Mục lục
LỜI NÓI ĐẦU
Nghiệp vụ tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM,rủi ro có thể gây tổn thất ,làm giảm thu nhập của ngân hàng,có khi còn đẩy NH đến nguy cơ phá sản,do đó tín dụng là nghiệp vụ hàng đầu có ý nghĩa quan trọng quyết định của mỗi ngân hàng, Chính vì vậy mà vấn đề đặt ra cho các NHTM là làm sao sử dụng đồng vốn của mình một cách tốt nhất, ứơc lượng khả năng rủi ro và sinh lờimột cách hiệu qủa nhất khi quyết định tàI trợ để từ đó không ngừng nâng
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Chi nhánh Thường Tín, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cao được uy tín, đảm bảo được sự tồn tại và phát triển của chính bản thân ngân hàng. Trong thời gian học tập tại trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và thực tế thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh Thường Tín em thấy vấn đề tín dụng là một vấn đề lớn và rộng được rất nhiều người quan tâm, và bản thân em cũng có sự tâm đắc với vấn đề này. Được sự phân công chỉ đạo hướng dẫn của khoa Ngân Hàng Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và giáo Sư TS Đàm Văn Huệ, em quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh Thường Tín” Bản chuyên đề này được chia làm 3 chương.
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về hiệu quả tín dụng của ngân hàng.
Chương II: Hoạt động tín dụng của NHNo & PTNT Chi nhánh Thường Tín thực trạng và kết quả đạt được
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng.
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những khiếm khuyết,vì đây là một vấn đề khá phức tạp, nên đòi hỏi sau này cần có những nghiên cứu sâu hơn cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS TS Đàm Văn Huệ và toàn thể cán bộ nhân viên của NHNo & PTNT Chi nhánh Thường Tín đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bản chuyên đề này.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. 1Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngân hàng
Có nhiều thuyết nói về sự hình thành và phát triển của hoạt động kinh doanh Ngân hàng trong lịch sử nhưng theo các nhà nghiên cứu kinh tế hiện đại thì nghề ngân hàng ra đời vào khoảng thế kỷ XV. Sự ra đời của nó là một tất yếu khách quan do yêu cầu phát triển của nền kinh tế và do sự phát triển của phân công lao động xã hội. Trong thời kỳ đó, chế độ phong kiến đã tạo ra những nền kinh tế khép kín trong từng lãnh địa.Việc buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các vùng, các lãnh địa với nhau bằng các loại tiền khác nhau đã làm xuất hiện nghề kinh doanh tiền tệ sơ khai đó là đổi tiền. Một bộ phận thương nhân nhậy bén đã phát hiện ra một hoạt động kinh doanh mới “buôn bán tiền” với khả năng kiếm lời cao.
Hình thức ban đầu của ngân hàng là: “ ngân hàng của ngưòi thợ vàng” hay ngân hàng tiền gửi với mục đích cất giữ, bảo quản hộ tài sản và tiền cho những người giầu có cũng như các thương gia. Nhưng phải đến khi một số thương nhân chuyển hẳn từ kinh doanh hàng hoá sang kinh doanh tiền tệ thì ngân hàng mới thực sự hình thành. Buôn bán các phát triển hoạt động ngân hàng cũng mở rộng theo. Các ngân hàng không chỉ dừng lại ở việc cất giữ và quản lý tài sản hộ cho khách hàng mà còn thực hiện việc thanh toán tiền hộ giữa các nhà kinh doanh, điều này giúp cho các nhà kinh doanh hạn chế được chi phí kinh doanh về thời gian, chuyên chở cùng những rủi ro rất phổ biến như trộm cướp, lừa đảo...và như vậy việc kinh doanh sẽ trở lên dễ dàng hơn thuận tiện và an toàn hơn. Về phía các ngân hàng do sự chuyên môn hoá trong hoạt động nên đã giảm được chi phí và có hiệu qủa hơn trong hoạt động.
