Lời mở đầu
Một quy luật khắc nghiệt nhất của thị trường đó là cạnh tranh. Theo đó bất kỳ chủ thể kinh tế nào tham gia thị trường nếu không tiếp cận kịp với guồng quay của nó thì tất yếu sẽ bị đánh bật ra khỏi thị trường. Do sức ép của cạnh tranh buộc các nhà doanh nghiệp phải thường xuyên tìm mọi cách để sử dụng hợp lý nhất những nguồn lực của mình, phải sử dụng những công cụ cạnh tranh có hiệu quả nhất nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược đặt ra của doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp x
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ây dựng hoạt động trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt do sự lớn mạnh của các doanh nghiệp khác trong ngành, do sự ra đời của các doanh nghiệp mới tham gia thị trường, và sự thâm nhập của các doanh nghiệp xây dựng nước ngoài thì yêu cầu nâng cao khả năng cạnh tranh là điều kiện sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Công ty cổ phần Điện nhẹ viễn thông, với tuổi đời còn non trẻ, năng lực còn yếu kém để có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường cạnh tranh đầy khốc liệt như hiện nay thì vấn đề làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường xây lắp nói chung đang là một bài toán mà từng ngày, từng giờ ban lãnh đạo của công ty đang tìm lời giải đáp.
Từ tính cấp thiết và hữu dụng của vấn đề, với mong muốn là góp phần rất nhỏ vào việc tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường xây lắp trong thời gian tới nên Em quyết định lựa chọn đề tài: " Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần Điện nhẹ viễn thông" cho luận vặn tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu của luận văn gồm 3 phần chính:
Phần I: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh tế thị trường.
Phần II: Thực trạng sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần Điện nhẹ viễn thông.
Phần III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần Điện nhẹ viễn thông
Với khả năng, trình độ và thời gian có hạn cho nên phần trình bày do Em thực hiện khó tránh khỏi được những khiếm khuyết.Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo và các bạn để Em có thể hoàn thành tốt hơn ý tưởng của mình.
Em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Văn Minh, cùng toàn thể các cô chú, các anh chị trong công ty cổ phần Điện nhẹ viễn thông đã giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu này!
Sinh viên: Lê Thị Vi
Chương I
Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh tế thị trường
I. Cạnh tranh
1.Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh đặc biệt phát triển cùng với sự phát triển nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Theo Mác "cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch". Nghiên cứu sâu về nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó đã hình thành nên giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch giữa giá trị, chi phí và khả năng có thể bán được hàng hóa dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh càng có vai trò quan trọng. Nó là điều kiện, là yếu tố kích thích kinh doanh và là động lực thức đẩy sản xuất phát triển góp phần thức đẩy sự phát triển của xã hội nói chung.
Như vậy, sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả cạnh tranh sẽ có một số doanh nghiệp bị buộc thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi một số doanh nghiệp vẫn tồn tại và phát triển, phát triển hơn nữa.
Cũng chính nhờ cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng nâng cao năng suất lao động xã hội. Yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển.
Tóm lại, ta có thể hiểu cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh doanh hoạt động trên thị trường nhằm giành giật những khả năng về mở rộng quá trình sản xuất sản phẩm, mở rộng thị phần cho doanh nghiệp, tạo ra cho xã hội những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, dịch vụ chu đáo.
2. Các loại hình cạnh tranh.
2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường có:
+ Cạnh tranh giữa người bán với người mua là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ- bán đắt, trên thị trường người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất. Giá cả cuối cùng được chấp nhận là giá thống nhất giữa người bán và người mua sau quá trình mặc cả với nhau.
+ Cạnh tranh giữa người mua và người mua là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua trở nên quyết liệt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên. Do hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên người mua sẵn sàng trả giá cao để mua được hàng hoá họ cần, khi đó người bán tiếp tục nâng giá, kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, còn người mua phải mua hàng hoá không sát giá trị với nó. Đây là cuộc cạnh tranh người mua tự làm hại chính mình.
+ Cạnh tranh giữa người bán và người bán là cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất. Các doanh nghiệp cạnh tranh và thôn tính lẫn nhau để tranh giành khách hàng, thị trường, đây là cuộc cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp.
2.2. Căn cứ vào hành vi của những thành viên tham gia:
+ Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh trên thị trường có rất nhiều người bán và không người nào có ưu thế để cung ứng một số lượng sản phẩm quan trọng khả dĩ ảnh hưởng đến giá cả. Xét về phía người mua cũng không có người mua nào mua một khối lượng sản phẩm quan trọng đến mức ảnh hưởng tới giá cả, các sản phẩm bán ra đều được xem là đồng nhất, tức là ít khác nhau về quy cách phẩm chất, mẫu mã. Những người bán tham gia trên thị trường chỉ có cách thích ứng với giá cả trên thị trường, bởi vì cung cầu thị trường được tự do hình thành, giá cả được xác định ở mức mà số cầu của một sản phẩm đủ để thu tất cả số cung có thể cung ứng. Các doanh nghiệp tham gia trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp cắt giảm chi phí và sản xuất một số lượng sản phẩm đến mức giới hạn mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau, cùng một loại sản phẩm có thể chia làm nhiều loại, mỗi loại sản phẩm, nhãn hiệu sản phẩm đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau, mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể. Các điều kiện mua, bán hàng rất khác nhau, vì nhiều lý do người bán lôi kéo khách hàng về phía mình bằng nhiều cách: quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, tín dụng, chiết khấu, giảm giá người bán có thể ấn định giá linh hoạt tuỳ theo khu vực bán sản phẩm, tuỳ theo khách hàng cụ thể và mức lợi nhuận mong muốn.
+ Thị trường cạnh tranh độc quyền: cạnh tranh độc quyền là cạnh tranh diễn ra trên thị trường mà ở đó có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất.
Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường. Nhà độc quyền hoàn toàn có quyền định đoạt giá cả và số lượng bán ra. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là độc quyền có sự tự do hoàn toàn về giá mà tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm nhà độc quyền có thể định giá cao hay thấp để thu lợi nhuận tối đa.Trong kinh doanh ai là người độc quyền sẽ có lợi thế song về mặt xã hội thì nó làm kìm hãm sự phát triển sản xuất, làm hại người tiêu dùng. Vì vậy, ở một số nước có luật chống độc quyền, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
3. Các lực lượng cạnh tranh trên thị trường.
Những người gia nhập tiềm năng
Mối đe doạ
gia nhập
Các đối thủ cạnh tranh trong ngành
Sự cạnh tranh giữa các đối thủ đang tồn tại
Người mua
Người cung ứng
Sức mạnh Sức mạnh
của người của người
cung ứng mua
Mối đe doạ
thay thế
Các sản phẩm
thay thế
Trước hết, ta định nghĩa ngành kinh tế là một nhóm những công ty sản xuất những sản phẩm thay thế gần gũi của nhau. Một công ty trong một ngành sản xuất không thể đứng độc lập một mình trên thị trường mà không có mối quan hệ với bên ngoài mà thực tế chúng hoạt động và phát triển trong những môi trường hết sức phức tạp.
Micheal porter trong cuốn "chiến lược cạnh tranh" đã đưa ra 5 lực lượng cạnh tranh tác động đến mức độ cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp
Năm lực lượng cạnh tranh: nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ mới, cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại, mối đe doạ của các sản phẩm thay thế, sức mạnh của người mua và sức mạnh của người cung ứng là 5 lực lượng cơ bản của cạnh tranh trên thị trường.
Toàn bộ 5 lực lượng cạnh tranh này kết hợp với nhau xác định cường độ cạnh tranh và mức lợi nhuận của ngành. Những lực lượng mạnh mẽ nhất sẽ thống trị và trở thành trọng yếu theo quan điểm xây dựng chiến lược.
3.1. Nguy cơ nhập cuộc của các đối thủ ngoài ngành
Những đối thủ mới của ngành mang đến những năng lực sản xuất mới, sự mong muốn chiếm lĩnh một thị trường nào đó và thường là những người có tiềm lực to lớn. Giá bán có thể bị kéo xuống hoặc chi phí của các hãng đi trước có thể bị tăng lên và kết quả là giảm mức lợi tức. Các công ty đa dạng hoá hoạt động của mình thông qua việc xâm nhập vào một ngành từ những thị trường khác thường sử dụng các nguồn lực của họ để tạo ra một cuộc cải tổ. Sự xâm nhập vào một ngành, với dự định xây dựng một vị trí trên thị trường điều đó có lẽ cần coi như một sự nhập cuộc mới mặc dù không có một thực thể mới nào tạo ra.
Nguy cơ nhập cuộc vào một ngành phụ thuộc vào những barie nhập cuộc thể hiện qua các phản ứng của các đối thủ cạnh tranh hiện thời mà các đối thủ mới có thể dự đoán được. Các barie này là tính kinh tế, sự khác biệt của sản phẩm, những đòi hỏi về vốn, chi phí, khả năng tiếp cận với các kênh phân phối và những bất lợi về chi phí không liên quan tới quy mô. Nếu các barie cao hoặc các đối thủ mới có thể dự đoán được sự toan tính trả đũa quyết liệt của các đối thủ hiện thời đang quyết tâm phòng thủ thì nguy cơ nhập cuộc sẽ thấp.
3.2 Cuộc cạnh tranh của các đối thủ hiện tại
Trong cuộc cạnh tranh này các đối thủ sử dụng các chiến thuật như cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng cường phục vụ khách hàng hoặc các dịch vụ sau khi bán. Cuộc cạnh tranh, tranh đua xảy ra vì một nhiều đối thủ thấy bị chèn ép hoặc thấy cơ hội để cải thiện vị trí. Trong đa số các ngành, những bước đi của một công ty có những hiệu ứng rõ ràng với các đối thủ cuả nó và như thế có thể kích thích sự trả đũa hoặc những cố gắng chống trả lại.
Một số hình thức cạnh tranh, rõ ràng nhất là cạnh tranh về giá, rất không ổn định và có khả năng làm giảm lợi nhuận toàn ngành. Các đối thủ cạnh tranh rất nhanh chóng và dễ dàng bắt chước các hành động giảm giá và một khi làm như vậy sẽ hạ thấp doanh thu của tất cả các hãng trừ khi độ co dãn của cầu là khá lớn. Ngược lại, cuộc cạnh tranh về quảng cáo có thể làm tăng nhu cầu và làm giảm mức độ dị biệt của sản phẩm trong ngành và dẫn tới có lợi ích cho toàn ngành.
Cạnh tranh khốc liệt ở một số ngành là kết quả của một loạt các yếu tố cấu trúc tác động lẫn nhau như các đối thủ cạnh tranh đông đảo hoặc đều bằng vai phải lứa hay sự thiếu vắng về sự khác biệt của sản phẩm và về các chi phí chuyển đổi, cũng có thể là do các đối thủ cạnh tranh đa dạng về chiến lược, về nguồn gốc con người
3.2 áp lực từ các sản phẩm thay thế
Xét theo nghĩa rộng thì các công ty trong ngành phải cạnh tranh với các ngành sản xuất các sản phẩm thay thế. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt một ngưỡng tối đa cho mức giá mà các hãng trong ngành có thể kinh doanh có lãi. Khả năng về lựa chọn giá cả của các sản phẩm thay thế càng hấp dẫn thì ngưỡng chặn trên đối với lợi nhuận càng chắc chắn hơn.
Xác định những sản phẩm thay thế chính là tìm kiếm những sản phẩm có cùng công năng như sản phẩm của một ngành. Nhiều khi công việc này rất tinh vi đẩy người phân tích vào những ngành kinh doanh dường như xa lạ với ngành. Vì thế để đối mặt với các sản phẩm thay thế thì đó là vẫn đề chung của toàn ngành, ví dụ việc quảng cáo của một hãng không đủ thắng nổi sản phẩm thay thế thì việc quảng cáo liên tục mạnh mẽ của hãng trong ngành chắc chắn sẽ cải thiện đáng kể vị trí chung của toàn ngành.
3.4 Sức mạnh của người mua
Người mua cạnh tranh với ngành bằng cách bắt ép mặc cả để có chất lượng tốt hơn, phục vụ nhiều hơn và làm cho các doanh nghiệp cùng ngành chống lại nhau. Tất cả đều làm hao tổn lợi nhuận của ngành.
Sức mạnh của mỗi nhóm khách hàng phụ thuộc vào một loạt các đặc điểm của tình hình thị trường, vào tầm quan trọng hàng hoá của ngành xét trong mối tương quan với toàn bộ hoạt động kinh doanh của nhóm. Sức mạnh của người mua tăng hoặc giảm thay đổi theo thời gian của các yếu tố như sự nhạy cảm với giá, sự đầy đủ thông tin hoặc do kết quả của quyết định chiến lược của công ty.
Chính vì vậy, việc lựa chọn các nhóm khách hàng chính yếu, thị trường chính yếu phải được xem xét như một chiến lược tối quan trọng.
