Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của Xí nghiệp TOCAN trên thị trường quốc tế

Lời mở đầu T rong thời đại ngày nay, bất cứ một doanh nghiệp nào khi bắt tay vào kinh doanh đều muốn gắn kinh doanh của mình vào thị trường và họ hiểu rằng: “Thương trường chính là chiến trường”, mặc dù nơi đó không có tiếng bom, tiếng súng nhưng để tồn tại cần phấn đấu vượt qua mọi trở ngại là hết sức khó khăn, phức tạp. Nơi đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là vô cùng khốc liệt, một mất một còn. Nếu ai tuân theo quy luật của thị trường thì sẽ tồn tại và ngược lại, bất chấp quy luật của thị

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của Xí nghiệp TOCAN trên thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường thì sẽ thất bại. Như vậy, để tồn tại, để là người chiến thắng trong cuộc đua đầy khó khăn, thử thách thì buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh. Cạnh tranh không chỉ diễn ra trong phạm vi nhỏ hẹp ở một quốc gia mà còn diễn ra giữa các tập đoàn với nhau, giữa các quốc gia với nhau, thậm chí cả giữa các Châu lục với nhau. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế tăng trưởng nhanh đã tạo nên động lực thu hút mạnh mẽ đầu tư từ phía nước ngoài, từ đó tạo điều kiện cho sản phẩm của Việt Nam có mặt trên thị trường quốc tế thông qua con đường xuất khẩu. Tuy nhiên, sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế vô cùng mạnh mẽ và các doanh nghiệp Việt Nam thường bị chèn ép bởi nhiều lý do khác nhau. Vì thế, các doanh nghiệp phải tăng cường khả năng cạnh tranh. Nhờ có cạnh tranh mà doanh nghiệp sẽ tự tìm cho mình một hướng đi đúng để giữ vững được chỗ đứng trên thị trường quốc tế, giữ được chữ tín với khách hàng và từ đó mới có thể đạt được thành công trong kinh doanh. Từ những nhận thức cơ bản về vấn đề cạnh tranh và thực tiễn cạnh tranh của xí nghiệp TOCAN, đề tài luận văn là: “Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của xí nghiệp TOCAN trên thị trường quốc tế”. Luận văn sẽ đi vào nghiên cứu vấn đề cạnh tranh, một trong những vấn đề quyết định sự thành bại của doanh nghiệp hiện nay. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ cơ sở khoa học của cạnh tranh, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của các doanh nghiệp nói chung và của xí nghiệp TOCAN nói riêng. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung và của xí nghiệp TOCAN nói riêng. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề cạnh tranh sản phẩm và khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Kết cấu luận văn ngoài mở đầu, kết luận gồm 3 phần: Phần 1: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp. Phần 2: Thực trạng khả năng cạnh tranh của xí nghiệp TOCAN hiện nay. Phần 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của xí nghiệp TOCAN trên thị trường quốc tế. Do thời gian, trình độ còn hạn chế và kinh nghiệm về thực tế chưa nhiều mà chỉ là những kiến thức nghiên cứu trên sách vở nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong thầy giáo cùng ông giám đốc và ban quản lý xí nghiệp xem xét và góp ý kiến để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Cảnh Hoan, đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn cá nhân ông Trần Việt Trung giám đốc xí nghiệp và ban quản lý xí nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và dành cho em những ý kiến quý báu trong quá trình thực tập, hoàn thành luận văn này. Phần I Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp Các yếu tố phục vụ hoạt động cạnh tranh là các yếu tố tạo nên sản phẩm. Vì vậy cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện nổi bật nhất, là biểu hiện cuối cùng của cạnh tranh được bộc lộ ra bên ngoài. Do đó trong phần này, từ những khái quát chung về cạnh tranh, chúng ta sẽ đề cập tới những vấn đề về cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, một trong những vấn đề quyết định sự thành bại của doanh nghiệp hiện nay. I. Thị trường quốc tế và cạnh tranh trên thị trường quốc tế của doanh nghiệp. 1. Thị trường và thị trường quốc tế của doanh nghiệp. 1.1. Các quan niệm về thị trường dưới các góc độ khác nhau. Chúng ta biết rằng thị trường ra đời, tồn tại và phát triển khi có đầy đủ 3 yếu tố cơ bản sau: - Phải có khách hàng và người bán. - Khách hàng phải có nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây chính là động lực chủ yếu thúc đẩy khách hàng mua hàng hoá và dịch vụ. - Khách hàng phải có sức mua, tức là phải có tiền để mua hàng. Nếu chỉ có nhu cầu mà không có tiền thì quá trình mua bán, trao đổi không thực hiện được. Trên cơ sở đó, các quan niệm về thị trường nói chung và thị trường quốc tế nói riêng có thể xét theo nhiều góc độ khác nhau và từ đó có những quan niệm khác nhau. - Theo quan niệm của kinh tế học: “Thị trường là tổng thể của cung và cầu đối với một loại hàng hoá nhất định trong một không gian và thời gian cụ thể “. - Theo quan niệm của Marketing: “Thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu mong muốn đó”. Như vậy, thị trường chính là nơi diễn ra quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán. Số lượng người mua và người bán tham gia nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường là lớn hay nhỏ. Số lượng hàng hoá cần sản xuất và giá cả của sản phẩm là bao nhiêu đều do cung và cầu trên thị trường quyết định. Thị trường là điều kiện, là môi trường sản xuất hàng hoá. Không có thị trường thì sản xuất, trao đổi, mua bán hàng hoá không thể tiến hành được. Khi đề cập tới thị trường, chúng ta không thể không nói đến các quy luật kinh tế của thị trường. Sau đây là một số quy luật kinh tế phổ biến: - Quy luật giá trị: Quy định hàng hoá được sản xuất ra và trao đổi trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết tức là chi phí bình quân trong xã hội. Trong lưu thông (mua - bán) phải tuân theo quy luật trao đổi ngang giá. - Quy luật cung cầu: Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn luôn có xu thế chuyển dịch, xích lại gần nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường. - Quy luật cạnh tranh: Phản ánh mức độ cạnh tranh của hàng hoá được sản xuất ra và bán trên thị trường với các loại hàng hoá khác cùng loại. Tuy nhiên đứng trên giác độ quản lý một doanh nghiệp thì thị trường là gì ? Đối với doanh nghiệp, thị trường phải gắn với các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua, người bán, người phân phối... với những hành vi của họ. Những hành vi này không phải bao giờ cũng tuân theo những quy luật cứng nhắc dựa trên những giả thuyết về tính hợp lý trong tiêu dùng. Chẳng hạn, hành vi của người mua, người bán đối với sản phẩm cụ thể còn chịu ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, điều kiện giao dịch. Mặt khác, trong điều kiện kinh doanh hiện đại thì nhu cầu là vấn đề hết sức quan trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu là cái nội dung bên trong được biểu hiện bằng hành vi, ý kiến, thái độ bên ngoài của khách hàng, là cái mà doanh nghiệp có thể tiếp cận được. Vì vậy đứng trên giác độ doanh nghiệp thì thị trường của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng hay một nhóm khách hàng đang mua hoặc sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó ta có khái niệm về thị trường quốc tế của doanh nghiệp : “Thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp đó”. Theo quan niệm trên thì số lượng và cơ cấu nhu cầu của khách hàng nước ngoài đối với sản phẩm của doanh nghiệp cũng như sự biến động của các yếu tố đó theo không gian và thời gian là đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế của doanh nghiệp. Số lượng và cơ cấu nhu cầu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vĩ mô và vi mô, vì thế đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu một cách tỉ mỉ, chính xác. 1.2. Cấu trúc của