Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam .
mục lục
Lời nói đầu
ChươngI: một số nội dung lý luận về công tác quản lý và ứng dụng CNTT trong quản lý
I :Nhận thức chung về công tác quản lý và ứng dụng cntt trong quản lý
1.1: Khái niệm quản lý
1.1.1:Chức năng và nhiệm vụ của quản trị
1.1.2:Vai trò của quản trị
1.2: Khái niệm CNTT
1.2.1: Sự hình thành và phát triển của CNTT
1.2.2 : Các thành phần cơ bản củ
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tại Trung tâm Hội chợ triển lãm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a CNTT
1.2.3: Vai trò của CNTT trong quản lý
1.2.4: Chức năng của CNTT
II: Nội dung của hoạt động ứng dụng CNTT trong quản lý
2.1: ứng dụng CNTT là gì
2.2: Nội dung của hoạt động ứng dụng CNTT trong quản lý
III: Nhận thức chung về hiệu quả kinh tế và hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
3.1: Khái niệm hiệu quả kinh tế
3.2: Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
3.3: Những nhân tố tác động đến hiệu quả của ứng dụng CNTT
Chương II: Thực trạng việc ứng dụng CNTT tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam
I: vàI nét về quá trình hình thành và phát triển của trung tâm hội chợ triển lãm việt nam
1.1: Quá trình hình thành và phát triển
1.2: Đặc điểm hoạt động của trung tâm
1.3: Chức năng, nhiệm vụ của đơn vị
1.4:Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban
1.5: Kết quả hoạt động kinh doanh của Trung tâm trong thời gian qua
1.6: Phương hướng hoạt động của dơn vị trong thời gian tới
iI: Thực trạng trang thiết bị CNTT tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam
2.1: Những lợi ích cụ thể của CNTT trong hoạt động quản lý
2.2: Thực trạng ứng dụngCNTT tại Trung tâm
2.3: Thực trạng trang thiết bị kỹ thuật thông tin tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam
2.4: Tổ chức CNTT tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam
Iii: Kết quả ứng dụng CNTT tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam và nhận xét
3.1: Thành tựu
3.2: Tồn tại và nguyên nhân
3.3: Đánh giá và nhận xét
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam
I: Phương hướng
1.1: áp dụng một số quy chế chặt chẽ về công tác thông tin tại Trung tâm
1.2: Đưa CNTT vào các mặt hoạt động và swr dụng phần mềm ứng dụng phù hợp với đơn vị mình
1.3: Xin cấp thêm kinh phí từ ngân sách nhà nước
1.4: Cử cán bộ tham gia vào các lớp học nâng cao trình độ
II: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT tại Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam
2.1: Hoàn thiện công tác thông tin
2.2: Xây dựng phần mềm ứng dụng
2.3: Đầu tư trang thiết bị công nghệ
2.4: Chú trọng đào tạo nhân sự quản lý
III: Một số kiến nghị đối với nhà nước
3.1: Hoàn thiện công tác quản lý xuất, nhập khẩu phần mềm ứng dụng
3.2: Đào tạo chuyên gia về CNTT
3.3: Đầu tư trang thiết bị để xây dựng phần mềm ứng dụng
3.4: Quản lý mạng LAN, WAN chặt chẽ
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
Lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của một loại hình kĩ thuật đặc trưng quyết định sự phát triển của xã hội loài người ở giai đoạn đó. Thời kì đồ đá, đồ đồng phát triển cao hơn các thời kỳ trước đó là nhờ sự xuất hiện và phát triển của các công cụ bằng đá, đồng. Chính khả năng dễ chế tạo thành công các loại công cụ khác nhau và tính hiệu quả của nó đã làm cho chất lượng cuộc sống của con người được nâng cao hơn. Những thế kỷ sau đó, nhờ những cuộc cách mạng công nghiệp mà bộ mặt của thế giới đã thay đổi rất nhiều. Thế kỷ XX đã chứng kiến một sự “Bùng nổ thông tin” có thể được xem như một phần của cuộc cách mạng công nghệ liên tục. CNTT đã từng bước đi vào các ngành và chiếm một vị trí quan trọng. Chính nhờ CNTT mà con người đã đạt được những thành tựu lớn trong khoa học tự nhiên và xã hội. Cùng với sự phát triển về khoa học kĩ thuật chung của cả nước, các hoạt động quản lý đang dần từng bước được hoàn thiện và hiện đại hoá đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Chính điều đó khẳng định rằng xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng theo xu hướng toàn cầu hoá về mọi lĩnh vực nhằm giải phóng sức lao động và làm phong phú thêm đời sống vật chất và tinh thần của con người. Điều đó đặt ra cho công tác quản lý một sự lựa chọn duy nhất là phải cải tiến công tác quản lý. Có thể nói đó là cả một gánh nặng cho hệ thống hành chính giúp việc cho các nhà quản lý. Chính vì lý do này mà có rất nhiều nhà quản lý đã nhìn nhận năng lực tiềm tàng của hệ thống máy vi tính trong quản lý nhân sự và điều hành sản xuất. Thật vậy, việc áp dụng CNTT vào quản lý không chỉ phục vụ cho nhu cầu trước mắt đơn thuần mà nó còn phải thực sự là nền móng khởi đầu cho sự phát triển của tương lai.
Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam có chức năng là thông qua việc tổ chức các hội chợ để thông tin về kinh tế kĩ thuật, tuyên truyền động viên giáo dục về chính trị, tư tưởng, kích thích phát triển sản xuất thông qua các hội chợ để giúp nhà sản xuất, các doanh nghiệp quảng cáo sản phẩm của mình. Để thông tin đến khách hàng được nhanh nhất đòi hỏi trung tâm phải được trang bị một hệ thống thiết bị hiện đại mà tiêu biểu là hệ thống máy vi tính. Nhưng để ứng dụng CNTT trong quản lý đạt được kết quả cao thì đòi hỏi sự nỗ lực học hỏi không ngừng của các cán bộ nhân viên trong trung tâm cùng với việc đẩy mạnh hiện đại hoá trang thiết bị. Đó là xu thế tất yếu đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia và toàn thế giới phải đi theo.
Xuất phát từ thực tiễn của trung tâm, em đã mạnh dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT trong quản lý tại TT HCTLVN” làm đề tài chuyên đề và luận văn tốt nghiệp. Trọng tâm của đề tài này nhằm đề cập đến một số biện pháp đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT vào quản lý để tạo ra hiệu quả công việc cao nhất. Chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Một số nội dung lý luận về công tác quản lý và ứng dụng CNTT trong quản lý
Chương II: Thực trạng việc ứng dụng CNTT tại TT HCTLVN
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT tại Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam
Để có được bài báo cáo chuyên đề này, ngoài những nỗ lực và cố gắng của bản thân, em còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, chú anh chị trong cơ quan cũng như của nhà trường và thầy cô. Song do lượng kiến thức còn hạn chế, khối lượng công việc lớn nên chuyên để không tránh khỏi thiếu sót. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để luận văn sắp tới của em hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị tại Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam cũng như thầy PGS-TS Vũ Phán, ThS Vũ Thị Minh Hiền đã giúp đỡ em trong thời gian qua.
Chương I : Một số nội dung lý luận về công tác quản lý và ứng dụng CNTT trong quản lý
I: Nhận thức chung về công tác quản lý và ứng dụng CNTT trong quản lý
1.1: Khái niệm quản lý
Trong thời đại ngày nay để thành công trong kinh doanh bất kì một công ty, doanh nghiệp nào cũng phải chú trọng công tác quản lý. Nhưng để quản lý được tốt thì chúng ta phải hiểu quản lý là gì và tại sao phải quản lý. Hiện nay chúng ta thường dùng các từ quản lý và quản trị , thực chất ta có thể hiểu như sau:
Quản lý là thuật ngữ được dùng trong kinh doanh. Quản trị là thuật ngữ được sử dụng trong nội bộ , đặt dưới sự điều khiển của chủ doanh nghiệp.
*Có nhiều cách hiểu về thuật ngữ quản trị như sau:
Có người cho rằng quản trị là các hoạt động thực hiện nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc thông qua những nỗ lực của người khác.
Có người cho rằng quản trị là quá trình do một hay nhiều người thực hiện nhằm phối hợp các hoạt động của nhiều người để đạt được những kết quả mà một người hành động riêng rẽ thì không thể đạt được.
Có người cho rằng quản trị là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những cộng sự khác nhau cùng chung một tổ chức.
- Có tác giả đơn giản cho rằng quản trị là sự có trách nhiệm về một cái gì đó.
Tóm lại ta có thể hiểu định nghĩa quản trị như sau: Quản trị là quá trình làm việc với và thông qua những người khác để thực hiện các mục tiêu của tổ chức trong một môi trường luôn biến động.
Thông qua những định nghĩa và cách hiểu trên, chúng ta có thể thấy được tại sao phải nghiên cứu quản trị?