3.5 Sức mạnh của người cung ứng
Những người cung ứng có thể khẳng định sức mạnh của mình đối với các thành viên bằng cách đe doạ tăng hoặc giảm chất lượng hàng hoá dịch vụ, bằng cách đó chèn ép lợi nhuận tiêu thụ của một ngành khi ngành đó không còn khả năng bù đắp lại chi phí tăng lên trong mức giá của ngành.
Ngoài các hãng cung ứng còn phải coi lực lượng lao động như một lực lượng cung ứng, và lực lượng cung ứng có rất nhiều sức mạnh trong nhiều ngành. Thực tế đã chỉ ra rất rõ ràng những nhân viên có tay nghề và kinh nghiệm thì việc họ làm hay không làm cho doanh nghiệp sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng sản phẩm của công ty.
II. Cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng trong cơ chế thị trường.
1. Quan niệm về cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng.
1.1 Khái niệm doanh nghiệp xây dựng
Theo nghị định của Chính phủ số 52/ 1999/ NĐ- CP ngày 08/ 07/ 1999 về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng định nghĩa: "doanh nghiệp xây dựng là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng"
Nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp xây dựng là chuyên môn nhận thầu thi công xây lắp kèm theo các tổ chức sản xuất phụ như vật liệu xây dựng, cấu kiện xây dựng (nếu có) và các tổ chức quản lý, dịch vụ khác thuộc ngành xây dựng như vận tải xây dựng, bảo trì, bảo dưỡng công trình.
1.2 Khái niệm về cạnh tranh trong xây dựng
+ Theo kinh tế học cạnh tranh được định nghĩa là sự giành giật thị trường để tiêu thụ hàng hoá giữa các doanh nghiệp.
Nội dung trong định nghĩa này nhấn mạnh đến cạnh tranh trong khâu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. Nó chú trọng nhiều đối với các ngành mà sản phẩm hoàn thành trước khi xác định được khách hàng là ai. Còn đối với ngành xây dựng do sản phẩm xây dựng (các công trình xây dựng) có tính đặc thù, khác biệt hẳn so với các doanh nghiệp trong ngành khác - đó là sản phẩm xây dựng thường mang tính đơn chiếc và sản phẩm theo đơn đặt hàng (yêu cầu) của chủ đầu tư. Như vậy, là các doanh nghiệp xây dựng xác định được khách hàng trước khi sản phẩm xây dựng được hoàn thành. Xuất phát từ đặc thù này mà cạnh tranh trong ngành xây dựng cũng có tính đặc thù riêng so với các ngành khác. Cụ thể, đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành khác thì thị trường tổ chức sự cạnh tranh và cũng chính thị trường đánh giá khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp tham gia thị trường. Còn đối với các doanh nghiệp xây dựng, sự cạnh tranh do các chủ đầu tư (bên mời thầu) và do đó cũng chính chủ đầu tư quyết định ai sẽ là người thắng cuộc trong cạnh tranh. Theo nghĩa đó, cạnh tranh trong xây dựng có thể định nghĩa như sau:
+ Theo nghĩa hẹp: cạnh tranh trong xây dựng là việc các doanh nghiệp xây dựng đưa ra các biện pháp kỹ thuật, chất lượng, tổ chức, giá cả, biện pháp thi công tốt nhất, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư nhằm dành được mục tiêu thắng thầu xây dựng công trình đó.
Theo quan niệm này, mới chỉ xem xét sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng tham gia đấu thầu xây dựng một công trình nhất định mà chưa chỉ ra được sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, tham gia nhiều công trình đấu thầu khác nhau và các đối thủ cạnh tranh cũng khác nhau. Vì thế mà nếu theo quan điểm này thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng chiến lược cạnh tranh dài hạn của doanh nghiệp.
+ Theo nghĩa rộng: cạnh tranh là quá trình đấu tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xây dựng nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi và thế mạnh cho mình so với các đối thủ cạnh tranh.
Theo quan điểm này, sự cạnh tranh được xem xét rộng hơn cả về không gian và thời gian. Sự cạnh tranh không chỉ bó hẹp trong một số nhà thầu và thời gian diễn ra một cuộc đấu thầu mà là cả quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp xây dựng muốn tồn tại được trong thị trường cạnh tranh thì phải có một cách nhìn toàn diện hơn và phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh hợp lý ở mọi thời điểm, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn chủ động trong thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và đầy biện động.
1.3 Tính tất yếu phải nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng.
Cũng như các doanh nghiệp trong các ngành khác, các doanh nghiệp xây dựng tồn tại trong thị trường cạnh tranh phải xác định cho mình một vị trí nhất định, chiếm lĩnh một phần thị trường nhất định. Sự tồn tại của các doanh nghiệp xây dựng luôn bị các đối thủ khác bao vây. Vì vậy, để tồn tại doanh nghiệp xây dựng phải luôn luôn vận động, phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh nếu không doanh nghiệp sẽ bị cạnh tranh đào thải. Mặt khác, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn xuất phát từ các yếu tố sau:
+ Yêu cầu ngày càng cao của chủ đầu tư không chỉ về chất lượng, tiến độ thi công, giá cả thấp, mà cả về mặt đảm bảo duy tư bảo dưỡng công trình ngày càng cao. Các công trình trong tương lai ngày càng hiện đại hơn, phức tạp hơn. Vì thế đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có những cải tiến đổi mới nhất định để nâng cao năng lực của mình mới có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi này.
+ Do sự phát triển của khoa học công nghệ, kỹ thuật trong xây dựng đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh quá trình áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, tăng cường tự động hoá để giảm chi phí đầy nhanh tốc độ thi công, nâng cao chất lượng công trình, có khả năng xây dựng các công trình phức tạp về mặt kỹ thuật và lớn về mặt quy mô.
+ Do đặc điểm của sản xuất xây dựng là liên quan đến nhiều ngành có giá trị văn hoá, xã hội, quốc phòng cao. Hơn nữa, giá trị một công trình xây dựng thường là rất cao. Do đó, trong xây dựng không cho phép có phế phẩm. Vì thế, đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải nâng cao năng lực mới có thể tạo ra được những công trình có chất lượng cao.
Như vậy, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu tất yếu khách quan vừa là để giành thắng lợi trong cạnh tranh, vừa là để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tế.
1.4 Vai trò của cạnh tranh trong xây dựng
Cạnh tranh trong xây dựng một mặt tạo nên động lực phát triển ngành xây dựng nói riêng àầ kinh tế nói chung. Một mặt nó là cách hữu hiệu nhất để tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích của cả người cung cấp (doanh nghiệp xây dựng) lẫn chủ đầu tư. Điều này được thể hiện qua các vai trò sau:
* Đối với các chủ đầu tư
+ Thực hiện có hiệu quả yêu cầu về xây dựng công trình, tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện đúng tiến độ thi công.
+ Tăng cường quản lý vốn đầu tư, tránh lãng phí vốn.
+ Đảm bảo quyền chủ động, tránh được tình trạng phụ thuộc vào nhà xây dựng công trình.
+ Thúc đẩy nâng cao trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ kinh tế và kỹ thuật của chính các chủ đầu tư.
* Đối với các doanh nghiệp xây dựng
+ Phát huy đến mức tối đa tính chủ động trong việc tìm kiếm thị trường .
+ Đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao năng lực kỹ thuật và công nghệ.
+ Hoàn thiện các mặt quản lý, nâng cao năng lực của cán bộ quản lý tay nghề của công nhân.
+ Thúc đẩy hiệu quả kinh tế, giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
Bên cạnh những ưu điểm thì cạnh tranh cũng nảy sinh nhiều nhược điểm như cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật, ô nhiễm môi trường.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh ttranh của doanh nghiệp xây dựng.
2.1 Nhóm các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
2.1.1 Chính sách của Đảng và Nhà nước
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đã tham gia vào nền kinh tế dù có tư cách pháp nhân hay không đều phải hoạt động trong tầm kiểm soát của Nhà nước bị chi phối bởi các điều luật và quy định do Nhà nước đặt ra. Hiện nay, thị trường xây dựng hoạt động dựa trên các nghị định, văn bản hướng dẫn và thông tư hướng dẫn của chính phủ với hai điều luật cơ bản nhất đó là “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999, “Quy chế đấu thầu” ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 và các nghị định bổ sung như 12,14/NĐ-CP ban hành ngày 5/5/2000. Ngoài ra, còn có các quy định về mức giá, khung giá và các chế tài yêu cầu doanh nghiệp phải tuân thủ. Chính những bó buộc này có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nó quyết định doanh nghiệp có được phép hay không khi tham gia vào các thị trường, và điều kiện để tham dự vào các thị trường đó cũng như những nguyên tắc phải tuân thủ trong các quá trình hoạt động.
Ngoài các quy định có liên quan tực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp còn phải tuân theo các quy định về thuê mướn, an toàn lao động, vật giá, quảng cáo, vệ sinh môi trường. Mức độ ổn định của hành lang pháp lý nói chung sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh và ngược lại, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khi phải đối diện với những thay đổi liên tục của Nhà nước về các chính sách, làm suy yếu sức cạnh tranh trong quá trình tham gia vào thị trường.
Như vậy, hoạt động của mỗi doanh nghiệp không chỉ chịu sự chi phối của các quy luật thị trường mà còn chiụ sự quản lý và sự can thiệp của Chính phủ thông qua các chính sách và hệ thống pháp luật, Nó đóng một vai trò quan trọng đến hoạt động của các doanh nghiệp nói chung cũng như các doanh nghiệp xây dựng nói riêng.
2.1.2. Đối thủ cạnh tranh
Sự hiểu biết về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng đối với một doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh quy định tính chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật dành thắng lợi trên thương trường. Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào các yếu tố như: số lượng các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng ngành, cơ cấu chi phí cố định, các nguyên tắc chiến lược và những cản trở khi rút lui. Sự hiện hữu của những yếu tố này có xu hướng làm tăng nhu cầu hoặc nguyện vọng của doanh nghiệp muốn đạt được và bảo vệ thị trường của mình và làm cho sự cạnh tranh thêm gay gắt.
Cường độ cạnh tranh tăng lên khi một doanh nghiệp xây dựng thấy có cơ hội để củng cố vị trí trên thị trường hoặc nhận thấy áp lực cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp khác. Cường độ cạnh tranh được biểu hiện dưới dạng các chính sách hạ thấp giá bỏ thầu, các chiến dịch quảng cáo, việc áp dụng những giải pháp thi công mới, máy móc công nghệ hiện đại, tăng cường các dịch vụ khách hàng và bảo hành sản phẩm. Với những đòi hỏi ngày một cao của thị trường và sự vận động theo xu hướng đi lên của các đối thủ cạnh tranh là một sức ép mạnh mẽ với doanh nghiệp trong việc đổi mới các hoạt động của mình.
2.1.3 Thị trường
Trong giới hạn của luận văn chúng ta sẽ chỉ xem xét thị trường trên hai góc độ là thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường các yếu tố đầu ra của các doanh nghiệp.
Thị trường các yếu tố đầu vào
Các yếu tố đầu vào của một doanh nghiệp bao gồm nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lao động, vốn kết hợp với nhau tạo ra sản phẩm là các công trình xây dựng. Đảm bảo đúng số lượng, chất lượng, thời gian cung cấp các yêú tố đầu vào là một yêu cầu rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức cung ứng.
Các tổ chức cung ứng vật tư thiết bị có ưu thế có thể tìm kiếm lợi nhuận bằng cách tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm hoặc giảm mức độ dịch vụ đi kèm. Trong những trường hợp số lượng ngườ cung cấp ít, không có sản phẩm thay thế hay nhà cung cấp không có thiện chí thì doanh nghiệp sẽ phải chịu một sức ép lớn về đầu vào. Ngược lai, nếu các nhà cung cấp có uy tín trên thị trường quan tâm và đặt quan hệ hữu hảo thì doanh nghiệp có thể nâng thế mạnh của mình trước các chủ đầu tư bằng cách phấn đấu nâng cao chất lượng công trình, hạ thấp chi phí xây dựng.
Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp xây lắp cần có một nhu cầu tài chính rất lớn như để tạm ứng đầu tư xây dựng nhiều công trình cùng một lúc, đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị trên diện rộng, tăng cường vốn lưu động cho kinh doanh...Nguồn tiền này tự bản thân doanh nghiệp nhiều khi không đáp ứng đủ mà phải nhận được từ các nguồn vay ngắn hạn và dài hạn từ các tổ chức tín dụng và ngân hàng. Nếu có các chính sách tài chính phù hợp sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp.
Các nhà cung ứng nói chung có quyền lực nhất định đối với hoạt động của doanh nghiệp xây lắp một cách gián tiếp, họ sẽ góp phần vào việc làm tăng hay suy yếu khả năng cạnh tranh của công ty trong quá trình tham gia vào thị trường đấu thầu xây dựng.
