Lời mở đầu
Chúng ta đang sống trong thời đại mới, thời đại của sự nghiệp phát triển kinh tế như vũ bão. Nó tạo điều kiện cho chúng ta những cơ hội mới, thời cơ mới nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chúng ta những thách thức đó và nắm bắt được những thời cơ phát triển, chúng ta phải sáng suốt lựa chọn cho mình con đường đi đúng đắn và phù hợp với năng lực của mình.
Hoạt động của Ngân hàng gắn liền với cơ chế quản lý kinh tế. Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trườn
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển huyện Thanh trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g có sự quản lý của Nhà nước đòi hỏi hoạt động của Ngân hàng phải là đòn bẩy kinh tế, là công cụ kiềm chế và đẩy lùi lạm phát nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng đã được cải tổ và hoạt động có hiệu quả, đóng vai trò nòng cốt trên thị trường tiền tệ. Trong thời kỳ đổi mới của nước ta, từ nền kinh tế hạch toán tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng, trong đó có ngân hàng đầu tư và phát triển cũng cần có những đổi mới nhất định để thích ứng với sự chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Ngân hàng đầu tư phát triển Việt nam trong chiến lược kinh doanh tổng thể đã xác định là một trong những Ngân hàng lớn nhất tại Việt nam, giữ vai trò chủ đạo đứng đầu về lĩnh vự đầu tư phát triển, kinh doanh đa năng tổng hợp, cung cấp các dịch vụ có tính cạnh trang. Xây dựng Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt nam trở thành Ngân hàng mạnh, toàn diện để từng bước hội nhập với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Muốn thực hiện được chiến lược đó, trước hết phải có vốn và sự tăng trưởng nguồn vốn đó ngày càng cao sẽ quyết định quy mô, tầm cỡ của một ngân hàng. Song đối với một ngân hàng, có được nguồn vốn đã khó, sử dụng vốn sao cho có hiệu quả lại càng khó khăn hơn. Với mục tiêu mà ngân hàng đầu tư và phát triển đặt ra là: Vững chắc trong tăng trưởng, chất lượng an toàn trong kinh doanh và có hiệu quả.
Hiện nay, ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp có vốn nhỏ, máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu... và đang rất cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài, để cải tiến, nâng cao chất lượng sản suất. Mặc dù, thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời, đã tạo ra kênh dẫn vốn trực tiếp tới các doanh nghiệp và xã hội. Nhưng vai trò của Ngân hàng Thương mại trong việc đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế vẫn chiếm vị trí rất quan trọng. Hệ thống ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế. Cho nên hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Thương mại ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của nền kinh tế.
Ngân hàng Đầu tư và phát triển đã và đang tích cực tìm kiếm, triển khai các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. xây dựng cơ cấu nguồn vốn hợp lý, khai thác tiềm năng về vốn để đảm bảo nguồn vốn ổn định, từ đó, sử dụng vốn có hiệu quả là mục tiêu hàng đầu đặt ra cho Ngân hàng. Sự phát triển của Ngân hàng là sự đóng góp, khích lệ vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Toàn thể ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như đội ngũ cán bộ công nhân viên chức đang cố gắng không biết mệt mỏi khắc phục những khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao.
Vấn đề đặt ra là, khi nghiệp vụ cho vay còn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong hoạt động ngân hàng Đầu tư và phát triển thì việc sử dụng vốn để cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng, phát huy được hiệu quả, thu hồi vốn và tránh được rủi ro tiềm ẩn được coi trọng hàng đầu. Để thực hiện tốt việc sử dụng vốn có hiệu quả, với nhận thức về lý luận được học tại trường Đại học kinh tế quốc dân, em đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển huyện Thanh trì.
Nội dung gồm 3 chương
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng về sử dụng vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì
Chương III: Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì.
Chương I
Những vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại
I – Lý luận chung về ngân hàng thương mại:
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong những ngành hình thành lâu đời nhất. Trải qua quá trình phát triển của xã hội, nghề Ngân hàng không ngừng được hoàn thiện và phát triển. ở giai đoạn đầu hoạt động của mình, Ngân hàng mới chỉ thực hiện những nghiệp vụ đơn giản phục vụ nhu cầu xã hội là giữ hộ của cải và thanh toán hộ. Đến nay, hoạt động của Ngân hàng đã được phát triển mạnh với nhiều lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ và công nghệ ngày càng hiện đại thông qua sự phát triển không ngừng của nền kinh tế xã hội. Ngân hàng là một trung gian tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế. Nó đóng vai trò môi giới cho sự gặp gỡ của cung - cầu tiền tệ thông qua huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ dân cư và các tổ chức trong xã hội, rồi cho vay lại đối với cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn, góp phần đẩy mạnh tốc độ vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, qua đó đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế đất nước.
Trong nền kinh tế, Ngân hàng Thương mại đóng vai trò là trung gian Tài chính, là chiếc cầu chuyển tải những nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội đến tay những người có nhu cầu và có khả năng đầu tư sinh lợi. Nó giống như “hệ tuần hoàn” tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển một cách thuận lợi hơn.
Bản chất của Ngân hàng Thương mại là trung gian Tài chính, là một cơ quan nhận một bộ phận tiền vốn nhàn rỗi trong xã hội đến tay những người có nhu cầu chi tiêu cho đầu tư phát triển.Trong quá trình đó Ngân hàng Thương mại tạo ra cho mình những công cụ Tài chính thay thế tiền làm phương tiện thanh toán trong đó công cụ quan trọng nhất là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có thể phát séc. Nhờ các công cụ này mà đại bộ phận tiền giao dịch trong nền kinh tế chu chuyển thông qua Ngân hàng, gắn các nhu cầu về lưu thông tiền tệ- thanh toán trong nước và quốc tế lại với nhau.
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, là doanh nghiệp tiến hành thường xuyên các nghiệp vụ huy động vốn và làm công tác tín dụng, cung cấp các phương tiện thanh toán, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và các nghiệp vụ Tài chính khác.
Bên cạnh các Ngân hàng Thương mại, trong nền kinh tế cũng còn tồn tại các trung gian Tài chính khác, đó là các tổ chức phi Ngân hàng như Công ty Bảo hiểm, Công ty cầm đồ...làm nhiệm vụ nhận tiền gửi của khách hàng. Nhưng điểm khác biệt giữa Ngân hàng Thương mại với các trung gian Tài chính đó là sự chuyên môn hoá của các tổ chức Tài chính. Nó chỉ thực hiện một trong hai Vai trò hoặc là nhận tiền gửi không cho vay hoặc là chuyên cấp phát.
Tóm lại, Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Về mặt tổ chức, hệ thống Ngân hàng được tổ chức theo mô hình sau đây:
- Theo phạm vi nghiệp vụ người ta chia Ngân hàng thương mại thành hai loại hình sau đây:
+ Loại hình kinh doanh đa năng: Thường là các Ngân hàng quốc doanh được phép hoạt động đa dạng, nhiều loại nghiệp vụ.
+ Ngân hàng thương mại chuyên môn hoá: Loại Ngân hàng này với phạm vi hẹp như Ngân hàng phát triển nhà ở, Ngân hàng cầm cố bất động sản.
- Theo đối tượng khách hàng, người ta chia ra:
+ Ngân hàng bán buôn: Loại Ngân hàng này chỉ đầu tư vốn vào doanh nghiệp lớn.
+ Ngân hàng bán lẻ: Loại Ngân hàng này chỉ chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Theo mô hình phổ biến hiện nay, người ta chia thành:
+ Ngân hàng thương mại quốc doanh: các Ngân hàng này được Nhà nước cấp vốn.
+ Ngân hàng đầu tư và phát triển: Mục đích Ngân hàng này là cung ứng vốn đầu tư trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân hoặc các công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước. Loại hình Ngân hàng này có thể là quốc doanh hay cổ phần.
+ Ngân hàng chính sách: Ngân hàng này hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, mà hoạt động theo những mục tiêu riêng do Chính phủ giao, như phục vụ người nghèo, phục vụ miền núi…
+ Các Ngân hàng cổ phần có thể hoạt động đa năng theo từng quy chế riêng, từng lĩnh vực phạm vi nhất định.
Ngoài ra có thể chia Ngân hàng theo một trong hai mô hình sau đây:
- Mô hình Ngân hàng một cấp: Đứng đầu là Ngân hàng Trung ương, dưới Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng Nhà nước tại các huyện huyện. Các Ngân hàng Nhà nước cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Trung ương. Bên cạnh đó là một vài Ngân hàng chuyên doanh làm nhiệm vụ cấp phát theo kế hoạch của Nhà nước.
- Mô hình Ngân hàng hai cấp:
+ Hệ thống Ngân hàng Nhà nước: Bao gồm Ngân hàng Trung ương và các Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh, thành phố với các Vai trò chủ yếu là quản lý, bảo đảm cho hoạt động của Ngân hàng chuyên doanh (Ngân hàng thương mại) được an toàn thông qua việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động của hệ thống này.
+ Hệ thống Ngân hàng thương mại: Bao gồm các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng tư nhân với các Vai trò chính là kinh doanh trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước thông qua các quy định, định chế hoạt động và thông qua việc thực hiện các văn bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt nam không có Ngân hàng riêng. Ngân hàng Đông Dương được thành lập ngày 31/1/1875 theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp, thực chất là Ngân hàng của các nhà tư bản tài chính Pháp và là Ngân hàng chung của cả ba nước: Việt nam, Lào và Campuchia.
Ngân hàng Đông Dương là Ngân hàng phát hành, đồng thời là Ngân hàng thương mại được thành lập nhằm bóc lột nhân dân ba nước Đông Dương.
Sau Cách mạng tháng 8 thành công, Ngày 6/5/1950, Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam.
2. Đặc trưng & hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng Thương mại.
* Đặc trưng
Ngày nay, người ta khó có thể hình dung nổi nền kinh tế thị trường mà lại vắng bóng các tổ chức Tài chínhtrung gian làm Vai trò “ cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn. Trong thực tế, các tổ chức Tài chính trung gianđược hình thành ở rất nhiều dạng, nhưng nọi dung hoạt động của chúng lại đan xen lẫn nhau khó phân biệt rõ ràng. Trong số các tổ chức Tài chính trung gian, hệ thống Ngân hàng Thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô Tài sản và về thành phần các nghiệp vụ.
Xét về mặt đặc trưng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại, cần chú ý các vấn đề sau đây:
a. Quan hệ tín dụng Ngân hàng dựa trên cơ sở hoàn trả.