-Vì xã hội của chúng ta dựa vào những định chế và tổ chức chuyên môn hoá để cung cấp hàng hoá và những dịch vụ mà chúng ta cần. Những tổ chức này được điều khiển và chỉ đạo bằng những quyết định của một hay nhiều cá nhân được chỉ định làm nhà quản trị. Trong xã hội TBCN thì chính những nhà quản trị là người phân bổ các nguồn tài nguyên của xã hội cho những mục tiêu khác nhau và thường hay cạnh tranh nhau. Những nhà quản trị có quyền và trách nhiệm tạo ra những sản phẩm an toàn và không an toàn, tìm kiếm hoà bình hay chiến tranh, xây dựng hay phá huỷ các thành phố, làm sạch hay ô nhiễm môi trường. Những nhà quản trị thiết lập ra những điều kiện để đảm bảo cho chúng ta có việc làm, có thu nhập, có lối sống, có các dịch vụ, được bảo vệ, được chăm sóc sức khoẻ và có tri thức.Thật có tìm ra được một người nào không phải là nhà quản trị và cũng không chịu tác động bởi những quyết định của một nhà quản trị.
-Thêm vào đó, những cá nhân không được đào tạo làm nhà quản trị thường lại hay ở những cương vị quản trị. Bất cứ một cá nhân nào, sớm hay muộn cũng sẽ trở thành nhà quản trị , họ ít nhất cũng trở thành người quản lý một gia đình.
-Cuối cùng, nhờ có quản trị mà những nước TBCN như Nhật, Pháp, Mỹ …đã thành công trong mọi lĩnh vực, cả về kinh tế và văn hoá. Để đối phó với những biến đổi của môi trường và quản lý tốt lực lượng lao động thì bất kỳ nước nào, cả TBCN lẫn CNXH, …đều phải lấy quản trị làm đầu. Chính những thách thức này đòi hỏi phải có những người được đào tạo tốt , có trình độ kiến thức và tích cực làm việc và quyết định lấy sự nghiệp quản trị làm giá trị của đời mình.
Quản trị bao gồm các yếu tố sau:
- Phải có một chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra các tác động và một đối tượng bị quản trị phải tiếp nhận các tác động của chủ thể quản trị tạo ra. Tác động có thể là một lần hay liên tục.
-Phải có một mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng, mục tiêu là căn cứ để chủ thể ra quyết định.
Chủ thể có thể là một người, nhiều người, một thiết bị. Còn đối tượng có thể là con người, máy móc, đất đai, thiết bị, hầm mỏ…
Chủ thể quản trị
Môi trường
Mục tiêu
Đối tượng bị quản trị
1.1.1: Chức năng và nhiệm vụ của quản trị
Có 5 chức năng quản trị căn bản là: hoạch định, tổ chức, chỉ huy, phối hợp, kiểm soát. Trải qua thời gian các chức năng này được phát triển thành các chức năng khác:
*Hoạch định: là việc xác định các mục tiêu và mục đích mà tổ chức phải hoàn thành trong tương lai và quyết định về cách thức để đạt được những mục tiêu đó. Hoạch địch gồm những yếu tố sau:
-Thiết lập các mục tiêu (phương hướng) cho tổ chức, như mức tăng lợi nhuận, chi phí, thị phần…
-Nhận diện các nguồn lực của tổ chức để thực hiện các mục tiêu đó.
-Quyết định về hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu đã đề ra
Thực chất của hoạch định là nhằm hoàn thành các mục đích, mục tiêu đặt ra, xuất phát từ bản chất của một hệ thống có tổ chức, để thực hiện mục đích chung của doanh nghiệp thông qua sự phối hợp chặt chẽ của mọi người trong doanh nghiệp.
Chúng ta đều biết mọi doanh nghiệp có chung một động cơ dài hạn là sự tăng trưởng không ngừng cho doanh nghiệp, tránh được các rủi ro, kinh doanh có lãi và thoả mãn các lợi ích xã hội, doanh nghiệp và người lao động theo đúng luật định và thông lệ của thị trường. Bởi vậy, chức năng hoạch địch được các doanh nghiệp rất coi trọng.
Chức năng ra quyết định: là quá trình lựa chọn một phương án hành động hợp lý nhất trong số nhiều phương án đã dự kiến và đưa vào xem xét. Trong một thế giới rất phức tạp ngày nay, việc đề ra những quyết định đúng đắn là những thách thức rất quan trọng đối với các nhà quản trị.
* Chức năng tổ chức và phối hợp: là quá trình tạo ra một cơ cấu các mối quan hệ giữc các thành viên trong tổ chức. Thông qua đó cho phép họ thực hiện các kế hoạch và hoàn thành các mục tiêu chung của tổ chức bằng cách thiết lập một tổ chức hoạt động hữu hiệu, các nhà quản trị có thể phối hợp tốt hơn các nguồn nguyên liệu và nhân lực.
Tiến trình tổ chức bao gồm vừa thiết lập các bộ phận, phòng ban và xây dựng các bản mô tả công việc. Việc tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự cũng xuất phát trực tiếp từ các chức năng hoạch định và tổ chức.
*Chức năng nhân sự : Bao gồm các nhiệm vụ tuyển mộ, tuyển chọn, huấn luyện và phát triển nguồn nhân lực. Nhờ đó mỗi người có thể đóng góp nỗ lực của mình vào thành công chung của tổ chức. Quản trị nhân sự gồm 2 nội dung:
Quản lý con người: đó là công việc quản lý hàng ngày đối với tập thể lao động, là công việc xây dựng các ê kíp điều động, phản ứng tạo cho doanh nghiệp có khả năng phát hiện những sai sót về mặt kinh tế kĩ thuật.
Tối ưu hoá các nguồn lực: là công việc sắp đặt của những người có trách nhiệm những kĩ thuật cụ thể và những công cụ để nắm được những thông số khác nhau trong chính sách nhân sự: việc làm, đào tạo, tiền lương, quan hệ xã hội.
*Chức năng truyền thông: các nhà quản trị có trách nhiệm truyền đạt tới tất cả các thành viên trong tổ chức tri thức, kĩ thuật, chỉ thị, mệnh lệnh, và những thông tin cần thiết để thực hiện công việc. Mặt khác, họ cũng nhận những thông tin phản hồi từ những người nhận thông tin. Đó là hai mặt có tác động hỗ trợ nhau để các thành viên hiểu nhau hơn và giúp cho việc truyền tải thông tin được kịp thời .
*Chức năng thúc đẩy và động viên: một trong những phương diện rất quan trong trong quản trị hiện đại là thúc đẩy và động viên theo đuổi những mục tiêu đã lựa chọn. Bằng cách thoả mãn các nhu cầu và đáp ứng những kỳ vọng của họ thông qua những giá trị vật chất và tinh thần. Chính điều này góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy các thành viên trong tổ chức đóng góp ý kiến hữu ích và tận dụng mọi tiềm năng của bản thân để hoần thành tốt công việc.
*Chức năng chỉ huy, lãnh đạo:
Sau khi đã hoạch định, tạo ra một tổ chức và tuyển chọn nhân sự phù hợp, các nhà quản trị phải lãnh đạo tổ chức. Chỉ huy bao hàm việc đưa ra các mệnh lệnh, truyền đạt thông tin đến mọi người và động viên thúc đẩy họ hoàn thành những nhiệm vụ cần thiết để thực hiện những mục tiêu của tổ chức. Chỉ huy có mối quan hệ chặt chẽ với tất cả các chức năng quản trị khác.
*Chức năng kiểm soát: là quá trình giám sát một cách chủ động với một công việc hay một tổ chức thực hiện nhiệm vụ và tiến hành những hoạt động điều chỉnh cần thiết. Hiệu suất là sự kì vọng về công việc được hoàn thành với chi phí ohù hợp. Nếu không đạt được hiệu suất mong muốn, nhà quản trị phaỉ áp dụng các biện pháp điều chỉnh cần thiết. Bởi vậy trong quá trình kiểm soát mọi hành động đều là tiến trình tự điều chỉnh liên tục.
Tóm lại các chức năng của quản trị đều rất quan trọng và có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau nhằm giúp các nhà quản trị đưa ra được những quyết định kịp thời và chính xác nhất.
1.1.2: Vai trò của quản trị
Nói đến vai trò của quản trị, chúng ta đều biết rằng đó chính là nói đến vai trò của các nhà quản trị bởi vì con người chính là đối tượng quản trị hay nói cách khác, đó chính là chủ thể của quản trị.vậy vai trò của các nhà quản trị là gì?
*Liên kết giữa các cá nhân
Những vai trò này tập trung vào mối liên hệ giữa các cá nhân. Vai trò thủ trưởng danh dự, người lãnh đạo, người liên lạc đều bắt nguồn từ quyền lực chính thức.do đảm nhiệm những vai trò này mà nhà quản trị có khả năng xâm nhập các vai trò thông tin rồi từ đó dẫn đến các vai trò ra quyết định.