Thị trường các yếu tố đầu ra.
Do đặc điểm các sản phẩm xây dựng là các công trình xây dựng với các yêu cầu đòi hỏi riêng về chất lượng, kỹ thuật thì sự tín nhiệm của khách hàng là tài sản rất có giá trị. Sự tín nhiệm này đạt được do biết thoả mãn tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của chủ đầu tư so với các ddối thủ cạnh tranh. Trên thị trường xây dựng chủ đầu tư có quyền tự do lựa chọn doanh nnghiệp xây dựng có khả năng tạo ra cho mình những sản phẩm xây dựng theo yêu cầu thiết kế trên cả hai phương diện kỹ thuật , mỹ thuật và kinh tế. Chủ đầu tư công trình có thể tổ chức sự cạnh tranh giữa các doamh nghiệp xây dựng khác nhau bằng cách tổ chức đấu thầu xây dựng hoặc tiếp xúc với một doanh có uy tín đã được lựa chọn sẵn để ký kết hợp đồng.
Nhìn chung nhu cầu và quyền lực của chủ đầu tư là rất khó xác định, các doanh nghiệp xây lắp càng được các chủ đầu tư tín nhiệm thì càng có uy tín và có nhiều cơ hội khẳng định vị trí của mình. Vì vậy, cần chú ý đến các mối quan hệ làm ăn rộng rãi, và thật khéo léo trong dự đoán ý đồ của chủ đầu tư tạo cơ hội thắng thầu cho doanh nghiệp.
2.1.4 Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
Nhân tố này cũng có tác động mạnh mẽ tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp và được thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc ứng dụng những thành tựu mới và tạo ra nhiều nhu cầu mới cũng như những cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp.
-Tiến bộ khoa học công nghệ cũng tạo ra những khó khăn và thử thách mới cho doanh nghiệp như số lao động dôi ra khi áp dụng những thiết bị công nghệ mới, tốc độ tăng hao mòn ssản phẩm vô hình và đòi hỏi doanh nghiệp phải huy động một lượng vốn khá lớn đầu tư cho công nghệ mới.
2.2 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Hoàn cảnh nội tại của công ty bao gồm tất cả các yếu tố và hệ thống bên trong của nó. Các công ty cần phải cố gắng phân tích một cách cặn kẽ các yếu tố nhằm xác định rõ các ưu điểm để đạt được lợi thế cạnh tranh tối đa.
Chức năng của bộ phận Marketing bao gồm:
Việc phân tích, lập kế hoạch thực hiện và kiểm tra các chương trình trong đó, đặt trọng tâm vào việc tạo ra và duy trì các mối quan hệ và trao đổi với khách hàng theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Trong doanh nghiệp xây lắp, hệ thống này có vai trò quan trọng trong việc tạo ra một hình ảnh tốt đẹp về doanh nghiệp, nó làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty trong quá trình tham gia đấu thầu thể hiện trên các mặt sau:
- Khả năng thu thập thông tin trên thị trường bao gồm các thông tin về các công trình cần tham gia đấu thầu, sự biến động của môi trường kinh doanh, những thông tin cơ bản khác về các đối thủ cạnh tranh.
- Trách nhiệm giao tiếp và thương lượng của Marketing trong các hoạt động thị trường của các doanh nghiệp xây dựng trong điều kiện kinh doanh ngày càng trở nên khó khăn và cạnh tranh khốc liệt là phải dành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường để có thể ký được nhiều hợp đồng xây dựng
Tài chính kế toán
Để có thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp nói chung đòi hỏi doanh nghiệp phải có một năng lực tài chính nhất định nghĩa là phải có một số vốn và tài sản cần thiết như: máy móc thiết bị, nhà xưởng, vật tư, tiền mặt...Doanh nghiệp có trách nhiệm huy động, tổ chức quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vì sự tồn tại và tăng trưởng lâu dài của nó.
Trong quá trình tham gia dự thầu, nhà thầu nào có ưu thế vượt trội về vốn so với các nhà thầu khác sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh và được chủ đầu tư đánh giá rất cao. Sức mạnh tài chính của doanh nghiệp được thể hiện trong quá trình tham gia dự thầu, nhà thầu nào có ưu thế vượt trội về vốn so với các nhà thầu khác sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh và được chủ đầu tư đánh giá rất cao. Sức mạnh tài chính của doanh nghiệp được thể hiện thông qua các vấn đề như: Quy mô vốn lớn, cơ cấu vốn hợp lý, khả năng huy động vốn ngắn hạn và dài hạn nhanh, thuận lợi, chi phí vốn thấp so với toàn ngành và so với đối thủ cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn khá cao, hệ thống kế toán có hiệu quả và hiệu năng phục vụ cho việc lập các kế hoạch đầu tư tài chính, lợi nhuận…
Tài chính của doanh nghiệp luôn phải công khai trong hồ sơ dự thầu, nếu năng lực tài chính của doanh nghiệp đủ mạnh thì doanh nghiệp sẽ được chấm điểm cao khi xem xét hồ sơ dự thầu và ngược lại. Mặt khác, doanh nghiệp có khả năng về tài chính cao sẽ có nhiều cơ hội để đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ máy móc, các phương tiện sử dụng ttrong quá trình thi công xây lắp để nâng cao năng suất lao động.
Máy móc thiết bị và trình độ công nghệ
Đối với doanh nghiệp xây dựng thì nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến khả năng doanh nghiệp có thể tham gia dự thầu các công trình có khối lượng lớn, giá trị và yêu cầu kỹ thuật phức tạp. Một doanh nghiệp nếu có tiềm lực lớn về máy móc thiết bị và công nghệ thi công sẽ được đánh giá cao trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Khả năng cạnh tranh cuả máy móc thiết bị và công nghệ được thể hiện thông qua: số lượng, chất lượng, sự đa dạng về chủng loại máy móc thiết bị, công suất và tính hiện đại, khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật phức tạp của công trình. Mặt khác, chính sự hiện đại của máy móc thiết bị và công nghệ giúp cho doan._.h nghiệp có cơ hội sử dụng các giải pháp thi công tiên tiến, từ đó rút ngắn tiến độ thi công và tiết kiệm các chi phí xây dựng, hạ giá thành công trình và do đó tăng ưu thế trước các đối thủ cạnh tranh.
Trong trường hợp giá trị sử dụng của máy móc thiết bị đã giảm sút nhiều theo thời gian thì các doanh nghiệp cần có những đầu tư cải tiến, sáng tạo thay vì đầu tư mua sắm thay mới hoàn toàn. Khi đó, dù là những máy móc thiết bị đã sản xuất từ lâu và là những máy móc thuộc lớp công nghệ cũ thì doanh nghiệp vẫn có thể tăng khả năng cạnh tranh thông qua các giải pháp sáng tạo và cải tiến kỹ thuật. Tuy nhiên, về lâu dài sự phát triển ngày càng cao của kỹ thuật công nghệ sẽ nhanh chóng loại bỏ doanh nghiệp với những máy móc kỹ thuật có tính năng hoạt động đơn giản, mức độ tự động hóa thấp và mang nhiều tính chất thủ công.
Về nhân sự:
Khi xem xét sự ảnh hưởng của nhân tố con người đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây lắp, người ta thường quan tâm đến các vấn đề sau:
- Ban lãnh đạo bao gồm Giám đốc, các Phó giám đốc phụ trách các lĩnh vực. Đây là những cán bộ cao cấp nhất trong doanh nghiệp, quyết định trực tiếp đến mọi hoạt động của doanh nghiệp cũng như sự thanh bại của doanh nghiệp trên thương trường. Nếu công ty có được êkíp lãnh đạo đoàn kết có năng lực và kinh nghiệm sẽ tăng được sức mạnh nội lực trong nhân sự cho công ty, vừa tạo ra được một bộ mặt đáng tin cậy đối với các chủ đầu tư và các tổ chức khác có liên quan.
- Nhân sự của các phòng ban chuyên trách
Đây là lực lượng chủ chốt trong công tác đấu thầu trợ giúp Ban giám đốc trong các lĩnh vực cho mình phụ trách, chịu trách nhiệm trước công ty về toàn bộ hoạt động của đơn vị mình.
Đội trưởng xây dựng và công nhân, đây là lực lượng trực tiếp tạo ra sản phẩm là các công trình xây dựng có quan hệ sống còn tới sức mạnh trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Mỗi một đội trưởng hay mỗi công nhân, tuy chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ tới công việc của doanh nghiệp nhưng với một số lượng rất đông, tổng hợp của những ảnh hưởng rất nhỏ đó sẽ tạo nên bộ mặt của toàn công ty quyết định tới chất lượng của các công trình về mặt kỹ thuật, mỹ thuật đặc biệt là các mặt tiến độ, thời gian, quyết định về vấn đề tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực.
Những nguồn lực vật chất vô hình khác
- Vị trí địa lý của doanh nghiệp xây dựng:
Có một ảnh hưởng nhất định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vì nếu chủ đầu tư nhận thấy doanh nghiệp nằm trên vùng địa lý thuận lợi đối với dự án đầu tư họ sẽ có một tâm lý yên tâm và tin tưởng hơn. Do đó, doanh nghiệp phải phát huy tối đa sức mạnh cạnh tranh về địa lý đối với các công trình xây dựng nằm trên địa bàn hoạt động của mình. Sự thuận lợi trong di chuyển các nguồn lực từ các doanh nghiệp tới nơi thi công sẽ làm giảm chi phí xây lắp, tăng lợi nhuận, tăng chất lượng công trình từ đó tăng xác suât chúng thầu cho doanh nghiệp.
- Quy mô và năng lực sản xuất: lý thuyết lợi thế về quy mô cho thấy nếu doanh nghiệp có quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ càng có điều kiện giảm chi phí sản xuất cận biên trên một đơn vị sản phẩm, tiết kiệm được nhiều chi phí chung cũng như các chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí máy móc thiết bị... Từ đó mở ra cơ hội cắt giảm chi phí không cần thiết, khai thác tối đa nguồn lực, thế mạnh của doanh nghiệp và khẳng định vị thế cạnh tranh trên thương trường.
- Nền nếp tổ chức: mỗi doanh nghiệp đều có một nền nếp tổ chức định hướng cho phần lớn công việc của mình. Nó ảnh hưởng đến phương thức thông qua quyết định của nhà quản trị, quan điểm của họ đối với các chiến lược và điều kiện môi trường của công ty. Nề nếp tổ chức có thể là nhược điểm gây cản trở cho việc hoạch định và thực hiện chiến lược hoặc là ưu điểm thúc đẩy các hoạt động đó.
3. Các hình thức cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng.
Các hình thức cạnh tranh đó là biểu hiện về mặt tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngày nay, người ta thường nói tới hai hình thức chủ yếu xét theo tính giới hạn của cạnh tranh mà các doanh nghiệp thường áp dụng là:
* Hình thức cạnh tranh theo chiều rộng (cạnh tranh có giới hạn)
Sở dĩ gọi là cạnh tranh có giới hạn là vì hình thức này chỉ phát huy hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong một giới hạn nhất định mà thôi, các yếu tố chủ yếu của hình thức này trong các doanh nghiệp xây dựng bao gồm :
+ Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm (các công trình xây dựng) mà doanh nghiệp có thể dựa trên cơ sở nguồn lực hiện tại của doanh nghiệp. Theo đó doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa nguồn lực hiện có, tuy nhiên danh mục hàng hoá được mở rộng thêm sẽ không được phong phú. Hoặc là đa doanh nghiệp phải đủ mạnh về tài chính. Song với cách thức đa dạng hoá này cho phép doanh nghiệp có thể mở rộng danh mục hàng hoá một cách phong phú hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Mỗi cách thức tiến hành đa dạng hoá đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Vì vậy doanh nghiệp phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường và điều kiện thực tế của doanh nghiệp để áp dụng hình thức đa dạng hoá nào cho phù hợp nhất, đảm bảo đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty, mở rộng thị phần của công ty trên thị trường xây dựng.
+ Tăng cường các hoạt động tìm kiếm thông tin về các công trình sẽ được đầu tư xây dựng thông qua các phương tiện về thông tin đại chúng, qua các nhân viên công ty, qua các mối quan hệ thân quen với các chủ đầu tư, qua kế hoạch xây dựng của nhà nước, của các ban ngành địa phương hoặc là có thể thông qua các biện pháp tình báo kinh tế (nếu cần). Trong các biện pháp trên, đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ với các chủ đầu tư. Vì chủ đầu tư là người quyết định ai thắng, ai bại trong cuộc cạnh tranh. Đồng thời, qua mối quan hệ này doanh nghiệp ngoài viêc biết được nhu cầu đầu tư của chủ đầu tư còn biết được thị hiếu, sở thích, năng lực của chủ đầu tư để từ đó đưa ra các biện pháp cạnh tranh tối ưu nhất đảm bảo tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư.