Ngân hàng Thương mại với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “cho vay” thông qua nghiệp vụ tín dụng của mình. Việc buôn tiền của Ngân hàng Thương mại suy cho cùng phải đạt được lợi nhuận. Muốn vậy, phải kinh doanh có hiệu quả. Hành vi buôn bán tiền của Ngân hàng Thương mại thực chất là đi mua quyền sử dụng vốn (thuê) để bán (cho thuê) lại quyền sử dụng đó, nhưng nó hoàn toàn khác với các loại kinh doanh khác của các tổ chức kinh tế.
Trước hết, vốn mà Ngân hàng mua quyền sử dụngcủa những chủ thể có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phải được trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu của nó theo những cam kết đã giao ước. Là người đi vay, Ngân hàng Thương mại phải đảm bảo hoàn trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng vời một món lợi tức hợp lý kèm theo.
Là người cho vay, Ngân hàng Thương mại sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức là tạm thời bán lại quyền sử dụng vốn cho người khác, Ngân hàng Thương mại vẫn luôn mong muốn khách hàng của mình sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ vốn và lãi đúng kì hạn theo những quy định đã cam kết. Như vậy, trong mối quan hệ tay ba giữa Ngân hàng Thương mại, người gửi tiền kí thác và người đi vay đều dựa vào lòng tin của nhau để giải quyết tình trạng thừa hay thiếu vốn của các chủ thể nêu trên.
b. LãI suất - Biểu hiện đặc trưng về hoạt động kinh doanh của một trung gian Tài chính.
Quan niệm về lãi suất là “giá cả của quyền sử dụng vốn vay” dựa vào các phân tích sau đây. Khi sử dụng vốn vay vào trong quá trình sản xuất hoặc kinh doanh người đi vay có thể thu được lơị nhuận, một phần lợi nhuạn này có thể được trả cho người cho vay và được gọi là giá cả của quyền sử dụng khoản vay hay được gọi là lãi suất. Như vậy, khác với hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường, lợi nhuận ở đây được phân chia chứ không phải nhân lên, phần lợi nhuận đem chia đó là chi phí mà người đi vay phải trả cho việc “thuê”giá trị khoản vay về sử dụng trong kinh doanh theo thời gian nhất định. Khoản chi phí này cũng giống như chi phí trả tiền thuê nhà, khác chăng là trong quá trình sử dụng giá trị căn nhà giảm dần do hao mòn, còn giá trị khoản vay thì bất biến. Đó là đặc điểm khác biệt của việc “cho thuê giá trị” so với các loại hình cho thuê Tài sản trong kinh doanh thông thường khác.
Có thể việc nghiên cứu kinh doanh ngân hàng hay kinh tế học, người ta sẽ giải thích lãi suất bằng các lý thuyết khác một cách chi tiết hơn.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ giải thích lãi suất bằng lý thuyết “vốn có thể cho vay” theo quan niệm truyền thống. Lý thuyết “vốn có thể cho vay” là sự đơn giản hoá một vấn đề phức tạp. Mọi sự thay đổi về các điều kiện cung và cầu đề tác động đến lãi suất. Lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay coi lãi suất như khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền của người khác. Như vậy, lãi suất hàm chứa một mâu thuẫn: Người cho vay muốn có lãi suất cao nhất, trong khi người đi vay lại muốn có lãi suất thấp nhất. Vì vậy như giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất được xác định bởi cung và cầu. Cung vốn có được chủ yếu từ các khoản ký thác của công chúng và lượng vốn được cung ứng phụ thuộc nhiều vào giá cả (lãi suất). Do đó nếu lãi suất quá thấp, đa số các dân chúng sẽ quyết định là không đáng để cho vaycác khoản tiết kiệm của mình, họ sẽ giữ các khoản tiền này dưới dạng khả dụng (Tức là dễ chuyển thành tiền mặt) hơn và để chi tiêu khi cần. Khi mà lãi suất tăng cao, lượng tiền tiết kiệm mà dân chúng sẵn sàng cho vay tăng lên, và số lượng vốn cung sẽ tăng lên lớn hơn.
Những người đi vay vốn coi lãi suất là một khoản chi phí và như vậy, chi phí giảm khi cầu càng tăng, khi lãi suất tăng thì cầu vay vốn giảm xuống.
c. Yếu tố lòng tin trong hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh “credo” có nghĩa là “ sự giao phó” hay Tài “đặt niềm tin vào đó”, hoặc từ tiếng la- tinh “credittum” có nghĩa là “sự tín nhiệm”.
Trong giới Tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác tin tưởng và sẵn sàng ký thác Tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức tín nhiệm của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Trong quan hệ kinh doanh thông thường khác, uy tín vẫn là yếu tố được đặt lên hàng đầu trong nhiều trường hợp, nhưng không đóng vai trò quyết định trong mua bán bởi các lẽ sau: Thứ nhất hàng hoá thông thường cồng kềnh mang tính chất chuyên dùng, khả năng thanh toán kém nên khó tẩu tán, việc kiểm tra uy tín kinh doanh trong mối quan hệ giao dịch dễ dàng, không cần thử thách.
Ngược lại, kinh doanh tín dụng Ngân hàng là kinh doanh “ quyền sử dụng khoản tiền tệ”, Ngân hàng chỉ bán “ Quyền sử dụng” của tiền chứ không bán “tiền”, nên khi hết thời gian sử dụng của tiền theo cam kết, tiền quay về giữ nguyên giá trị của nó, phần chênh lệch theo thoả thuận nếu có là “giá bán” quyền sử dụng khoản cho vay trong thời gian nhất định. Do vậy tiền phát ra qua các thời gian nhất định rồi sẽ thu về, nó không được bán đứt. Hơn nữa giá bán (lãi suất) quyền sử dụng tiền tệ thường rất nhỏ so với giá trị khoản cho vay, nên sự bù đắp khi rủi ro xảy ra là quá ít ỏi. Từ đó có thể thấy rằng quan hệ tín dụng buộc phải có lòng tin, trong nhiều trường hợp, vì thiếu lòng tin nên người ta thường phải tăng cường gia cố bằng các” quyền truy đòi”, bằng tài sản (thế chấp) hay bằng pháp lý (bảo lãnh), thiếu lòng tin quan hệ tín dụng có thể không phát sinh.
Lòng tin của khách hàng là số tiền gửi của họ được cất giữ một cách tốt nhất và nhanh chóng được rút tiền ra khi cần thiết. Tuy nhiên trong quan hệ tín dụng, lòng tin của người cho vay đối với người đi vay quan trọng hơn nhiều, bởi lẽ người cho vay là người giao phó tiền bạc hoặc Tài sản của họ cho người khác sử dụng và lơì hứa hoàn trả.
Lòng tin trong quan hệ ngân hàng lại càng đặc biệt hơn so với yếu tố lòng tin trong quan hệ tín dụng phi Ngân hàng, bởi lẽ sau đây:
+ Trong tín dụng thương mại, tiền vay là một phần vốn sản xuất của doanh nghiệp cho vay; còn trong tín dụng Ngân hàng, tiền vay dựa trên cơ sở “đi vay để cho vay”, do vậy Ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay và là người cho vay. Khi là người đi vay, Ngân hàng phải có được lòng tin của công chúng để họ ký thác Tài sản hoặc tiền bạc cho ngân hàng. Trong trường hợp ngân hàng là người cho vay, ngân hàng phải thẩm tra uy tín và khả năng hoàn trả của người đi vay. ở đây ngân hàng thực hiện nghiệp vụ đi vay để cho vay, “mua” quyền sử dụng vốn của chủ thể có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế rồi “bán” quyền sử dụng vốn đó cho các chủ thể có nhu cầu để hưởng lợi tức. Cũng như bao doang nghiệp khác, hoạt động của các ngân hàng phải mang lại lợi nhuận và bảo toàn vốn, điều đó liên quan đến sự sống còn của các Ngân hàng Thương mại.
+ Khách hàng là người ký thác và khách hàng là người đi vay của ngân hàng rất là đa dạng và phức tạp, thuộc nhiều thành phần, ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Vì thế yếu tố lòng tin trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng được nhân lên rất nhiều lần: Ngân hàng phải ổn định lòng tin ở mức độ cao cho người ký thác, đồng thời phải thẩm định khắt khe uy tín của người vay. Nếu không thẩm định kỹ sẽ dẫn đến việc cho vay đối với những người không có khả năng hoàn trả, ngân hàng sẽ không có vốn để hoàn trả cho người ký thác, tức là đánh mất lòng tin đối với công chúng từ đó ngân hàng sẽ không tiếp tục cho vay được, đó là chưa nói đế sự phá sản sẽ diễn ra do ngân hàng mất khả năng thanh toán.
d. Tín dụng của ngân hàng tạo tiền ký thác, tạo Tài nguyên cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vai trò tạo tiền và huỷ tiền là Vai trò riêng có của tín dụng ngân hàng. Vai trò này làm cho hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng khác hẳn với các hoạt động kinh doanh thông thường khác.
Khi ta mua chịu ở một cửa hàng nào đó thì quan hệ tín dụng phát sinh: số tiền ta nhận được qua mua chịu sễ bằng số tiền mà người bán chịu lẽ ra nhận được. Hoặc khi mua một trái phiếu, số tiền mà ta giảm đi cũng chính là số tiền mà công ty đó nhận được. Vậy trong tín dụng thông thường, việc cho vay chẳng qua là chuyển số tiền từ tay người này sang tay người khác sử dụng, người cho vay mất đi cái mà người cho vay nhận được. Điều này cũng giống như khi Ngân hàng Thương mại cho vay bằng tiền mặt. Nhưng khi ngân hàng cho vay bằng rút qua số dư Tài khoản tiền gửi ( tức cho vay chuyển khoản), thì ngân hàng không mất đi cái gì, mà khách hàng có thêm phương tiện tạo ra sức mua. Tóm lại, trong các loại tín dụng khác, cho vay hoặc là thu nợ là quá trình chuyển một số tiền từ tay người này sang tay người khác, không mất đi và cũng không tăng thêm. Trong khi đó Ngân hàng Thương mại cho vay (không bằng tiền mặt) sẽ làm giảm một lượng tiền. Ngân hàng Thương mại thông qua tín dụng để tạo tiền và huỷ tiền, cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Khi làm điều đó ngân hàng đã tạo ra Tài nguyên quan trọng nhất phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
e. Công nghệ ngân hàng là công nghệ đặc biệt: công nghệ biến đổi cơ cấu thời hạn của các đông tiền.