thị trường quốc tế. Thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp khách hàng nước ngoài hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Do đó ta có thể phân tích cấu trúc của tập hợp khách hàng này để phân chia thành từng những nhóm khách hàng tương đối thuần nhất, theo cấu trúc sẽ giúp doanh nghiệp xác định được mục tiêu cần chiếm lĩnh trong tương lai và các biện pháp thực hiện mục tiêu đó. Cấu trúc của tập hợp khách hàng này có thể phân tích theo mức độ tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp và khi đó thị trường bao gồm các bộ phận hợp thành sau: 1.2.1. Thị trường sản phẩm. Sản phẩm ở đây được hiểu là một hay một nhóm sản phẩm cùng loại. - Nếu sản phẩm là vật phẩm tiêu dùng, hàng hoá dịch vụ thì phải bắt đầu xét từ tổng thể dân cư của vùng lãnh thổ đang xét. - Nếu sản phẩm là tư liệu sản xuất (các yếu tố sản xuất) thì phải bắt đầu xét từ tổng thể các doanh nghiệp trong vùng đó có sử dụng các tư liệu đó. Để xác định được thị trường hiện tại của sản phẩm đang xét cần: - Xác định thị trường không tiêu dùng tuyệt đối: Đây là những khách hàng mà trong mọi trường hợp đều không quan tâm tới sản phẩm của doanh nghiệp vì nhiều lý do khác nhau như: giới tính, lứa tuổi, môi trường văn hoá - xã hội... - Xác định thị trường không tiêu dùng tương đối: Đó là tập hợp những người hay doanh nghiệp hiện tại không tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp vì nhiều lý do khác nhau như: thiếu thông tin về sản phẩm, không có đủ khả năng về tài chính để tiêu dùng sản phẩm, chất lượng sản phẩm không cao, thói quen tập quán tiêu dùng... 1.2.2. Thị trường của doanh nghiệp. Thị trường của doanh nghiệp có thể được chia làm 2 loại: Thị trường tiềm năng lý thuyết và thị trường tiềm năng thực tế. - Thị trường tiềm năng lý thuyết: Là thị trường mà doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh được nếu mọi điều kiện kinh doanh được liên kết lại một cách tối ưu. Đó chính là mục tiêu mà doanh nghiệp phải chiếm lĩnh trong một thời gian dài. Thị trường tiềm năng lý thuyết gồm 3 bộ phận: Một là: Thị trường hiện tại của doanh nghiệp. Hai là: Một phần thị trường của các đối thủ cạnh tranh mà doanh nghiệp có thể hi vọng chiếm lĩnh dần. Ba là: Một phần thị trường không tiêu dùng tương đối có thể sẽ tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp. - Thị trường tiềm năng thực tế: Là sự thu hẹp của thị trường tiềm năng lý thuyết sao cho nó mang tính hiện thực hơn trên cơ sở năng lực hiện có của doanh nghiệp, như hạn chế về vốn, sự cản trở của các đối thủ cạnh tranh... Đó là mục tiêu mà doanh nghiệp cần xác định để chiếm lĩnh trong thời gian ngắn. Việc xác định chính xác thị trường của doanh nghiệp và cấu trúc của nó sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp nhận thức rõ hơn những mục tiêu cụ thể mà doanh nghiệp cần đạt tới và xây dựng những chính sách thích hợp. Tóm lại, sự ra đời và phát triển của thị trường là một tất yếu khách quan, thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Khi đề cập đến thị trường là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Không có cạnh tranh thì không có thị trường. Thị trường chính là nơi gặp gỡ của các đối thủ trên chiến trường không có tiếng súng. 2. Nhận thức cơ bản về cạnh tranh. 2.1. Cạnh tranh là gì ? Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường nhằm giành giật những lợi ích kinh tế về mình để thu được lợi nhuận cao. Các chủ thể ở đây là người bán, người mua các loại hàng hoá, dịch vụ. Đối với người bán: Bao giờ họ cũng hướng tối đa hoá lợi nhuận bằng cách bán được càng nhiều hàng càng tốt với giá cao. Ngược lại, đối với người mua, họ muốn tối đa hoá lợi ích những hàng hoá mà họ mua được, tức là họ muốn mua hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, thoả mãn tiêu dùng nhưng giá lại rẻ. Do đó hai bên cạnh tranh nhau để dành những phần có lợi tốt nhất cho mình. Các yếu tố cấu thành sự cạnh tranh: - Các chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh: đó là những người có cung và cầu về sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. - Đối tượng tham gia sự cạnh tranh: là các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. - Môi trường cạnh tranh: là thị trường cạnh tranh. Chính 3 yếu tố này làm cho thị trường trở nên sôi động và đầy tính chiến thắng. 2.2. Phân loại cạnh tranh. 2.2.1. Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường, ta có: - Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Là thị trường có rất nhiều người bán, người mua, song không một ai có ưu thế trong việc cung ứng và mua sản phẩm để có thể thay đổi được giá cả. Mỗi người sản xuất là một “người nhận giá”, tức là người đó phải bán ra theo giá thịnh hành trên thị trường. Các sản phẩm được bày bán trên thị trường này được xem là đồng nhất. Tức là, sản phẩm đều không có sự khác biệt lớn về chủng loại, mẫu mã thậm chí còn giống nhau y hệt và chúng “nhỏ quá” không thể tác động đến giá cả trên thị trường. - Thị trường cạnh tranh độc quyền. Thị trường cạnh tranh độc quyền là thị trường chỉ có duy nhất một người sản xuất và bán một loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mà trên thị trường không có sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ thay thế. Trên thị trường nhà độc quyền có quyền quyết định giá cả và số lượng hàng hoá bán ra. Nhà độc quyền có xu hướng hạn chế sản lượng và đẩy giá lên để kiếm lợi nhuận kinh tế trong ngắn hạn. Tuy nhiên việc định giá sản phẩm còn phải tuỳ thuộc vào nhu cầu trên thị trường, cơ chế quản lý của Nhà nước... Độc quyền trong sản xuất kinh doanh là lợi thế của nhà độc quyền đối với các nhà sản xuất khác cùng ngành trong tương lai. Nhưng đứng trên góc độ tổng thể nền kinh tế thì sẽ kìm hãm sự phát triển sự sản xuất và người tiêu dùng chính là người bị thiệt thòi nhất. - Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Đây là loại thị trường có nhiều nhà sản xuất cung ứng nhiều sản phẩm. Phần lớn sản phẩm là không đồng nhất. Chẳng hạn, cùng một loại sản phẩm có thể chia ra thành nhiều thứ loại, phẩm cấp khác nhau mặc dù xét về thực chất thì giữa chúng hầu như không có sự khác biệt đáng kể. Mặt khác, các hình thức mua bán cũng rất khác nhau vì nhiều lý do khác nhau như khách quen, thói quen tiêu dùng sản phẩm của khách hàng, uy tín của sản phẩm... Các nhà sản xuất cạnh tranh nhau bằng chất lượng sản phẩm, giá cả, các hình thức quảng cáo, chào hàng, khuyến mại... để có thể thu được mức lợi nhuận mong muốn. Có thể nói đây là loại thị trường rất phổ biến hiện nay. 2.2.2. Căn cứ vào chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường, ta có: - Cạnh tranh giữa người bán với người mua. Đây là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ - bán đắt. Người mua luôn luôn muốn được mua rẻ, ngược lại người bán luôn có tham vọng bán đắt. Sự cạnh tranh này được thực hiện trong quá trình mặc cả và cuối cùng giá cả được hình thành và hành động mua bán được thực hiện. - Cạnh tranh giữa những người mua với nhau. Đây là cuộc cạnh tranh dựa trên quy luật cung - cầu. Khi một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó có cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua trở nên gay gắt và giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng lên. Kết quả cuối cùng là những người mua thì tự làm hại mình vì để có được hàng thì họ phải bỏ ra một khoản tiền, còn phần “béo bở” thì lại thuộc về người bán, mặc dù họ đứng ngoài cuộc. - Cạnh tranh giữa những người bán với nhau. Đây là cuộc cạnh tranh chính trên vũ đài thị trường, đồng thời cũng là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau thực chất là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhằm dành điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có lợi hơn. Do đó nó có ý nghĩa sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Trong thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, số lượng hàng hoá bán ra ngày càng tăng thì cạnh tranh càng quyết liệt. Đã có người nói rằng: “Thị trường và cạnh tranh là con dao hai lưỡi”. Thị trường đối với doanh nghiệp này là cái nôi, nhưng đối với doanh nghiệp kia là nghĩa địa. Cạnh tranh với doanh nghiệp này là động lực để phát triển, trong khi đối với doanh nghiệp khác lại như một hành động tự sát, là con đường dẫn đến diệt vong. Do đó phần tiếp theo sẽ trình bầy rõ hơn một số vấn đề về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. II. Các hình thức cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện nay trên thị trường quốc tế. 1. Tổng quan về doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu của tiêu thụ và thu về cho mình một khoản lợi nhuận nhất định. Mỗi doanh nghiệp là một hệ thống có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường bên ngoài và có cấu trúc bên trong gồm nhiều phân hệ khác nhau. Vì thế doanh nghiệp có thể coi là một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Cơ thể đó cần có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài (tức là thị trường). Quá trình trao đổi chất mà diễn ra thường xuyên, liên tục thì cơ thể đó khoẻ mạnh. Ngược lại, sự trao đổi đó diễn ra yêú ớt thì cơ thể đó sẽ quặt quẹo và ốm yếu. Về chức năng của doanh nghiệp, được chia làm 2 chức năng cơ bản: Một là: Doanh nghiệp phải làm chức năng quản lý sản xuất, quản lý tài chính, quản lý nhân lực... Đây là các chức năng rất quan trọng vì đó là các yếu tố góp phần tiết kiệm các nguồn lực cần thiết trong sản xuất, giảm giá thành, tăng năng suất và hiệu quả của doanh nghiệp nói chung. Nhưng đó vẫn chưa đủ đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và lại không có gì đảm bảo chắc chắn cho sự thành đạt của doanh nghiệp nếu tách rời nó ra khỏi một chức năng khác - chức năng kết nối mọi hoạt động của doanh nghiệp. Hai là: Doanh nghiệp phải làm chức năng Marketing, gồm: - Tìm và lập ra các kênh, các luồng để tiêu thụ hàng hoá một cách thuận lợi nhất, có lợi nhất. - Phân phối một cách công bằng và hợp lý mọi kết quả sản xuất kinh doanh đã đạt được. 2. Cạnh tranh của các doanh nghiệp. 2.1. Khái niệm. Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh, coi cạnh tranh là yếu tố, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó cạnh tranh của các doanh nghiệp được xem là vấn đề then chốt của mọi vấn đề về cạnh tranh. Cạnh tranh của các doanh nghiệp là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các doanh nghiệp với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm dành các điều kiện có lợi nhất về sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ... Trong cạnh tranh các doanh nghiệp thường đưa ra 2 đối sách: - Đối đầu trực tiếp với các đối thủ cạnh tranh để vươn lên trên và duy trì lợi thế cạnh tranh. - Phát triển con đường cạnh tranh hoà diệu để dành thắng lợi mà không cần phải hi sinh gì nhiều (như đàm phán...). Đối sách này ít tốn kém, nhưng có nhiều khó khăn. Do vậy để thực hiện được 2 đối sách trên thì buộc doanh nghiệp phải tính toán kỹ lưỡng, cẩn thận. Đồng thời cũng cần phải đưa ra được các chiến lược cạnh tranh để tránh thất bại trên thương trường. 2.2. Phân loại cạnh tranh của các doanh nghiệp. 2.2.1. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (nội bộ ngành). Cạnh tranh nội bộ ngành là cuộc đấu tranh giữa những nhà doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại hàng hoá hay dịch vụ nhằm dành lấy những điều kiện có lợi nhất trong việc sản xuất, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ ấy và thu được lợi nhuận cao so với vốn đã bỏ ra. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với hàng hoá, dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá và dịch vụ đó. Thực chất trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách tiêu diệt, thôn tính lẫn nhau. 2.2.2. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp khác ngành. Là cuộc cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ khác ngành với nhau, nhằm thu được lợi nhuận và có tỉ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ ra. Trong quá trình này, các doanh nghiệp luôn quan tâm đến những ngành có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỉ suất lợi nhuận cao hơn. Vì vậy việc các doanh nghiệp thường xuyên chuyển từ ngành này sang ngành khác để tìm kiếm cơ hội đầu tư vốn có nhiều lợi nhuận hơn đã vô hình chung hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các nhà sản xuất, từ đó cũng dẫn đến sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân và sự cạnh tranh trong nội bộ ngành lại tăng lên. 2.3. Vai trò và ảnh hưởng của cạnh tranh tới doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân. 2.3.1. Đối với doanh nghiệp. - Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì yếu tố cạnh tranh xuyên xuốt từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ của doanh nghiệp. Trong đó tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng, là cái bộc lộ rõ nhất của cạnh tranh vì thế nó có vai trò rất quan trọng. Muốn dẫn đầu cạnh tranh phải có một sự hoạch định tiêu thụ sản phẩm đúng đắn. - Cạnh tranh tạo động lực cho doanh nghiệp đổi mới, hoàn thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đưa doanh nghiệp phát triển lên vị trí cao hơn nữa. - Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường dựa vào thị phần mà doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được. Nó phản ánh quy mô thị trường của doanh nghiệp là lớn hay là nhỏ. - Cạnh tranh có thể giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, tạo dựng được uy tín của mình trên thị trường. Trái lại cạnh tranh cũng có thể đưa doanh nghiệp lún sâu vào tình trạng khủng hoảng và có thể đi đến tiêu vong. Đó là tính hai mặt của cạnh tranh mà mọi doanh nghiệp cần phải nghiên cứu, xem xét để tìm được các biện pháp kinh doanh thích hợp. 2.3.2. Đối với người tiêu dùng. Nhờ có cạnh tranh người tiêu dùng có thể sử dụng các loại sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ với chất lượng cao, giá cả phù hợp với mức thu nhập của họ. Cạnh tranh làm cho lợi ích của người tiêu dùng được đảm bảo. Người tiêu dùng được tôn trọng và bảo vệ bởi chất lượng, tính năng sử dụng... của sản phẩm, hàng hoá mà doanh nghiệp đưa ra. 2.3.3. Đối với nền kinh tế quốc dân. - Cạnh tranh thị trường là nơi mọi thành phần kinh tế có thể tham gia tự do cạnh tranh, làm ăn buôn bán. Là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. - Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản xuất. - Cạnh tranh chính là điều kiện để các nhà kinh doanh có thể phát huy, thể hiện tài năng của mình. Tạo ra một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi, năng động, sáng tạo và chân chính. - Cạnh tranh góp phần tạo ra những nhu cầu mới, kích thích nhu cầu phát triển bằng việc sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm mới để đáp ứng những nhu cầu đó. Góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. - Cạnh tranh kết hợp với sự quản lý của Nhà nước sẽ góp phần xoá bỏ những độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất bình đẳng trong kinh doanh. Tuy nhiên mặt trái của cạnh tranh luôn luôn đồng hành với mặt tích cực, đó là: - Cạnh tranh tạo ra sự phân hoá giầu nghèo, gây bất ổn trong xã hội. - Nếu sự quản lý của Nhà nước lỏng lẻo thì cạnh tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền hay có những hậu quả tiêu cực khác. - Cạnh tranh có thể làm phát sinh hàng giả, hàng nhập lậu làm rối loạn thị trường, ảnh hưởng tới người tiêu dùng và những nhà sản xuất làm ăn chân chính. - Ô nhiễm môi trường cũng là một nguyên nhân xuất phát từ cạnh tranh do các doanh nghiệp luôn hướng tới lợi nhuận cao mà không chú ý tới việc dành chi phí cho xử lý chất thải ô nhiễm... Vì thế buộc phải có sự tham gia quản lý vĩ mô của Nhà nước một cách kịp thời, đúng lúc để hướng nền kinh tế - xã hội đi theo hướng có lợi nhất. 3. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông thường cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt khi có nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất cùng một loại hàng hoá sản phẩm. Do đó buộc các doanh nghiệp phải có các công cụ cạnh tranh của mình. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp là một tập hợp các kế hoạch, chính sách, các chiến lược... mà doanh nghiệp sử dụng để vượt lên đối thủ cạnh tranh, tác động vào tâm lý tiêu dùng của khách hàng để có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm và thu được lợi nhuận cao. 3.1. Công cụ cạnh tranh là sản phẩm và chất lượng sản phẩm. Khi chọn sản phẩm làm vũ khí cạnh tranh thì cần phải tập chung giải quyết toàn bộ chiến lược về sản phẩm, làm cho sản phẩm thích ứng nhanh chóng với thị trường. Chất lượng sản phẩm là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là hệ thống đặc tính các nội tại của sản phẩm được xác định bằng những thông số có thể đo được hay so sánh được phù hợp với những điều kiện kỹ thuật hiện tại và thoả mãn được những nhu cầu nhất định của xã hội. Chất lượng sản phẩm càng cao tức là làm tăng được mức độ thoả mãn của người tiêu dùng đối với sản phẩm, kích thích tiêu dùng dẫn đến tăng khả năng tiêu thụ và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ khác. Trên cơ sở đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm phải được thể hiện toàn diện bằng hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản phẩm. Hàm lượng khoa học cao, chất lượng sản phẩm tốt thì có thể bán được với giá cao. Nhất là khi mà mức thu nhập của khách hàng nước ngoài là rất cao, họ rất quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Vì thế chất lượng sản phẩm có thể “vượt mặt” giá cả lên vị trí đứng đầu trong cạnh tranh. Ngoài ra cũng cần phải quan tâm tới bao bì sản phẩm. Chú trọng đến tính chất bảo vệ sản phẩm không hư hỏng. Tạo sự chú ý, thu hút người mua, đồng thời cần chú ý tới tâm lý tiêu dùng của khách hàng là họ mua hàng hoá, sản phẩm còn tận dụng bao bì để sử dụng trong đời sống hàng ngày. Về nhãn hiệu sản phẩm thì coi nhãn hiệu là đại biểu cho chất lượng sản phẩm, uy tín của sản phẩm, uy tín của doanh nghiệp, là vũ khí cạnh tranh với hàng hoá cùng loại. Ngày nay, trong sự cạnh tranh khốc liệt thì hai yếu tố trên trở nên vô cùng quan trọng, là một công cụ cạnh tranh đắc lực. Nếu mẫu mã của sản phẩm đẹp, độc đáo thì sẽ thu hút được khách hàng quan tâm, chú ý. Doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới công dụng và lợi ích của sản phẩm. Xem công dụng của sản phẩm đạt đến mức độ nào? Làm ra sản phẩm nhằm cho nhu cầu nào? Người tiêu dùng sử dụng vào công việc gì? Công dụng của sản phẩm được mở rộng tức là thuận tiện và đa năng trong sử dụng thì người tiêu dùng sẽ mua nhiều, nhà sản xuất sẽ bán được nhiều hàng... Như vậy chất lượng sản phẩm trở thành một công cụ cạnh tranh quan trọng của các doanh nghiệp, bởi nó biểu hiện sự thoả mãn nhu cầu khách hàng của sản phẩm và có thể đương đầu với đối thủ cạnh tranh. 3.2. Công cụ cạnh tranh là giá cả sản phẩm. Mặc dù trên thị trường hiện nay, cạnh tranh đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bằng thời gian cung cấp hàng hoá và điều kiện giao hàng, nhưng giá cả vẫn có vai trò quyết định. Giá cả sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà doanh nghiệp dự tính có thể nhận được từ khách hàng thông qua việc trao đổi sản phẩm đó trên thị trường. Giá cả sản phẩm = Giá thành sản phẩm + Lãi đầu tư + Lãi của doanh nghiệp Giá cả sản phẩm được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thể hiện qua các chính sách giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với từng thị trường khác nhau. Cạnh tranh giá cả sản phẩm của doanh nghiệp có thể bắt đầu từ các yếu tố hình thành nên giá thành sản phẩm, như: nguyên vật liệu, lao động, giá thuê đất đai, nhà xưởng, tiền điện, tiền nước... Sau đó là các chi phí gián tiếp như: chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng, các chính sách của Nhà nước... Như vậy trong giá cả sản phẩm, doanh nghiệp có thể tạo được ưu thế cạnh tranh so với các đối thủ cạnh tranh của mình. Chính sách bán sản phẩm của doanh nghiệp là mục tiêu của doanh nghiệp nhằm xây dựng một hệ thống giá cả trong tương lai và mong đợi sẽ được thị trường chấp nhận. Công cụ cạnh tranh là giá cả sản phẩm được thể hiện qua các chính sách giá bán sau: - Doanh nghiệp bán với mức giá thấp (thấp hơn so với giá của thị trường). Đây là hình thức thu hút khách hàng nhiều hơn về phía mình so với đối thủ cạnh tranh nhưng phải có điều kiện là chất lượng và chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp phải tương đương so với đối thủ cạnh tranh. - Doanh nghiệp bán với mức giá cao (cao hơn so với giá của thị trường). Với hình thức này, doanh nghiệp muốn hướng tới một bộ phận khách hàng cao cấp nhưng phải có điều kiện là chất lượng và chủng loại sản phẩm phải vượt trội, hơn hẳn so với đối thủ cạnh tranh, đồng thời nó cũng phải là những sản phẩm đã trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng. Mặt khác doanh nghiệp cũng có thể sử dụng mức giá cao đối với những sản phẩm mới khi người tiêu dùng chưa biết rõ về sản phẩm và chưa có cơ hội so sánh với sản phẩm khác để xem loại sản phẩm này là đắt hay rẻ, chất lượng tốt hay không tốt. - Doanh nghiệp bán với mức giá phân biệt: Là các mức giá linh hoạt khác nhau nhằm khai thác hết sự đàn hồi nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng theo khu vực, mùa vụ, tầng lớp, tình bằng hữu... Các mức giá đó được phân biệt theo nhiều tiêu thức khác nhau như: phân biệt theo lượng mua, phân biệt theo chất lượng, phân biệt theo phương thức thanh toán... - Doanh nghiệp bán phá giá (giá thấp hơn hẳn so với giá của thị trường). Doanh nghiệp dùng chính sách để đánh bại đối thủ cạnh tranh, loại đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường. Để thực hiện được chính sách này, doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính mạnh, tiềm lực về khoa học công nghệ, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường... Tuy nhiên doanh nghiệp cũng phải luôn đề phòng với các đối thủ khác vì hôm nay có thể loại bỏ được vài đối thủ nhưng có thể ngày mai sẽ có đối thủ khác tiêu diệt doanh nghiệp bằng chính sách bán phá giá mà doanh nghiệp đã áp dụng. 3.3. Hệ thống phân phối (Kênh phân phối hàng hoá). Phân phối hàng hoá là hoạt động tổ chức, điều hành, vận chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng. Phân phối hàng hoá của doanh nghiệp là hệ thống các quan điểm, chính sách và giải pháp tổ chức các kênh, luồng, mạng lưới bán sỉ, bán lẻ hàng hoá nhằm bán được nhiều hàng, đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Người tiêu dùng Người sản xuất Người bán lẻ Người bán buôn Người bán lẻ Đại lý Người bán buôn Người bán lẻ A B C D Thông thường có 4 kênh phân phối cho hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, được biểu diễn qua sơ đồ sau: - Kênh A (Kênh cấp không): là một kênh trực tiếp bởi vì người sản xuất bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ được phân phối theo cách này. Do không có trung gian trong kênh nên người sản xuất phải thực hiện tất cả các chức năng của kênh. - Kênh B (Kênh 1 cấp): là mạng phân phối gián tiếp theo kênh ngắn có thêm người bán lẻ. Được sử dụng khi người bán lẻ có quy mô lớn có thể mua khối lượng lớn từ người sản xuất hoặc chi phí lưu kho là quá đắt nếu sử dụng người bán buôn. - Kênh C (Kênh 2 cấp): là mạng phân phối gián tiếp theo kênh dài. Trong kênh có thêm người bán buôn. Được sử dụng phổ biến cho các loại hàng hoá giá trị đơn vị thấp, chi phí thấp được mua thường xuyên bởi người tiêu dùng. - Kênh D (Kênh 3 cấp): là kênh dài nhất, được sử dụng khi có nhiều người sản xuất nhỏ và nhiều người bán lẻ nhỏ. Đại lý được sử dụng để giúp phối hợp cung cấp sản phẩm với khối lượng lớn. Do đó việc lựa chọn cụ thể kênh phân phối thì yêu c._.