+ Cải thiện các phương thức thanh toán, các điều kiện thuận lợi và nhanh chóng ký kết hợp đồng. Tiến hành củng cố và mở rộng các hoạt động công trình.
+Không những nâng cao chất lượng công tác lập hồ sơ dự thầu qua đó để giới thiệu năng lực của doanh nghiệp với chủ đầu tư. Hồ sơ dự thầu chính là tài liệu đầu tiên để chủ đầu tư tìm hiểu, đánh giá doanh nghiệp. Vì thế, nó hết sức quan trọng đòi hỏi công ty phải có một đội ngũ cán bộ đảm nhiệm công tác này một cách tốt nhất vừa đảm bảo chất lượng của hồ sơ, vừa bảo đảm kịp thời gian yêu cầu của chủ đầu tư.
+ Hoàn thiện công tác tổ chức thi công để rút ngắn tiến độ thi công vừa giảm bớt tình trạng ứ đọng vốn của doanh nghiệp, giảm bớt chi phí quản lý từ đó hạ thấp giá công trình đảm bảo cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh về giá, đồng thời đảm bảo đưa nhanh công trình vào sử dụng để phát huy tối đa công dụng của công trình.
* Hình thức cạnh tranh theo chiều sâu
Đó là hình thức cạnh tranh bằng chất xám trong sản phẩm.
Nội dung của hình thức này bao gồm:
+ Tăng cường hoạt động nghiên cứu, cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm tức là đổi mới các tiêu chuẩn về kỹ thuật, tính an toàn, tính thẩm mỹ của công trình xây dựng.
+ Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, hiện đại hoá phương pháp sản xuất kể từ khâu khảo sát thiết kế cho đến khâu thi công công trình nhờ đó có thể rút ngắn tiến độ thi công công trình.
+ Nâng cao trình độ của người lao động bao gồm cả cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân sản xuất.
Đây là một hình thức cạnh tranh không có điểm dừng, vì khi một doanh nghiệp muốn chế tạo ra sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, có chất lượng cao mà chất lượng lại là một đại lượng bất định, nó không ngừng thay đổi theo sự phát triển của xã hội, đó là việc phấn đấu của một doanh nghiệp là không ngừng. Chính vì lý do đó, mà người ta gọi hình thức cạnh tranh theo chiều sâu là hình thức cạnh tranh không có giới hạn và hình thức này ngày càng được mọi doanh nghiệp quan tâm đặc biệt là trong nền kinh tế tri thức.
4. Các phương thức cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng.
Phương thức cạnh tranh đó là cách thức mà doanh nghiệp dùng để cạnh tranh trên thị trường. Đối với một doanh nghiệp xây dựng có thể sử dụng các cách thức cạnh tranh sau:
4.1 Cạnh tranh bằng sản phẩm (các công trình xây dựng).
Chữ tín của các công trình xây dựng quyết định uy tín của doanh nghiệp xây dựng và tạo lợi thế có tính quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cạnh tranh bằng sản phẩm của doanh nghiệp xây dựng thể hiện chủ yếu qua các mặt sau:
+ Cạnh tranh bằng trình độ của các công trình xây dựng biểu thông qua chất lượng công trình, tính hữu dụng của công trình, tính kinh tế và tính kỹ thuật của công trình. Để cạnh tranh bằng trình độ công trình doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, khi tiến hành thi công công trình phải tính đến các điều kiện tự nhiên của khu vực thi công để từ đó có các giải pháp kỹ thuật cho phù hợp.
+ Cạnh tranh bằng chất lượng công trình.
Theo quan niệm chung, chất lượng sản phẩm là tổng hợp các đặc tính cần có của sản phẩm, quá trình xây dựng và tiện nghi phục vụ. Như vậy, chất lượng sản phẩm vừa phải tuân theo các quy phạm kỹ thuật, vừa phải thoả mãn mong muốn của người tiêu dùng. Trong sản xuât kinh doanh xây dựng thì chất lượng của sản phẩm được đo bằng các chỉ tiêu như: tuổi thọ, độ tin cậy, độ an toàn, tính kỹ thuật, tính kinh tế, tính mỹ thuật của công trình.
+ Tuổi thọ của công trình là thời gian mà công trình sử dụng từ khi mới hoàn thành bàn giao cho tới khi hư hỏng hoàn toàn. Tuổi thọ công trình càng cao thì chất lượng sản phẩm càng cao.
+ Độ tin cậy của công trình là khả năng chịu áp lực, độ uốn cong, khả năng chịu lực, xoáy, gió, bão hay nói cách khác là khả năng chịu sự thay đổi của môi trường. Để tạo ra một công trình có độ tin cậy cao thì yếu tố kỹ thuật phải được đảm bảo một cách chặt chẽ, khi sử dụng các yếu tố kỹ thuật phải tính toán.
+ Độ an toàn của công trình phụ thuộc vào cấu kiện chịu lực của công trình như không nứt, không bị lún, không thấm, không nghiêng, bảo đảm an toàn khi sử dụng.
+ Tính mỹ thuật của công trình là sự phù hợp với cảnh quan xung quanh, bố cục vật thể kiến trúc, trang trí nội thất. Ngày nay tính mỹ thuật của công trình ngày càng được quan tâm không chỉ là do bản thân sản phẩm xây dựng có tính văn hoá, xã hội, quốc phòng cao mà còn do thị hiếu, kiến thức mỹ thuật của người dân ngày càng được nâng cao. Một công trình dù bề thế và hiện đại đến đâu nhưng không đảm bảo tính mỹ thuật thì cũng bị đánh giá là có chất lượng không tốt.
+ Cạnh tranh bằng chất lượng công trình cần phải nhìn từ hai góc độ.
+ Chất lượng của các công trình đã được thi công, hoàn toàn đưa vào sử dụng. Đây sẽ là lời quảng cáo hữu hiệu nhất về uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp.
+ Chất lượng công trình đang trong quá trình đấu thầu. Đây chính là nỗ lực phát huy mọi nguồn lực vốn có của doanh nghiệp để đảm bảo thực hiện đúng kỹ thuật thiết kế và đưa ra các biện pháp đề xuất, các giải pháp kỹ thuật hợp lý nhất đảm bảo đáp ứng tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư.
Ngày nay, đang có xu hướng chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh bằng chất lượng công trình. Vì thế, mà sự cạnh tranh thông qua chất lượng công trình ngày một gay gắt, nó là một công cụ hữu hiệu cho cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng. Đó là sự cạnh tranh không có giới hạn. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm là tất yếu khách quan đối với bất kỳ doanh nghiệp xây dựng nào hoạt động trong cơ chế thị trường. Ngày nay, nhiều doanh nghiệp không còn đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu nữa mà đặt mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm là trên hết vì họ nhận thức được rằng chất lượng sản phẩm không những là mục tiêu của doanh nghiệp mà nó là công cụ, phương tiện để thực hiện các mục tiêu khác.
4.2 Cạnh tranh bằng giá cả.
Quy luật giá trị đã chỉ ra rằng: với cùng một sản phẩm có chất lượng như nhau nếu sản phẩm nào có giá cả thấp hơn thì sẽ thắng trong cạnh tranh và ngược lại thì sẽ bị thị trường đào thải. Các doanh nghiệp xây dựng cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của doanh nghiệp này. Giá cả là một trong các tiêu thức hàng đầu để các chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu. Đối với các công trình xây dựng thường có giá trị rất thấp, do đó mà giá cả tác động rất mạnh đối với các chủ đầu tư. Điều này, đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải tìm mọi cách để giảm giá thành sản phẩm. Phương thức cạnh tranh này ở mỗi doanh nghiệp xây dựng là khác nhau, và trong cùng một doanh nghiệp xây dựng cũng có sự khác nhau qua các thời kỳ, các công trình khác nhau. Biểu hiện của phương thức cạnh tranh này thông qua chính sách giá cả của doanh nghiệp xây dựng.
* Chính sách đặt giá cao.
Chính sách này áp dụng khi doanh nghiệp xây dựng có một khả năng công nghệ đặc biệt và độc quyền. Khi đó buộc các chủ đầu tư phải chấp nhận giá cao.
* Chính sách đặt giá thấp.
Doanh nghiệp xây dựng đưa ra giá thấp nhằm loại trừ các đối thủ cạnh tranh hiện có và ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh mới. Để áp dụng chính sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải tận dụng nguồn năng lực sản xuất và giảm chi phí xây dựng công trình và khi xây dựng chính sách đặt ra thấp doanh nghiệp cần lấy mức giá hoà vốn làm căn cứ.
* Chính sách linh hoạt theo thị trường.
Theo chính sách giá này các doanh nghiệp xây dựng tuỳ thuộc vào thị trường xây lắp để đặt giá cho phù hợp. Chẳng hạn khi nhu cầu đầu tư của xã hội giảm sẽ dẫn đến đầu về xây dựng công trình giảm, mức độ tranh giành các công trình giữa các doanh nghiệp xây dựng trở nên gay gắt hơn thì doanh nghiệp cần đặt giá thấp hơn nhằm thắng thầu, tạo công ăn việc làm cho ngưòi lao động, chờ cơ hội mới và ngược lại.
* Chính sách phân hoá theo sản phẩm.
Doanh nghiệp tiến hành phân biệt giá cho từng khu vực địa lý (vì theo từng khu vực mà giá cả nguyên vật liệu khác nhau, điều kiện giao thông vận chuyển nguyên vật liêu khác nhau). Hoặc doanh nghiệp xây dựng cũng có thể phân biệt giá theo kế hoạch, theo mùa. Lý do là do thời tiết thay đổi dẫn đến các điều kiện thi công cũng thay đổi, thời gian khác nhau, giá cả nguyên vật liêụ cũng khác nhau.
Ngoài các chính sách giá trên doanh nghiệp xây dựng còn thực hiện các chính sách giá khuyến khích theo giá trị công trình, theo điều kiện tạm ứng vốn, và thanh toán theo điều kiện tín dụng. Sở dĩ như vậy, vì lượng vốn cần cho xây dựng là rât lớn mà doanh nghiệp xây dựng của ta luôn ở trong tình trạng thiếu vốn rất nhiều.
4.3 Cạnh tranh bằng tiến độ thi công.
Thường thì một công trình được thi công trong một thời gian dài (từ 1 đến 5 năm) thậm chí còn dài hơn lại tiến hành ngoài trời, chịu tác động nhiều của điều kiện thời tiết. Vì vậy, mà thời gian thi công kéo dài sẽ gây lãng phí rất nhiều về công sức, tiền của. Hơn nữa, một công trình không phải chỉ phục vụ cho tiêu dùng cá nhân, tiêu dùng cuối cùng mà phần lớn lại nhằm mục đích phục vụ công cộng. Nói như vậy, có nghĩa là tiến độ thi công ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác của công trình. Chính vì thế, mà việc đẩy nhanh tiến độ thi công không chỉ là đòi hỏi của chủ đầu tư mà ngay các doanh nghiệp xây dựng cũng đòi hỏi phải rút ngắn tiến độ thi công để giảm chi phí, hạ giá thành. Tiến độ thi công được các chủ đầu tư rất coi trọng khi đánh giá nhà thầu. Để rút ngắn tiến độ thi công các doanh nghiệp xây dựng phải cải tiến, đổi mới công nghệ kỹ thuật, lựa chọn biện pháp, trình tự công nghệ thi công, tăng cường công xưởng hoá, cơ giới hoá.
4.4 Cạnh tranh bằng chính sách phân phối và tiêu thụ sản phẩm.
Trong xây dựng, giai đoạn phân phối và tiêu thụ khác so với các ngành khác. Nó bắt đầu khi sản phẩm được hoàn thành tức là trước khi xây dựng xong công trình kể từ khi ký kết hợp đồng cho đến khi kết thúc xây dựng và bàn giao công trình. Chính vì thế mà chính sách phân phối và tiêu thụ sản phẩm xây dựng phải được xem xét ở 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn tìm kiếm các tuyến liên hệ với chủ đầu tư. Việc tìm kiếm này có thể thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, vô tuyến, đài có thể qua mối quan hệ lâu dài với các chủ đầu tư từ trước.
+ Giai đoạn sau khi đã tìm kiếm được chủ đầu tư và đã được chủ đầu tư lựa chọn thì chính sách tiêu thụ ở đây phải bảo đảm sao cho các khâu ký kết hợp đồng, điều chỉnh hợp đồng, nghiệm thu bàn giao công trình, thanh toán và xác định thời gian bảo hành được thuận lợi nhất.
Trên đây, là một số phương thức cạnh tranh chủ yếu trong xây dựng. Trên thực tế thì các doanh nghiệp xây dựng thường sử dụng tổng hợp các phương thức cạnh tranh để nâng cao khả năng cạnh tranh về mọi mặt của doanh nghiệp xây dựng.