Bên cạnh đó, trong quá trình nhận gửi và thanh toán, các ngân hàng nhận thấy luôn có một lượng tiền gửi ổn định trong két sắt của mình trong thời gian dài. Đó là tiền của những người tiết kiệm, những nhà kinh doanh thu được tiền bán hàng nhưng lại chưa phải trả tiền mua hàng....trong khi đó lại có nhiều nhà kinh doanh khác đang có cơ hội kinh doanh song lại thiếu tiền để thực hiện. Nắm được nhu cầu đó, các ngân hàng thực hiện việc cho vay. Hiệu quả đem lại rất lớn và các ngân hàng đã khuyến khích việc gửi tiền của các khách hàng bằng việc trả lãi cho họ thay vì thu phí bảo quản như trước. Qua đó các ngân hàng đã biến các khoản vay, tiết kiệm thành các khoản đầu tư trực tiếp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp sang nơi có tỷ suất lợi nhuận cao.
Như vậy, có thể thấy rằng các ngân hàng chỉ hình thành trong những điều kiện nhất định của sự phát triển nền kinh tế, các nghiệp vụ mà một ngân hàng thực hiện cũng được phát triển dần từng bước theo đà phát triển của các hoạt động khác trong nền kinh tế.
Từ đó đến nay, có thể khái quát quá trình phát triển của nghề ngân hàng như sau:
- Giai đoạn từ TK XV đến TK XVIII: các ngân hàng đầu tiên ra đời, hoạt động riêng lẻ và thực hiện các nghiệp vụ giống nhau.
- Giai đoạn từ TK XVIII đến TK XIX: các ngân hàng phát triển thành hệ thống bao gồm:
+ Các ngân hàng phát hành: là những ngân hàng chuyên môn phát hành giấy bạc ngân hàng để cho vay.
+ Các ngân hàng chuyên doanh: chuyên môn hoá vào các hoạt động kinh doanh cụ thể như ngân hàng công nghiệp, ngân hàng thương nghiệp , ngân hàng địa ốc, ngân hàng cho vay cầm cố, ngân hàng tiết kiệm...
- Giai đoạn từ TK XIX đến nay: Hệ thống ngân hàng được tồn tại dưới dạng hệ thống hai cấp
+ Ngân hàng Trung ương: được hình thành bằng sự hợp nhất hoá và quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành.
+ Các tổ chức tín dụng
Từ những phân tích trên đây ta có thể rút ra khái niệm NHTM
NHTM là một tổ chức kinh tế chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên nhất cuả nó là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư, chiết khấu và thực hiện một số dịch vụ khác.
Ngày nay, các ngân hàng là một bộ phận không thể tách rời tồn tại một cách tất yếu trong đời sống kinh tế xã hội. Trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng của một quốc gia thể hiện trình độ phân công lao động xã hội và phát triển của nước đó. Những thông tin có liên quan đến hoạt động ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp và chính phủ.
Nước ta trước năm 1998 chúng ta xây dựng hệ thống ngân hàng một cấp theo mô hình của Liên Xô cũ. Mô hình này trên thực tế chỉ có một ngân hàng và thích hợp với thời kỳ chiến tranh vì dễ quản lý, dễ thực hiện được ý chí của nhà nước, huy động nguồn vốn phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ thống trị các thành phần kinh tế khác.
Tuy nhiên, nó đã bộc những điểm yếu như không có hiệu quả không quan tâm đến việc làm công cụ phát triển kinh tế, không kiểm soát được khi có những biến động về kinh tế (lạm phát) sự phát triển của thị trường “ chợ đen” với đầy dẫy những rủi ro, tiêu cực. Nguyên nhân là do sự mất cân bằng giữa chức năng quản lý và chức năng kinh doanh của ngân hàng nhà nước. Đến năm 1989 chúng ta đã chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp và từ đó ngành ngân hàng đã không ngừng phát triển lớn mạnh đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, tạo sự hiệu quả cho nền kinh tế cao. Các ngân hàng thương mại ở nước ta đã thực sự trở thành một hệ thống tăng cương sức mạnh về số lượng, loại hình và nâng cao chất lượng hoạt động . Ngày nay, chúng ta đã có một hệ thống ngân hàng bao gồm: 16 ngân hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân hàng thương mại cổ phần, ( trong đó 31 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị và 20 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn), 4 ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, 2 Công ty tài chính cổ phần và 22 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tạo ra một thị trường cạnh tranh mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ ở Việt Nam.