-Vai trò lãnh đạo của nhà quản trị đòi hỏi phải chỉ đạo và điều phối các hoạt động của người dưới quyền. Vai trò này có thể đòi hỏi phải bố trí nhân sự (tuyển dụng, huấn luyện, đề bạt, sa thải) và đôn đốc những người dưới quyền. Vai trò lãnh đạo cũng đòi hỏi phải kiểm tra, đảm bảo mọi việc đều diễn ra theo đúng dự kiến.
-Vai trò mối liên lạc buộc nhà quản trị phải can dự vào những mối liên hệ giữa các cá nhân ở bên ngoài phạm vi chỉ huy của mình. Việc này đòi hỏi phải có nhiều cuộc tiếp xúc cả ở trong lẫn ở ngoìa tổ chức.ở bên trong tổ chức những nhà quản trị phải giao tiếp với rất nhiều nhà quản trị và cá nhân khác. Họ phải duy trì mối quan hệ tốt với những nhà quản trị đã giao việc cho đơi vị cũng như những người nhận việc của đơn vị. Cuối cùng những nhà quản trị phải quan hệ tốt với những nhân vật quan trọng ở bên ngoài tổ chức.
*Vai trò thông tin
Chúng ta phải đặt nhà quản trị vào vị trí trung tâm tiếp nhận và phát đi những thông tin đặc biệt. Các mối quan hệ giao tiếp giữa các ca nhân hỗ trợ nhà quản trị thu thập và tiếp nhận thông tin trong vai trò người theo dõi và truyền đạt thông tin trong vai trò người phổ biến và người phát ngôn.
*Vai trò người theo dõi
Vai trò này đòi hỏi nhà quản trị phỉa quan sát môi trường để thu thập thông tin về những biến động, những thay đổi, những cơ hội, những vấn đề có thể tác động đến đơn vị mình. Những mối quan hệ chính thức và không chính thức có thể được xây dựng trong vai trò mối liên lạc thường là có ích trong trường hợp này. Thông tin đó có thể đề cập đến những nước đi của đối thủ cạnh tranh có thể ảnh hưởng đến toàn bộ tổ chức, hay cho biết là có thể cầu viện ai khi người cung ứng một bộ phận quan trọng thường ngày không thể thực hiện đơn hàng.
*Vai trò người phổ biến
Đòi hỏi nhà quản trị phải cung cấp thông tin quan trọng hay giành riêng cho những ngưòi dưới quyền mà thông thường họ không thể biết hay không thể giành được.
*Vai trò ra quyết định
Tuy việc phát triển các mối liên hệ giữa các cá nhân và việc thu thập thông tin đều có ý nghĩa hết sức quan trọng nhưng nó chỉ là đầu vào cơ bản của quá trình ra quyết định. Có một số ngươid vho rằng những vai trò ra quyết định, người chủ trì, xử lý xáo trộn, người phân bổ các nguồn tài nguyên là những nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà quản trị.
Qua những vai trò trên của quản trị ta có thể thấy rằng nhà quản trị đóng vai trò quyết định sự thành, bại trong kinh doanh của bất cứ đơn vị , công ty nào. Nhưng không phải ai cũng có thể tham gia vào kinh doanh với tư cách nhà quản trị. Muốn kinh doanh thành công , người quản trị cần phải được đào tạo một cách có hệ thống và chu đáo. khi đó mới nhận thức một cách chuẩn xác và đầy đủ các quy luật khách quan xuất hiện trong quá trình kinh doanh, đồng thời có phương pháp và nghệ thuật thích hợp nhằm tuân thủ các đòi hỏi của quy luật đó.
1.2: Khái niệm CNTT
Cuộc cách mạng CNTT diễn ra sôi động hiện nay đang tác động sâu sắc và trực tiếp đến mọi hoạt động kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới , mở ra một thời kỳ phát triển mới khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI. Nội dung chủ đạo của bước chuyển biến lần này là sự phát triển tùe nền văn minh công nghiệp tién lên nền văn minh thông tin và trí tuệ , mà cơ sở của nó là sự phát triển từ nền kinh tế công nghiệp truyền thống sang nền kinh tế tri thức. Về cơ bản, bước chuyển biến lần này được nảy sinh và thực hiện chủ yếu tại các nước đã có nền kinh tế phát triển. Yut nhiên với xu thế toàn cầu hoá hiện nay, tác động của bước chuyển vĩ đại này đã lan toả nhanh chóng khắp các nước trên thế giới. Xu thế này đang tạo ra những cơ hội to lớn và đồng thời cũng tạo ra những thách thức gay gắt cho các nước đang phát triển đang tìm đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế và xã hội của mình.
Tại nước ta, CNTT mới được phổ biến rộng rãi khoảng gần chục năm nay. Do đây là một khái niệm tương đối mới nên có nhiều định nghĩa khác nhau về nó. Mặt khác đây là một khái niệm khà rộng , mỗi định nghĩa đưa ra thườngphụ thuộc vào góc độ nhìn khái niệm này thế nào. Do vậy hiện nay chưa có một khái niệm chung nhất về CNTT nhưng theo tôi hiện nay có một khái niệm có thể định nghĩa được về CNTT :
CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện, công cụ kỹ thuật hiện đại-chủ yếu là máy tính điện tử và các mạng viễn thông nhằm cung cấp các giải pháp toàn thể để tổ chức, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
Trong giai đoạn mới của sự phát triển kinh tế và xã hội dưới tác động của CNTT, tri thức và ý tưởng sáng tạo đóng vai trò trung tâm có ý nghĩa quyết định. Vì vậy hầu hết các quốc gia, các tổ chức và công ty đều hiểu rằng vị trí tơưng lai của họ trong thế giới và trên thị trường quốc tế phụ thuộc vào việc liệu họ có tận dụng được CNTT để phát triển một cách nhanh chóng mọi năng lực đổi mới nền sản xuất và kinh tế của họ không? Không những đối với các nước phát triển mà nhiều nước đang phát triền trong khu vực cũng có những chính sách mạnh mẽ phát triển CNTT trong những thập niên gần đây và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Với các mục đích phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với các nhu cầu như trên chúng ta thấy ngoài việc sắp xếp một hệ thống quản trị hợp lý thì việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào công tác quản lý sẽ đem lại hiệu quả và những lợi ích.Các phòng ban trong tương lai là văn phòng mà trong đó những chức năng hỗ trợ thủ công cố hữu sẽ được thay thế bằng những công cụ trợ giúp hiện đại của CNTT. Có thể nói CNTT là công cụ đắc lực trợ giúp cho các hoạt động quản lý trở nên thuận tiện, góp phần củng cố cho sự vận hành trôi chảy cũng như tăng hiệu quả hoạt động của đơn vị.
1.2.1: Sự hình thành và phát triển của CNTT.