Hoạt động kinh tễ xã hội luôn sản sinh ra tình trạng lưỡng lập, nghĩa là luôn có những người thừa tiền muốn cho vay và những người thiếu tiền muốn đi vay. Tuy vậy, khi những người đi vay và cho vay giao dịch trực tiếp với nhau, thì họ gặp phải những khó khăn hầu như nan giải. Những khó khăn này bao gồm sự không trùng hợp về thời gian (người cho vay chỉ thích “cho vay ngắn hạn”, còn người đi vay mong muốn có được “khoản vay dài hạn”), số lượng vốn (những người tiết kiệm có thể chỉ có những khoản vốn nhỏ muốn cho vay, trong khi người vay lại yêu cầu một khoản vay lớn) và những rủi ro, v.v... Như vậy, vấn đề cơ bản nảy sinh là làm sao hoà hợp được ý nguyện của hai bên: người cho vay (đầu tiên) muốn cho vay ngắn hạn và người đi vay (cuối cùng) muốn được vay dài hạn. Thị trường Tài chính trực tiếp sẽ bị bế tắc không thể giải quyết nổi và người ta gọi đó là “ thể trạng yếu đuối” của thị trường Tài chính trực tiếp.
Khi các ngân hàng cung cấp tín dụng, tức là ngân hàng cam kết khả năng thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng đã thiết kế cơ cấu thời gian hợp lý để đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngay cả khi nhận tiền ký thác bằng cách tính toán giá trị cũng như thời hạn của các tài sản đến hạn trong giai đoạn nào đó, ngân hàng cũng đã lên kế hoạch bổ sung bằng các nguồn ký thác mới. Các biện pháp thay đổi cơ cấu thời hạn ngân quỹ luôn luôn đáp ứng được yêu cầu về khả năng thanh toán cho khách hàng cũng như khả năng thanh khoản của ngân hàng đã hình thành một công nghệ đặc biệt của ngân hàng: công nghệ thay đổi thời hạn sử dụng của các đồng tiền.
* Hoạt động của ngân hàng thương mại
a. Dự trữ pháp định (dự trữ bắt buộc):
Tại các Ngân hàng thương mại phải giữ lại một phần trong tổng số nguồn vốn theo tỷ lệ bắt buộc để bảo hiểm cho các khoản tiền gửi hay bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và lợi ích của nền kinh tế. Các quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường theo quy định về luật Ngân hàng của từng quốc gia. ở Việt nam tỷ lệ dự trữ bắt buộc là từ 0% đến 20% trên tổng số huy động.
b. Tiền mặt tại quỹ.
Là khối lượng tiền do Ngân hàng giữ trong các kho két Ngân hàng. Một phần số tiền này được coi là dự trữ pháp định. Các nhà quản lý Ngân hàng thường cố gắng giữ càng ít tiền mặt càng tốt vì lý do an toàn, giảm bớt chi phí bảo vệ, bảo quản tiền mặt khỏi hư hỏng nhưng lý do cao nhất vẫn là lợi nhuận.
Tiền gửi ở các Ngân hàng khác:
Để tạo thuận lợi thanh toán, các Ngân hàng thương mại có khoản tiền gửi ở các Ngân hàng thương mại khác. Đây là một phần của hệ thống được gọi là “hoạt động Ngân hàng vãng lai”. Các khoản tiền gửi này chỉ để tạo điều kiện thuận lợi trong thanh toán hoặc đổi lấy những dịch vụ như tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ, mua giúp chứng khoán mà không được hưởng lãi suất.
d. Khoản mục đầu tư hoặc chứng khoán.
Nghiệp vụ đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng tập trung được một khối lượng tiền lớn trong tay, với số vốn này Ngân hàng có thể đầu tư vào các doanh nghiệp, các dự án, mua cổ phần của các doanh nghiệp …Với việc mua cổ phần, đầu tư vào các doanh nghiệp, Ngân hàng có thể tham gia kiểm soát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngoài ra Ngân hàng còn nắm giữ một số loại chứng khoán như: trái phiếu chính phủ, các thương phiếu… vì mục đích thanh khoản, đa dạng hoá hoạt động và để nâng cao lợi nhuận.
e. Hoạt động tín dụng:
Tín dụng là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kết cấu tài sản Có. Đây cũng là hoạt động sinh lời quan trọng và là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thượng mại, mang lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng nó cũng là lĩnh vực nhiều rủi ro nhất. Căn cứ vào hình thức hoạt động có thể phân loại cho vay như sau:
- Căn cứ theo kỳ hạn chia thành: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn.
- Căn cứ vào hình thức đảm bảo thanh toán chia thành: Cho vay có bảo đảm, cho vay không bảo đảm.
- Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh chia thành: Cho vay đối với các doanh nghiệp công nghiệp, cho vay đối với các doanh nghiệp thương mại, cho vay đối với các doanh nghiệp dịch vụ …
- Qua công tác phân loại tài sản như trên, ta có thể phân tích hoạt động đầu tư tín dụng ở Ngân hàng thương mại theo tính thời hạn. Cơ cấu giữa nguồn huy động ngắn hạn, trung và dài hạn là yếu tố quan trọng quyết định việc sử dụng nguồn cho hoạt động tín dụng. Một Ngân hàng thương mại có nguồn ngắn hạn dồi dào sẽ có khả năng cho vay ngắn hạn cao, cũng như nếu có nguồn trung – dài hạn tốt sẽ tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu về tín dụng trung – dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn:
Do tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế luôn xẩy ra hiện tượng có doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn nhưng lại có doanh nghiệp lại thừa vốn, nên việc cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp là nghiệp vụ thường xuyên của Ngân hàng thương mại. Nhu cầu về các loại tín dụng này thường không được báo trước nên nguồn vốn cho vay ngắn hạn được hình thành ở Ngân hàng chủ yếu là từ tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc cho vay mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và cho vay ngắn hạn đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tín dụng trung – dài hạn:
Nhu cầu về vốn trung – dài hạn thường nẩy sinh khi các doanh nghiệp muốn đổi mới máy móc thiết bị hoặc quy trình công nghệ. Nhu cầu này không ngừng tăng lên không chỉ đối với doanh nghiệp sản xuất mà cả doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Đặc biệt đối với nền kinh tế nước ta, thực hiện bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, quyết tâm thực hiện công cuộc CNH - HĐH mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, thì nhu cầu về vốn trung – dài hạn là hết sức cấp thiết.
f. Tài sản có khác:
Bao gồm TSCĐ như: cơ sở hạ tầng, các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động của Ngân hàng. Nếu như đối với các xí nghiệp sản xuất, tài sản cố định (máy móc thiết bị nhà xưởng) chiếm một tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ vốn, thì đối với các Ngân hàng thương mại, tài sản cố định chiếm một tỷ lệ rất nhỏ khoảng 10% trong tài sản có.
3. Vai trò và vai trò của Ngân hàng Thương mại
Tầm quan trọng của các Ngân hàng Thương mại được thể hiện qua các vai trò của nó. Vai trò của Ngân hàng Thương mại có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các vai trò sau:
a. Vai trò trung gian tín dụng:
Đây là Vai trò đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể vì hướng do gì đó không dùng nó một cách sinh lời sang những người có ý muốn sinh lợi.
Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu tiền tệ cần bổ sung có nhiều hạn chế hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại đã góp phần khắc phục hạn chế đó.
Thực hiện Vai trò này, một mặt, Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn dành cho việc sử dụng vốn mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, tiêu dùng... của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, Ngân hàng Thương mại vừa là người huy động vốn để đầu tư tìm kiếm lợi nhuận.
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính làm suất hiện các khía cạnh khác của Vai trò này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa công ty (khi phát hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư: Chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty... Theo cách này Ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường. Hơn nữa, tín dụng Ngân hàng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng Ngân hàng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo quá trình sản suất kinh doanh liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư động viên vật tư hàng hoá đưa vào sản suất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản suất.
Vai trò tín dụng của Ngân hàng Thương mại được hình thành rất sớm, ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng Thương mại ngày nay, thông qua Vai trò trung gian tín dụng, Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện vai trò xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân.
b. Vai trò làm trung gian thanh toán và quản lý phưong tiện thanh toán
Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. ở các nước phát triển, phần lớn các công tác thanh toán ở trong nước được thực hiện thông qua séc và phần lớn séc thanh toán ở trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua hệ thống Ngân hàng Thương mại. Với phương pháp công nghệ hiện đại hơn, các Ngân hàng Thương mại từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện, thanh toán bù trừ được nhanh chóng giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Quá trình lưu thông chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán có một đặc điểm phi vật chất. Bằng chứng là ở các nước, công nghiệp phát triển sử dụng hình thức chuyển tiền bằng điện tử là chuyện bình thường. Họ thanh toán bằng nối mạng các máy vi tính của các Ngân hàng Thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng tiện lợi.
Như vậy Ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc luận chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá.
c. Vai trò tạo ra tiền Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng hai cấp
Vào thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý, về tiền tệ tín dụng, là Ngân hàng của các Ngân hàng còn các Ngân hàng Thương mại, chuyên kinh doanh tiền tệ.
Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các Ngân hàng Thương mại đã tạo ra bút tệ. Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động Ngân hàng; Vai trò tạo ra bút tệ được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của Ngân hàng Thương mại trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào Ngân hàng trung ương. Nhờ nhận tiền ký thác của khách hàng, Ngân hàng Thương mại có khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, Ngân hàng tạo ra tiền ký thác mới, còn gọi là tiền bút tệ, tiền chuyển khoản Ngâ._.n hàng Thương mại trở thành người cung ứng tiền bút tệ quan trọng, trong nền kinh tế.
Với hàng loạt các nhân tố tác động ảnh hưởng đến quá trình tạo tiền, các nhà kinh tế đường thời đã đưa ra nhiều côg thức hoàn chỉnh. Chẳng hạn như công thức sau của giáo sư người Pháp ...P.F. LEHAMAN.
Số nhân tiền gửi mở rộng =
Trong đó:
a: Tỷ lệ dự trữ pháp định.
b: Tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi thanh toán
r: Tỷ lệ dự trữ dư thừa trên tiền gửi thanh toán không vay hết.
Tiền gửi mở rộng = x tiền gửi ban đầu.
Tóm lại, khả năng tạo tiền là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một Ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần, thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng nhiều Ngân hàng. Khả năng này tạo ra "bội số mức cung tiền tệ" liên quan chặt chẽ với việc công cụ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng trung ương. Chính vì vậy các bút tệ thực sự thúc đẩy sự phát triển kinh tế mà cũng có thể gây nên những tai họa lớn. Đây là nhân tố cơ bản trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Thương mại.
d. Vai trò làm dịch vụ tài chính và dịch vụ khác:
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và Ngân quỹ, Ngân hàng có những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp. Với những điều kiện đó, Ngân hàng có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho doanh nghiệp, làm đại lý, phát hành cổ phiếu, trái khoán đảm bảo đạt hiệu quả cao và tiết kiệm được chi phí. Khi một doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp, họ có thể nhờ Ngân hàng cung cấp dịch vụ như: Lựa chọn chứng khoán phát hành, tư vấn các vấn đề lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác. Ngoài ra Ngân hàng còn cung cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng, làm dịch vụ thu lãi chứng khoán, chuyển lãi đó vào tài khoản khách hàng, hoặc còn có Ngân hàng Thương mại còn thực hiện việc mua bán các chứng khoán cho khách hàng, thu hồi vốn chứng khoán đến hạn...