ầu doanh nghiệp cần chú ý tới một số điểm sau: - Về đặc điểm hàng hoá: + Đối với hàng hoá khó bảo quản, dễ hư hỏng như lương thực, thực phẩm... đòi hỏi phải tiếp cận thị trường trực tiếp nhiều hơn để tránh tổn thất do đặc tính của sản phẩm hàng hoá. + Đối với hàng hoá cồng kềnh, nặng... phải lựa chọn kênh ngắn. + Đối với hàng hoá đơn chiếc, hàng hoá có kỹ thuật đặc biệt thì doanh nghiệp có thể bán trực tiếp vì có sự am hiểu về hàng hoá của mình. - Về đặc điểm của khách hàng: + Nếu khách hàng có số lượng đông ở nhiều vùng khác nhau thì doanh nghiệp cần xây dựng các khâu trung gian ở nhiều nơi, nhiều cấp. + Đối với các sản phẩm đòi hỏi nhiều chi phí phục vụ cho các đơn vị đặt hàng lẻ tẻ, thường xuyên thì cần phải dựa vào các nhà bán buôn. + Nếu nhiều khách hàng muốn mua hàng trực tiếp ở các cửa hàng của doanh nghiệp thì doanh nghiệp có thể bán trực tiếp... Việc nghiên cứu các kênh hiện có, tìm ra những kênh mới tin cậy nhất, ổn định nhất là một vấn đề quan trọng trong chiến lược phân phối. Nếu lựa chọn kênh ngắn: có mặt hợp lý, dễ gần gũi với khách hàng, dễ kiểm soát. Lựa chọn kênh dài: cũng rất cần thiết, khắc phục được sự ít vốn, hiểu thị trường nhưng cần phải bổ sung thêm nhân lực để kênh phân phối của doanh nghiệp có thể hoạt động như mong muốn. Ngày nay các nhà sản xuất muốn có được hiệu quả trong kinh doanh phải có nhiều kênh, mạng lưới dày đặc trong phân phối hàng hoá. Nhờ đó nếu có ách tắc kênh nào thì đã có kênh khác tiếp ứng hoạt động. Do đó có thể nói các doanh nghiệp cạnh tranh nhau trên từng cây số của thị trường. 3.4. Các công cụ Marketing. 3.4.1. Dịch vụ sau bán hàng. Hoạt động của doanh nghiệp không phải dừng lại sau lúc giao hàng, thu tiền của khách hàng mà còn có hoạt động dịch vụ sau bán hàng. Dịch vụ sau bán hàng thể hiện trách nhiệm đến cùng đối với người tiêu dùng về sản phẩm của mình. Các dịch vụ sau bán hàng như: vận chuyển hàng miễn phí, bảo hành hướng dẫn cách sử dụng sản phẩm, lắp đặt sản phẩm tại gia đình người tiêu dùng... Tất cả những thứ đó sẽ gây được uy tín của sản phẩm và doanh nghiệp trên thị trường, giữ và tăng thêm được khách hàng, tạo cho khách hàng cảm thấy yên tâm trước khi quyết định mua hàng. Qua hoạt động dịch vụ sau bán hàng mà doanh nghiệp biết được sản phẩm của mình đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ra sao. Sự khen chê của khách hàng, phát hiện các khuyết tật của sản phẩm mà đổi mới, hoàn thiện tốt hơn. Dịch vụ sau bán hàng là một giải pháp rất tốt cho uy tín của doanh nghiệp trong cạnh tranh. 3.4.2. Quảng cáo. Quảng cáo là nghệ thuật sử dụng các phương tiện truyền đưa thông tin về hàng hoá cho thị trường mà cụ thể là cho người tiêu dùng. Quảng cáo là phương sách có tính chất chiến lược để đạt được hoặc duy trì một lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Quảng cáo để thu hút sự chú ý của mọi người đến sản phẩm của doanh nghiệp (như lợi ích, tiện lợi, tính chất sử dụng của hàng hoá...). Quảng cáo để kích thích nhu cầu tiêu dùng, từ đó có thể tăng tốc độ bán hàng, thu được lợi nhuận. III. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nói đến khả năng của doanh nghiệp là nói đến thực lực của doanh nghiệp, như: tiềm lực tài chính, công nghệ hiện đại, đội ngũ lao động năng động, lành nghề, bộ máy quản lý giỏi... Chính các thực lực này sẽ được huy động vào phục vụ cho hoạt động cạnh tranh. Nhưng để cạnh tranh được thì doanh nghiệp cần phải biến các thực lực này thành các lợi thế so với đối thủ cạnh tranh. Do đó ta có khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là: “Lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn đến mức cao nhất các đòi hỏi của thị trường”. Như vậy, các yếu tố được xem là lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh chính là chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối sản phẩm, trình độ quản lý, trình độ công nhân, tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ... Trong đó các yếu tố chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối sản phẩm, dịch vụ sau bán... là các yếu tố trực tiếp tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi vì các yếu tố này đã và đang đáp ứng các đòi hỏi, yêu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng, kích thích khách hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp (biểu hiện cuối cùng của cạnh tranh được bộc lộ ra bên ngoài). Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ các yếu tố như: tiềm lực tài chính, trình độ quản lý, trình độ công nhân... vì chính các yếu tố này tác động không nhỏ đến chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối sản phẩm... 2. Vai trò của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cạnh tranh là một hoạt động xuyên suốt, luôn luôn tồn tại ở mỗi doanh nghiệp khi doanh nghiệp tiếp cận vào thị trường. Vì vậy, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng, không những dành chiến thắng trước các đối thủ cạnh tranh, mở rộng được thị trường mà còn giúp doanh nghiệp phát huy được sức mạnh của mình, tạo được uy tín trên thị trường, nâng cao được trình độ quản lý, tay nghề của công nhân, vận dụng được khoa học kỹ thuật máy móc hiện đại vào sản xuất, chất lượng sản phẩm cao, giá thành sản phẩm hạ... 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Theo trên các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là các yếu tố tác động tới chất lượng sản phẩm, giá cả, hệ thống phân phối, dịch vụ sau bán hàng... Tuỳ từng mức độ ảnh hưởng mà doanh nghiệp phải đối mặt, có thể là tốt, là xấu. Nếu tốt sẽ tạo được ưu thế trước đối thủ cạnh tranh và ngược lại, nếu xấu sẽ làm cho doanh nghiệp khó tồn tại trên thị trường và có khi còn bị đánh bật ra khỏi thị trường đó. Có 2 yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đó là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp và các yếu tố thuộc về bản thân doanh nghiệp. 3.1. Các yếu tố thuộc bên ngoài doanh nghiệp. 3.1.1. Các nhân tố mang tính toàn cầu. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi những nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù ngày nay trên thế giới xu hướng chung là tự do mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt hàng rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế. Các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các hạn chế thương mại khác nhau. - Thuế quan (Tariffs). Thuế quan nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá nhập khẩu. Thuế quan nhập khẩu làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt giá cả trong nước, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước mở rộng sản xuất và khả năng cạnh tranh cũng được tăng cường, vì thế ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trước các đối thủ cạnh tranh. Thuế quan nhập khẩu được áp dụng rất rộng rãi ở các quốc gia tuy rằng ở các nước mức thuế là khác nhau. - Hạn ngạch (Quota). Là việc đề ra những giới hạn về số lượng hàng hoá thông qua hình thức cấp giấy phép (Quota nhập khẩu). Mục tiêu của hạn ngạch là để bảo lưu ngoại hối, bảo vệ công nghệ cũng như công ăn việc làm trong nước. Cấm vận là hình thức cao nhất của hạn ngạch. - Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật. Là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, an toàn lao động, bao bì đóng gói, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường sinh thái đối với máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ. Các nước sẽ sử dụng khéo léo các quy định này để biến chúng thành công cụ cạnh tranh có lợi cho nước chủ nhà trong thương mại quốc tế. - Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary export Restraints - VER). Đây là hình thức của hàng hoá mậu dịch phi thuế quan. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biện pháp hạn chế xuất khẩu mà theo đó một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế tốt số lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách “tự nguyện”. Như vậy vô hình chung các yếu tố đó đã tạo ra một môi trường cạnh tranh bất lợi hơn cho các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên những khó khăn cho quá trình thâm nhập có thể lại được bù đắp bằng doanh số và lợi nhuận vì một thị trường tổng thể lớn hơn và thuần nhất hơn được xác lập sẽ kéo theo sự tăng trưởng kinh tế và mức tiêu dùng các sản phẩm nhập ngoại của khách hàng nước ngoài. 3.1.2. Các nhân tố thuộc môi trường kinh tế. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế của từng nước khi doanh nghiệp xâm nhập vào thị trường của nước đó. Việc nghiên cứu nền kinh tế của từng nước sẽ giúp doanh nghiệp thấy được mức tiêu dùng về sản phẩm của doanh nghiệp là lớn haylà nhỏ (khả năng thanh toán của khách hàng). Vì thế đòi hỏi chất lượng sản phẩm là tốt, trung bình hay bình thường... Trên cơ sở việc phân tích các cấu trúc của thị trường các nước sẽ cho phép doanh nghiệp “vượt mặt” đối thủ cạnh tranh, dành được chỗ đứng trên thị trường. 3.1.3. Các nhân tố thuộc môi trường chính trị - luật pháp. Các quốc gia rất khác nhau về môi trường chính trị - luật pháp, vì thế nó có ảnh hưởng rất sâu rộng đến các doanh nghiệp nước ngoài. Cụ thể: - Thái độ đối với doanh nghiệp nước ngoài. Đối với doanh nghiệp này, quốc gia này rất dễ dãi, khuyến khích thực sự đối với doanh nghiệp như chính phủ ban hành những quy định tạo thuận lợi cho nhà kinh doanh nước ngoài, chẳng hạn là luật lệ khuyến khích đầu tư, tinh giảm về các luật lệ về cấp giấy phép và các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu. Ngược lại, lại có quốc gia khác lại có thái độ thù nghịch, chẳng hạn chính phủ sẽ đưa ra những yêu cầu về hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế sử dụng ngoại tệ... Ngoài ra khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn bị ảnh hưởng bởi: - Sự ổn định về chính trị. - Sự điều tiết về tiền tệ, tỷ giá hối đoái biến động mạnh cũng tạo nên các rủi ro cho doanh nghiệp nước ngoài. - Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền. - Các quy định mang tính chất bắt buộc về pháp luật và quản lý như cấm đoán hay kiểm soát đối với một số hàng hoá và dịch vụ, cấm một số phương thức hoạt động thương mại (nhất là trong lĩnh vực quảng cáo), các kiểu kiểm soát về giá cả, số lượng sản phẩm hay là các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc đối với sản phẩm của doanh nghiệp. 3.1.4. Các nhân tố thuộc môi trường văn hoá. Mỗi quốc gia đều có những tập tục, quy tắc, kiêng kỵ riêng. Chúng được hình thành theo truyền thống văn hoá của mỗi quốc gia và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng của khách hàng và của quốc gia đó. Do đó có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì thế buộc các doanh nghiệp phải đưa ra những sản phẩm mang tính chất văn hoá truyền thống, chất lượng cao, giá cả hợp lý, mới lạ, đa năng... 3.1.5. Các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh. Sức hấp dẫn của thị trường nước ngoài đã thu hút rất nhiều đối thủ cạnh tranh và cạnh tranh quốc tế diễn ra rất gay gắt. - Các nhà doanh nghiệp nước ngoài phải đối mặt các đối thủ cạnh tranh nội địa. Đối thủ cạnh tranh nội địa được hưởng một ưu thế rất thuận lợi do những hỗ trợ của chính phủ và tinh thần dân tộc của khách hàng. Rất có thể họ ưu tiên sản phẩm nội địa hơn so với sản phẩm nhập ngoại. Tuy nhiên rất có thể đối thủ cạnh tranh nội địa phải ở thế bất lợi do sự bất tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp đó hay trở thành nạn nhân của thói chuộng hàng ngoại. - Loại đối thủ thứ hai là các doanh nghiệp nước ngoài khác đang hoạt động trên thị trường đó. Các doanh nghiệp không thể chờ đợi ở họ một thái độ hợp tác hay những phản ứng thụ động mà ngược lại doanh nghiệp phải đối mặt với những biện pháp ứng phó khi trực tiếp, khi gián tiếp, khi thô thiển, khi tinh vi với những nguồn lực rất đáng kể về chi phí cho cạnh tranh. Cạnh tranh giữa sản phẩm của doanh nghiệp với sản phẩm nước ngoài luôn chịu ảnh hưởng của hình ảnh một đất nước tạo ra bởi dòng ghi chú “Made in...” trên sản phẩm, do đó có tác động không nhỏ đến khách hàng địa phương. Sự nhận thức của khách hàng là khó bảo thủ và khó thay đổi trừ khi doanh nghiệp có những đối phó tương ứng. 3.1.6. Sự phát triển của khoa học, công nghệ trên thế giới. Tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bằng chất lượng sản phẩm và giá cả sản phẩm. Nếu có công nghệ phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp có được ưu thế trong cạnh tranh, mặt khác nếu doanh nghiệp không kịp thời đổi mới thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ trở nên lạc hậu, làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp. 3.1.7. Hàng giả. Là nỗi lo của bất cứ một doanh nghiệp nào. Nó làm cho uy tín của doanh nghiệp bị lu mờ, làm mất đi khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.1.8. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nước đối với doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi các chính sách, luật pháp của Nhà nước như: - Các chính sách về miễn giảm thuế xuất khẩu sản phẩm đối với của doanh nghiệp. - Các điều khoản, quy định về giấy phép xuất khẩu sản phẩm. - Các quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà nước sẽ giúp doanh nghiệp có thể gia nhập thị trường quốc tế... Các doanh nghiệp luôn mong muốn ở Nhà nước có các chính sách phù hợp, đúng hướng, hỗ trợ về tài chính, nguồn lực... để tạo cho doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, thu được lợi nhuận, có lợi thế trong cạnh tranh, từ đó có thể giúp Nhà nước thu được nguồn ngoại tệ lớn, khoa học - công nghệ trong nước không bị lạc hậu so với thế giới, cùng góp phần phát triển chung nền kinh tế đất nước. 3.2. Các yếu tố thuộc về bản thân doanh nghiệp. 3.2.1. Nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là chi phí trực tiếp tạo ra giá thành sản phẩm. Do đó việc lựa chọn và sử dụng nguyên vật liệu vào sản xuất sẽ quyết định một phần đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Nếu chi phí nguyên vật liệu lớn sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.2.2. Lực lượng cán bộ và công nhân trong doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm đạt đến mức nào? giá cả sản phẩm là bao nhiêu? kênh phân phối hàng hoá như thế nào?... đều do cán bộ và công nhân trong doanh nghiệp xây dựng và quản lý. Trình độ quản lý, năng suất lao động, ý thức của mọi người trong doanh nghiệp sẽ tác động không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.2.3. Thiết bị máy móc, dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp. Nếu quy mô và khả năng sản xuất của doanh nghiệp lớn sẽ có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp nhỏ, lẻ khác, bởi lẽ doanh nghiệp có quy mô và khả năng sản xuất lớn sẽ tạo ra được nhiều sản phẩm, từ đó có thể hạ được giá bán sản phẩm, tiêu thụ được nhiều sản phẩm dẫn đến đánh bại được đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Mặt khác doanh nghiệp có quy mô và khả năng sản xuất lớn sẽ có nhiều bạn hàng trong mua bán, có được chữ tín với khách hàng, tăng được ưu thế so với đối thủ cạnh tranh. 3.2.4. Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Đây chính là công cụ đắc lực và quan trọng để đánh bại đối thủ cạnh tranh. Đến một thời điểm cụ thể doanh nghiệp với tiềm lực tài chính dồi dào có thể bán sản phẩm với mức giá thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh, loại đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường. Với một mức vốn lớn, doanh nghiệp sẽ mở rộng được quy mô sản xuất, có điều kiện đổi mới công nghệ máy móc, thiết bị. Tình hình sử dụng vốn sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. 