Ngay từ khi con người hình thành nên một xã hội thì nhu cầu về tính toán và tìm kiếm thông tin thì con người tìm cách sáng chế ra những cỗ máy có thể xử lý được các thông tin. Do vậy có thể nói CNTT được hình thành ngay từ khi con người sáng chế ra các loại máy tự động thực hiện một số chức năng xử lý thông tin mà trước hết là các máy tính điện tử. Từ ba nghìn năm trước công nguyên một dạng ban đầu của bàn tính được sử dụng ở Châu á phục vụ cho việc tính toán của các thương gia. Thế giới không ngừng phát triển cho đến năm 1642 Blaise Pascal thiết kế máy tính (calculator) có chức năng đầu tiên, có thể thực hiện công việc của 6 nhân viên kế toán và nó được sử dụng cho tới giữa thế kỷ XX. Có thể nói vào những năm 1937 cuả thế kỷ XX, năm đánh dấu cho sự ra đời của máy vi tính khi Jonh Atanasoff chế tạo máy tính điẹn tử số hoá đầu tiên. Năm 1946 các kỹ sư tại trường tổng hợp Pennsylvania trình diễn ENIAC-máy tính điẹn tử thông dụng đầu tiên. ENIAC(Electronic Numerical Integrator and Computer) là chiếc máy tính số hoá tốc độ đầu tiên báo hiệu sự khởi đầu của ngành công nghiệp máy tính. Chiếc may tính này chưa hơn 17.000 ống chân không, 70.000 điện trở và 6.000 công tắc với khối lượng khoảng 3 tấn, nó có thể tính toán được 5.000 phép cộng trong một giây. Tiếp đó là việc sản xuất hàng loạt máy tính điện tử thế hệ thứ nhất và thứ hai dùng đèn điện tử trong thập kỷ 50, chủ yếu dược sử dụng trong tính toán khoa học-kỹ thuật. Vào những năm giữa của thập kỷ 60 chúng ta đã sản xuất và cho ra đời các máy tính thế hệ thứ ba với kỹ thuật mạcn tích hợp và các bộ nhớ bán dẫn, máy tính điện tử bắt đầu được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong kinh doanh, quản lý kinh tế. Nhưng ở thời kỳ này máy tính điện tử vẫn còn khá công kềnh và đắt nên chỉ được trang bị cho các trung tâm tính toán và bắt đầu có các trung tâm tính toán nối mạng với nhau. Bước sang thập kỷ 70 với sự ra đời của các bộ vi xử lý đã làm cho các máy vi tính thay đổi cả về hình thức lẫn tính năng, các máy vi tính trở nên nhỏ hơn, tốc độ tính toán nhanh hơn. Điển hình là năm 1975 máy tính cá nhân Altair 8800 lần đầu tiên được tiếp thị rộng rãi và năm 1975 Data General công bố chíp máy tính tại cuộc hội thảo ở NewYork. Kỹ thuật vi xử lý khởi đầu cho cuộc cách mạng trong tin học, tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng triệu máy vi tính phục vụ nhu cầucủa tất cả mọi người với giá thành ngày càng rẻ. Khởi đầu cho việc ra đời và sản xuất của các bộ vi xử lý là các hãng Intel được thành lập năm 1986. Thập kỷ 80 là thời kỳ phát triển nhanh chóng của công nghệ tin học với sự ra đời củ máy tính xách tay, ổ CD-Rom, máy in LaserJet và đặc biệt là sự ra đời của hãng phần mềm Microsoft với việc ra đời của phiên bản Windows sử dụng giao diện đồ hoạ làm cho việc phổ biến tin học trở nên dễ dàng.Thập kỷ 90 là thập kỷ đánh dấu tiến bộ vượt bậc của công nghệ vi xử lý. Các chíp điện tử được sản xuất nhỏ hơn nhưng lại có tốc độ tính toán rất lớn. Thế giới đã bước sang thế kỷ XXI – thế kỷ được coi là kỷ nguyên của CNTT và các nhà khoa học hiện nay không chỉ chế tạo máy tính có tốc độ tính toán nhanh mà còn đang đi vào chế tạo các máy tính thông minh có thể làm được một việc chứ không chỉ biết tính toán thông thường. Gắn liền với sự ra đời của máy tính thì việc ra đời của mạng Internet cũng là một thành tựu trong sự phát triển của CNTT . Khởi đầu cho việc ra đời mạng Internet là việc bộ quốc phòng Mỹ thuê một hãng máy tính ở Massachusetts là Bolt Beranek and Newman xậy dựng ARPAnet là mạng kết nối cac máy tính nghiên cứu trong cả nước. Vào mùa thu năm 1969 hãng này đã kết nối được các máy tính của viện nghiên cứu Stanfort, UCLA, UC Santa Barbara và trường tổng hợp Utah. Năm 1973 các nhà thiết kế đã hợp nhất các mạng riêng biệt trong một dự án mang tên “Interetting Problem “( Vấn đề kết nối mạng ). Đến năm 1983 có khoảng 400 máy tính được kết nối và năm 1986 National Science Foundation thành lập NSFnet liên két các mạng khu vực qua một mạng xương sống qứôc gia tốc độ cao. Nhưng Internet thương mại mà chúng ta biết đến ngày nay mãi đến những năm 90 mới hình thành. Với sự phát triển của các chương trình duyệt Web và nội dung thông tin gần gũi với người dùng mà các chương trình duyệt này hỗ trợ.các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến trên mạng Internet như Compuserve, AOL, Yahoo, Hotmail đã nhanh chóng kết nối vào Internet. Hiện nay có đến trên 200 triệu ngưòi trên khắp thế giới sử dụng Internet và con số dự đoán sẽ tăng lên 300 triệu người vào năm 2005.
1.2.2: Các thành phần cơ bản của CNTT
Giáo sư Jim Senn là một giảng viên CNTT thuộc trường đại học Georgia. Ông là trưởng khoa Hệ thống Thông tin Máy tính, đồng thời là giám đốc nhóm quản trị CNTT, các chương trình đào tạo của ông được tạp chí Computer World đánh giá là một trong hai chương trình tốt nhất cùng với chương trình của Đại học Massachusetts. Trong cuốn sách nổi tiếng Information Technology in Business do ông chủ biên, ông đã trình bày các thành phần cơ bản của CNTT. Theo Jim Senn CNTT gồm 3 thành phần cơ bản sau:
*Thành phần thứ nhất: Máy tính
Theo cách hiểu đơn giản máy tính là thiết bị điện tử dùng để thu thập, xử lý, lưu cất và hiện thị gọn trên bàn làm việc, ngoài ra còn có các loại lớn về kích thước và tính năng, ví dụ: máy mini dùng để xử lý các công việc như để liên kết người dùng và dữ liệu trong phạm vi một doanh nghiệp, một bộ, một ngành, máy mainframe với các tính năng và giá cả lớn hơn máy mini dùng để xử lý nhiều công việc đồng thời và máy super rất mạnh dùng để giải các bài toán lớn và phức tạp. máy tính cùng với các thiết bị đi kèm như màn hình, máy in, thiết bị ngoại vi được gọi là phần cứng.Nếu như phần cứng đứng riêng rẽ thì sẽ không làm được gì cả mà nó cần phải có các chương trình hay còn gọi là phần mềm đi kèm để điều khiển hoạt động của phần cứng( còn gọi là phần mèm hệ thống). Ngoài phần cứng và phần mềm ra, một yếu tố quan trọng nữa của CNTT là hệ thống( tổ chức, xã hội) mà qua đó dòng thông tin vận chuyển từ cá nhân hoặc cơ quan này sang cơ quan khác. Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, máy tính gồm phần cứng, phần mềm và thông tin.
* Thành phần thứ hai: mạng truyền thông
Một tính năng nữa của CNTT đó là việc cho phép liên kết, gửi và nhận thông tin qua mạng. Qua mạng truyền thông, các máy tính (còn gọi là trạm làm việc) ở các vị trí khác nhau được nối lại với nhau bằng các đường truyền thông dụng nhất. Việc đưa các mạng truyền thông vào sư dụng mang tính chất cách mạng không chỉ cho cá nhân người dùng mà cho cả quản lý, sản xuất, dịch vụ của caca cơ quan quản lý nhà nứơc …bản thân mạng truyền thông cũng bao gômg cả phần cứng, phần mềm để điều khiển các thông tin trong quá trinhd chuyển vận trên mạng. Hiện nay, mạng truyền thông phát triển rất nhanh , bao gồm mạng đơn giản, mạng nội bộ (LAN- Local area Network), mạng mở rộng ( WAN- Wide area Network). Mạng quốc gia(Intranet) và mạng quốc tế (Internet).
* Thành phần thứ ba: bí quyết
Thành phần thứ ba của CNTT có tầm quan trọng không kém hai phần trên là Know- how ( tức là biết làm một việc gì đó sao cho tốt). Bí quyết bao gồm;
-Quen với các công cụ của CNTT
-có kỹ năng cần thíêt để sử dụng được các công cụ này
-Hiểu cách thức sử dụng CNTT để giải quyết vấn đề
Lợi ích của CNTT được quyết định chủ yếu bởi thành phần thứ ba này, từ việc biết dùng CNTT có thể làm được gì, làm như thế nào? Bí quyết bao gồm: con người, các quy trình nghiệp vụ và các phần mềm ứng dụng .
Tóm lại, ba thành phần của CNTT được liên kết chặt chẽ, không tách rời nhau tạo các cơ hội cho các cá nhân và tỏ chức hoạt động có hiệu quả hơn, năng thông tin. Máy tính có nhiều loại khác nhau, thông dụng nhất là máy vi tính để suất hơn.
1.3: Vai trò của CNTT trong quản lý
Ngay từ xưa, thông tin đã đóng vai trò tổ chức và phát triển xã hội. Bất cứ cộng đồng nào cũng chỉ có thể tồn tại được bằng cách truyền tin, dù đó mới chỉ là tiếng nói, tín hiệu, hình ảnh hay cử chỉ.
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học và công nghệ ngự trị trong đời sống tất cả mọi người thì thông tin- yếu tố tiếp sinh khí cho nó giữ vai trò cực kỳ quan trọng. CNTT- một trong những trụ cột của nền kinh tế tri thức cùng với công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng và công nghệ vũ trụ…sẽ được coi là con tàu vĩ đại để trở nền văn minh công nghịêp tiến vào thế kỷ 21, trong đó CNTT được coi là người điều khiển. Sự phát triển của các xa lộ thông tin liên lạc đã thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia, giữa các vùng và các đơn vị tổ chức để cùng nhau tìm kiếm lợi ích cho mình và cho nhân loại.
CNTT với sự phát triển nhanh chóng và kỳ diệu của mình đang tác động rộng khắp vào các lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. Những tác động chủ yếu của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội được tóm tắt như sau:
*Đối với công nghiệp: CNTT đã một mặt tạo ra một ngành công nghiệp mới là công nghiệp CNTT hiện đang phát triển rất mạnh mẽ, mặt khác được ứng dụng trong các quá trình sản xuất và trong tổ chức của các ngành công nghiệp vốn có để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, tạo ra sản phẩm mới có nhiêù tính năng hiện đại, tự động hoá các hoạt động thiết kế và chế tạo sản phẩm, tin học hoá các hoạt động tiếp thị, kinh doanh.