Hơn nữa, Ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như:
+ Dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá của khách hàng.
+ Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tối.
+ Dịch vụ tín thác và uỷ thác Ngân hàng.
II. hiệu quả sử dụng vốn của Ngân Hàng thương mại
Để hiểu xem một Ngân hàng Thương mại (NHTM) hoạt động như thế nào chúng ta phải xem xét đến bản quyết toán tài sản của Ngân hàng đó, là bản kê tài sản có và tài sản nợ cuả nó. Bảng quyết toán này liệt kê các kết số, tức là nó có đặc trưng.
Tổng tài sản có = Tổng tài sản nợ + vốn.
Hơn nữa, bảng quyết toán tài sản một Ngân hàng liệt kê các nguồn vốn của Ngân hàng (tài sản nợ) và sử dụng vốn (tài sản có). Các Ngân hàng bằng nhiều cách để huy động vốn. Sau đó họ dùng vốn này có được tài sản có.
- Bảng quyết toán của tất cả các Ngân hàng Thương mại thưòng có kết cấu dưới dạng sau:
Tài sản có (sử dung vốn)
Tài sản nợ (nguồn vốn)
1. Khoản mcụ dự trữ
1. Khoản mục tiền gửi
2. Khoản mục CK ngắn hạn
2. Khoản mục đi vay
3. Khoản mục cho vay
3. Các loại vốn uỷ thác
4. Khoản mục đầu tư
4. Vốn sở hữu của Ngân hàng
5. Các tài sản có khác
6. TSCĐ tích lũy
1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân Hàng thương mại gồm:
a. Nguồn vốn tiền gửi
Nguồn vốn tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất chiếm bộ phận lớn trong tổng số nguồn vốn của NHTM, thường chiếm khoảng 50 - 60% nhưng hiện nay tỷ lệ này đang giảm dần.
Theo tính chất giao dịch việc huy động vốn chia làm loại: Tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm và nó có thể được chia thành dạng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nguồn vốn nằm trên tài khoản thanh toán và tiết kiệm không kỳ hạn là khá lớn bởi vì nó phục vụ cho nhu cầu thanh toán giao dịch trong nền kinh tế. Đặc điểm của nguồn vốn này thường là ngắn hạn, không ổn bởi vì khách hàng có thể rút tiền trên tài khoản bất kỳ lúc nào họ có nhu cầu. Ngân hàng sử dụng vốn phải đối phó với rủi ro thanh khoản hoặc sự ứ đọng vốn nhưng ngược lại chi phí sử dụng nó rất thấp. Việc huy động nguồn vốn tiền gửi phụ thuộc nhu cầu thanh toán của từng cá nhân. Ví dụ như những ngày giáp tết hay Noel, nhu cầu chi tiêu lớn, khách hàng thường đến Ngân hàng để rút tiền. Lãi suất cũng có yếu tố quan trọng có tính cạnh tranh lớn, nhất là trong thời kỳ khan hiếm tiền tệ. Sự thu hút nguồn tiền gửi phụ thuộc vào mức độ đa dạng hoá dịch vụ trình độ công nghệ Ngân hàng hiện đại tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng. Uy tín, thâm niên, sự giao tiếp lịch sự của đội ngũ cán bộ công nhân viên ảnh hưởng khả năng huy động tiền gửi của Ngân hàng. Ngoài ra khả năng sử dụng vốn như khả năng cho vay, khả năng đầu tư sẽ ảnh hưởng gián tiếp trong việc huy động nguồn vốn.
b. Nguồn vốn đi vay
Ngân hàng Thương mại có thể đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng khác có thể vay trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ.
Khi Ngân hàng Thương mại vay vốn từ NHNN nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, đáp ứng nhu cầu thanh khoản, đáp ứng nhu cầu cấp tín dụng cho các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế. Trong trường hợp Ngân hàng Thương mại gặp khó khăn và có khả năng phá sản mà ảnh hưởng đến hệ thống Ngân hàng, NHNN có thể cho vay. Khi NHNN chho Ngân hàng Thương mại vay dựa vào các chứng khoán (chứng khoán cầm cố, chứng khoán chiết khấu), và chỉ cho vay tối đa 70% giá trị thực tế của chứng khoán đó. Chi phí để có khoản vốn này là khá lớn, ảnh hưởng đến kế hoạch của Ngân hàng, nhất là lợi nhuận, nên đây là giải pháp cuối cùng Ngân hàng mới huy động.
Các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng luôn là người bạn đồng hành, người bạn hàng của nhau. Khi một Ngân hàng cần một nguồn vốn trung và dài hạn hay một dự án lớn đem lại lợi nhuận cao Ngân hàng Thương mại thường đi vay tức thời với lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng. Hoặc hai Ngân hàng Thương mại thuộc hai nước có, thời gian làm việc ngược nhau thường ký kết hợp đồng tín dụng qua đêm để tận dụng nguồn vốn tuy nhiên cách làm này chi phí hơi cao vì lãi suất tín dụng qua đêm là lãi suất nóng.
Ngoài ra Ngân hàng Thương mại có thể vay vốn trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ thông qua phát hành các kỳ phiếu ngắn hạn, trái phiếu trung và dài hạn.
Đặc điểm của nguồn vốn đi vay là ổn định hơn, nguồn vốn tiền gửi nhưng chi phí vốn cao hơn. Tỷ lệ nguồn vốn đi vay đang có xu hướng chiếm khoản 15 - 20% tổng nguồn vốn Ngân hàng Thương mại. Việc huy động vốn còn phụ thuộc chính sách tiền tệ của NHNN, các hoạt động nói chug của Ngân hàng Thương mại và tính năng động của thị trường chứng khoán.
c. Các nguồn vốn khác của Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng Thương mại ra còn có những nguồn vốn khác như nguồn vốn uỷ thác, nguồn vốn mà Ngân hàng đứng ra quản lý hộ một tổ chức ra bảo lãnh cho một tổ chức để đầu tư vào một dự án lớn mang lại lợi nhuận cao, trong trường hợp này Ngân hàng sẽ hưởng hoa hồng, và hưởng dịch vụ quản lý.
Nguồn vốn trong thanh toán hình thành từ đặc điểm thanh toán không dùng tiền mặt khi mà sự vận động giữa hàng hoá và tiền tệ luôn có một khoảng thời gian nhất định. Kế toán ngày một hiện đại thì khoảng thời gian này ngày một rút ngắn, nguồn vốn bị thu hẹp nhưng tăng tính cạnh tranh cho Ngân hàng Thương mại.
Nguồn vốn hình thành từ các khoản nợ của Ngân hàng nhưng chưa đến hạn phải trả.
Các loại nguồn vốn này thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, Ngân hàng có thể chủ động sử dụng ít chịu sự rủi ro.
d. Vốn chủ sở hữu và các quỹ
Trước khi bước vào hoạt động, mỗi Ngân hàng đều có một khoản vốn nhất định nhiều hơn hoặc bằng với vốn pháp định do Nhà nước đặt ra, gọi là vốn điều lệ. Đối với Ngân hàng quốc doanh, vốn điều lệ thường do ngân sách Nhà nước cấp, các Ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp. Vốn điều lệ phục vụ cho việc mở rộng, khởi động Ngân hàng, tạo ra cơ sở vật chất ban đầu để Ngân hàng đi vào hoạt động. Vốn điều lệ thể hiện qui mô, uy tín của Ngân hàng. Tỷ lệ vốn nhỏ chỉ chiếm 5 -10% tổng nguồn vốn. Thường các Ngân hàng cổ phần sau một thời gian hoạt động muốn nâng vốn điều lệ lên bằng cách phát hành thêm cổ phiếu các nguồn vốn bổ sung được trích trên cơ sở lợi nhuận không chia lợi nhuận sau thuế, hoặc tăng nguồn vốn này bằng cách phát hành trái phiếu Ngân hàng. Vốn sở hữu của Ngân hàng như một cái đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị của những tài sản có của Ngân hàng.
Trong Ngân hàng hình thành lên nhiều quĩ dự phòng rủi ro, quĩ phúc lợi nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, hạn chế rủi ro cho các cơ quan bảo hiểm, đảm bảo thanh khoản và cung cấp một phần tài sản có bù đắp thua lỗ.
Tóm lại, để có một cơ cấu nguồn vốn tối ưu đảm bảo yêu cầu ổn định cho việc sử dụng và tối thiểu hoá chi phhí đòi hỏi Ngân hàng phải xét đến các yếu tố về khả năng huy động vốn trong dân cư, uy tín Ngân hàng... đồng thời phải quan tâm đến vấn đề đầu ra. Tránh tình trạng vốn huy động được từ các nguồn vốn ngắn hạn không thể cho vay trung và dài hạn được hay tình trạng ứ đọng vốn do không có dự án khả thi, giảm lợi nhuận của Ngân hàng.