5. Các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng.
Khả năng cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng. Nó bao gồm các yếu tố sau:
5.1. Các điều kiện,sức mạnh và ưu thế kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp.
Có thể nói, trong điều kiện phát triển của khoa học công nghệ như vũ bão hiện nay thì kỹ thuật và công nghệ là một trong những nhân tố hàng đầu để đánh giá doanh nghiệp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp xây dựng, do khối lượng thi công rất lớn, công việc lại rất nặng nhọc đòi hỏi sự hỗ trợ nhiều của máy móc thiết bị. Có áp dụng tự động hoá, cơ giới hoá vào trong thi công công trình mới bảo đảm đẩy nhanh tiến độ thi công, nâng cao chất lượng công trình, hạ giá thành. Đối với một doanh nghiệp xây dựng thì điều kiện, sức mạnh, ưu thế kỹ thuật bao gồm những yếu tố sau:
+ Một là, nguồn lực máy móc thiết bị: thể hiện qua giá trị, số lượng, chủng loại của máy móc thiết bị mà doanh nghiệp có. Năng lực về xe máy thiết bị thi công là một trong các nội dung của hồ sơ dự thầu để chứng minh cho các chủ đầu tư biết khả năng huy động nguồn lực về xe máy thiết bị thi công công trình đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư.
+ Hai là, trình độ hiện đại của công nghệ tức là các máy móc thiết bị công nghệ của doanh nghiệp có đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại hay không. Trình độ hiện đại của công nghệ được biểu hiện qua các thông số kỹ thuật về đặc tính sử dụng, công suất, phương pháp sản xuất của công nghệ hoặc có thể được đánh giá qua số năm sản xuất, nơi sản xuất, giá trị còn lại của máy móc thiết bị. Trình độ hiện đại của máy móc thiết bị cho phép doanh nghiệp xây dựng có thể tạo ra được các công trình có yêu cầu ngày càng cao về kỹ thuật và chất lượng.
+ Ba là, sự dẫn đầu về công nghệ biểu hiện như trình độ công nghệ cao, bí quyết công nghệ, tính độc quyền của công nghệ. Đó là những công nghệ mà chỉ có doanh nghiệp hoặc một số ít doanh nghiệp có được. Sự dẫn đầu về công nghệ cho phép doanh nghiệp thực hiện được các chiến lược ưu thế nhất của mình như chiến lược đặt giá cao hoặc cho phép doanh nghiệp độc chiếm một số loại công trình đòi hỏi các công nghệ hàng đầu đó. Hiện nay, trong xây lắp những công nghệ như cẩu tháp, trạm trộn bê tông được coi là những thiết bị dẫn đầu về công nghệ xây dựng ở nước ta. Một số công nghệ mà các doanh nghiệp xây dựng ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có như thi công móng barie, đường bao vây cho các hầm cao ốc, khoan giếng lớn, thi công đường ống ngầm mà không cần đào đất mặt đất. Đây là các công nghệ mà các nhà thầu nước ngoài hiện đang độc quyền ở Việt Nam.
+ Bốn là, độ cao về tính phức tạp của sản phẩm và kéo theo là tính phức tạp của công nghệ chế tạo ra nó (điều này cho phép ngăn cản các doanh nghiệp khác nhảy vào cạnh tranh).
+ Năm là, mức độ hợp lý của máy móc thiết bị và công nghệ. Đây được coi là một yếu tố rất quan trọng vì nếu máy móc công nghệ mà không phù hợp thì sẽ không thể khai thác được gây lãng phí vốn đầu tư. Mức độ hợp lý của công nghệ được đánh giá qua 2 chỉ tiêu. Đó là tính đồng bộ và mức độ phù hợp. Mức độ phù hợp là sự phù hợp của máy móc thiết bị đối với điều kiện sử dụng đặc thù về địa lý, khí hậu, địa chất, thuỷ văn, nguyên vật liệu và sự phù hợp giữa chất lượng và giá cả sản phẩm do công nghệ sản xuất ra. Đặc biệt là trong tình hình hiện nay ở Việt Nam vấn đề giá cả vẫn là một căn cứ mà người tiêu dùng rất quan tâm khi mua hàng.
+ Sáu là, hiệu năng kỹ thuật của máy móc thiết bị và việc vận dụng công suất của máy móc thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp. Việc đánh giá này được thông qua việc đánh giá trình độ sử dụng máy móc thiết bị của doanh nghiệp tác dụng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và khả năng huy động tối đa nguồn lực vật chất sẵn có cho cạnh tranh nói riêng.
+ Bảy là, khả năng đổi mới công nghệ và chiến lược đổi mới công nghệ của doanh nghiệp xây dựng. Nó tác động tới khả năng tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp là dễ hay khó và chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp là theo chiều sâu hay chiều rộng. Đồng thời tạo khả năng nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp giữ vững thị phần của mình.
5.2 Các điều kiện, ưu thế về tài chính.
Đối với doanh nghiệp xây dựng, tài chính là một trong những chỉ tiêu quan trọng mà chủ đầu tư dùng để đánh giá nhà thầu. Các ưu thế về tài chính của một doanh nghiệp xây dựng biểu hiện qua các yếu tố sau:
+ Một là, quy mô tài chính: nếu doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ tạo khả năng cạnh tranh cao vì doanh nghiệp có thể sử dụng trường vốn của mình để tạo ra các biện pháp cạnh tranh gay gắt nhằm tiêu diệt đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, đó là những biện pháp mà đối thủ không thực hiện được.
+ Hai là, khả năng huy động vốn ngắn hạn và dài hạn. Đây là một yếu tố tài chính đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp xây dựng vì nguồn bảo lãnh cho việc thực hiện hợp đồng xây dựng là rất lớn mà chủ yếu là vốn đi vay. Vì thế khả năng vay ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đây đồng thời cũng là một nội dung quan trọng mà doanh nghiệp xây dựng phải trình bày trong hồ sơ dự thầu.
+ Ba là, sự hợp lý và linh hoạt của cơ cấu tài chính của doanh nghiệp. Cơ cấu tài chính là phạm trù kinh tế phản ánh mối tương quan giữa vốn nợ và vốn chủ sở hữu. Một cơ cấu tài chính hợp lý và linh hoạt sẽ đảm bảo tính an toàn cho doanh nghiệp trong kinh doanh, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
+ Bốn là, đảm bảo vốn lưu động. Đây là nguồn lực vật chất trực tiếp để doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cạnh tranh của mình. Khả năng về vốn lưu động cho phép doanh nghiệp mạnh dạn và nhanh nhạy trong việc sử dụng các đối sách đi trước so với các đối thủ cạnh tranh của mình, tạo ra ưu thế trong sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh. Cạnh tranh về thời gian là rất cần thiết và yếu tố này càng được khách hàng coi trọng.
+ Năm là, sức sinh lời của vốn đầu tư thời kỳ hiện tại thể hiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có sức sinh lời của vốn đầu tư cao sẽ tạo uy tín đối với bạn hàng, nhà tài trợ, đặc biệt là các cơ quan chức năng.
+ Sáu là, chi phí vốn của doanh nghiệp so với mức trung bình của toàn ngành và so với các đối thủ cạnh tranh. Tức là xem xét xem doanh nghiệp có lợi thế so với các doanh nghiệp khác trong việc huy động và sử dụng vốn không. Một doanh nghiệp có chi phí vốn thấp hơn các đối thủ cạnh tranh có nghĩa là lợi thế hơn đối với các đối thủ cạnh tranh của mình vì doanh nghiệp có thể giảm được giá thành công trình.
+Bẩy là, tài năng và phẩm chất của các cán bộ quản trị tài chính. Thể hiện khả năng phân tích tài chính và tính trung thực khi phản ánh các chỉ tiêu tài chính. Ngày nay việc phân tích tài chính đúng, kịp thời được coi là nguồn huy động vốn "vô hình" của doanh nghiệp đặc biệt là đối với những doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính.
+ Tám là, hiệu quả của công tác quản trị chi phí, kiểm soát giá thành và khả năng giảm giá thành của sản phẩm. Đây là một yếu tố quan trọng trong đánh giá khả năng của doanh nghiệp trong việc tiết kiệm chi phí, giảm giá thành xây lắp để đưa ra một mức giá hấp dẫn các chủ đầu tư mà vẫn đảm bảo chất lượng công trình.
5.3 Lợi thế về nhân sự trong doanh nghiệp.
Bao gồm toàn bộ nội dung về quản lý và sử dụng con người trong doanh nghiệp thể hiện qua các khía cạnh sau:
+ Một là, trình độ kỹ thuật và cấp độ lành nghề của đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp. Trình độ kỹ thuật được đánh giá qua đào tạo, ngành nghề đào tạo của công nhân . Cấp độ lành nghề được đánh giá qua bậc thợ - nó phản ánh khả năng làm việc thực tế và kinh nghiệm lâu năm của công nhân. Đối với một doanh nghiệp xây dựng đội ngũ công nhân là những người trực tiếp tạo ra các công trình xây dựng. Vì vậy mà chất lượng công trình phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và tay nghề của họ. Do đó các doanh nghiệp phải luôn chú trọng đến công tác nâng cao tay nghề và trình độ cho công nhân.
+ Hai là, trình năng lực của quản trị viên và ban lãnh đạo doanh nghiệp. Đây là một yếu tố quyết định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp dù có nguồn lực về tài chính đến đâu nhưng đội ngũ quản trị viên và ban lãnh đạo - những người chèo lái doanh nghiệp mà không sắc bén năng động thì cũng không thể bắt kịp nhịp độ cạnh tranh gay gắt trên thị trường hiện nay. Đối với một doanh nghiệp xây dựng năng lực và sự nhạy bén của các quản trị viên được thể hiện qua trình độ, kinh nghiệm, sự nhạy bén trong các quyết sách cạnh tranh của doanh nghiệp.
+Ba là, sự đoàn kết của tập thể người lao động. Nó cho phép doanh nghiệp phát huy sức mạnh tổng hợp của đội ngũ lao động trong doanh nghiệp từ đó nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Bốn là, sự trung thành của người lao động trong doanh nghiệp theo sự thăng trầm của doanh nghiệp. Nó cho phép doanh nghiệp theo đuổi đến cùng mục tiêu của mình.
+ Năm là, khả năng sử dụng có hiệu quả các biện pháp khuyến khích vật chất để động viên người lao động nâng cao năng suất lao động, gắn bó với doanh nghiệp. Đó là các biện pháp tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp cho người lao động. Các doanh nghiệp xây dựng còn có thể sử dụng các biện pháp như đối với mỗi công trình trúng thầu, doanh nghiệp cần đánh giá về giá trị và hiệu quả đạt được mà có sự khen thưởng cụ thể bằng vật chất cho các cán bộ trực tiếp làm hồ sơ dự thầu, trên cơ sở đóng góp của mỗi người. Hay là các sáng kiến cải tiến kỹ thuật mà tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp thì có thể sử dụng phần trăm số tiền tiết kiêm đó để khen thưởng cho những người có sáng kiến đó. Bên cạnh các biện pháp khuyến khích bằng vật chất doanh nghiệp nên kết hợp cả các biện pháp tinh thần.
+ Sáu là, chính sách thuyên chuyển, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng và tuyển chọn người lao động.
5.4 Yếu tố nguyên vật liệu.
Đối với mỗi doanh nghiệp xây dựng, nguyên vật liệu là tố đầu vào chủ yếu. Nó chiếm từ 60 - 70 % giá trị công trình và do nguyên vật liệu là yếu tố trực tiếp cấu tạo nên công trình, nên chất lượng công trình phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và kết cấu nguyên vật liệu khi xem xét đến điều kiện và ưu thế về nguyên vật liệu của một doanh nghiệp xây dựng ta có thể xem xét trên các khía cạnh sau:
+ Một là, nguồn cung ứng nguyên vật liệu. Nguồn đó có đảm bảo về mặt thời gian, chất lượng hay không, nguồn đó ở xa hay gần nơi thi công. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí nguyên vật liệu, tiến độ thi công. Nói cách khác, yếu tố này trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Hai là, sự linh hoạt của doanh nghiệp trong việc tìm và chọn nguồn nguyên vật liệu với giá cả chất lượng, thời gian theo đúng yêu cầu. Một điều quan trọng khác nữa là giảm bớt sức ép của nhà cung cấp.