* Đối với dịch vụ: CNTT làm thay đổi một cách sâu sắc nội dung và cách thức hoạt động của nhiều loại hình dịch vụ vỗn có như trong quảng cáo và tiếp thị, thương mại, bảo hiểm, giao thông vận tải, thông tin liên lạc…CNTT cũng tạo ra nhiều ngành dịch vụ mới như các dịch ._.vụ thông tin và trí thức, văn hoá, tư vấn, đào tạo, giáo dục từ xa, y tế từ xa…CNTT tạo điều kiện cho các hoạt động dịch vụ biến đổi theo hướng tăng hàm lượng trí tuệ, vì vậy trong nhiều trường họp làm chuyển đổi vai trò của các dịch vụ đó từ chỗ phục vụ tự động sang trợ giúp, quyết định đối với khách hàng.
*Khu vực quản lý công cộng: vẫn là khu vực lớn nhất trong việc đầu tư ứng dụng CNTT, và một phần rất quan trọng là thuộc các cơ quan Nhà nước. Vì vậy, tin học hoá quản lý Nhà nước và quản lý công cộng bao gồm các lĩnh vực quản lý tài chính, ngân sách, kho bạc, thuế, hải quan, đầu tư…vẫn luôn luôn có ý nghĩa hết sức to lớn.
1.4: Chức năng của CNTT
CNTT có bốn chức năng cơ bản là thu thập, xử lý, lưu cất và truyền dữ liệu. Sử dụng các chức năng này như thế nào sẽ quyết dịng đến hiệu quae cuae việc dùng CNTT trong công việc của cá nhân hay tỏ chức. Các chức năng này có thể được thực hiện tuần tự hoặc đồng thời xen kẽ lẫn nhau.
-Thu thập :đây là quá trình lấy dữ liệu để dùng cho công việc sau này. Ví dụ: khi một cuốn sách trong thư viện được mượn , khi mua vé máy bay thì thông tin về người mua và chuyến bay được thu thập, hoặc khi một ca sĩ hát trong phòng thu thì được thu và ghi vào trong băng từ hoặc đĩa. Hay nội dung làm việc giữa phi công với sân bay và tình hình hoạt độngcủa máy bay trong một chuyến bay được thu thập vào hộp đen . Thông thường việc thu thập được tính từ khi có dữ liệu đếne khi dữ liệu được ghi vào các vật mang tin , có thể thực hiện thủ công( người nhập dữ liệu bằng máy vi tính), bán tự động (người sử dụng các thiết bị ghi nhận như máy quết hình, máy đọc mã vạch), hoặc tự động (ghi trực tiếp)
-Xử lý: hoạt động nàyliên quan trực tiếp đến máy vi tính , bao gồm các tác vụ như chuyển đổi, phân tích, tính toán , tổng hợp dữ liệu. Xử lý văn bản cho phép tạo lập văn bản , xử lý ảnh chuyển đổi các thông tin ở dạng nhìn thấy thành hình dạng số hoá sử dụng được trong máy vi tính, xử lý thông tin từ dạng này sang dạng khác (ví dụ từ dạng số sang dạng biểu đồ) , tổng hợp thông tin cần thiết và tổ chức thông tin thành các dạng phù hợp.
-Lưu cất: thông tin được lưu trữ trong các vật mang tin ( như đĩa từ, đĩa quang ở dạng máy tính ) , có thể đọc được và chuyển đổi về trạng thái gốc. Quá trình ngược lại với lưu cất là tìm kiếm và lấy ra thông tin cần thiết từ các thông tin đang lưu cất.
-Truyền: chức năng này có nhiệm vụ chuyển thông tin từ vị trí này sang vị trí khác. Ví dụ; máy điện thoại truyền tiếng nói, máy tính cũng có thể sử dụng đường điịen thoại để truyền dữ liệu. Thông thường dữ liệu được truyền giữa các máy tính trong mạng, phạm vi của mạng có thể hẹp như mạng cục bộ hay mạng toàn cầu.
Đây chính là những chức năng rất quan trọng của CNTT . Nhờ có những chức năng này mà chúng ta có thể hoàn thành các công việc một cách nhanh chóng, kịp thời trong việc đưa ra các quyết định góp phần không nhỏ làm nên những thành công trong công việc, đặc biệt là trong kinh doanh.
II: Nội dung của hoạt động ứng dụng CNTT trong quản lý
2.1: ứng dụng CNTT là gì?
CNTT ra đời với những thành tựu kỳ diệu của công nghệ tin học, máy tính, công nghệ truyền thông đã làm cho hoạt động quản lý thay đổi về cơ bản, đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong mọi hoạt động . Từ việc thực hiện thủ công lấy sức người là chủ yếu sang việc chuyển giao hầu hết công việc cho máy móc thực hiện mà vẫn đảm bảo được vai trò đặc biệt quan trọng của con người. Có thể nói, đó chính là áp dụng công nghệ thông tin vào thực tiễn.
2.2: Nội dung của hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý
Nói như vậy không phải là CNTT làm thay công việc của con người, mà nó giúp con người phát huy năng lực của mình. CNTT tạo khả năng giúp người lãnh đạo có tầm nhìn đúng đắn, có căn cứ để dự đoán chiều hướng phát triển trong tương lai, có những dữ liệu cần thiết và kịp thời để hoạch địch các hành động, đánh giá tình hình và điều chỉnh kế hoạch…bằng cách cung cấp các phương tiện thuận lợi, truy cập đến mọi nguồn tri thức và thông tin cần thiết để thực hiện công việc tốt hơn. Nó còn tiết kiệm được thời gian, công sức, đồng thời giảm nhân viên mà vẫn có thể nâng cao năng suất chất lượng công việc, cho phép nhà quản trị làm việc với năng suất cao.
Phương tiện tin học được sử dụng như một công cụ đa năng, thay thế được nhiều người, làm được nhiều công việc, từ việc đơn giản như soạn thảo văn bản đến các công việc phức tạp như lập kế hoạch, thống kê, phân tích và xử lý thông tin, dự báo kết quả…Có thể giúp nhà quản lý chỉ ở một nơi nhưng vẫn có thể tham dự được các hoạt động ở nhiều nơi khác.
Tóm lại , ta có thể nói CNTT chính là chìa khoá mở ra sự thành công cho mọi quốc gia. Bởi vì khi CNTT ra đời đã làm thay đổi hoàn toàn thế giới và đưa con người vào kỷ nguyên mới- kỷ nguyên tri thức. Và CNTT được biểu hiện ở các đặc điểm sau:
-CNTT khi ra đời và phát triển đã đưa con người thoát khỏi nền kinh tế công nghiệp và tiến tới nền kinh tế tri thức- nền kinh tế mà vai trò của con người được đề cao hơn bao giờ hết.
-CNTT làm cho cuộc cách mạng khoa học- công nghệ phát triển như vũ bão đã tạo nên hệ quả là rút ngắn chu kỳ đổi mới công nghệ-nhân tố hàng đầu trong cạnh tranh kinh tế và phát triển xã hội.
-Cuộc cách mạng CNTT phát triển đến chóng mặt làm cho thế giới thay đổi khái niệm về xử lý thông tin và làm cho người ta hiểu rằng trong kỷ nguyên công nghệ thông tin các yếu tố vô hình như thông tin và khả năng sáng tạo mới chính là những nhân tố quyết định sức mạnh cạnh tranh của mỗi quốc gia trong khi ở nền kịnh tế công nghiệp các yếu tố như nguồn vốn, lao động, tài nguyên là những nhân tố quyết định sự canh tranh của mỗi quốc gia.
-CNTT phát triển nhanh chóng thì đồng thời hình thành nhanh chong quan hệ kinh tế thương mại toàn cầu đã buộc mỗi nước phải nhanh chóng mở cửa, gấp rút hội nhập thị trường thế giới nếu như không muốn bị tụt lại so với thế giới.
-CNTT với những thành tựu kỳ diệu của nó đã giúp cho mọi người có thể làm được những việc mà mình mong muốn và làm cho cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ tiện nghi hơn so với cuộc sống trước đây.
III: Nhận thức chung về hiệu quả kinh tế và hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
3.1: Khái niệm hiệu quả kinh tế
Hiện nay không có một khái niệm cụ thể nào về hiệu quả kinh tế nhưng chúng ta có thể hiểu như sau: hiệu quả kinh tế chính là giá trị còn lại sau khi lấy tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí. Nói một cách khác chính là giá trị thặng dư. Một dự án được coi là có hiệu quả kinh tế khi nó thu được lợi ích vượt lên trên các chi phí có liên quan.
Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
3.2: Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
Những kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế . Và những chỉ tiêu này thường có nội dung tương đối ổn định như : chi phí sản xuất, doanh thu, tổng mức lợi nhuận,…còn trị số của chỉ tiêu luôn thay đổi theo thời gian và địa điểm cụ thể gắn với quá trình phân tích
Chúng ta đều biết rằng hệ thống chỉ tiêu này rất phong phú và có rất nhiều tiêu thức phân chia khác nhau:
* Theo tính chất của chỉ tiêu bao gồm:
- Chỉ tiêu số lượng: Phản ánh qui mô của kết quả hay điều kiện kinh doanh như: Doanh thu bán hàng, lượng vốn đầu tư, số lượng công nhân.