2. Hiệu quả Sử dụng vốn tại Ngân hàng Thương mại
Trong bản quyết toán, tài sản của một Ngân hàng Thương mại, bên tài sản có thể hiện kết quả của việc sử dụng vốn của Ngân hàng đó. Phân tích theo tính lỏng dần của các loại tài sản, việc sử dụng vốn trong Ngân hàng Thương mại gồm những mục sau:
a. Tiền dự trữ
Đây là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của khách hàng. Ngân hàng Thương mại phải duy trì một bộ phận vốn, để gửi vào một tài khoản nào đó như ở NHNN, tổ chức tín dụng các Ngân hàng Thương mại khác... và một lượng được cất giữ tại Ngân hàng đó, gọi là tiền dự trữ. Mức dự trữ cao hay thấp phụ thuộc vào qui mô hoạt động của Ngân hàng, mối quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi tiền mặt. Tiền dự trữ hiện hành không có lãi nhưng các Ngân hàng Thương mại vẫn giữ chúng bởi một vài lí do nhất định. Ngân hàng buộc phải làm như vậy vì hai nguyên nhân.Thứ nhất, theo luật pháp hiện hành, các Ngân hàng Thương mại phải nộp một tỷ lệ nhất định tiền gửi mà Ngân hàng huy động được tại NHNN (ví như 10%) để đảm bảo toàn tiền gửi. Đây cũng là công cụ quan trọng quản lý lưu thông tiền tệ. Thứ hai, bản thân Ngân hàng cũng thấy rõ sự cần thiết phải giữ một ít tiền mặt mà không nên cho vay hết dù cho nó thừa khả năng làm điều đó. Việc giữ lại tiền mặt này là để đảm bảo an toàn cho những hoạt động còn lại, và vì thế dự trữ tiền mặt trong tài sản có còn gọi là "khoản đầu tư cho sự an toàn". Ngoài ra, các Ngân hàng nhỏ gửi tiền vào các Ngân hàng lớn để đổi lấy các dịch vụ khác nhau như tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ.v.v. Các khoản này có tính lỏng nhất trong các loại tài sản có của Ngân hàng chiếm khoảng 7% tổng tài sản, phục vụ nhu cầu thanh khoản tại Ngân hàng.
b. Đầu tư vào chứng khoán
Có thể thấy NHTM thực hiện nghiệp vụ đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao khả năng thanh khoản, đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh nhằm phân tán rủi ro. Trong việc đầu tư vào chứng khoán, NHTM chủ yếu mua các trái phiếu kho bạc, các trái phiếu có tính thanh khoản cao. Đây là những công cụ chính của thị trường tiền tệ tài chính. Việc mua và dự trữ các loại trái phiếu này một mặt tạo ra thu nhập cho ngân hàng, mặt khác chúng là những công cụ tài chính dễ lưu động hoá, vì vậy khi cần tiền ngân hàng có thể bán hoặc chiết khấu ở ngân hàng khác hoặc ở NHNN.
c. Tiền cho vay
Cho vay là một hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng Thương mại để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư.
Kinh tế càng phát triển, hướng cho vay của các Ngân hàng Thương mại càng tăng và loại hình cho cũng trở nên vô cùng đa dạng. ở hầu hết các nước công nghiệp trong nhóm 10 và 15 nước hàng đầu thế giới, cho vay của các Ngân hàng Thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Khu vực cho vay ngắn hạn nhường chỗ cho thị trường tiền tệ tài chính cung ứng. Ngược lại hầu hết các nước đang phát triển cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn.
Nhưng nói chung, lợi nhuận chủ yếu của Ngân hàng vẫn là hoạt động cho vay hay nói rộng ra là hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại 67% tổng tài sản của Ngân hàng ở dạng tiền cho vay tạo ra hơn 60% thu nhập của Ngân hàng khác bởi chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản vay mãn hạn và cũng có xác suất rủi ro vỡ nợ cao hơn.
Theo thời gian, các khoản cho vay có thể chia thành các khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động hay khó khăn tạm thời về vốn. Cho vay trung và dài hạn thường đáp ứng nhu cầu cho những dự án lớn, hay đổi mới dây chuyền công nghệ... Việc phân loại theo thời gian giúp Ngân hàng lập kế hoạch để huy động vốn và đầu tư.
Phân loại theo đối tượng cho vay, có khoản cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng.v.v. Các Ngân hàng cho vay công nghiệp thường dựa vào tính chất, chu kỳ kinh doanh, để đáp ứng mục đích, và mang lại hiệu quả sử dụng vốn. Cho vay nông nghiệp dựa vào thời vụ và rủi ro do tự nhiên. Cho vay tiêu dùng thường là cho vay đối với cán bộ làm công ăn lương, công việc ổn định, tiền lương ổn định, đảm bảo khả năng trả nợ cho Ngân hàng.
d. Các khoản đầu tư
Ngân hàng Thương mại có thể tham gia đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn, chứng khoán chính phủ.v.v. Các Ngân hàng Thương mại mua chứng khoán vì mục đích thanh khoản và đa dạng hoá hoạt động, để nâng cao lợi tức và phục vụ như các vật kí quĩ cho các tài sản nợ ký thác với chính quyền địa phương, chính phủ.v.v. Tỷ lệ lớn nhất của đầu tư chứng khoán là chứng khoán chính phủ bởi tuy có mức lãi hạn chế những linh hoạt, không có rủi ro tín dụng và ít rủi ro về lãi suất so với trái phiếu dài hạn. Thông thường lợi tức tương ứng với độ rủi ro. Khoản vốn này chiếm khoảng 15 à 19% tổng tài sản.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại
1. Vốn điều lệ:
Là số vốn ban đầu theo quy định của Pháp luật để Ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động. Về mặt quy mô thì vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Tuy nhiên với mỗi loại hình hoạt động khác nhau của từng Ngân hàng thì vốn điều lệ cũng có nguồn hình thành khác nhau:
+ Ngân hàng thương mại quốc doanh: có vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp, Ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn này.
+ Ngân hàng thương mại tư nhân: có vốn điều lệ do cá nhân tự bỏ ra.
+ Ngân hàng thương mại cổ phần: có vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp ban đầu.
Vốn tự có bổ sung:
Được hình thành trong quá trình hoạt động của Ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ. Hàng năm, Ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh của mình mà trích một phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn tự có của Ngân hàng.
2. Nguồn vốn huy động:
2.1 Huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào. Do thời hạn rút tiền không được ấn định trước nên khách hàng phải chấp nhận một tỷ lệ lãi suất thấp hơn so với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (tiền gửi định kỳ): Là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ có thể rút tiền theo thời hạn quy định và theo sự thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Thời hạn này thường được thống nhất theo những quy định chung của các văn bản pháp quy về luật Ngân hàng. Ngoài ra còn có những quy định khác nhau về việc rút tiền, tính lãi trong trường hợp đặc biệt như khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn …
- Tiền gửi bảo đảm bằng vàng: Trong nền kinh tế có lạm phát, dân chúng không muốn gửi tiền vào Ngân hàng. Chính hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm này là một trong những biện pháp phần nào đáp ứng được nhu cầu, tạo sự an tâm cho khách hàng. Khách hàng không những bảo quản được tài sản của mình mà còn nhận được khoản tiền lãi từ phía Ngân hàng.
- Tiền gửi có tính trượt giá: Với hình thức này, người gửi luôn nhận được thực lãi tương đương với lãi suất tiền gửi trước khi có sự trượt giá kể cả khi lạm phát cao. Ngân hàng luôn đảm bảo cho người gửi tiền được hưởng một lãi suất thực dương tương đương với lãi suất tiền gửi trước khi có sự trượt giá,
- Tiết kiệm xây dựng nhà ở: Đây là hình thức mới của Ngân hàng nhằm thực hiện chủ trương chính sách hỗ trợ về nhà ở cho dân cư của Đảng và Nhà nước. Loại tiền gửi này nhằm hổ trợ một phần cho người dân sớm có nơi định cư, ổn định cuộc sống.
2.2 Tiền ký gửi:
- Tiền ký gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán): Là loại tiền gửi mà người gửi ký thác vào Ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua hàng hoá và các dịch vụ … Đây không phải là tiền gửi tiết kiệm mà là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán. Vì vậy loại tiền gửi này thường không được tính lãi hoặc rất thấp (nếu có). Tiền ký gửi không kỳ hạn có thể được giữ ở một trong hai tài khoản sau:
+ Tài khoản tiền gửi (tài khoản séc): Tài khoản này chỉ được phép dư có, tức là khách hàng chỉ được phép rút tiền trong phạm vi tiền gửi của mình. Việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba được thực hiện bằng séc.
+ Tài khoản vãng lai: Là một tài khoản séc dùng cho các tổ chức kinh tế nhưng có đặc điểm khác là tài khoản này có thể dư nợ hoặc dư có nghĩa là khách hàng có thể phát hành séc vượt quá số dư của mình đến một giới hạn nhất định cho phép. Trong giới hạn quá số dư, khách hàng phải chịu lãi suất và mức lãi suất này tuỳ thuộc vào Ngân hàng quy định.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được uỷ thác vào Ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và Ngân hàng theo nguyên tắc khách hàng ký thác chỉ được rút tiền khi đến hạn. Tuy nhiên do phải cạnh tranh, các Ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước thời hạn.
3. Nguồn vốn vay:
3.1 Vay của Ngân hàng Trung ương:
Trong quan hệ với Ngân hàng Trung ương, các Ngân hàng thượng mại là khách hàng thường xuyên. Với tư cách là Ngân hàng của các Ngân hàng, Ngân hàng Trung ương luôn đóng vai trò là “chủ nợ” và là “người cho vay cuối cùng” đối với các Ngân hàng thương mại
3.2 Vay các tổ chức tín dụng khác:
Ngân hàng thương mại có thể vay các Ngân hàng khác thông qua thị trường nội tệ và ngoại tệ liên Ngân hàng.
+ Với thị trường nội tệ liên Ngân hàng: Trước đây ở các Ngân hàng thương mại, khoản cho vay luôn bị chi phối bởi khả năng huy động nguồn vốn. Khi đó diễn ra tình trạng xấu là có Ngân hàng cần vốn thì lại không có vốn trong khi những Ngân hàng thừa vốn huy động lại không có mối cho vay nên mang gửi vào Ngân hàng Trung ương để hưởng lãi suất với mức rất thấp. Nhưng ngày nay, do thay đổi nhận thức trong công tác quản lý tài sản nợ nên các Ngân hàng thương mại có thể vay mượn lẫn nhau.
+ Thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng: được thành lập từ 15/10/1994 với 33/34 Ngân hàng thương mại được phép tham gia kinh doanh ngoại tệ. Với chế độ giao dịch thông thoáng, lượng ngoại tệ giao dịch giữa các thành viên với khách hàng của mình, các Ngân hàng thương mại với nhau và giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Trung ương đạt được mức khá cao.
4. Vốn điều chuyển trong thanh toán:
Các Ngân hàng thương mại có nhiều chi nhánh nằm trên nhiều địa bàn khác nhau nên luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với các chi nhánh trong cùng hệ thống. Xuất hiện tình trạng này là do trên mỗi địa bàn có mỗi điều kiện kinh tế xã hội khác nhau do đó có tác động mạnh mẽ đến nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của từng chi nhánh. Để giải quyết tình trạng này mỗi hệ thống Ngân hàng thương mại hoặc các hội sở chính sẽ thực hiện điều chuyển nguồn vốn trong hệ thống. Hiện nay chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì cũng như phần lớn các chi nhánh Ngân hàng khác đều có tình trạng sử dụng không hết nguồn vốn vay do đó Ngân hàng Trung ương luôn phải có chính sách điều chuyển vốn. Hơn nữa, Nguồn vốn này khá quan trọng, nó giúp cho Ngân hàng có thể mở rộng được hoạt động trên thị trường và tăng lợi nhuận của Ngân hàng.
