Thứ nhất, cần có những biện pháp thích hợp để xoá bỏ triệt để hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động đấu thầu như hiện tượng “đi đêm”, “bóng ma đấu thầu”, móc ngoặc, mua bán thầu,... đang rất phổ biến và làm phá vỡ nguyên tắc bình đẳng, công khai trong đấu thầu, gây nhiều bất lợi cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
- Thứ hai, cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng trong việc đầu tư đổi mới công nghệ và trang bị thiết bị xe máy thi công nhằm nâng cao năng lực thi công xây lắp, tăng khả năng thắng thầu khi tham dự đấu thầu.
Cần phân biệt rõ vốn vay dùng vào mục đích đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất với vốn vay trên mục đích khác. Trên cơ sở đó có chính sách lãi vay ưu đãi hơn cho việc đầu tư.
Tạo điều kiện để phát triển thị trường mua bán thiết bị xe máy thi công theo hình thức tín dụng thuê mua cho phép các doanh nghiệp xây dựng có quy mô vốn nhỏ có khả năng nâng cao được năng lực thiết bị xe máy thi công của mình.
- Thứ ba, cần phải cải tiến cơ chế cấp vốn và thanh toán vốn cho các dự án đầu tư bằng vốn Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các nhà thầu giải quyết được những khó khăn về vốn.
- Thứ tư, cần phải xoá bỏ hình thức hội đồng xét thầu trong quá trình xét thầu, xác định và thực hiện đúng thẩm quyền quyết định đấu thầu theo đúng qui định của Nhà nước.
kết luận
Hiện nay, đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng vẫn còn là hoạt động mới mẻ ở nước ta Việc áp dụng phương thức này trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản cần phải có thời gian để thích ứng và hoàn thiện mới có thể đem lại những lợi ích to lớn đối với cả Nhà nước, chủ đầu tư và các doanh nghiệp xây dựng. Tuy nhiên, do vai trò to lớn của hoạt động đấu thầu xây dựng đối với quá trình sản xuất kinh doanh cũng như sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nên việc nâng cao khả năng thắng thầu của các doanh nghiệp xây dựng có một ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
Sau khi đã đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất có liên quan đến hoạt động đấu thầu và một số xem xét, đánh giá tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu của công ty, bài viết này đã nêu được một số giải pháp đối với công ty và kiến nghị với Nhà nước nhằm nâng cao khả năng thắng thầu của công ty, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình quá trình sản xuất kinh doanh của công ty.Đây là kết quả nghiên cứu gắn liền với thực tiễn đầu tiên của tôi. Vì vậy, tôi tha thiết đề nghị công ty xem xét và ghi nhận những ý kiến đóng góp của mình. Và hơn hết, tôi mong muốn rằng: với những nỗ lực và khả năng của chính mình, công ty sẽ không ngừng nâng cao vị thế của mình trên thị trường xây dựng và khẳng định được vai trò chủ đạo của một doanh nghiệp Nhà nước, góp phần tích cực trong quá trình phát triển chung của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Quy chế đấu thầu (Ban hành kèm theo Nghị định 43/CP ngày 16/07/96 của Chính phủ).
2. Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản (Ban hành kèm theo Nghị định 42/CP ngày 16/07/96 của Chính phủ).
3. Quy chế đấu thầu (Ban hành kèm theo Nghị định 88/CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ).
4. Điều lệ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản (Ban hành kèm theo Nghị định 52/CP ngày của Chính phủ).
5. Định mức dự toán XDCB ban hành kèm theo Quyết định số 1242/1998/QĐ-BXD-25/11/1998 của Bộ trưởng Bộ xây dựng.
6. Giáo trình “Kinh tế quản trị kinh doanh xây dựng” - GS-TS Nguyễn Văn Chọn - NXB Khoa học kỹ thuật - 1996.
7. Định mức kỹ thuật và công tác dự toán xây dựng - Nguyễn Tài Cảnh, Đặng Nghiêm Chính - NXB Giao thông vận tải 1998.
8. Giáo trình “Kinh tế và kinh doanh xây dựng” - Nguyễn Công Hoa (chủ biên) - Đại học KTQD.
9. Giáo trình “Quản trị sản xuất và tác nghiệp” .
10. Thời báo kinh tế.
11. Tạp chí xây dựng.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0117.doc