- Chỉ tiêu chất lượng phản ánh hiệu suất kinh doanh hay hiệu suất sử dụng các yếu tố sản xuất kinh doanh như: giá thành đơn vị sản phẩm hàgn hoá, mức doanh lợi năng suất thu hoạch, hiệu suất sử dụng vốn…
* Theo phương pháp tính toán bao gồm
- Chỉ tiêu tuyệt đối: thường dùng để đánh giá qui mô sản xuâtá va kết quả kinh doanh tại thời gian và không gian cụ thể như doanh số bán hàng, giá trị sản lượng hàng hoá sản xuất, lượng vốn, lượng lao động…
- Chỉ tiêu tương đối: thường dùng trong phân tích các quan hệ kinh tế giữa các bộ phận, cơ cấu của bộ phận trong tổng thể để cho biết xu hướng phát triển của chỉ tiêu. Chẳng hạn: chỉ tiêu về hoàn thành kế hoạch doanh thu bán hàng của doanh nghiệp X năm … bằng 120% tổng mức lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh bằng 80%.
- Chỉ tiêu bình quân: là dạng đặc biệt của chỉ tiêu tuyệt đối nhằm phản ánh trình độ phổ biến của hiện tượng nghiên cứu như: năng suất bình quân một lao động, thu nhập bình quân một lao động…
* Theo tính chất khái quát và chi tiết của chỉ tiêu bao gồm:
- Chỉ tiêu khái quát: dùng để phản ánh kết quả chung của doanh nghiệp như lợi nhuận thu về sau một kì kinh doanh…
- Chỉ tiêu chi tiết dùng để phản ánh cụ thể từng kết quả kinh doanh như tỉ suất lợi nhuận so với doanh thu bán hàng, hệ số khả năng thanh toán ngay.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường hiện nay, để tồn tại và phát triển bền vững, đòi hỏi cac doanh nghiệp kinh doanh phải có lợi nhuận. Để đạt được lợi nhuận cao nhất trong sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định các phương hướng, mục tiêu đầu tư, biện pháp sử dụng các yếu tố sản xuất một cách khoa học, hiệu quả. Muốn vậy , các doanh nghiệp cần phải nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh.
3.3: Những nhân tố tác động đến hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin
*Chất lượng máy móc
Để hoàn thành công việc một cách nhanh nhất cũng như đạt hiệu quả cao nhất thì phần quyết điịnh lớn nhất là chất lượng của máy móc, thiết bị .Nếu chất lượng máy móc đạt tiêu chuẩn thì nhất định công việc sẽ được hoàn thành tốt dưới sự năng động , nhiệt tình hăng say lao động của cán bộ nhân viên trong đơn vị .
*Trình tự lắp ráp
Bất cứ một thiết bị máy móc nào muốn vận hành tốt, bền với hiệu suất công việc lớn thì phải được lắp ráp đúng theo trình tự bởi vì nếu lắp sai trình tự thì sẽ gây ra hỏng hóc làm tốn kém thời gian sửa chữa cũng như chi phí .Cho nên để máy móc vận hành tốt với năng suất cao nhất thì chúng nhất thiết chúng ta phải có những thiết bị máy móc được lắp ráp theo đúng quy trình.
*Trình độ của cán bộ nhân viên
Một yếu tố chúng ta không thể không xét đến khi nói đến hiệu quả kinh tế. Đó chính là trình độ của cán bộ nhân viên sử dụng cũng như vận hành. Nếu một cán bộ được trang bị đầy đủ kiến thức về máy móc mình sử dụng thì nhất định năng suất công việc sẽ cao, tránh được nhiều hỏng hóc cũng như tiết kiệm chi phí và thời gian , công sức lao động và ngược lại .Do đó hiệu suất công việc cũng phụ thuộc khá nhiều vào trình độ của cán bộ nhân viên.
*Chế độ bảo quản
“Của bền tại người”. Đó chính là câu châm ngôn từ xa xưa đã được ông cha ta đúc kết qua nhiều thế hệ .Thông qua đó chúng ta có thể thấy rằng để máy móc, thiết bị ít bị hỏng hóc và luôn trong tình trạng tốt nhất thì chúng ta cũng phải có chế độ bảo quản tốt, luôn bảo dưỡng và sửa chữa kịp thời khi có hư hỏng nhỏ để vòng đời cũng như tuổi thọ của máy móc dài hơn.
Ngoài những nhân tố trên chúng ta có thể kể ra một vài những nhân tố khác có ảnh hưởng đến hiệu quả ứng dụng CNTT như : nguồn vốn đầu tư, htoìư gian lao động của nhân viên ,…nhưng những nhân tố đã nêu ra ở trên chính là những nhân tố có ảnh hưởng chính.
Chương II: Thực trạng việc ứng dụng CNTT tại Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam
I: Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam
1.1: Quá trình hình thành và phát triển
Trung tâm hội chợ Triển lãm Việt Nam có tiền thân là Khu triển lãm Giảng Võ, được khởi công xây dựng từ năm 1962, nhưng do chiến tranh phá hoại nên đến sau ngày giải phóng Miền Nam 30/04/1975 mới đi vào hoạt động. Ngày 18/01/1989, theo quyết định số 06/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng thì Khu triển lãm Giảng Võ được đổi tên là Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, một đơn vị sự nghiệp hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi, có con dấu, có tài khoản tiền Việt Nam và ngoại tệ tại Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Chức năng chủ yếu của trung tâm là tổ chức các cuộc triển lãm về chính trị nhằm tuyên truyền, biểu dương thắng lợi của dân tộc, giáo dục tinh thần cách mạng, động viên tài năng sáng tạo trong sản xuất và chiến đấu, giáo dục nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 04/05/1995 Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin đã ban hành quyết định số 1929/QĐ-TC về việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước-Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam. Đó là một doanh nghiệp kinh doanh độc lập, trực thuộc Bộ Văn hoá Thông tin, có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, được Nhà nước giao vốn, đất đai và các nguồn lực khác, có trách nhiệm nộp các khoản thuế cho ngân sách Nhà nước. Doanh nghiệp có nhiệm vụ sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn được giao, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trong phạm vi vốn do Nhà nước cấp.
Trụ sở chính: 148 Giảng Võ-Ba Đình-Hà Nội
Văn phòng đại diện tại Miền Nam: Đường Nguyễn Đình Chiểu- Quận 1- TP HCM
Tên giao dịch đối ngoại: VEFAC (Viet nam Exhibition Fair Centre)
1.2: Đặc điểm hoạt động của trung tâm.
Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tổng hợp, nên hoạt động của trung tâm mang tính đặc thù riêng vốn có là tổ chức các cuộc hội trợ triển lãm, hội nghị, hội thảo... Đồng thời nó còn phục vụ cho mục tiêu, tiêu chí của ngành hội trợ triển lãm, phục vụ cho hoạt động tuyên truyền chính trị, xã hội của Đảng, Nhà nước do Bộ Văn hoá Thông tin ấn định.
Hội trợ triển lãm cũng là một loại hình hàng hoá trên thị trường nhưng khác với các hình thức hàng hoá thông thường, hoạt động của hội trợ triển lãm gồm các dịch vụ sau: dịch vụ ngoại vi, dịch vụ tổng hợp, dịch vụ cơ bản,...
-Lấy các doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế khác làm đối tượng phục vụ chủ yếu, từng bước có chính sách phù hợp, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ hội trợ triển lãm như một công cụ không thể thiếu trong hoạt động tổ chức kinh doanh.
-Lấy việc thúc đẩy trong nước và xúc tiến giao lưu kinh tế , tăng cường đầu tư trong nước và quốc tế làm mục tiêu hoạt động. Một mặt tổ chức các hội trợ triển lãm mang tính chất thương mại, mặt khác vẫn không quên tổ chức các cuộc triển lãm chính trị, văn hoá xã hội, văn nghệ góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
- Mở rộng các mối quan hệ quốc tế, phát triển thị trường, đảm bảo thu- chi và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, kinh doanh có lãi, nâng cao đời sống cho người lao động.
-Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước hiện đại hoá trung tâm, xây dựng đội ngũ cán bộ nhuần nhuyễn có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện mới .
1.3: Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm
Là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, vừa là đối tác, vừa là chủ cho thuê tài chính, VEFAC có những chức năng và nhiệm vụ cụ thể. Điều đó được ghi nhận trong quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước-Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam số 1929/QĐ-TC của Bộ Văn hoá Thông tin.
*Chức năng:
Tổ chức các cuộc hội trợ triển lãm giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, góp phần tăng thu cho ngân sách, tăng cường cơ sở vật chất cho trung tâm , giải quyết chính sách cho người lao động và nâng cao đời sống cho cán bộ nhân viên trung tâm.