5. Các hình thức huy động vốn khác:
Bên cạnh những hình thức huy động vốn nói trên, Ngân hàng còn thực hiện việc huy động vốn thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá trị khác như trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng …Thông thường đối với những hình thức này thường có lãi suất cao hơn các loại tiền gửi khác. Bên cạnh đó, Ngân hàng chủ động về mặt thời gian hoàn trả và do đó có thể sử dụng cho vay theo nhu cầu của mình.
6. Quản lý nguồn vốn tại Ngân hàng Thương mại
Phân tích cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn hướng tới mục tiêu ổn định hoạt động của Ngân hàng và đặc biệt hướng tới lợi nhuận. Nghĩa là, Ngân hàng phải đạt được chiến lược làm sao tạo nguồn vốn ổn định có thể ổn định sử dụng. Và xây dựng được cơ cấu vốn hợp lý và giảm chi phí vốn ở mức thấp nhất.
Quản lý nguồn vốn về qui mô nghĩa là xem xét Ngân hàng Thương mại có khả năng huy động vốn cao nhất là bao nhiêu. Cơ cấu, qui mô từng loại vốn ảnh hưởng tới việc trả lãi Ngân hàng và ảnh hưởng tới ổn định hoạt động Ngân hàng như thế nào. Các Ngân hàng hiện đại thường lập ra những bài toán tối ưu về cơ cấu nguồn vốn và qui mô từng loại nguồn vốn.
Quản lý chi phí trả lãi là đưa chính sách lãi suất huy động phù hợp với từng thời kỳ trên cở sở chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Tính toán tổng chi phí trả lãi - chi đầu vào - để xác định chi đầu ra.
Quản lý kỳ hạn của nguồn vốn, Ngân hàng xác định ra những kỳ hạn huy động, xác định được khả năng trả nợ đảm bảo nhu cầu rút tiền của khách hàng, tính toán kỳ hạn bình quân của các khoản tiền gửi. Trong quản lý kỳ hạn Ngân hàng áp dụng "Nguyên lý thợ kim hoàn" để tính thời hạn trung bình của các khoản tiền gửi.
Bất cứ hoạt động cho vay hay đầu tư nào đều tiềm ẩn những dạng rủi ro khác nhau và mức rủi ro cũng khác nhau. Sử dụng vốn tại Ngân hàng thương mại dựa trên nguyên tắc an toàn và hiệu quả thường phải quản lý thanh khoản, kiểm soát rủi ro trong hoạt động của mình.
7. Quản lý thanh khoản
Thanh khoản là khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán tín dụng cho bất kỳ khách nào tại bất kỳ thời điểm nào.
Thanh khoản là một trong số các vấn đề mà nhà quản lý Ngân hàng thường xuyên phải quan tâm. Mức độ thanh khoản mà một ngân hàng riêng biệt nào đó cần đến, tuỳ thuộc vào lượng biến đổi xảy ra ở số tiền gửi và nhu cầu tín dụng.
Có nhiều biến động bất thường xảy ra trong nền kinh tế, theo thời vụ, theo chu kỳ. Rất khó lòng dự đoán được thời gian xảy ra và tính khốc liệt của biến động bất thường ấy do chúng không tuân theo những khuôn mẫu định sẵn.
Những biến động thời vụ trực tiếp liên quan đến mùa vụ khác với biến động bất thường được lặp lại hàng năm, và những biến động ấy có thể thay đổi cùng thời gian. Ví như một Ngân hàng đặt tại khu nông nghiệp, mức tiền gửi sẽ tăng vào mua thu hoạch và nhu cầu tín dụng sẽ tăng vào mùa xuân.
Các biến động chu kỳ thường khó dự đoán hơn các biến động theo thời vụ. Trong suốt thời kỳ suy thoái của một chu kỳ sản suất, nhu cầu tín dụng giảm và tiền gửi Ngân hàng cũng có thể giảm theo. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương có khuynh hướng bù đắp cho sự giảm sút tiền gửi Ngân hàng trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, suốt thời kỳ kinh tế trì trệ. Trong giai đoạn chấn hưng, nhu cầu tín dụng tăng vượt mức tăng tiền gửi, khiến Ngân hàng bán các tài sản lưu hoạt.
Kết quả của những biến động này trong nền kinh tế đã tác động đến mức tiền gửi do đó ảnh hưởng trực tiếp đến tính thanh khoản. Vấn đề đặt ra cho Ngân hàng là phải quản lý thanh khoản.
Quản lý thanh khoản của Ngân hàng xác định nhu cầu khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản tín dụng cho khách hàng tại bất kỳ thời điểm nào, tránh tình trạng khách hàng đến rút tiền ô ạt dẫn đến tình trạng Ngân hàng phá sản. Điều quan tâm hàng đầu là Ngân hàng phải tính toán các loại tài sản có khả năng chuyển thành tiền mặt. Việc xác định một mức thanh khoản hợp lý trong từng thời kỳ là hết sức khó khăn. Ngân hàng phải dự đoán được nhu cầu của nền kinh tế tại các thời điểm khác nhau. Đồng thời dựa vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng trung ương ban hành để có chính sách tín dụng phù hợp. Trong từng trường hợp thanh khoản có vấn đề Ngân hàng thường dùng biện pháp bán đi các chứng khoán để chuyển đổi như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu của các công ty có chất lượng cao được ưa chuộng trên thị trường. Tiếp theo Ngân hàng rút các khoản tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác. Trường hợp khẩn cấp, Ngân hàng phải tiến hành thương lượng với các Ngân hàng thương mại khác để bán đi các khoản tín dụng có chất lượng cao. Thông báo trì hoãn các khoản nợ sẽ là phương cách cuối cùng của Ngân hàng thương mại.
Để quản lý thanh khoản Ngân hàng phải dựa vào các lí thuyết cơ bản như lí thuyết cho vay thương mại, lí thuyết về khả năng chuyển đổi, lí thuyết về lợi tức dự tính và các vấn đề về quản lý tình hình dự trữ.
8. Quản lý rủi ro
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng là những biến cố sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá trình hoạt động của Ngân hàng thương mại gây ra thất thoát lớn về tài sản, ảnh hưởng đến uy tín, làm giảm lợi nhuận thậm chí thua lỗ, nguy hiểm hơn là dẫn đến phá sản. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Về phía Ngân hàng , là do không có chính sách huy động và sử dụng vốn hợp lý. Đặc biệt trong việc xem xét các dự án cho vay không tính tới hiệu quả kinh tế hoặc tính toán sai lệch do thông tin không đầy đủ hoặc thiếu chính xác. Việc quản lý tài sản nợ, nguồn vốn của ngân hàng có vấn đề, chưa thực hiện cơ cấu đầu tư, cơ cấu tài sản. Trình độ cán bộ Ngân hàng có nhiều điểm bất cập, không có khả năng xem xét đánh giá khách hàng. Ngân hàng không dự báo được diến biến thị trường, tình hình cung cầu các loại sản phẩm. Về phía khách hàng, bản thân họ không có dự án khả thi, việc đầu tư không có căn cứ kinh tế nên việc sử dụng vốn không hiệu quả. Khách hàng có chủ tâm lừa đảo Ngân hàng, họ có ý định vay nhưng không trả nợ. Các biến động về môi trường kinh tế chính trị xã hội trong nước và nước ngoài cũng tạo nên rủi ro. Rủi ro cũng xuất phát từ chính sách kinh tế, thiên tai.
- Quản lý rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn hoặc Ngân hàng không cho vay được tạo nên đọng vốn nghĩa là Ngân hàng đã chi phí cho các khoản vay lớn hơn thu nhập từ hoạt động cho vay, thu lỗ. Hoặc Ngân hàng đầu tư vào thị trường chứng khoán kém hiệu quả, Ngân hàng chỉ có thể bán chứng khoán với giá thấp hơn giá đi mua hoặc không có khả năng bán đi. Các dự án đầu tư không có khả năng sinh lời.
- Quản lý rủi ro lãi suất
Lãi suất cho vay của Ngân hàng khác với lãi suất các công cụ trên thị trường tiền tệ chẳng hạn như Ngân khố phiếu và thương phiếu, ở chỗ là chúng được đàm phán giữa người vay và Ngân hàng hơn nữa là quyết định trong một thị trường được tổ chức sẵn. Vì là kết quả của phương pháp xác định giá cả tín dụng được đàm phán, các mức lãi suất cho vay của ngân hàng không đồng nhất. Chúng phản ánh cả tính cá biệt của khoản tín dụng lẫn cung cầu tín dụng trên thị trường tiền tệ. Lãi suất cũng thay đổi so với mức rủi ro tín dụng trên hàng loạt các yếu tố: tiền cho vay thời hạn, qui mô cho vay, chi phí thực hiện và giám sát khoản cho vay, số dư tiền gửi của người vay và các chứng khoán. Hơn nữa lãi suất còn bị ảnh hưởng bởi phong tục tập quán, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng và các nguồn vốn khác, lãi suất khống chế tối đa và thái độ của các giám đốc Ngân hàng và người vay, liên quan đến các điều kiện kinh tế trong tương lai.
-Quản lý rủi ro hối đoái
Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một nước.
Việc duy trì nắm giữ một ngoại tệ của một quốc gia nào đó là mạo hiểm, vì nó khiến Ngân hàng phải gánh chịu một rủi ro hối đoái phát sinh từ biến động tỷ giá ngoại tệ thể hiện các khoản cho vay và nợ so với đồng nội tệ. Thí dụ đồng yên nhật giảm 1,5% so với đồng nội tệ thì các Ngân hàng ký thác bằng đồng yên và lượng tiền lên tới 100 triệu đồng đã thiệt hại 1,5 triệu đồng. Những biến động ngắn hạn, những thay đổi lớn về giá trị trao đổi có thể xảy ra. Một Ngân hàng tham gia giao dịch ngoại hối phải giới hạn việc tham gia dài hạn, những thay đổi lớn về giá trị trao đổi có thể xảy ra. Một Ngân hàng tham gia vào dịch vụ giao dịch ngoại hối, phải giới hạn việc tham gia vào các loại tiền tệ khác nhau. Và thực hiện một khối lượng kinh doanh tiền tệ vừa đủ để các thiệt hại có thể bù đắp bằng lợi tức.
- Quản lý rủi ro thanh khoản
Sự an toàn của Ngân hàng vấn luôn là mối quan tâm với nhiều người, từ các giới chức điều hành đến nhà kinh doanh, các cổ đông Ngân hàng đến các công dân các đất nước, vì những vụ phá sản của Ngân hàng liên quan sự phát triển kinh tế đất nước hơn bất cứ một sự phá sản của bất cứ một doanh nghiệp nào khác. Các thua lỗ của Ngân hàng, nếu nghiêm trọng, có thể làm các cổ đông mất vốn đầu tư, mất mát các khoản tiền gửi, bao gồm các khoản tiết kiệm mà suốt đời nhiều người mới có được và vốn tích luỹ cuả các doanh nghiệp qua nhiều thế hệ. Các thua lỗ của Ngân hàng có ảnh hưởng bất lợi đến niềm tin của quần chúng và chuyển sang ảnh hưởng đối với các thành phần kinh tế khác mang tính dây chuyền.