1.1.2. Hoạt động chủ yếu của một NHTM
1.1.2.1. Huy động vốn
Các NHTM có nguồn vốn huy động của rất đa dạng và phong phú có thể kể ra một số nguồn chủ yếu sau :
Nguồn tiền gửi: Bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm lại được chia thành tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn. Đây là nguồn vốn chủ yếu của một NHTM theo đúng nghĩa của nó. Trong các loại tiền gửi thì tiền gửi thanh toán là nguồn vốn có chi phí thấp hơn cả. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn càng dài thì chi phí càng cao, tuy nhiên đây là nguồn vốn ổn định cần thiết để ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung gian và dài hạn.
Nguồn vốn đi vay: Có người cho rằng NHTM là một tổ chức “ đi vay để cho vay”, điều này rõ ràng không phản ánh chính xác nguồn gốc sự ra đời cũng như bản chất hoạt động của NHTM. Ngân hàng chỉ đi vay khi có những tình huống phát sinh đặc biệt như để đảm bảo khả năng thanh khoản, để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định, để đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận đây là nguồn vốn rất quan trọng của ngân hàng. Tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà NHTM có thể vay của NHTW, vay của các TCTD trong và ngoài nước hay vay của dân cư, của các tổ chức kinh tế thông qua việc phát hành kỳ phiếu , trái phiếu.
Ngoài ra các NHTM còn có thể tận dụng các nguồn vốn khác như nguồn vốn uỷ thác của các TCTD lớn , các TCTC nước ngoài; nguồn vốn phát sinh trong quá trình thanh toán giữa các ngân hàng. Tuy nhiên các nguồn vốn này thường không ổn định và không phải ngân hàng nào cũng có điều kiện sử dụng.
Ngoài nguồn vốn huy động các NHTM còn sử dụng nguồn vốn tự có và các qũi của ngân hàng khi cần thiết
1.1.2.2. Sử dụng vốn
.Các hoạt động sử dụng vốn bao gồm hoạt động ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư, hoạt động mua sắm TSCĐ và công cụ lao động.... Trên cơ sở nguồn vốn của mình, các ngân hàng sẽ tiến hành các hoạt động sử dụng vốn để tìm kiếm lợi nhuận
Hoạt động ngân quỹ: Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, khả năng thanh toán thường xuyên là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại hay sụp đổ của một ngân hàng. Khả năng thanh toán thường xuyên của một ngân hàng đựoc đảm bảo bởi các tài sản có tính lỏng rất cao như: tiền mặt tại két của ngân hàng, tiền gửi tại NHTW và các NHTM khác, tiền đang trong quá trình thu. Số lượng các tài sản này càng nhiều thì khả năng thanh toán của ngân hàng càng được đảm bảo. Tuy nhiên đây cũng là những tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhất trong những tài sản của NHTM, việc giữ nhiều những tài sản loại này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy các ngân hàng cần phải tính toán để duy trì các tài sản này ở mức hợp lý sao cho vừa đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên, vừa đạt được mức lợi nhuận hợp lý công việc đó gọi là hoạt động ngân quỹ
Hoạt động cho vay: Ngược lại với hoạt động ngân quỹ, là hoạt động mang lại ít thu nhập nhất cho ngân hàng, hoạt động cho vay lại là hoạt động chủ yếu thường xuyên nhất, mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Thực chất hoạt động cho vay là việc thiết lập các quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng, chúng đem lại cho ngân hàng những khoản thu nhập lớn từ lãi tiền vay, song cũng đặt ngân hàng trước những nguy cơ rủi ro cao nhất. Chính vì vậy mà việc quản lý những khoản mục cho vay luôn được các ngân hàng đặc biệt chú ý.
Hoạt động đầu tư :Các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư bằng cách tiến hành mua bán các chứng khoán trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận thông qua chênh lệch giá. Đây cũng chính là cách thức để ngân hàng thực hiện phương châm đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh. Hơn nữa, các chứng khoán có độ an toàn và tính lỏng cao cũng sẽ giúp đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng được tốt hơn.