*Nhiệm vụ
Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty theo pháp luật hiện hành để thực hiện mục đích, chức năng và nhiệm vụ của mình.
Tự trang trải tài chính cho các hoạt động kinh doanh của mình, quản lý và sử dụng nguồn vốn theo đúng chế độ và hiệu quả kinh tế, nghiên cứu để cải tiến và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng công việc.
Thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng và các văn bản ràng buộc pháp lý mà trung tâm đã ký theo quy định của Nhà nước và Bộ văn hoá thông tin.
1.4: Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận
* Sơ đồ bộ máy quản lý
Hiện nay, tổ chức bộ máy của Trung tâm bao gồm hai chi nhánh: chi nhánh tại Hà Nội và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh .
Các phòng ban của trung tâm dược tổ chức theo mô hình cơ cấu chức năng cho nên chúng hoạt động khá độc lập. Mỗi phòng có một nhịêm vụ riêng và được đặt dưới sự quản lý của trưởng phòng. Ưu điểm của phương pháp tổ chức này là công việc được phân công ra cho từng bộ phận, mỗi bộ phận chịu trách nhiệm một phần công việc chung của trung tâm. Chính vì thế, mỗi phòng có khả năng vận dụng và sử dụng hết khả năng trong lĩnh vực của mình và đạt được kết quả cao. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là việc liên hệ, kiểm tra đôn đốc của lãnh đạo gặp nhiều khó khăn.. Nếu muốn trao đổi hoặc tìm hiểu tình hình hoạt động của các phòng, ban thì lãnh đạo phải trực tiếp gặp các trưởng phòng, phó phòng để trao đổi hoặc tổ chức các cuộc họp thường rất tốn kém thời gian. Đặc biệt, nếu muốn kiểm tra công việc đột xuất thì giám đốc phải đích thân đến kiểm tra. Đó chính là nhược điểm lớn của bất kỳ doanh nghiệp nào khi vận dụng phương pháp tổ chức này.
Tóm lại, để thuận lợi cho công tác kiểm tra thì việc kết nối mạng nội bộ giữa văn phòng với các phòng ban là rất quan trọng. Nó sẽ làm thay đổi những hoạt động quản lý trong văn phòng cả về chất và về lượng và đem lại hiệu quả rất lớn
Sơ đồ bộ máy quản lý của trung tâm
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Văn phòng
Phòng HC TL trong nước
Phòng dịch vụ HCTL
Phòng tài chính kế toán
Hãng quảng cáo in ấn
Hãng TK-DD-TM
Chi nhánh trung tâm tại TP HCM
Phòng dịch vụ tổng hợp
Phòng HC TL quốc tế
Phòng bảo vệ
* Chức năng và nhiệm vụ của từng phòng ban
-Ban lãnh đạo: bao gồm 3 người, đứng đầu là tổng giám đốc và 2 phó tổng giám đốc do Bộ văn hoá thông tin bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. Tổng giám đốc là người điều hành các hoạt động chung của Trung tâm theo chế độ thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước pháp luật , Nhà nước về quyền lợi và nghĩa vụ của trung tâm
- Văn phòng:là phòng chức năng giúp giám đốc Trung tâm về các mặt công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, hành chính tổng hợp và quản trị, quản lý hệ thống xe ô tô của cơ quan, thiết bị văn phòng, quản lý khu nhà khách.
- Phòng tài chính- kế toán :là phòng chức năng có nhiệm vụ giúp giám đốc trung tâm quản lý các mặt về công tác tài chính, tiền tệ, tín dụngvà thanh toán bao gồm: tạo vốn, sử dụng, bảo quản, phát triển vốn, hạch toán kế toán và thống kê, thực hiện chế độ thu- chi , vay mượn, thanh toán, theo dõi định mức lao động, chế độ khoán, tiền lương, tiền thưởng.
- Phòng kế hoạch thông tin và thị trường: có nhiệm vụ giúp giám đốc xây dựng các chiến lược, kế hoạch, chương trình và các giải pháp sản xuất kinh doanh trong toàn doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu và tình hình thị trường, thu thập và xử lý, lưu trữ thông tin mọi chiều trong và ngoài nước để cung cấp cho lãnh đạo và phòng ban có nhu câù.
- Phòng quản lý cơ sở hạ tầng: là phòng nghiệp vụ có nhiệm vụ giúp giám đốc quản lý toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tầng, vật liệu kiến trúc phục vụ hội trợ triển lãm bao gồm:nhà triển lãm, điện, cấp thoát nước, đường xá, sân vườn,...
- Phòng bảo vệ: thực hiện nhiệm vụ bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ sản xuất kinh doanh , bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội trong toàn doanh nghiệp và môi trường xung quanh.
- Phòng hội chợ triển lãm trong nước: là phòng giúp giám đốc thực hiện các công việc nghiệp vụ, tổ chức các cuộc hội trợ triển lãm do Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam tổ chức tại Việt nam và phối hợp với phòng Dịch vụ hội trợ triển lãm tổ chức các cuộc triển lãm tại nước ngoài.
- Phòng hội chợ triển lãm quốc tế: là phòng thực hiện các công tác nghiệp vụ để tổ chức các hội chợ triển lãm quốc tế do Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam tổ chức hoặc đồng tổ chức với các đơn vị của Việt Nam hoặc đơn vị nước ngoài tại Việt Nam.
- Hãng thiết kế, dàn dựng, trang trí: là đơn vị của Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ thiết kế, dàn dựng, trang trí đối với tất cả các cuộc hội trợ triển lãm do Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam tổ chức trên địa bàn trung tâm và kinh doanh dịch vụ thiết kế, dàn dựng, trang trí, tại các địa bàn ngoài trung tâm.
- Phòng dịch vụ hội chợ triển lãm: là đơn vị kinh doanh dịch vụ trực thuộc Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam nhằm phục vụ các yêu cầu của khách hàng nước ngoài tham gia hội trợ triển lãm tại trung tâm (về giấy phép tạm nhập, tái xuất hàng hoá, visa, vận chuyển, đi lại, dịch vụ, tham quan,...)
- Phòng dịch vụ tổng hợp : có nhiệm vụ quản lý toàn bộ các hoạt động kinh doanh dịch vụ trên địa bàn Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, bao gồm các lĩnh vực: cho thuê quầy bán hàng, văn phòng đại diện, kinh doanh ăn uống giải khát, vũ hội, hội nghị, hội thảo, nhà nghỉ, văn hoá -nghệ thuật- thể thao.
- Hãng quảng cáo và in ấn: có nhiệm vụ thực hiện các dịch vụ quảng cáo dưới mọi hình thức cho khách hàng trong và ngoài nước trên các lĩnh vực kinh tế xã hội.
- Chi nhánh Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam tại TPHCM (Sai Gon VEFAC)
Chi nhánh tại TPHCM là đơn vị trực thuộc Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo chế độ hạch toán phụ thuộc. Chi nhánh có các nhiệm vụ sau: đại diện cho giám đốc Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam giao dịch với các khách hàng trong và ngoài nước, với các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan tại TPHCM và các tỉnh phía Nam, theo dõi và thực hiện các hợp đồng kinh tế do Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam ký kết.
Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam (VEFAC) là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh, sản xuất các mặt hàng liên quan đến tuyên truyền, quảng cáo sản phẩm. Hiện nay, tổng số lao động của trung tâm khoảng 170 người, trong đó cán bộ 50 người, nhân viên 95 người, lao động khác 25 người.
*Nhận xét chung:
Sau hơn 40 năm hoạt động, trung tâm hội chợ Triển lãm Việt Nam đã dạt được những thành tích đáng kể, biểu hiện ở tất cả các mặt hoạt động, về trình độ tổ chức quản lý, trình độ nghiệp vụ kinh doanh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển. Đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ nghiệp vụ thành thạo, có ý thức trách nhiệm trong công việc. Thêm vào đó, do có cơ cấu tổ chức hợp lý giữa các phòng ban và được sự chỉ đạo tận tình của cán bộ lãnh đạo nên các phát sinh đều được xử lý kịp thời. Chính vì vậy, trung tâm hoạt động rất hiệu quả và nộp ngân sách đều đặn, đời sống của cán bộ nhân viên trong Trung tâm ngày được cải thiện.
1.5, Kết qủa hoạt động kinh doanh của Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam trong thời gian qua
* Thành tích
Do chủ động và quyết tâm cao, với sự đồng tâm nhất trí, tích cực của ban giám đốc, cấp uỷ và toàn thể cán bộ công nhân viên Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, với sự quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Văn hoá Thông tin và các vụ chức năng. Trong năm qua Trung tâm đã đạt được những thành tích đáng kể: tổ chức được 16 cuộc hội chợ triển lãm tại Giảng Võ, một cuộc tại địa phương và 3 cuộc tại TP HCM. Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam đã phối hợp tổ chức: Hội chợ xuân 2003 từ 10/01-22/01/2003, triển lãm cơ khí điện-điện tử từ 09-15/03/2003, hội chợ hàng tiêu dùng Việt Nam vì chất lượng cuộc sống...