Chương II
Thực trạng về sử dụng vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển thanh trì
I – Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì.
1. Vài nét về Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì:
1.1. Sự ra đời của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển.
Ngân hàng Đầu tư và phát triển là ngân hàng mà hoạt động chính của nó trong lĩnh vực đầu tư trung hạn và dài hạn trong nền kinh tế. Theo lịch sử hình thành ngân hàng đầu tư và phát triển thì nó xuất hiện trước tiên ở các nước kém phát triển theo một số nguyên nhân sau:
- Tại các nước kém phát triển nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn nhưng các nước này gặp trở ngại trong việc đáp ứng nhu cầu này bởi vì:
+ Các nước trung gian tài chính chủ yếu ở các nước này là các ngân hàng thương mại với nguồn vốn ngắn hạn là chính do đó không có khả năng đầu tư cho các dự án trung, dài hạn vì rủi ro lớn.
+ Ngân sách Nhà nước hạn hẹp, không đủ cấp cho các dự án đòi ._.và phát triển Thanh Trì đã áp dụng các biện pháp như thế chấp tài sản, đã cử cán bộ tín dụng làm việc trực tiếp ở doanh nghiệp để tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát.
Nhờ vậy mà năm 2002 tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì đã hoàn thành và vượt chỉ tiêu lợi nhuận 16% so với kế hoạch trên giao. Vì vậy, ngân hàng đã giữa vững danh hiệu đơn vị lại khá trong hệ thống ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam và trở thành người bạn đáng tin cậy hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển trong kinh doanh, góp phần đổi mới thủ đô.
III - Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng đầu tư phát triển Thanh trì
1 – Kết quả đạt được
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì có vị trí thuận lợi nằm ngay trên đoạn đường quốc lộ 1A - Giải phóng, cửa ngõ phía Nam của Thành phố Hà Nội. Với địa bàn nằm giáp ranh giữa huyện Hai Bà Trưng và huyện Thanh Trì nên việc đi lại của khách hàng tương đối thuận tiện dễ dàng. Với lợi thế đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì đã thu hút được các doanh nghiệp và dân cư ở các vùng này về mở tài khoản và quan hệ giao dịch ngày càng tăng các doanh nghiệp vay vốn của cán bộ tín dụng đem lại kết quả tốt hơn.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì đã có truyền thống hơn 40 năm hoạt động, giữ vai trò chủ đạo đứng đầu về lĩnh vực đầu tư phát triển với mục tiêu vững chắc trong tăng trưởng, chất lượng an toàn trong kinh doanh và có hiệu quả. Chính vì lẽ đó mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội nói chung và chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Trì nói riêng đã có uy tín lớn trên điạ bàn thủ đô và huyện Thanh Trì. Các dự án đầu tư theo kế hoạch Nhà nước trên địa bàn huyện và 1 phần của Huyện Hai Bà đều được Bộ kế hoạch đầu tư, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội giao cho chi nhánh thẩm định dự án, theo dõi cho vay và thu nợ.
Trong những năm qua, đặc biệt là từ năm 1995 trở lại đây, với những khó khăn trong chuyển đổi cơ chế hoạt động từ bao cấp sang kinh doanh, chi nhánh đã được sự quan tâm chỉ đạo sát sao với định hướng đúng đắn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, của huyện uỷ và uỷ ban nhân dân huyện Thanh Trì và sự đoàn kết nhất trí từ ban lãnh đạo đến cán bộ ngân hàng, sự cố gắng nỗ lực của từng cán bộ, đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm trong công tác tín dụng đầu tư phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng được nâng lên, nhận thức về kinh doanh trong cơ chế mới của từng cán bộ đã có những tiến bộ đáng kể.
Trong năm qua, Chi nhánh đã đón tiếp hơn 8000 lượt khách đến giao dịch trong đó 7865 lượt khách thuộc các tổ chức kinh tế và cá nhân điều này cho thấy ngân hàng đã có được uy tín và tạo được niềm tin nơi khách hàng. Chi nhánh đã nhận được hơn 40 dự án đầu tư. Các dự án chủ yếu là của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn huyện Hai Bà Trưng và huyện Thanh trì.
Chi nhánh đã thẩm định và trình Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội duyệt cho vay 38 dự án với số vốn là 326187,4 triệu đồng trong đó cho vay ngắn hạn là 238725,3 triệu đồng tăng 24,8% so với năm 2002. Cho vay dài hạn là 87462,1 triệu đồng tăng 166,1%.
Với những kết quả đạt được trong công tác cho vay dự án đầu tư, chi nhánh đã đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào nâng cao chất lượng hoạt động sử dụng vốn có hiệu quả của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, góp phần thực hiện mục tiêu phục vụ cao nhất cho đầu tư phát triển trên địa bàn thủ đô, hiệu quả an toàn trong tăng trưởng, nâng cao chất lượng tín dụng, giữ vững vị thế, vai trò chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam.
2 – Những hạn chế và nguyên nhân
- Khi tiếp cận để làm việc với các doanh nghiệp, cán bộ tín dụng còn chưa chuẩn bị tốt những nội dung yêu cầu doanh nghiệp cung cấp trong quá trình điều tra làm cho ngay bản thân cán bộ tín dụng và doanh nghiệp đều vất vả mất nhiều thời gian mới hoàn thành dự án cho vay do trình độ cán bộ nghiệp vụ còn non kém chưa có kinh nghiệm trong công việc.
- Tuy đã có nhiều cố gắng để phân tích đánh giá dự án cho vay nhưng hiệu quả còn thấp. Nhiều dự án mới chỉ dừng lại ở các thủ tục hành chính theo các quy định trong điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, chưa đi sâu phân tích đánh giá được về mặt thị trường tiêu thụ sản phẩm, về thiết bị và công nghệ sản xuất, các yếu tố đầu vào để đảm bảo chất lượng sản phẩm, về giá thành và giá bán hàng hoá trong nước và xuất khẩu, các điều kiện để đảm bảo an toàn vốn vay... Vì vậy sức thuyết phục có căn cứ kinh tế kỹ thuật về hiệu quả dự án còn yếu. Đặc biệt trong việc thẩm định dự án vay vốn chưa dự đoán về hết các rủi ro tiềm ẩn trong đầu tư dự án. Chất lượng công tác thẩm định còn yếu là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến một số dự án vay vốn đầu tư đạt hiệu quả thấp, trả nợ khó khăn hoặc buộc phải kéo dài thời gian trả nợ.
- Trong vấn đề bảo đảm an toàn vốn vay Ngân hàng chưa chứ trọng việc nhắc nhở các doanh nghiệp mua bảo hiểm rủi ro điều này dẫn đến việc khi xảy ra rủi ro việc thu hồi nợ gặp rất nhiều khó khăn.
- Hiện nay, tất cả các dự án vay vốn đầu tư đầu đảm bảo vốn vay bằng thế chấp toàn bộ tài sản hình thành từ vốn vay cho Ngân hàng đầu tư và phát triển. Tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì công tác thẩm định dự án cho vay còn chậm dẫn đến việc kinh doanh của các tổ chức kinh tế gặp khó khăn về vốn trong kinh doanh.
Chương III
Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì.
1. Định hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì từ nay đến năm 2005
Phải đưa được mức tăng trưởng bình quân về sử dụng vốn trong các năm tăng bình quân lên 25%
Tăng trưởng bình quân về huy động vốn trong các năm tăng từ 28 – 30%
Cho vay đảm bảo tăng trưởng an toàn hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng.
Không để phát sinh nợ quá hạn và nợ xấu.
Trích dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng.
* Ngân hàng tài chính Đầu tư và phát triển định hướng đối với hoạt động tín dụng tại Ngân hàng mình như sau:
Mở rộng cho vay đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó đặc biệt chú trọng tới các khách hàng quốc doanh thực hiện chủ trương phát triển kinh doanh đa thành phần của Nhà nước.
Thực hiện đầu tư có trọng điểm, chú ý đầu tư vào ngành nghề mũi nhọn, có nhiều triển vọng phát triển góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế.
Tăng cường tài trợ cho các doanh nghiệp sản suất hàng xuất khẩu đặc biệt là tín dụng thực hiện các nỗ lực nhằm mở rộng qui mô tín dụng đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn.
Lấy hiệu quả của hoạt động cho vay để mở rộng tín dụng và đánh giá hoạt động tín dụng.
Củng cố, tăng cường uy tín vị thế của Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Trì trên thị trường nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
*Định hướng những nguyên tắc đảm bảo an toàn tín dụng
- Hiệu quả và chất lượng tín dụng dựa trên cơ sở hiệu qủa sản suất kinh doanh của người vay vốn.
Điều đó có nghĩa người sản suất kinh doanh sẽ tác động đến hoạt động Ngân hàng. Khi người vay vốn hoạt động sản suất kinh doanh không hiệu quả sản phẩm không tiêu thụ được, kinh doanh không có lãi, sẽ là những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến việc thu nợ không đúng hạn và dẫn đến tình trạng Ngân hàng mất vốn kinh doanh. Theo luận thuyết của Mác lợi nhuận của ngân hàng chính là phần lợi nhuận của các nhà sản suất để trả lại cho Ngân hàng dưới hình thức lợi túi tiền vay. Vì vậy Ngân hàng phải có sự giám sát chặt chẽ đối v ới người sản suất kinh doanh .
- Mở rộng khối lượng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng việc mở rộng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng. Song vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển thực chất của các Ngân hàng. Nếu một Ngân hàng gia tăng khối lượng tín dụng mà không quan tâm đến chất lượng tín dụng chẳng khác nào cho vay mà không cần thu nợ. Chất lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được trọn vẹn, người vay thực hiện đúng cam kết vay tiền, Ngân hàng thu được gốc và lãi đúng hạn. Như vậy trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế là ở Ngân hàng, quyền trả nợ thực tế là ở người vay. Do đó, khi Ngân hàng đã quyết định và khoản cho vay được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay, hay đúng hơn phụ thuộc vào chính kết quả của sử dụng vốn vay. Vì vậy, việc cho vay sẽ đơn giản việc thu nợ sẽ khó khăn vì nó phụ thuộc vào thái độ và khả năng thực hiện cái nghĩa vụ , cam kết trả nợ của người vay. Do đó, vấn đề phân tích và đánh giá năng lực tài chính khả năng sản suất kinh doanh của ngừơi vay để xem xét hiệu quả sử dụng vốn đầu từ vào lĩnh vực sản suất kinh doanh mà người vay vốn đấu tư và lĩnh vực đó, một sự hiểu biết của Ngân hàng sẽ tạo thêm cho người vay vốn tiềm năng tin vào hoạt động sản suất kinh doanh.