1.1.2.3,Hoạt động thanh toán và cung cấp các dịch vụ khác
Để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế ngày càng phát triển, từ chỗ chỉ nhận tiền gửi và cho vay đến nay các NHTM đã không ngừng mở rộng hoạt động của mình, cung cấp thêm nhiều dịch vụ mới, qua đó cũng mang lại những khoản thu không nhỏ cho ngân hàng. Có thể kể ra một số dịch vụ như: Dịch vụ thanh toán và cung ứng các phương tiện thanh toán, Dịch vụ ngân quỹ, Dịch vụ bảo lãnh, Dịch vụ môi giới, Dịch vụ tư vấn ... Nền kinh tế càng phát triển thì các loại dịch vụ càng đa dạng và thu nhập từ các hoạt động này ngày càng cao.
1.2.Hoạt động tín dụng của ngân hàng
1.2.1. Khái niệm
Từ trước tới nay, trong xã hội luôn luôn xuất hiện những nguồn tiền nhàn rỗi được nắm giữ bởi những chủ thể khác nhau. Các chủ sở hữu những nguồn tiền này luôn mong muốn nguồn tiền của họ vận động để sinh lợi, do đó, họ có nhu cầu cho vay số tiền nhàn rỗi đó để thu được lãi từ những khoản cho vay, khả năng mong muốn đó tạo thành cung về tín dụng. Mặt khác trong xã hội có những người có nhu cầu sử dụng vốn vượt quá số tiền của mình đang sở hữu vào mục đích khác nhau cũng nhằm mục tiêu sinh lời, mong muốn tiêu dùng của họ tạo nên cầu tín dụng.
Ngân hàng thương mại có chức năng trung gian tài chính đã đáp ứng đứng ra thoả mãn được nhu cầu của họ bằng cách: Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và dùng nguồn vốn thừa đó để cho vay đối với những người cần vốn. Do đó, tín dụng được hình thành và tín dụng đó được hiểu trên hai nghĩa: Tín dụng thể hiện sự tôn trọng tin tưởng của người nào đó sẽ hoàn thành nghĩa vụ trả tiền theo quy định của họ phù hợp với ý muốn và khả năng của người đó, ý nghĩa thứ hai: Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị của thể nhân hay pháp nhân (người cho vay) cho một người khác (người đi vay) được sử dụng trong một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.2.2.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với NHTM
Hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng là huy động vốn và cho vay, bên cạnh đó thì ngân hàng còn tiến hành một số hoạt động dịch vụ khác nhằm tăng thêm lợi nhuận
Hoạt động cho vay là một hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Qua sử dụng để cho vay các khách hàng ngân hàng thu được lãi do khách hàng trả, có càng nhiều khoản cho vay thì ngân hàng càng có cơ sở thu được nhiều lãi. Từ phần lãi thu được sau đó trừ đi phần chi phí cần thiết khác như: trả lãi vốn huy động, trả lương cho cán bộ công nhân viên, trích lập các quĩ ... là phần lợi nhuận của ngân hàng .
Bên cạnh đó, khi ngân hàng cho vay các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp mới thì thường hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với ngân hàng, mọi nhu cầu về vốn lưu động phục vụ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều qua ngân hàng. Nhờ vậy, ngân hàng có thể tăng thêm được tín dụng ngắn hạn góp phần tăng thêm thu nhập cho ngân hàng
Ngoài ra khi các doanh nghiệp tiến hành vay vốn của ngân hàng thì doanh nghiệp phải mở tài khoản tại ngân hàng, do đó, mọi hoạt động thu chi của doanh nghiệp qua tài khoản tiền gửi đều do ngân hàng thực hiện hộ. Như vậy, ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ phục vụ khách hàng, từ đó tăng thêm được nguồn tiền gửi cho ngân hàng, nếu như ngân hàng hoạt động có uy tín đối với khách hàng, thì khách hàng sẽ đến giao dịch với ngân hàng thường xuyên hơn. Đây là cơ sở để ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường nhằm thu hút được nhiều lợi nhuận
Có thể nói tín dụng ngân hàng vừa góp phần tăng lợi nhuận ngân hàng vừa kéo theo nhu cầu về vốn lưu động và qua đó ngân hàng có thể tăng vị thế của mình trên thị trường và có thể cung ứng những dịch vụ phục vụ cho khách hàng
1.2.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
Nền kinh tế nước ta vừa trải qua thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của đất nước. Tín dụng ngân hàng đã tạo ra điều kiện thay đổi đời sống kinh tế xã hội .