3.2.5. Hoạt động Marketing của doanh nghiệp. Hoạt động Marketing không thể thiếu ở mỗi doanh nghiệp hiện nay. Chúng giúp doanh nghiệp phân tích nhu cầu của khách hàng, các hình thức cạnh tranh của đối thủ, dự báo được số lượng sản phẩm có thể tiêu thụ trong tương lai... Trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ đưa ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả, tạo được các sản phẩm phù hợp với sở thích của khách hàng với mức giá linh hoạt theo sự biến động của thị trường. Xây dựng được hệ thống tiêu thụ sản phẩm rộng khắp trên nhiều quốc gia khác nhau từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 3.2.6. Vị trí của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi vị trí địa lý của doanh nghiệp. Nó quyết định đến cước phí vận chuyển hàng hoá, thời gian giao hàng, điều kiện giao dịch... 4. ý nghĩa của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp đứng vững được trên thị trường. Đồng thời giúp doanh nghiệp nâng cao được yếu tố có lợi nhất cho mình, tìm ra giải pháp cạnh tranh hữu hiệu nhất, làm giảm các yếu tố bất lợi và lấy đó làm bàn đạp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để thu được lợi nhuận cao. Phần II thực trạng khả năng cạnh tranh của xí nghiệp TOCAN hiện nay Năm tháng qua đi, nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng càng trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Trong cuộc đọ sức ấy, xí nghiệp TOCAN đã và đang sản xuất ra một khối lượng lớn các loại chổi sơn phục vụ cho ngành công nghiệp xây dựng dân dụng và vững bước đi trên con đường dẫn đến thành công. I. Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp TOCAN. Nghề làm chổi sơn ra đời rất sớm, nước khởi thuỷ là Trung Quốc. Khoảng thế kỷ thứ 15, người phương Tây đã học được cách làm chổi sơn và chổi sơn đã được áp dụng rộng rãi vào ngành xây dựng. Năm 1987, công ty TOCONTAP của Việt Nam đã xuất một lô hàng nhỏ sang hãng Nour Trading House Inc. của Canada, trong đó có một Container cán chổi gỗ nhưng lô hàng đó không phù hợp với thị trường. Hãng Nour Trading House Inc. quyết định phải có sự kết hợp giữa hãng và công ty TOCONTAP trong sản xuất để tạo ra sản phẩm thích hợp với thị trường. Sau đó hai bên đã ký kết hợp đồng hợp tác sản xuất dài hạn tại Việt Nam vào năm 1992. Phía công ty TOCONTAP đã chọn thêm một doanh nghiệp trong nước có sẵn đất đai, nhà xưởng để tổ chức liên kết kinh tế. Tháng 11 năm 1993, xí nghiệp TOCAN chính thức được thành lập theo nghị định 28 của Chính phủ về liên kết kinh tế giữa các tổ chức quốc doanh (Bộ thương mại và Sở lao động thương binh xã hội) và những công nhân đầu tiên được tuyển chọn vào xí nghiệp, máy móc thiết bị cũng được chuyển từ Canada vào Việt Nam. Tháng 1 năm 1994, xí nghiệp chính thức đi vào hoạt động với sự điều hành trực tiếp của các bộ phận quản lý của xí nghiệp cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các chuyên gia Canada. Các sản phẩm mà xí nghiệp TOCAN sản xuất để xuất khẩu ra thị trường nước ngoài là: cán chổi gỗ, đầu chổi sơn và chổi sơn hoàn chỉnh. Căn cứ vào hợp đồng đã ký kết: - Phía Nour Trading House Inc. có nghĩa vụ cung cấp máy móc, thiết bị, cung cấp nguyên vật liệu cần thiết mà phía Việt Nam chưa có. Chuyển giao toàn bộ dây chuyền công nghệ sản xuất cán gỗ, đầu chổi sơn và chổi sơn với tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng mà hãng đang chế tạo ở Canada và có đủ sức mạnh cạnh tranh trên thế giới. - Phía Việt Nam có nghĩa vụ thiết lập bộ máy sản xuất, bộ máy điều hành, duy trì tốc độ sản xuất theo những yêu cầu của thị trường, phối hợp chặt chẽ với hãng Nour Trading House Inc. để duy trì sản phẩm cũ, tạo ra sản phẩm mới nhằm đẩy mạnh hơn nữa trong sản xuất chế tạo sản phẩm và loại dần các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Xí nghiệp TOCAN hiện đang trực thuộc công ty TOCONTAP, nằm trên địa bàn thuộc làng Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. II. Một số đặc điểm về sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. 1. Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý. Tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp TOCAN được dựa trên mô hình quản lý của Bắc Mĩ. Việc thiết lập tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp TOCAN khá đơn giản, gọn nhẹ. Gồm: - Về quản lý: Giám đốc, phó giám đốc, chuyên viên xuất - nhập khẩu và tài chính - kế toán. - Về bộ phận sản xuất: Quản đốc, chuyên viên kỹ thuật sản xuất và 7 tổ sản xuất. Sơ đồ 1 – tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp TOCAN. Tổ nồi hơi cắt xếp gỗ Tổ cơ khí Tổ đóng gói Tổ đầu chổi Tổ chế biến lông Tổ hoàn chỉnh Tổ làm cán Phó giám đốc Quản đốc Chuyên viên kỹ thuật sản xuất Chuyên viên XNK Giám đốc Tài chính kế toán Mối quan hệ chỉ đạo. Mối quan hệ phối hợp cộng tác và hỗ trợ nghiệp vụ. Việc vận hành tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp TOCAN là khá linh động, nhịp nhàng, các bộ phận ít xẩy ra sự cố làm ảnh hưởng chung đến toàn xí nghiệp. Chức năng của từng bộ phận trong xí nghiệp: - Giám đốc: là người có thẩm quyền cao nhất trong xí nghiệp. Ngoài trách nhiệm của một giám đốc xí nghiệp Việt Nam (lo toàn bộ hoạt động của xí nghiệp, chế độ của xí nghiệp...), còn chịu trách nhiệm trực tiếp giao dịch với phía nước ngoài, điều tiết sản xuất thích ứng trước những biến động của thị trường, phối hợp với hãng Nour Trading House Inc. để tăng sức cạnh tranh của xí nghiệp. - Phó giám đốc: là cộng sự đắc lực của giám đốc, thực hiện chức năng quản lý toàn diện xí nghiệp. Phụ trách kế hoạch sản xuất và các chế độ đối với người lao động, chịu trách nhiệm về tổ chức và phối hợp quá trình sản xuất từ khâu kiểm tra, đánh giá kết quả sản xuất, đồng thời được uỷ quyền khi giám đốc vắng mặt. - Chuyên viên xuất - nhập khẩu: phụ trách công việc cung cấp sản phẩm đầy đủ, kịp thời cho phía nước ngoài và đảm bảo nguyên liệu nhập từ nước ngoài vào đúng số lượng, chất lượng. - Tài chính - kế toán: có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác kế toán tại xí nghiệp. - Quản đốc: có nhiệm vụ triển khai cụ thể kế hoạch sản xuất theo thứ tự ưu tiên của sản phẩm, quản lý kiểm tra chất lượng sản phẩm. - Chuyên viên kỹ thuật sản xuất: có nhiệm vụ quản lý kỹ thuật công nghệ, kiểm định nguyên liệu trước khi đưa vào sản xuất. - Các tổ sản xuất theo đúng chức năng hoạt động. 2. Đặc điểm về cơ cấu lao động của xí nghiệp. Nguồn lực lao động của xí nghiệp được bố trí một cách hợp lý, đúng người, đúng việc, phù hợp với trình độ và khả năng của mỗi người. Tổng số lao động chính thức của xí nghiệp TOCAN đến quý I năm 2000 là 150 người và được chia làm hai bộ phận chính: bộ phận trực tiếp làm ra sản phẩm chiếm khoảng 96% (144 người) trong đó bộ phận làm việc thủ công chiếm 30% (45 người) và bộ phận làm việc bằng máy chiếm 66% (99 người); bộ phận quản lý chung chiếm 4% (6 người). Thu nhập bình quân đầu người của mỗi lao động là 560.000 đồng/tháng. Lao động có trình độ đại học, trung học và phổ thông tăng. Ngoài ra, khác với các ngành lao động khác, số công nhân được phân bổ vào các tổ sản xuất phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường. Nếu nhu cầu nhiều, sản phẩm nằm trong vòng kiểm soát thì số lượng công nhân tăng và ngược lại. Trong thực tế, thời điểm cao nhất lực lượng lao động của xí nghiệp là 220 người (năm 1998). Biểu 1: Kết cấu lao động của xí nghiệp qua các năm 1997, 1998, 1999, quý I năm 2000. Chỉ tiêu 1997 1998 1999 Quý I-2000 Tổng số lao động 160 220 140 150 Đại học 8 12 7 9 Phổ thông trung học 105 143 91 96 Phổ thông 47 65 42 45 Thu nhập bình quân 460.000 485.000 520.000 560.000 Nguồn: Theo báo cáo tổng kết tình hình hoạt động của xí nghiệp TOCAN năm 1997, 1998, 1999, quý I năm 2000. 