+ Ba là, hệ thống quản lý, dự trữ nguyên vật liệu. Do sản xuất xây dựng thường di chuyển nên không có các kho tàng cố định. Song trong mỗi công trình xây dựng thì cần phải có hệ thống kho tàng. Hệ thống này phải bảo quản được nguyên vật liệu, giảm tối đa lượng hao hụt, thuận tiện trong việc phục vụ thi công. Việc quản lý, dự trữ nguyên vật liệu hợp lý sẽ đảm bảo cung ứng kịp thời nguyên vật liệu cho thi công đúng tiến độ, tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
5.5 Tổ chức quản lý trong doanh nghiệp
Đây là một vấn đề rất rộng có thể xem xét một số khía cạnh chủ yếu sau:
+ Một là, sự thích hợp và linh hoạt của cơ cấu tổ chức quản lý. Một cơ cấu tổ chức hợp lý cho phép doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp. Còn sự linh hoạt của cơ cấu tổ chức quản lý cho phép doanh nghiệp ứng phó kịp thời thay đổi của môi trường kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp xây dựng sự linh hoạt của cơ cấu tổ chức quản lý có vai trò hết sức quan trọng vì đặc trưng của tổ chức quản lý trong xây dựng là không ổn định, có sự thay đổi theo mỗi công trình. Điều này đòi hỏi trình độ tổ chức của cán bộ quản lý phải hết sức sáng tạo và am hiểu về nhiệm vụ của từng công trình.
+ Hai là, bầu không khí làm việc và nề nếp tổ chức của doanh nghiệp.
+ Ba là, sự phát triển của các mối quan hệ phi chính thức trong doanh nghiệp. Mối quan tâm của ban lãnh đạo doanh nghiệp đến người lao động, sự thống nhất trong ban lãnh đạo, giữa quản trị viên và người lao động, ảnh hưởng của doanh nghiệp đối với xã hội như quan hệ của doanh nghiệp với các cơ quan chính quyền, cơ quan pháp luật, tổ chức tín dụng tài chính, công đoàn
+ Bốn là, kinh nghiệm và sở trường kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp
+ Năm là, triết lý của chủ doanh nghiệp và của ban lãnh đạo
5.6 Marketing của doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì marketing là một lĩnh vực quản trị không thể nào thiếu được. Bộ phận marketing thực hiện phân tích nhu cầu, sở thích, thị hiếu của thị trường, hoạch định các chiến lược marketing để đẩy nhanh hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp như chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách quảng cáo, khuyếch trương, khuyến mại, các dịch vụ hỗ trợ sau khi bán
Đối với doanh nghiệp xây dựng đặc điểm marketing trong xây dựng do đặc điểm của sản phẩm và sản xuất kinh doanh xây dựng quy định. Vì thế mà marketing trong xây dựng có rất nhiều điểm khác so với marketing trong các ngành khác.
Khi xem xét ưu thế marketing của doanh nghiệp xây dựng
Ta xem xét các khía cạnh sau:
+ Một là, ngân sách dành cho công tác marketing. Đó là tất cả chi phí cho bộ phận marketing như lương cho cán bộ marketing, chi phí điều tra nghiên cứu thị trường, quảng cáo khuyến mại
+ Hai là,._.ch hàng.
- Nhiều hồ sơ dự thầu của công ty đã bị loại do thiếu thông tin và đưa ra các quyết định sai trong khi các điều kiện khác là tương đương các nhà thầu khác.
1.2 Điều kiện thực hiện chiến lược.
Mỗi nhân viên được coi như là một “cửa sổ thông tin” để đưa đến cho công ty các thông tin về các công trình cần đấu thầu, các giữ kiện xung quanh đơn đấu thầu đó, về chủ đầu tư, về các đối thủ cạnh tranh... các thông tin có giá trị đều được trả công xứng đáng.
1.3 Phương thức thực hiện.
Hiện nay công tác Marketing chưa được hình thành một cách cụ thể ở hầu hết các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam, Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông chưa có một phòng ban chuyên trách nào trong lĩnh vực này. Do vậy các công tác thu thập, xử lý thông tin, tiếp thị đấu thầu còn chưa đạt hiệu quả cao, một nhân viên còn phải chịu nhiều trách nhiệm. Trước mắt công ty cần thành lập một phòng Marketing với các nhiệm vụ chủ yếu như:
- Thu thập, tìm hiểu các thông tin về các dự án đấu thầu được phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là mối quan hệ riêng với các đối tác khác để có được các thông tin chính xác, cập nhật nhất.
- Thu thập các thông tin về tình hình biến động giá của thị trường để có biện pháp điều chỉnh giá trị dự toán kịp thời, cũng như việc thông tin cho các chủ đầu tư biết để đàm phán thoả thuận tránh rủi ro cho công ty.
- Thu thập và nghiên cứu các thông tin về các đối thủ cạnh tranh trong đầu tư (về năng lực, phương pháp tính giá trị dự toán đấu thầu, điểm mạnh, điểm yếu...)
- Tìm hiểu thông tin về chủ đầu tư, đề xuất các biện pháp thu hồi vốn nhanh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của cổng ty.
- Nghiên cứu tình hình cung cấp và giá cả nguyên vật liệu
- Đề ra các chiến lược cạnh tranh trong đấu thầu phù hợp với công ty nhờ sự phân tích đánh giá các thông tin thu thập được ở trên.
Trong bộ máy quản lý nếu phòng này được thành lập thì nó sẽ đứng độc lập với các bộ phận khác và chuyên trách về lĩnh vực marketing giúp cho giám đốc của côngty điều hành tốt hoạt động kinh doanh tại công ty.
Phòng marketing này có thể được tổ chức theo mô hình sau:
Trưởng phòng
Bộ phận bảo hành
(1 người)
Bộ phận quảng cáo
(1 người)
Bộ phận nghiên cứu thị trường và đưa ra chiến lược(2 người)
Bộ phận bóc tách dự án
(2 người)
Bên cạnh đó cần có một chế độ khuyến khích vật chất thông qua các công cụ thưởng cho các thông tin có giá trị nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ nhân viên trong bộ phận này.
1.4 Hiệu quả của chiến lược.
- Phục vụ tốt nhất cho chiến lược đặt trọng tâm vào giá cả, vừa có kết quả ngay nhờ vào các chiến thuật giao tiếp và thương lượng trước và trong khi lập hồ sơ dự thầu vừa có kết quả về mặt dài hạn do những đầu tư xử lý thông tin thoả đáng.
- Thực hiện những phương án chiến lược nêu trên có khả năng khắc phục được việc một nhân viên phải chịu nhiều trách nhiệm. Việc phân định trách nhiệm rõ ràng và co sự phối hợp đồng bộ trong hệ thống nhân sự sẽ tăng hiệu quả làm việc đồng thời với chế độ khuyến khích thoả đáng sẽ kích thích khả năng và lòng nhiệt tình tìm tòi các thông tin, các hợp đồng xây dựng mới của từng cán bộ nhân viên trong công ty.
- Thu thập và xử lý các thông tin giúp công ty nhận ra được các điểm mạnh và điểm yếu của mình đối với các đối thủ cạnh tranh để từ đó phát huy được ưu điểm, khắc phục hạn chế những nhược điểm trong quá trình cạnh tranh trên thị trường xây lắp.
2. Phát huy các biện pháp cải tiến kỹ thuật, đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị thi công.
2.1 Cơ sở của biện pháp.
- Chất lượng máy móc thiết bị ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, do đó ảnh hưởng đến chi phí nhân công trong giá thành.
- Chất lượng máy móc thiết bị thi công ảnh hưởng đến tiến độ thi công, giảm bớt các tác động từ môi trường bên ngoài.
- Yêu cầu ngày càng cao về kỹ thuật, mỹ thuật, tính phức tạp của công trình, đòi hỏi công ty phải có một trình độ máy móc thiết bị nhất định thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu đó.
- Hiện tại máy móc thiết bị của công ty đa phần đã cũ và lạc hậu, công suất thấp, chi phí sửa chữa chi phí nhiên liệu cao do đó khả năng thi công còn nhiều hạn chế ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của công ty.
Máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại là cơ sở của chất lượng công trình cao và tạo ra một ưu thế xây dựng cho công ty đồng thời tạo ra sự tìm tin cậy từ phía chủ đầu tư và các khách hàng.
2.2 Điều kiện thực hiện
Có một khả năng cung cấp tài chính ổn định lâu dài để đầu tư vào chiến lược, nên sử dụng nguồn vốn vay dài hạn và các nguồn vốn khấu hao của công ty.
Để khảo sát trình độ công nghệ xây lắp của các đối thủ cạnh tranh, công ty cần có một cán bộ kỹ thuật chuyên về máy móc thiết bị, yêu cầu biết rõ về tình trạng hoạt động hiện tại, khảnăng cải tiến và tận dụng các loại các loại thiết bị mà công ty hiện đang có, mặt khác nắm bắt được những công nghệ hiện đại hơn mà thị trường xây lắp đang sử dụng, từ đó phân tích , tổng hợp đánh gía xem xét khi nào thì cần phải cải tạo, mua mới hoặc kết hợp cả hai hình thức này.
2.3 Phương thức thực hiện .
Theo đánh giá của một số chuyên gia thì trình độ máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ cho thi công xây lắp hiện tại của công ty ở mức trung bình của ngành, nhiều thiết bị đã cũ và lạc hậu, năng suất hoạt động rất thấp trong khi yêu cầu về tiến độ và chất lượng của công trình lại không ngừng tăng lên. Để hạn chế và khắc phụ bớt điểm yếu nói trên về năng lực công nghệ, công ty có thể dùng vốn vay dài hạn và nguồn vốn khấu hao của công ty để thực hiện phương án đầu tư sau:
- Với một số máy móc thiết bị còn có thể cải tiến nâng cao công nghệ hiện tại được thì công ty có thể chỉ cần mua sắm các linh kiện để lắp ráp và thay thế, đồng thời đầu tư chất xám để kéo dài thời gian hoạt động, đa dạng hoá tính năng và nâng cao hiệu suất sử dụng. Phương án đầu tư này không cần tập trung quá nhiều vốn, không thay đổi công nghệ hiện tại, thích hợp hợp với giai đoạn ít vốn, gặp khó khăn trong vay vốn và trình độ kỹ năng, và kỹ xảo của công nhân còn ít nhiều hạn chế.
- Lập kế hoạch dài hạn về mua sắm các máy móc thiết bị hiện nhằm đáp ứng đòi hỏi cao của thị trường xây lắp, tạo điều kiện rút ngắn thời gian thực hiện, tiết kiệm chi phí và hạ thấp đơn giá bỏ thầu. Các thiết bị mua sắm mới phải là các thiết bị có tính chất quan trọng phù hợp với đặc điểm công nghệ của công ty. Đầu tư vào mua sắm các máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại này là rất tốn kém do đó phải xây dựng một kế hoạch cụ thể để mua sắm từng thiết bị một cho phù hợp với khả năng tài chính của công ty. Trong điều kiện chưa thể mua sắm các thiết bị hiện đại cùng một lúc mà lại cần có thể đáp ứng yêu cầu của công trình thì công ty có thể tính và tìm nguồn cho thuê trang thiết bị nhằm thoả mãn tốt nhất các yêu cầu của chủ đầu tư hay hợp tác liên doanh với các nhà thầu trong nước và quốc tế cũng cho phép công ty tăng khả năng về máy móc thiết bị của mình khi tham gia đấu thầu.
Để có thể đầu tư cải tiến cho các thiết bị vẫn còn giá trị sử dụng, quyết định thuê mua các thiết bị nào khi cần thiết công ty có thể lập ra nhóm chuyên trách về máy móc thiết bị gồm ba người trong đó hai người thường xuyên có mặt tại công trường để đánh giá và đưa ra phương án cải tiến trình độ máy móc hiện tại của công ty, người còn lại chịu trách nhiệm cung cấp thông tin cho nhóm chuyên viên lập đơn giá dự thầu về khả năng máy móc thiết bị của công ty, của thị trường xây lắp và đưa ra các quyết định về mua sắm máy móc thiết bị mới cần thiết, các quyết định về nâng cao trình độ lao động.
2.4 Lợi ích của việc thực hiện biện pháp.
Đầu tư vào máy móc thiết bị là một chiến lược dài hạn, ưu thế về công nghệ mở ra cho công ty khả năng rút ngắn thời gian thi công, tiết kiệm chi phí về nhân sự và chi phí công trường, hạ thấp đơn giá bỏ thầu mà vẫn đảm bảo tốt chất lượng công trình, tạo ra những sản phẩm xây dựng có chất lượng thể hiện hình ảnh của công ty.
Máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại tăng khả năng đáp ứng các đòi hỏi khắt khe phức tạp của những dự án có quy mô lớn, yêu cầu cao về mặt kỹ – mỹ thuật. Do đó việc khắc phục yếu điểm này của công ty sẽ làm tăng sức mạnh cạnh tranh của mình trên thị trường xây lắp trước nhiều đối thủ cạnh tranh đang có ưu thế về công nghệ.
3. Nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động để nâng cao khả năng cạnh tranh.
3.1 Cơ sở đề xuất giải pháp.
Đầu tư vào con người luôn là đầu tư mang lại hiệu quả nhất. Con người là đầu vào quan trọng đồng thời là nhân tố thay đổi tố chất của hệ thống theo ý muốn và mục tiêu đã định, với những khả năng kỳ diệu con người có thể làm nội lực cạnh tranh của doanh nghiệp mạnh lên và ngược lại.