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sản xuất phát triển
Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, tín dụng ngân hàng đã thu hút nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế .
Mặt khác, trong quá trình huy động vốn và cho vay cũng như tổ chức thanh toán cho khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh cũng như khả năng thanh toán chi trả của khách hàng. Trong quá trình cho vay, để tránh rủi ro ngân hàng luôn đánh giá phân tích khả năng tài chính và thường xuyên giám sát hoạt động kinh doanh của khách hàng để có thể điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết, hướng dẫn cho hoạt động của khách hàng đi đúng hướng, đạt được hiệu cao. Do vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển vững mạnh, từng bước tạo điều kiện vật chất cho xã hội.
- Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định tiền tệ và giá cả
Trong nền kinh tế thị trường chú trọng phát triển lưu thông hàng hoá phải gắn liền với ổn định lưu thông tiền tệ. Do những nét ưu việt của mình mà tín dụng ngân hàng đã góp phần ổn định lưu thông tiền tệ. Tín dụng ngân hàng là một trong những cách để đưa tiền vào lưu thông và từ đó có thể kiểm soát đưọc phần nào khối lượng tiền trong lưu thông nhằm làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế phù hợp với khối lượng của hàng hoá. Nếu tín dụng ngân hàng phát huy được hiệu quả thì nó góp phần đảm bảo cho khối lượng tiền cung ứng phù hợp (vì khi cho vay ngân hàng đưa tiền vào lưu thông và khi thu nợ là ngân hàng rút tiền khỏi lưu thông). Mặt khác, với chức năng tạo tiền các NHTM có khả năng mở rộng tiền gửi làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Vì vậy, các NHTM phải thực hiện điều tiết hoạt động tín dụng như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng ... Nhờ tín dụng ngân hàng đã góp phần ổn định lưu thông tiền tệ làm khối lượng tiền tệ phù hợp với khả năng hàng hoá lưu thông trong nền kinh tế nên giá cả hàng hoá dần dần ổn định.
-Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội
Tín dụng ngân hàng đầu tư vào những lĩnh vực mới cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng qui mô sản xuất từ đó tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó do năng lực sản xuất được nâng lên nên số lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ nhiều, đó là nguồn để tăng thu nhập của cán bộ trong xí nghiệp, và góp phần ổn định đời sống cho chính họ. Mặt khác, tín dụng ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư, làm cho cơ cấu nền kinh tế trở lên hợp lý từ đó làm điều kiện cho sự ổn định và trật tự an toàn xã hội
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy cạnh tranh góp phần tạo nên một cơ cấu kinh tế hợp lý
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn tìm kiếm lợi nhuận tối đa, để thực hiện mục đích của mình các doanh nghiệp luôn luôn phải thực hiện ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ mở rộng thị trường nâng cao hiệu quả quản trị kinh doanh để ngày càng thu được nhiều lợi nhuận, thắng trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Muốn vậy ngoài vốn của mình các doanh nghiệp cần đòi hỏi một lượng vốn lớn, chính tín dụng ngân hàng là nguồn vốn tài trợ cho các nhu cầu đó, đồng thời cũng nhờ vào vốn tín dụng các nhà kinh doanh có thể chuyển từ nghành có lợi nhuận thấp sang nghành có lợi nhuận cao tạo việc bình quân hoá lợi nhuận trong nền kinh tế từ đó thúc đẩy quá trình hình thành nền kinh tế hợp lý
- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi mở rộng qui mô sản xuất chiếm lĩnh thị trường
Khi được đầu tư vốn, doanh nghiệp có cơ hội để mở rộng qui mô sản xuất, đầu tư để tăng thêm nhiều sản phẩm có mẫu mã và chất lượng cao để cung ứng ra thị trường nhờ vậy sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường tín nhiệm và chấp nhận, từ đó sản phẩm tiêu thụ được nhiều hơn, dần dần chiếm được tình cảm và lòng tin của khách hàng làm cho sản phẩm chiếm lĩnh được thị trường, mở rộng thị phần hoạt động tạo điều kiện vật chất cho doanh nghiệp .