3. Đặc điểm về tài chính của xí nghiệp TOCAN. Căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, căn cứ vào khả năng tài chính của hãng Nour Trading House Inc. và xí nghiệp TOCAN, căn cứ vào nhu cầu thay đổi theo từng giai đoạn, 2 bên đã thống nhất: hãng Nour Trading House Inc. chuyển tiền cho xí nghiệp TOCAN dưới hình thức ứng trước tiền thanh toán. Xí nghiệp TOCAN có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn này, đồng thời làm tăng nguồn vốn tự có của xí nghiệp. Tính đến quý I năm 2000, tổng số vốn sản xuất kinh doanh của xí nghiệp là: 9.638.460.000 VNĐ, trong đó: - Vốn cố định: 8.433.652.000 VNĐ - Vốn lưu động: 1.204.808.000 VNĐ 4. Đặc điểm về sản xuất kinh doanh của xí nghiệp TOCAN. Thị trường, sự cạnh tranh, tồn tại, phát triển, tác động gián tiếp của khách hàng... đều quyết định toàn bộ đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 4.1. Nguyên vật liệu. Nguyên liệu để sản xuất chổi sơn được cung ứng từ 2 nguồn: - Từ nước ngoài: lông được nhập từ Thượng Hải, á Khẩu, Trùng Khánh của Trung Quốc, sợi hoá học (gồm sợi nilông, sợi polyeste) được nhập tại hãng Dupont của Mỹ, keo được nhập từ Anh Quốc, hoá chất, sơn đặc biệt, đinh và các vật liệu phụ như ghim, cúc... được nhập từ nhiều nước trên thế giới. - Trong nước: Gỗ được lấy tại Lào Cai, Yên Bái, Nghệ An, mực in được các hãng liên doanh cung cấp, đai chổi, bao bì nhãn mác... đã được nội địa hoá và đây cũng là hướng phát triển mới của xí nghiệp TOCAN. Nguyên liệu chính của chổi sơn hoàn chỉnh được xí nghiệp sử dụng là: lông, sợi, gỗ, đai chổi, sơn đặc biệt, keo, đinh... Sản phẩm chổi sơn có nhiều loại, kích cỡ khác nhau (từ chiếc rộng 1 cm, dài 7 cm cho đến chiếc to nhất rộng 10 cm, dài 45 cm) nên kết cấu nguyên liệu của sản phẩm cũng khác nhau. Biểu 2: Kết cấu nguyên vật liệu theo công thức trong một sản phẩm chổi sơn hoàn chỉnh. STT Loại nguyên liệu Tỷ trọng (%) 1 Lông, sợi 38 2 Gỗ 19 3 Đai chổi 2 4 Keo 1,2 5 Đinh 0,3 6 Hoá chất, sơn đặc biệt 0,2 Qua biểu trên thì lông, sợi, gỗ là 2 nguyên liệu chính, chiếm tỷ trọng lớn trong các thành phần cấu tạo nên sản phẩm. Tổng hợp nguyên liệu chứa trong giá trị của một sản phẩm chổi sơn chiếm 60,7%, còn lại 39,3% là: lao động: 25%; điện nước, khấu hao máy móc, tiền đầu tư...: 12%; bao bì, nhãn mác...: 2,3%. Ngoài nguyên liệu chính, xí nghiệp còn sử dụng nguyên liệu phụ để tạo ra sản phẩm chổi sơn hoàn chỉnh. Biểu 3: Nguyên vật liệu phụ. STT Loại nguyên liệu Công dụng 1 Điện, nước Vận hành máy móc và rửa vật liệu. 2 Mực in In lên cán chổi, nhãn mác, bao bì. 3 Paraphin Làm lớp bảo vệ bề mặt trên cán chổi gỗ, ngăn chặn sự hồi ẩm của gỗ sau khi sấy. 4 Bao bì, nhãn mác Chứa đựng, bảo quản sản phẩm. 5 Ghim, cúc Làm hộp, bao bì. 4.2. Hệ thống máy móc, thiết bị của xí nghiệp TOCAN. Dựa trên cơ sở yêu cầu của thị trường về từng mức của chất lượng sản phẩm, dựa trên hệ thống máy móc đang triển khai tại Canada, dựa vào tính chất khí hậu của Việt Nam, cộng với trình độ lao động và kỹ xảo vốn có của người Việt Nam, Hãng Nour Trading House Inc. và xí nghiệp TOCAN đã thống nhất chọn một hệ thống máy móc thoả mãn được những yêu cầu nêu trên. Hệ thống máy móc của xí nghiệp hiện nay gồm: - Hệ thống làm cán gồm: Hệ thống sấy, hệ thống bảo ôn. Dây chuyền chế biến gỗ, gồm: máy bào, máy cưa cắt, máy cưa lượn, máy phay. Hệ thống hoàn thiện cán chổi. Công suất tối đa của hệ thống làm cán là 12500 sản phẩm/ ngày (3 ca). - Hệ thống chế biến lông, sợi gồm: Hệ thống luộc, sấy lông sợi, gồm: máy mài; máy chẻ đầu sợi, hệ thống chộn các loại sợi theo công thức. Công suất tối đa là 12000 sản phẩm/ ngày. Việc lắp đầu chổi hoàn toàn thủ công. Hệ thống máy móc hoàn thiện đầu chổi, gồm: máy bắn keo; máy xén lông và sợi; máy đập sạch đầu chổi. Công suất tối đa là 14000 sản phẩm/ ngày. - Hệ thống máy hoàn thiện sản phẩm chổi sơn gồm: Máy tra cán đóng đinh; máy in trên cán gỗ. Công suất tối đa 16000 sản phẩm/ ngày. Máy hoàn thiện bao bì: máy đóng bao bì và in bao bì, nhãn mác. Công suất tối đa là 14500 sản phẩm/ ngày. Với hệ thống máy móc hiện tại của xí nghiệp, công suất tối đa (căn cứ vào cồn suất của máy thấp nhất) sẽ đạt được từ 12000 sản phẩm đến 15000 sản phẩm một ngày (3 ca). Quy trình sản xuất chổi sơn của xí nghiệp là liên tục, nhiều công đoạn. Sản phẩm chổi sơn được tạo trên 2 khu vực: Khu vực cán và khu vực đầu chổi. Sơ đồ 2: Sơ đồ dây chuyền công nghệ sản xuất chổi sơn. Gỗ Lông, sợi Máy mài Hệ thống sấy Hệ thống bảo ôn Máy bào Máy chộn lông , sợi Máy chẻ đầu lông, sợi Cán chổi gỗ Máy bắn keo Lắp đầu chổi Máy xén lông, sợi Đầu chổi hoàn chỉnh Máy đập sạch đầu chổi Máy hoàn thiện cán Máy phay Máy cưa lượn Máy cưa, cắt Máy đóng bao bì Máy đóng gói Máy in trên cán chổi Máy tra cán đóng đinh Chổi sơn hoàn chỉnh Làm thủ công Chế biến: - Quy trình chế biến gỗ: Gỗ được đưa qua hệ thống sấy để giảm độ ẩm tương đối của gỗ xuống còn 50% đến 55% và độ ẩm tuyệt đối còn 9%. Sau đó đưa qua hệ thống bảo ôn để duy trì độ ẩm này. Gỗ sau khi được sấy sẽ đưa vào máy làm cán chổi. (hệ thống làm cán cho phép sản xuất nhiều loại cán to, nhỏ khác nhau). Máy bào: theo yêu cầu độ dầy của sản phẩm. Máy cưa, cắt: cắt gỗ thành từng đoạn theo yêu cầu của sản phẩm. Máy cưa lượn: tạo phôi. Máy phay: định hình cán chổi. Khâu cuối cùng là qua máy hoàn thiện cán. - Lông, sợi: Lông, sợi được đưa vào hệ thống luộc, sấy lông: qua máy mài, máy chẻ đầu lông, sợi và hệ thống chộn lông sợi. Lắp đầu chổi: được làm thủ công (máy móc không thể thay làm được). Hệ thống hoàn thiện đầu chổi: Sau khi lắp đầu chổi thì được đưa qua máy bắn keo, máy xén lông, sợi, máy đập sạch đầu chổi. - Máy tra cán và đóng đinh dùng để ghép cán chổi gỗ và đầu chổi để tạo thành sản phẩm chổi sơn hoàn chỉnh. - Máy in, máy đóng bao bì và máy đóng gói là khâu cuối cùng để hoàn thiện sản phẩm. 5. Đặc điểm về sản phẩm và thị trường tiêu thụ. 5.1. Về sản phẩm. Hiện nay xí nghiệp TOCAN đang sản xuất chổi sơn hoàn chỉnh và 2 bán thành phẩm hoàn chỉnh là cán chổi gỗ và đầu chổi. Cả 3 loại sản phẩm này đều được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. 5.1.1. Cán chổi gỗ. Thành phẩm cán chổi gỗ khi xuất khẩu được thể hiện dưới 3 dạng khác nhau: gỗ trơn (Plain Wood), cán được bảo vệ bên ngoài bởi lớp paraphin mỏng để giữ nguyên mầu sắc tự nhiên của gỗ và cán được sơn dưới nhiều mầu sắc và cách trang trí khác nhau. Cán chổi gỗ cũng có nhiều kích thước khác nhau: chiếc to nhất dầy 2,5 cm, rộng 10 cm, dài 20 cm cho đến loại nhỏ nhất dầy 0,8 cm, rộng 1 cm, dài 7 cm. Những đặc điểm này cho phép xí nghiệp tận dụng nguyên liệu tối đa để đạt được hiệu quả trong cạnh tranh. 5.1.2. Đầu chổi. Nguyên tắc chung của đầu chổi là: tỷ lệ của cấp lông cao càng nhiều thì đầu chổi càng cứng và độ ngậm sơn càng tốt. Đầu chổi được cấu tạo bởi 3 bộ phận: lông, keo và đai chổi. Mầu sắc của đầu chổi cũng rất khác nhau, mầu sắc này được thống nhất với khách hàng và trở thành đặc trưng riêng của xí nghiệp TOCAN. 5.1.3. Chổi sơn. Được lắp ráp từ đầu chổi và cán chổi, sau đó được đóng đinh hai mặt. Chổi sơn sau khi được lắp ráp thì trên cán phải in mác của hãng, của nhóm hàng và kí mã hiệu của loại. Bao bì của sản phẩm phải thể hiện mã vạch và nước xuất xứ. Đối với chổi sơn khách hàng nước ngoài rất quan tâm tới kiểu dáng, chất lượng. 5.2. Về thị trường tiêu thụ. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp TOCAN được tập trung vào 4 loại thị trường sau: 5.2.1. Thị trường Bắc Mĩ (Khối NAFTA). Đây là thị trường cao nhất thế giới về kinh tế - xã hội. Thị trường này đòi hỏi chổi sơn phải có chất lượng cao, tiêu thụ sản phẩm với số._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0034.doc