Để tăng cường khả năng trong đấu thầu đòi hỏi công ty phải có một đội ngũ lao động có trình độ năng lực và có kinh nghiệm để lập được hồ sơ dự thầu có tính thuyết phục cao. Với số lượng công nhân viên trong công ty hiện nay là 35 người nhưng trên thực tế con số này tăng thêm rất nhiều khi công ty phải huy động thêm lao động thuê ngoài phục vụ cho thi công công trình. Do đó công ty cần có một kế hoạch quản lý nhân sự thích hợp và hữu hiệu. Có như vậy mới đảm bảo được chất lượng cho công trình cũng như đảm bảo khả năng chủ động cho công ty.
3.2 Điều kiện thực hiện.
- Vốn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực.
- Biện pháp cần tiến hành lâu dài và thường xuyên.
3.3 Phương thức tiến hành.
- Gắn trách nhiệm của mỗi người với từng công trình, từng dự án thông qua kế hoạch khoán chỉ tiêu, khen thưởng và thăng tiến nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, ngược lại sẽ có chế độ kỷ luật, phạt vật chất hay thuyên chuyển thay thế khỏi hệ thống để tìm ra sự phối hợp đồng bộ trên cơ sở tuân theo các quy định của pháp luật.
- Kích thích hiệu năng làm việc bằng cách trả thù lao thêm ngoài lương chính cho mỗi công trình trúng thầu, mỗi hợp đồng ký kết.
- Thường xuyên có kế hoạch đào tạo, bỗi dưỡng bổ sung thêm những kiến thức về kinh tế tài chính nói chung cho những người nắm giữ các vị trí quan trọng trong công tác dự thầu, phổ biến kiến thức về luật pháp có liên quan đến hoạt động đấu thầu cho tất cả cán bộ, nhân viên tham gia công tác này. Đồng thời nâng cao kỹ năng trình độ về tin học, ngoại ngữ cho họ. Muốn vậy công ty có thể căn cứ vào nhiệm vụ của từng người trong việc thực hiện công tác dự thầu để lập kế hoạch đào tạo cụ thể.
4. Biện pháp tăng cường công tác quản lý chất lượng đồng bộ theo quá trình kể từ khi bắt đầu thi công đến khi nghiệm thu bàn giao.
4.1 Cơ sở của biện pháp.
- Các dự án ngày nay đòi hỏi vấn đề chất lượng, có sự giám sát chặt chẽ của các tổ chức tư vấn bên cạnh các chủ đầu tư. Đảm bảo chất lượng là một trong số các chỉ tiêu quan trọng hàng đầu mà chủ đầu tư quan tâm khi đánh giá nhà thầu. Hơn nữa, việc bảo đảm chất lượng công trình là lời quảng cáo hữu hiệu nhất đến hình ảnh và uy tín của công ty, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Nâng cao chất lượng công trình còn là biện pháp hữu hiệu để giảm chi phí sửa chữa, bảo dưỡng công trình, bảo đảm đúng tiến độ thi công, nâng cao năng suất lao động. Nói tóm lại, để công ty có thể cạnh tranh trên thị trường được thì việc nâng cao chất lượng công trình là một đòi hỏi bắt buộc.
- Do quá trình thi công xây lắp thường kéo dài, lại chịu sự tác động của môi trường tự nhiên, phải đảm bảo yêu cầu của nhiều bộ phận thiết kế kỹ thuật khác nhau và sử dụng nhiều công nghệ khác nhau nên rất dễ xảy ra các sai sót ảnh hưởng xấu đếnn chất lượng công trình. Vì thế để khắc phục tình trạng trên cách tốt nhất là áp dụng các biện pháp bảo đảm chất lượng một cách đồng bộ từ khâu chuẩn bị thi công đến khi nghiệm thu và bàn giao công trình. Thực hiện làm đúng ngay từ đầu chứ không phải làm xong rồi mới sửa. Đối với một công trình xây dựng thì lại càng không cho phép có sự sai hỏng, nếu có sai hỏng thì nó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đếnn uy tín của doanh nghiệp. Do đó hạn chế khả năng cạnh tranh.
4.2 Điều kiện thực hiện.
- Cán bộ quản lý phải là người sát xao trong vấn đề nâng cao chất lượng công trình.
- Công tác quản lý chất lượng đồng bộ phải được phổ biến rộng rãi trong toàn bộ công ty.
- Xây dựng một hệ thống chỉ tiêu làm căn cứ để thực hiện để kiểm tra.
- Không ngừng nâng cao chất lượng lao động và máy móc thiết bị.
4.3 Phương pháp thực hiện.
- Quản lý chất lượng trước quá trình thi công:
+ Tiến hành khảo sát điều tra về địa chất và khí tượng thuỷ văn nơi công trình xây dựng. Đặc điểm này sẽ chi phối kết cấu, kiến trúc của công trình và nó là căn cứ để lựa chọn đúng đắn các giải pháp tổ chức thi công.
+ Tìm và chọn nguồn cung ứng vật liệu, bán thành phẩm, cấu kiện đảm bảo chất lượng vì chúng là yếu tố trực tiếp cấu thành lên sản phẩm, nên chất lượng của chúng ảnh hưởng đến chất lượng công trình.
+ Chuẩn bị phương án về các thiết bị thí nghiệm và kiểm tra chất lượng các yếu tố về tiêu chuẩn chất lượng.
+ Lựa chọn các cán bộ kỹ thuật, đội trưởng và công nhân có đủ trình độ và kinh nghiệm đối với công việc được giao. Nhờ đó các yêu cầu kỹ thuật được đảm bảo, năng suất lao động được nâng cao rút ngắn tiến độ thi công các công trình, làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty. Đồng thời tổ chức đầy đủ bộ phận kiểm tra, giám sát thi công có trình độ, năng lực và trách nhiệm.
- Quản lý chất lượng trong quá trình thi công:
Thi công là giai đoạn trực ttiếp tạo ra sản phẩm vì vậy mà chất lượng của công tác thi công ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình. Trong giai đoạn này công tác quản lý chất lượng cần chú trọng đến các yếu tố sau:
+ Kiểm tra chất lượng sản phẩm trong quá trình thi công, khi đạt yêu cầu mới cho phép làm tiếp bước sau. Để làm được điều này thì khâu trước phải coi khâu sau là khách hàng của mình và các biện pháp quản lý chất lượng như truyền thông, giáo dục đào tạo cần được áp dụng. Để quán triệt sâu sắc quan điểm làm đúng ngay từ đầu tới toàn bộ các cán bộ và công nhân thi công công trình.
+ Các cán bộ quản lý kỹ thuật và chất lượng nên thường xuyên phải kiểm tra việc chấp hành quy trình kỹ thuật, phương pháp thao tác, cách pha trộn định lượng nguyên vật liệu để xem có đúng với chỉ tiêu yêu cầu của thiết kế kỹ thụt hay không để từ đó có những biện pháp khắc phục kịp thời với những vi phạm về chất lượng. Trong từng hạng mục công trình, cán bộ quản lý chất lượng phần công việc trước đã đảm bảo yêu cầu chất lượng thì mới cho phép làm tiếp bước sau nên không phải trình lên cán bộ chỉ huy công trình giải quyết. Để kiểm tra chất lượng được tốt thì căn cứ để kiểm tra là các chỉ tiêu về độ bền vững, độ an toàn. Từ đó mới có thể phát hiện racác vấn đề chất lượng phát sinh. Tất cả các công việc kiểm tra cần ghi vào quyển sổ nhật kýcông trình làm tài liệu theo dõi thường xuyên và xác nhận trách nhiệm khi có sự cố xẩy ra.
Trong quản lý chất lượng sản phẩm xây dựng công ty có thể sử dụng các công cụ thống kê để phân tích định tính và định lượng, ví dụ như sơ đồ nhân quả (sơ đồ xương cá) của Kaoru ishi Kana, đây là biểu đồ phân tích mối quan hệ nguyên nhân và kết quả giúp ta đưa ra các nguyên nhân chủ yếu và các giải pháp để điều chỉnh.
Môi trường Phương pháp Thiết bị
Chất lượng
công trình
Nguyên vật liệu Nhân lực
- Quản lý chất lượng đến khi nghiệm thu công trình:
Trước khi nghiệm thu công trình phải được kiểm tra một lần cuối cùng, cán bộ quản lý kỹ thuật và quản lý chất lượng phải chịu trách nhiệm trước chủ nhiệm công trình về chất lượng công trình mà mình nghiệm thu.
ở đây cần áp dụng chế độ ba kiểm tra: công nhân tự kiểm tra, tổ trưởng sản xuất kiểm tra và cán bộ quản lý chất lượng kiểm tra. Khi thấy công trình đạt chất lượng thì cho nghiệm thu.
Nói tóm lại, quản lý chất lượng là phải phát hiện ra những sai sót, tìm ra những nguyên nhân sai sót để từ đó đề ra những giải pháp, kiên nghị được nhằm giải quyết khắc phục và nâng cao chất lượng công trình.
4.4 Lợi ích của việc thực hiện biện pháp.
- Chất lượng công trình ngàymột nâng cao là tăng uy tín của công ty trên thị trường xây lắp, đó chính là lời quảng cáo hữu hiệu nhất về hình ảnh của công ty.
- Tiết kiệm chi phí trong quá trình thi công, chi phí làm lại, tăng năng suất lao động.
- Nâng cao tinh thần làm việc của cán bộ công nhân viên trong sản xuất kinh doanh .
5. Chiến lược về thời gian xây dựng.
5.1 Cơ sở thực hiện
Tiến độ thi công là một nhân tố cạnh tranh quan trọng trong quá trình tham gia đấu thầu. Với những điều kiện thuận lợi do thành tựu khoa học mang lại cũng như những đòi hỏi ngày một cao của các chủ đầu tư, công ty đã không ngừng tìm kiếm các giải pháp nhằm giảm vbớt thời gian xây dựng của mình. Tuy nhiên việc rút ngắn thời gian xây dựng được bao nhiêu còn phụ thuộc vào các biện pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức thi công hợp lý, nếu cứ cố tình rút ngắn thời gian xây dựng thì có thể làm cho dự án không mang tính khả thi hay làm cho giá dự thầu tăng cao do có chi phí rút ngắn thời gian thi công quá cao dẫn đến giảm bớt khả năng thắng thầu của công ty. Do vậy trong quá trình lập hồ sơ dự thầu cần xác định một tiến độ thi công tối ưu, đó phải là một tiến độ thi công đảm bảonhư tiến độ thi công dự kiến của chủ đầu tư và có chi phí thi công nhờ hơn giá dự toán cho công trình.
5.2 Điều kiện thực hiện.
- Đây là chiến lược được áp dụng đối với trường hợp thi công bằng cơ giới để thực hiện một loại việc xây dựng nào đó nhưng có các loại chi phí biến đổi theo quy luật hàm số.
- Các chi phí cho việc thi công xây dựng công trình đã được tính toán chính xác qua công tác lập giá dự thầu.
5.3 Phương thức thực hiện.
Dựa trên các tính toán chính xác về chi phí thi công trong phần lập giá dự thầu ta xác định thời gian xây dựng tối ưu qua đồ thị sau:
Trong đó:
G: giá trị xây dựng theo hợp đồng đã ký
C1: Chi phí thi công tương ứng với thời gian xây dựng theo dự kiến của chủ đầu tư
C0: Chi phí thi công tối ưu
T1: Thời gian xây dựng theo dự kiến của chủ đầu tư.
T0: Thời gian xây dựng tối ưu.
1: Đường cong biểu diễn chi phí di chuyển máy móc thiết bị đến công trường.
2: Đường cong biểu diễn chi phí cố định không phụ thuộc vào thời gian xây dựng
3: Đường cong biểu diễn chi phí phụ thuộc vào thời gian xây dựng.
4: Đường cong biểu diễn tổng chi phí thi công.
5: Giá trị dự toán công trình.
Qua đồ thị trên ta thấy phương án có thời gian xây dựng tối ưu được xác định tại điểm có đường tổng chi phí thi công là nhỏ nhất với thời gian gian xây dựng là T0 nhỏ hơn thời gian xây dựng dự kiến của chủ đâu tư và chi phí xây dựng là C0 nhỏ hơn giá dự toán của công trình.
Trong trường hợp chủ đầu tư chấp nhận cho công ty nộp phạt do kéo dài thời gian thi công thì thời gian xây dựng tối ưu T0 vẫn có thể lớn hơn thời gian dự kiến của chủ đầu tư nếu hiệu C1- C0 thoả mãn điều kiện sau:
C1- C0> P
Với P là số tiền nộp phạt cho chủ đầu tư do kéo dài thời gian thi công.
Tuy nhiên trường hợp này chỉ nên áp dụng đối với trường hợp bất khả kháng do những nguyên nhân khách quan và do nhu cầu cấp thiết giành được hợp đồng nhằm giải quyết việc làm trước mắt cho nhân viên công ty. Xét về lâu dài việc kéo dài thời gian thi công sẽ ảnh hưởng đến uy tín của công ty trong việc tham gia tranh thầu các gói thầu tiếp theo.