Qua tiến hành đầu tư vào những dự án mới doanh nghiệp có cơ hội và điều kiện để tăng khối lượng hàng hoá dịch vụ cung ứng ra thị trường từ đó làm tiền đề cho việc tăng doanh thu của doanh nghiệp, nhờ vậy lợi nhuận doanh nghiệp thu được ngày một tăng.
1.3. hiệu quả của tín dụng ngân hàng
1.3.1 .Khái niệm hiệu quả tín dụng ngân hàng
Khoản tín dụng Ngân hàng đem lại hiệu quả được thể hiện trên hai giác độ.
Thứ nhất là hiệu quả về Tài chính: Khi ngân hàng cho khách hàng vay vốn tín dụng để đầu tư phát triển sản xuất mở rộng nguồn vốn hay đầu tư theo chiều sâu là ngân hàng có thể tính toán được lợi nhuận mà khoản tín dụng mang lại cho ngân hàng là khoản lãi tiền vay, sau khi đã trừ đi các khoản chi phí như lãi suất huy động, trả lương cho CBCNV, mà các khoản chi phí khác... là phần lợi nhuận của ngân hàng. Từ khoản lợi nhuận này ngân hàng sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh. Khi khoản tín dụng này mang lại lợi nhuận là hoạt động của ngân hàng có hiệu quả . Hoạt động này không những mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng về mặt tín dụng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng, tăng nhanh thu nhập từ các dịch vụ khác mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng Đối với các khách hàng khi có vốn để đầu tư vào những dự án khả thi sẽ làm cho sản phẩm của khách hàng tiêu thụ được nhiều hơn, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của chính bản thân khách hàng. Thu nhập của bản thân khách hàng tăng là qóp phần tạo điều kiện cho khách hàng tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Ngoài ra nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến cho thu nhập của những lao động trong doanh nghiệp .
Một dự án khả thi sẽ đem lại hiệu quả không những cho ngân hàng , khách hàng , mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế . Khách hàng và ngân hàng hoạt động tốt là góp phần tăng thu nhập cho nhà nước (các khoản đóng góp như thuế), trực tiếp làm tăng thu nhập cho đời sống nhân dân và làm tăng thu nhập cho toàn bộ nền kinh tế .
Thứ hai là hiệu quả kinh tế xã hội :
Với một khoản tín dụng có hiệu quả sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu mà nhà nước đặt ra: Phát triển các vùng kinh tế , các ngành kinh tế mũi nhọn. Đất nước chỉ có thể phát triển vững mạnh khi các doanh nghiệp, các cá nhân ... trong đất nước phát triển vững mạnh. Chính nhờ các tín dụng hiệu quả đã góp phần tạo nên sự vững mạnh đó. Nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp đang là mối quan tâm của Đẳng và Chính phủ. Chính nhờ những dự án khả thi mà có thể thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hóa đất nước, tham gia vào quá trình hợp lý hoặc quy hoạch đô thị, bảo vệ môi trường, biến những vùng đất vùng kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp thành những vùng có cơ sở hạ tầng tốt, người dân có công ăn việc làm, có tay nghề từng bước ổn định an toàn xã hội.
1.3.2. Những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng ngân hàng
1.3.2.1 Các chỉ tiêu định tính:
+ Trước hết, khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng phụ thuộc và uy tín của ngân hàng đó. Nếu một ngân hàng có uy tín nó sẽ có khả năng thu hút nhiều khách hàng hơn. Ngược lại, nếu một ngân hàng có số lượng khách hàng đông đảo và là những khách hàng có uy tín thì đó là một dấu hiệu cho thấy hiệu quả tín dụng của ngân hàng là khả quan. Ngoài ra ngân hàng phải thực sự trở thành người bạn của khách hàng, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với khách hàng. Chẳng hạn trong quá trình kinh doanh nếu khách hàng gặp phải những khó khăn bất khả kháng thì ngân hàng có thể xem xét giúp đỡ để cùng tháo gỡ, ngân hàng cũng có thể là người cung cấp các thông tin bổ ích về thị trường, về tiến bộ khoa học công nghệ cho khách hàng.
+ Bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tức là hoạt động tín dụng phải mang lại cho ngân hàng thu nhập đủ để trang trải các chi phí liên quan và có lãi, hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro. Điều này ngoài vai trò của ngân hàng còn phụ thuộc vào nỗ lực của khách hàng vay vốn. Điều đó đòi hỏi khách hàng phải tuân thủ đúng các nguyên tắc vay vốn. Mục đích sử dụng vốn vay đã ký kết trong hợp đồng tín dụng đã được cả hai bên: ngân hàng và khách hàng phân tích và đánh giá kỹ lưỡng cả về hiệu quả, tính khả thi cũng như mức độ phù hợp với chính sách phát triển kinh tế -xã hội chung của ngành của địa phương và của cả nước do đó sử dụng vốn vay đúng mục đích là một trong những điều kiện đảm bảo đạt được mục tiêu đã đề ra ban đầu. Ngoài ra sự năng động nhạy bén trong kinh doanh của khách hàng và sự giúp đỡ hiệu quả của ngân hàng sẽ tạo điều kiện để khách hàng đạt lợi nhuận cao nhất và đó chính là điều kiện để khách hàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
+ Yêu cầu thứ ba là phải đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế -xã hội của vùng, của địa phương và của cả nước. Điều này chỉ đạt được khi cả khách hàng và ngân hàng đều hoạt động có hiệu quả. Nó được biểu hiện ở sự ổn định của nền tài chính -tiền tệ quốc gia, giúp nâng cao năng lực sản xuất, năng lực công nghệ cho doanh nghiêp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư.
Như vậy, có thể nói hiệu quả tín dụng ngân hàng là một chỉ tiêu rất tổng hợp được nhìn nhận từ ba góc độ: Ngân hàng, Khách hàng và nền kinh tế. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những căn cứ để đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng một cách khái quát. Để có thể kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể .
1.3.2.2 Các chỉ tiêu định lượng :
+ Về phía ngân hàng :
- Chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận :
Hiệu quả tín dụng ngân hàng không thẻ nói là cao nếu lợi nhuận do hoạt động này mang lại thấp. Cụ thể người ta thường dùng các chỉ tiêu sau để đánh giá hiệu quả tín dụng xét về mặt lợi nhuận :
Khả năng sinh lời
=
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản tín dụng. Nó cho biết một đồng dư nợ cho vay mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại càng lớn, đó là một trong những nhân tố tạo nên hiệu quả tín dụng cao của ngân hàng
=
Lợi nhuận ngân hàng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tổng lợi nhuận ngân hàng
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tầm quan trọng của hoạt động tín dụng ngân hàng trong mối quan hệ với toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Tỷ lệ này cao chứng tỏ hầu hết lợi nhuận của ngân hàng có đuợc là từ hoạt động cho vay
- Chỉ tiêu về dư nợ
Dư nợ
=
Dư nợ cho vay
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết tương quan so sánh về quy mô cho vay so với tổng tài sản của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này cao chứng tỏ các khoản cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng.
- Chỉ tiêu về thu nợ :
Thu nợ
=
Doanh thu thu nợ
Tổng dư nợ bình quân
Tốc độ tăng trưởng của doanh số thu nợ: Chỉ tiêu này đo lường tốc độ tăng trưởng của doanh số thu nợ qua các thời kỳ. Tốc độ tăng doanh số thu nợ cao chứng tỏ công tác thu nợ của ngân hàng đang được tiến hành rất tốt. Ngược lại nếu tốc độ này thấp thì có thể là do doanh số cho vay giảm sút hoặc công tác thu nợ găp khó khăn. Điều đó cho thấy hiệu quả tín dụng của ngân hàng là không tốt.