*Năm 2003 vừa qua tình hình kinh doanh của trung tâm đã đạt được kết quả khá cao thông qua bảng thành tích sau đây :
Bảng1:Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của TTHCTLVN 2003
TT
Chỉ tiêu
ĐV tính
Thực hiện năm 2002
Thực hiện năm 2003
Tỷ lệ thực hiện so với năm 2002
1
Tổng doanh thu
1000đ
18935379
20950000
111%
2
KQ sản xuất kinh doanh
1000đ
2850000
3790708
133%
3
Tổng các khoản nộp NS
1000đ
3384107
2650000
78%
4
Thu nhập bình quân người/tháng
Đồng
1150000
1220000
106%
5
Tổng số vốn sxkd hiện có
1000đ
15736290
25567190
176%
Trong đó: vốn NS cấp
13567190
22898090
168%
Vốn tự bổ sung
2169100
2669100
123%
6
Tổng các khoản nợ phải trả. Trong đó :
1000đ
6853590
5500000
80%
Nợ khách hàng
810289
802500
99%
Nợ khác
6043301
4697500
78%
7
Tổng các khoản nợ phải thu
1000đ
1870283
1920000
103%
Trong đó nợ không có khả năng thu hồi
645300
645300
100%
Nguồn:bảng báo cáo kết quả kinh doanh của trung tâm 2003
Qua bảng kết quả hoạt động kinh doanh của trung tâm năm vừa qua ta có thể rút ra nhận xét sau:
Tổng doanh thu của trung tâm tăng thêm hơn 2 tỷ đồng , tức là đạt 111% so với năm 2002. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần không nhỏ vào việc tăng tổng nguồn vốn kinh doanh của trung tâm. Hiện nay, tổng nguồn vốn kinh doanh của trung tâm là khoảng 25 tỷ đồng , so với năm 2002 là tăng gần 10 tỷ đồng , đạt 176% kế hoạch. Mặc dù, được Nhà nước cấp đầu tư thêm từ ngân sách của nhà nước nhưng ta cũng không thể phủ nhận được những cố gắng của tập thể cán bộ, nhân viên trong trung tâm.
*Hoạt động đối ngoại
-Tiếp tục duy trì mối quan hệ với các thương vụ Việt Nam tại các nứơc để làm công tác tuyên truyền, quảng cáo, mời khách tham gia hội chợ.
-Cử đoàn cán bộ sang cộng hoà Liên bang Nga, Hàn Quốc để tìm hiểu thị trường và mời khách tham gia hội chợ.
*Công tác xây dựng cơ sở vật chất:
-Tiến hành chọn trong số những đối tác tham gia đấu thầu có phương án tốt nhất để thi công hạng mục “cung cấp, lắp đặt hệ thống thiết bị điều hoà không khí và thông gió cho nhà triển lãm A1”.
-Mua mới thêm được một số trang thiết bị hiện đại đầu tư cho các phòng, ban . Đồng thời những phương tiện vận chuyển cũng được mua mới để phục vụ cho nhu cầu đi lại của cán bộ, nhân viên .
*Công tác tổ chức cán bộ: hoàn thiện bộ máy tổ chức cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng phòng, ban để từng cán bộ nhân viên phát huy năng lực, mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện quy chế làm việc của trung tâm.
*Công tác Đảng, Đoàn thể
- Ban giám đốc và cấp uỷ luôn quan tâm tạo điều kiện cho các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, nữ công hoạt động.
-Chi bộ đã kết nạp thêm đảng viên mới đồng thời mở lớp học cảm tình Đảng cho một số cán bộ công nhân viên
* Công tác khác
-Năm 2001 trung tâm đã phối hợp với các đơn vị nghệ thuật tổ chức 12 buổi ca nhạc phục vụ cho nhân dân Thủ Đô
-Phát hành hàng tuần tạp chí Tiếp thị-Gia đình, mạng Internet Phương Nam vẫn tiếp tục phục vụ khách hàng, cho thuê văn phòng đại diện, hội nghị và các dịch vụ khác.
Cũng chính nhờ những nỗ lực không ngừng đó mà không những họ đã thu được kết quả kinh doanh xuất sắc mà còn góp phần nâng cao thu nhập cho chính bản thân mình. Đây chính là những những kết quả mà họ đã đạt được từ sự cố gắng của mình. Chúng ta hãy cùng chúc cho họ năm 2004 đạt được kết quả tốt hơn nữa.
* Tồn tại
Bên cạnh một số việc đã thực hiện được Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam còn phải giải quyết các vấn đề sau:
- Doanh thu của đơn vị tuy cao song còn có sự chênh lệch giữa các phòng. Một số phòng vẫn thiếu việc làm, thu nhập thấp dẫn đến khó quản lý về lao động, như ở phòng quản lý cơ sở hạ tầng, phòng dịch vụ hội chợ triển lãm...
- Tuy đã xây dựng các ban quản lý về lao động nhằm tiết kiệm chi phí song chưa có biện pháp hữu hiệu nên cán bộ công nhân viên còn làm việc tuỳ tiện, chưa tự giác chấp hành kỷ luật lao động.
1.6, Phương hướng hoạt động của đơn vị trong thời gian tới
Về công tác tổ chức hội chợ: Ban tổ chức hội chợ đang xây dựng kế hoạch hội chợ triển lãm năm 2004, phấn đấu đạt từ 20-22 cuộc.
- Công tác xây dựng cơ sở vật chất: triển khai dự án"Cải tạo, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam”, lập dự án xây dựng mới khu làm việc của trung tâm.
- Công tác tổ chức bộ máy- cán bộ: ban hành quy chế làm việc của trung tâm; xây dựng quy chế trả lương, thưởng để khuyến khích người lao động; nghiên cứu cho một số bộ phận thực hiện chế độ khoán để mọi người phát huy tính chủ động, sáng tạo nhằm mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp.
- Công tác Đảng- Đoàn thể: tiếp tục duy trì nề nếp sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, công đoàn, đoàn thanh niên; phấn đấu kết nạp từ 3-5 đảng viên mới.
- Phấn đấu năm 2004 trung tâm sẽ có một số lượng lớn cán bộ, nhân viên có trình độ cao trên đại học .
- Năm 2004 này, trung tâm sẽ bổ sung đựơc một hệ thống máy móc thiết bị CNTT đồng bộ để nâng cao năng suất lao động của cán bộ công nhân viên cũng như đẩy lùi những tồn tại trong công tác quản lí.
Tóm lại theo kế hoạch thì năm 2004 này Trung tâm sẽ tăng được nguồn thu nhờ vào việc mở thêm một số hội chợ và nhận tổ chức thảo các hội nghị, cho thuê mặt bằng, ngoài việc mở các hội chợ triển lãm như hội chợ thời trang hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ hàng tinh khí chế tạo máy, hội chợ thời trang vào các tháng và các quý trong năm... Nhưng để thực hiện được mục tiêu trên thì đòi hỏi các cán bộ nhân viên trong trung tâm phải không ngừng nâng cao trình độ, năng động ,sáng tạo để tìm hướng đi mới, ký kết được nhiều hợp đồng làm ăn với nhiều nước trên thế giới. Mục tiêu trong năm 2004 sẽ vượt xa năm 2003 về mọi mặt.
II: Thực trạng trang thiết bị CNTT tại Trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam
ứng dụng CNTT trong công tác quản lý là vấn đề không còn là mới mẻ đối với các nước tiên tiến trên thế giới và khu vực. Tuy nhiên, đối với nước ta thì việc sử dụng và khai thác những khả năng và ứng dụng đó còn nhiều hạn chế .
Đối với công tác quản lý nói chung, một công tác mà nhiẹm vụ của nó bao gồm cả quản lý con người , quản lý cơ sở vật chất và thông tin thì CNTT ra đời với những thành tựu kỳ diệu của công nghệ tin học, máy tính và công nghệ truyền thông đã làm cho các hoạt động trong quản lý tại caca phòng ban trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong hoạt động qản lý, từ việc thực hiện thủ công lấy sức người là chủ yếu sang việc chuyển giao hầu hết công việc cho máy móc thực hiện mà vẫn đảm bảo được vai trò đậưc biệt quan trọng của con người. Đó chính là lý do giải thích tại sao CNTT được sử dụng rộng rãi trong quản lý.
Hiện nay ở nước ta máy vi tính được sử dụng rất nhiều, nó không chỉ bó hẹp trong các viện nghiên cứu, các trường học, các trung tâm máy tính mà nó đã mở rộng ra mọi ngành và đi vào tất cả các lĩnh vực. Song hiện nay nhiều cơ quan, đơn vị chỉ dùng máy vi tính như một công cụ để soạn thảo văn bản. Trong khi đó trên thế giới việc sử dụng máy vi tính để thay thế các hoạt động của con nguời và giúp con người nhanh chóng đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra.
Theo nghị quyế._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- P0060.doc