Bên cạnh biện pháp trên, công ty cần phải tăng cường đầu tư hơn nữa trong công tác đổi mới công nghệ đầu tư cho các trang thiết bị hiện đại cho phép rút ngắn thời gian thi công, bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên, cắt giảm các công việc thừa làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình.
5.4 Hiệu qủa của chiến lược.
Khi đẩy nhanh được tiến độ thi công sẽ nhận được một số mặt lợi sau:
- Tăng khả năng nhận được hợp đồng xây dựng, tạo việc làm cho cán bộ nhân viên và sẽ nhận được một khoản lợi nhuận tương ứng với giá trị dự thầu được chấp nhận.
- Giảm thiệt hại cho ứ đọng vốn sản xuất để thi công DUd
DUd = ồV0t- ồV1t
Trong đó:
V0t : vốn sản xuất kinh doanh của công ty bỏ ra năm thứ t để thi công tính toán theo thời gian xây dựng dự kiến của chủ đầu tư T1
- Giảm chi phí phụ thuộc vào thời gian xây dựng DB
DB = ồB0t - ồB1t
Trong đó:
B0t : Chi phí phụ thuộc vào thời gian xây dựng nếu tính theo thời gian xây dựng T0
B1t: Chi phí phụ thuộc vào thời gian xây dựng nếu tính theo thời gian xây dựng T1
Nếu B0t và V1t đều đặn trong năm ta có:
DB = B0t. T0 - B1t. T1
Mặt khác công ty sẽ phải chịu một khoản chi phí tăng thêm để làm cho thời gian xây dựng ngắn đi (ví dụ như chi phí thưởng thêm cho công nhân làm ngoài giờ, chi phí vận chuyển thiết bị, nhân lực đến công trường, xây dựng lán trại... và các khoản có liên quan đến việc giảm thời gian xây dựng).
Tóm lại với DC = C1 – C0
Trong đó:
C0: Tổng chi phí thi công xây dựng nếu tính theo thời gian thi công tối ưu T0.
C1: Tổng chi phí thi công xây dựng nếu tính theo thời gian thi công theo dự kiến của chủ đầu tư T1.
Nếu DC > 0 việc rút ngắn thời gian xây sẽ đem lại lợi nhuận lớn hơn so với lợi nhuận dự kiến cho công ty.
Ngược lại nếu DC < 0 việc rút ngắn thời gian xây dựng sẽ làm tăng chi phí thi công và làm giảm lợi nhuận của công ty. Trong trường hợp này nếu chủ đầu tư tính đến lợi ích của việc sớm đưa công trình vào sử dụng thì họ cũng có thể chấp nhận phương án của công ty.
6. Tăng cường liên doanh, liên kết làm tăng tính cạnh tranh với những công ty mạnh.
Trên thị trường, hầu hết các doanh nghiệp nhỏ đều bị các doanh nghiệp lớn giành hết khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Các đối thủ cạnh tranh lớn đều có tiềm lực mạnh hơn về mọi mặt sẽ giành được những hợp đồng “béo bở” : có gía trị lớn, thu được lợi nhuận cao, còn lại thì giành cho những doanh nghiệp đi sau yếu thế hơn.
Tham gia thị trường thì mọi doanh nghiệp từ lớn đến nhỏ đều có mục đích là làm ăn kinh doanh có hiệu qủa, thu được lợi nhuận cao, đó là kết quả của tổng hợp những biện pháp mang tính chiến lược cũng như sách lược của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Nói tóm lại mục đích cuối cùng của doanh nghiệp là giành được những lợi thế về phía mình, khi khả năng cạnh tranh ngày càng cao thì doanh nghiệp sẽ giành được nhiều hợp đồng lớn có giá trị cao, thu được lợi nhuận lớn.
Với những doanh nghiệp có tiềm lực hạn chế thì giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình với những đối thủ lớn chính là liên doanh liên kết. Thông qua hoạt động này tiềm lực của doanh nghiệp sẽ là sự tổng hợp của tất cả các doanh nghiệp tham gia liên doanh, liên kết.
Là một doanh nghiệp mới được thành lập còn rất non trẻ, tiềm lực hạ chế, vì vậy Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông muốn giành được những hợp đồng có giá trị lớn, tham gia vào những phân đoạn thị trường cao hơn thì công ty nên đầu tư vào việc liên doanh, liên kết. Để làm được điều đó trước hết công ty nên tập trung vào các việc sau:
- Công ty phải xây dựng được mối quan hệ với các doanh nghiệp xây dựng trong nước cũng như nước ngoài, với mọi năng lực khác nhau đặc biệt là doanh nghiệp trong ngành.
- Xây dựng chiến lược liên doanh, liên kết trên cơ sở hợp tác tránh rủi ro, tăng cường hơn nữa sức cạnh tranh của mình. Liên kết ở đây diễn ra với nhiều nội dung phong phú ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất mở rộng, từ khâu chuẩn bị các yếu tố cho quá trình thi công công trình...
Như vậy:
Hoạt động liên doanh, liên kết không chỉ góp phần khắc phục những yếu điểm của công ty mà còn mang lại hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Thông qua liên doanh, liên kết mà công ty có thể học hỏi được kinh nghiệm trong quản lý cũng như thi công của đối tác, công ty có thể thâm nhập vào thị được sâu hơn và rộng hơn.
Để phát huy được hiệu quả liên doanh, liên kết công ty phải tập trung vào việc thực hiện các nội dung sau:
+ Xác định rõ nhu cầu và mục tiêu liên kết kinh tế của công ty
+ Đánh giá đúng các mặt mạnh, mặt yếu và phương hướng chiến lược của các nhà thầu khác, những toan tính của họ với đối tượng đấu thầu.
+ Lựa chọn hình thức tổ chức thực hiện quan hệ liên kết kinh tế thích hợp.
+ Thiết lập bộ máy quản lý hoạt động liên doanh liên kết
+ Xây dựng và hoàn chỉnh luận chứng kinh tế kỹ thuật về hoạt động liên doanh, liên kết giữa công ty với đối tác.
+ Đào tạo đội ngũ chuyên gia kinh tế kỹ thuật giỏi, có năng lực, bản lĩnh và biết phán đoán tình thế để đưa ra các giải pháp thích hợp.
+ Thu thập hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về đối tượng đấu thầu, bên mời thầu và các nhà thầu khác cùng tham dự.
7. Chiến lược cạnh tranh bằng giá dự thầu thấp.
Trong điều kiện sự cạnh tranh về giá trên thị trường xây dựng ở Việt Nam còn cao, thì việc đặt giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh cho công ty. Hơn nữa, chiến lược này cũng phù hợp do sức ép về việc làm trong công ty còn lớn và khi công ty muốn gây dựng uy tín ở thị trường mới hoặc do quan hệ của công ty với chủ đầu tư. Khi áp dụng chiến lược này công ty cần phải lấy điểm hoà vốn làm cơ sở, nếu giá mà thấp không đủ trang trải chi phí dẫn đến thua lỗ thì tuyệt nhiên không làm vì như thế chỉ làm tăng thêm gánh nặng tài chính cho côngty mà thôi.
Để có thể áp dụng chiến lược đặt giá thầu thấp công ty cần tăng cường công tác tiết kiệm nguyên vật liệu trong quá trình thi công, chi phí quản lý (cắt giảm bộ máy quản lý theo hướng tinh giản và có hiệu quả), các chi phí khác như chi phí điện nước trong công ty thông qua việc nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm cho toàn cán bộ nhân viên công ty.
II. Các kiến nghị với Nhà nước.
Các sản phẩm xây lắp chủ yếu là bán cho Nhà nước, tiền vay tín dụng của chủ đầu tư và doanh nghiệp đều do các ngân hàng quản lý, công tác thanh tra giám sát phải trải qua các khâu như nhau. Vì vâỵ, Nhà nước nên gộp hai quá trình này lại làm một, tức là chủ đầu tư vay thì doanh nghiệp nhận thầu không phải vay nữa có như vậy mới nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư và doanh nghiệp xây lắp.
- Cần có những biện pháp để xoá bỏ hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động đấu thầu xây lắp như hiện tượng “đi đêm, móc ngoặc, mua bán thầu...” đang khá phổ biến và làm phá vỡ nguyên tắc bình đẳng và công khai trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng làm ăn chân chính.
- Việc phân chia gói thầu cho một dự án đặc biệt là dự án có vốn đầu tư nước ngoài và các công trình lớn có vốn đầu tư của Nhà nước cần hợp lý nhằm khai thác tiềm năng trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng trong nước có thể dự thầu độc lập. Thực trạng hiện nay cho thấy các dự án nói trên chủ yếu sử dụng tư vấn nước ngoài và họ đã lợi dụng sơ hở trong cơ chế đấu thầu để tự chia thành các gói thầu quá lớn đòi hỏi các điều kiện dự thầu cao và khó khăn làm cho các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam không thể tham gia hoặc tham gia dự thầu độc lập được.
Nhà nước cần ưu tiên và thận trọng hơn khi đấu thầu đối với các công trình mà doanh nghiệp trong nước có khả năng làm 60% thì không mang ra đấu thầu quốc tế. Vì trong thời gian này khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp nên khi tham gia đấu thầu quốc tế tỷ lệ trúng thầu rất thấp sau đó lại phải chấp nhận làm thầu phụ.
- Bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường xây dựng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng tham gia vào hoạt động đấu thầu.
- Cụ thể hoá các định hướng, kế hoạch xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của Nhà nước.
- Không ngừng hoàn thiện các hệ thống tiêu chuẩn hoá các định hướng kế hoạch xây dựng hệ thống định mức.
Kết luận
Kinh tế thị trường với những quy luật vốn dĩ của nó, trong đó quy luật cạnh tranh đã thực sự là môi trường tôi luyện cho các doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tồn tại, đứng vững và không ngừng vươn lên trong thị trường cạnh tranh khốc liệt chính là kết quả của quá trình phấn đấu không ngừng của các doanh nghiệp. Là quá trình tìm tòi, sáng tạo tìm ra những hướng đi đúng đắn nhất cho bản thân mình. Chính vì vậy, bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia thị trường đều phải hiểu và áp dụng một cách có hiệu quả nhất các công cụ cạnh tranh trong thực tế, tìm mọi biện pháp nâng cao sức cạnh tranh, liên kết các nguồn lực của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng hơn các đối thủ cạnh tranh.
Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông tuy đã bước đầu đạt được những kết quả đáng mừng, song để tồn tại và phát triển trong tương lai thì việc làm thế nào để tiếp tục nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh là điều cần thiết.
Dựa trên những kiến thức đã học tập và nghiên cứu, áp dụng vào thực tiễn công ty. Đề tài “ Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông” đã trình bầy một cách cơ bản nhất các vẫn đề cạnh tranh như tình hình cạnh tranh của Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông hiện nay. Qua đó, cũng đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trong thời gian tới. Việc áp dụng đồng bộ các giải pháp hy vọng sẽ giúp công ty hạn chế được những điểm yếu và ngày càng tạo được nhiều lợi thế cạnh tranh so với đối thủ cạnh tranh. Đó là cơ sở vững chắc cho sự vươn lên của công ty trong thời gian tới. Một lần nữa, Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm hướng dẫn và sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Phạm Văn Minh cùng các cô chú, các anh chị trong Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.
tài liệu tham khảo
1. Kinh tế quản trị kinh doanh xây dựng.
Tác giả: Nguyễn Văn Chọn. NXB Khoa học & Kỹ thuật – 1996
2. Chiến lược cạnh tranh.
Tác giả: Micheal Porter. NXB Khoa học & Kỹ thuật – 1996
3. Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh
Tác giả: Trần Xuân Kiên. NXB Thống kê Hà - Nội – 1998
4. Giáo trình Kinh tế và kinh doanh xây dựng
Chủ biên PTS Lê Công Hoà - ĐHKTQD Hà Nội – 1999
5. Vũ khí cạnh tranh thị trường
Tác giả: Trần Hoàng Kim – Lệ Thu
NXB. Tạp chí Thống kê - 1992
6. Chiến lược và sách lược phát triển kinh doanh
Tác giả: Garry D.Smith và Danny Karnold, Bobby G. Bizzell
NXB Thống kê - 1997
7. Các Báo cáo tài chính, lao động, máy móc thiết bị của Công ty Cổ phần Điện nhẹ viễn thông
8. Các tạp chí: Kinh tế và phát triển; Công nghiệp; Xây dựng; Nghiên cứu kinh tế; CS và SK.
9.Tạp chí xây dựng các số:số tháng 12 các năm 1998,1999,2000. Số 2,3 năm2001
10.giáo trình “kinh tế quản lý công nghiệp” GS-PTS Nguyễn Đình Phan (chủ biên). NXB Giáo dục 1999
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0043.doc