- Các chỉ tiêu đánh giá tình trạng nợ quá hạn :
Nợ quá hạn là những khoản nợ khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc hết thời hạn vay vốn với thời gian được gia hạn thêm (nếu có) nhưng khách hàng vẫn chưa trả được nợ.
Ngoài ra, để đánh giá một cách kỹ lưỡng người ta thường chia nợ quá hạn ra thành các loại: nợ quá hạn có khả năng thu hồi, nợ quá hạn khó đòi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tình hình nợ quá hạn bao gồm
+Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn
=
Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng trong cho vay. Tuy nhiên trong thực tế do những rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi nên các ngân thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn ở mức dưới 3%là có thể chấp nhận được, còn đạt được mức dưới1,5% có thể coi là lý tưởng.
DN quá hạn khó đòi
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu trên tuy phản ánh khái quát tình hình nợ quá hạn của ngân hàng nhưng cũng chưa đủ là căn cứ đáng tin cậy để đánh giá mức độ rủi ro mà ngân hàng đang phải đối mặt. Để đánh giá chính xác hơn người ta phải dùng thêm hai chỉ tiêu :
+ Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi trên tổng dư nợ =
+ Tỷ lệ nợ quá hạn không có khả năng thu hồi trên tổng dư nợ
=
Dư nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
Tổng dư nợ
Về phía khách hàng
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để dánh giá chất lượng của khoản tín dụng bao gồm
- Doanh thu tăng từ dự án
- Lợi nhuận tăng từ dự án
Các chỉ tiêu này càng cao càng tốt, nó cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng.
Tóm lại hiệu quả tín dụng ngân hàng là một khái niệm tổng hợp vừa mang tính cụ thể vừa mang tính trìu tượng. Nó được biểu hiện thông qua nhiều chỉ tiêu liên quan đến nhiều chủ thể ( ngân hàng, khách hàng, nền kinh tế ). Các chỉ tiêu đó có thể là chỉ tiêu định tính hay định lượng và có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, có thể là bổ sung cho nhau nhưng có thể là mâu thuẫn với nhau. Do đó, để đánh giá một cách tương đối chính xác hiệu quả tín dụng của một ngân hàng thì cần phải đánh giá toàn bộ các chỉ tiêu đó trong một hệ thống cả trên quan điểm của Ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng Ngân hàng
1.3.3.1. Nhóm nhân tố thuộc phía Ngân hàng
+ Quy mô và kỳ hạn của nguồn vốn của NHTM
Muốn cho vay thì cần phải có vốn. Vốn chính là một yếu tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Nhưng nếu cứ đi vay vốn cấp trên với lãi suất cao để cho vay thì hiệu quả của hoạt động tín dụng sẽ không cao. Do vậy vấn đề huy động vốn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế là một vấn đề quan trọng vì đây là một nguồn vốn rẻ và chính nguồn vốn naỳ sẽ quyết định hiệu quả tín dụng của ngân hàng.
+ Năng lực thẩm định dự án, thẩm định khách hàng của ngân hàng
Một trong những điều kiện đảm bảo chất lượng tín dụng của ngân hàng là vốn vay và lãi vay được hoàn trả đúng kỳ hạn. Điều này khó có thể đạt được nếu như việc thực hiện dự án không đạt hiệu quả như mong muốn hoặc khách hàng không có thiện chí hoặc cố tình lừa đảo ngân hàng. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng.Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp cho ngân hàng loại bỏ những khách hàng không tốt.
+ Khả năng của ngân hàng trong việc giám sát và xử lý các tình huống tín dụng
Công tác giám sát và sử lý các tình huống tín dụng sau khi cho vay có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề như : sự tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn của khách hàng, tình hình hoạt động thực tế của dự án, tiến độ trả nợ, những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án .... Làm tốt công tác này sẽ giúp ngân hàng phát hiện và ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực như sử dụng vốn sai mục đích, âm mưu lừa đảo ngân hàng ...
+ Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng của NHTMlà một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng đó trong từng thời kỳ .
Như vậy chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0203.doc