Trên thực tế, chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại và các TCTD của nước ta kể cả quốc doanh và ngoài quốc doanh còn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn còn khá cao. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là nhanh chóng xử lý những tồn đọng của các khoản tín dụng, cũ ngăn ngừa và nâng cao chất lượng các khoản tín dụng mới. Do đó việc mở rộng khối lượng tín dụng chỉ có thể đạt được hiệu quả khi và chỉ khi chất lượng tín dụng được đảm bảo.
- Quyết định cho vay trên cơ sở phải xác định và hiểu rõ người vay.
Tìm hiểu và đánh giá người vay cần phải xem xét trên nhiều mặt.
Trứơc hết phải đảm bảo nguyên tắc tín nhiệm trong quan hệ vay trả nguyên tắc này có htể được hiểu thông qua thực tế và có quá trình quan hệ vay trả theo đúng các qui định tín dụng và cam kết. Tuy nhiên, để thiết lập những quan hệ tín dụng đầu tiên thì nguyên tắc này vẫn phải được đảm bảo phẩm chất đaọ đức kinh doanh, tính trung thực trong quan hệ kinh tế tính nghiêm túc trong việc chấp hành các luật lệ của Nhà nước.
Thứ hai: đảm bảo tài chính để sử dụng tiền vay và thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết đối với các khoản vay.
Thứ ba: phải đảm bảo được các phương án phòng trả nợ vay Ngân hàng của người vay. Phương án dự phòng này có thể là sự chủ động của Ngân hàng đặt ra yêu cầu người vay tìm các điều kiện đáp ứng.
Sự chủ động này có tác dụng rất lớn để phòng ngừa rủi ro .
- Cho vay phải do chính ngân hàng quyết định và chịu trách nhiệm về chính những quyết định cho vay. Cơ sở để đưa ra quyết định cho vay không phải dựa trên những văn bản thuyết của người vay, kể cả những văn bản mang tính pháp lý của nguồn vay nhưng lại không có khả năng tài chính thực hiện được những cam kết đó.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tổn thất và phát triển của mỗi Ngân hàng phụ thuộc vào năng lực tài chính và khả năng kinh doanh khả năng cạnh tranh của mình. Các Ngân hàng có thể đứng vững trong thị trường có nhiều biến động, song cũng có thể trách nhiệm của Ngân hàng đối với các khoản vốn huy động và vốn do vay lãi rất lớn, bởi hoạt động Ngân hàng có nhiều ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia. Như vậy sự độc lập điều hành và quản lý Ngân hàng khuôn khổ pháp lý sẽ có ý nghĩa rất lớn đến tính đúng đắn trong quyết định cho vay và trách nhiệm đối với quyết định đó. Mỗi sự can thiệp vào Ngân hàng , thường đưa đến những sai lầm và những tổn thất. Do đó Ngân hàng cũng phải chủ động với quyết định của các khoản vay đó.
- Chủ động phân tán rủi ro để ngăn ngừa rủi ro. và hạn chế rủi ro.
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động tín dụng là tất yếu. Rủi ro trong hoạt động tín dụng thường bắt nguồn từ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của người vay vốn, mà trong thương trường thì rủi ro đối với hoạt động kinh tế là thông thường xảy ra ngoài những nguyên nhân chủ quan tạo nên rủi ro, còn những nguyên nhân khách quan gây ra, thậm chí để lại hậu quả hết sức nặng lề. Do vậy hoạt động tín dụng phải chấp nhận những rủi ro có thể xảy ra. Tuy nhiên mức độ rủi ro của mỗi Ngân hàng như thế nào lại phụ thuộc vào chính sự ngăn ngừa và biện pháp khắc phục của Ngân hàng. Trong đó phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và tích cực lựa chọn hạn chế. Việc phân tán rủi ro được thông qua phân tán dư nợ và cộng đồng tài trợ. Nó được biểu hiện cụ thể dưới hình thức Ngân hàng không tập trung quá nhiều vốn cho một người vay. Khi nền kinh tế càng phát triển thì đòi hỏi các Ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ để hỗ trợ sự hợp tác sẽ giúp cho ngân hàng phân tán rủi ro, tránh tập trung rủi ro lớn vào một Ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ ảnh hưởng đến môi trường kinh tế.
- Cho vay phải đảm bảo có tiền vay khả thi cao.
Thông thường để tránh những rủi ro không trả được được của ngành vay, các Ngân hàng qui định các điều kiện vay vốn, trong đó điều kiện để đảm bảo tiền vay được xem là quan trọng nhất. Đảm bảo tiền vay có nhiều loại, đảm bảo lãnh của người thứ ba. Đảm bảo bằng tài sản suất tài sản hình thành từ vốn vay và đảm bảo bằng sự tín nhận lẫn nhau trong quan hệ tín dụng. Thực chất của đảm bảo vốn vay là sử dụng giá trị của những tài sản nhằm đảm bảo trả nợ thay cho những khoản vay đã dùng và sản suất kinh doanh nhưng không có khả năng trả nợ ngân hàng. Như vậy phải làm đảm bảo tiền vay phải có giá trị, bản thân nó không trở thành hàng hoá, tức là khi chuyển giao quyền sử dụng thì đồng thời cũng phải đạt được sự chuyển đổi từ hiện vật thành gía trị để trả nợ ngân hàng. Trên thực tế, nhiều ngân hàng đưa ra và quán triệt nguyên tắc này, song các tài sản đảm bảo lượng vay phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì lại không thể bán để thu hồi nợ khi các ngân hàng được phép phát mại nó. Do vậy yêu cầu đặt ra đối với các khoản cho vay có tài sản đảm bảo cho vay là các tài sản đó phải đảm bảo hàng hoá, có gía trị lớn hơn giá trị khoản vay, có thị trường tiêu thụ hàng hoá đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì .
a..Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tín dụng
Với chiến lược phát triển chung hiện nay hoạt động kinh doanh tín dụng là chủ đạo, là cơ sở tiến hành và thực hiện hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng. Cùng với việc tăng trưởng dư nợ khách hàng truyền thống. Chi nhánh cần đẩy mạnh công tác tiếp thị tìm kiếm khách hàng mới.Chi nhánh cần bỏ các thủ tục rườm ra, giảm tối thiểu thời gian trình duyệt và số lần ký hợp đồng tín dụng, cải thiện cơ bản mối quan hệ Ngân hàng và bạn hàng. Khi tinh toán lãi suất đầu ra, chi nhánh nên áp dụng mức lãi suất cho vay ưu đãi phù hợp nhất với khách hàng và đặc thù của hoạt động sản suất kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp có quan hệ vay vốn tương đối lớn, tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Phương hướng thời gian tới, chi nhánh sẽ hướng đến những khách hàng lớn và các dự án có hiệu quả. Các doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO9001 là mục tiêu của Ngân hàng. Đảm bảo 100% dư nợ mới lành mạnh và tỷ lệ an toàn cao. Để làm được điều đó về phía Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì là nâng cao chất lượng tín dụng trong đó quan trọng nhất là Ngân hàng phải cho vay đúng đối tượng tránh rủi ro rất lớn xảy đến với Ngân hàng.
Một trong những hoạt động khá quan trọng của Ngân hàng khi quyết định các khoản cho vay là khâu thẩm định dự án nhất là đối với dự án cho vay trung và dài hạn. Những yếu tố chủ yếu khi thẩm định dự án tín dụng, theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, người ra quan tâm đến 5 yếu tố: năng lực, uy tín, vốn, vật thế chấp, những điều kiện. Đây là những điều kiện cần thiết khi phân tích đặc thù hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xin vay vốn và là bước quyết định khi thực hiện đánh giá khả năng cho vay. Nâng cao nghiệp vụ thẩm định dự án cho vay đối với cán bộ công nhân viên chi nhánh là kết quả hết sức cần thiết để đảm bảo Ngân hàng có các khoản dư nợ lành mạnh và ổn định.
Cải tiến thủ tục cho vay.
Hiện nay, thủ tục cho vay của Ngân hàng rườm rà. Để có thể cho vay được món tiền, khách hàng phải qua nhiều "cửa ải" với một bộ hồ sơ phức tạp gồm nhiều loại. Đơn xin vay vốn, dự án sản suất kinh doanh, phiếu thẩm định dự án sản suất kinh doanh. Sau đó là khâu ghi về sự nhầm lẫn, nên phải chờ đến cán bộ tín dụng hướng dẫn. Các cán bộ tín dụng phải hướng dẫn chi tiết cho khách hàng. Ngân hàng vẫn thường nhắc nhở mình là cần phải đơn giản hoá các thủ tục cho vay, giảm bớt phiến hà cho khách hàng, trong việc kê khai để khách tự làm thì mới đảm bảo tính khách quan, tính chính xác, Ngân hàng dựa vào đó mà thẩm định lại hạn chế bớt rủi ro.
b. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng khốc liệt, nhất là trong thời kỳ khan hiếm tiền tệ. Các Ngân hàng cạnh tranh trên hai lĩnh vực, đó là lĩnh vực lãi suất và lĩnh vực dịch vụ. Cho nên chi nhánh đã và đang cố gắng nâng cấp dần cơ sở vật chất kỹ thuật , tu sửa, chỉnh trang trụ sở, tăng sự khang trang sạch đẹp cho Ngân hàng, trang bị thêm máy móc thiết bị cho các phòng nghiệp vụ, tạo ra sự tin cậy và ấn tượng tốt đối với khách hàng.
Về con người, là nhân tố quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh, mọi thành công hay thất bại đều do yếu tố này quyết định. Tại nhiều Ngân hàng phần lớn cán bộ tín dụng có kinh nghiệm thì được đào tạo trong thời bao cấp nên còn kiến thức thị trường, kiến thức tổng hợp. Công việc của cán bộ tín dụng đòi hỏi họ không chỉ có một kiến thức chuyên sâu kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực họ đầu tư vào mà còn đòi hỏi họ phải nắm bắt được kinh tế thị trường, phải có khả năng phân tích, phân đoán, phải biết đưa ra những quyết định đúng đắn, chính xác, phải thông minh trong xử lý tình huống... Và tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì thời gian qua đã đào tạo cán bộ công nhân viên nhiều về trình độ chuyền môn nghiệp vụ. Ngân hàng đã lập kế hoạch và gửi cán bộ tham gia vào các khoá học nâng cao nghiệp vụ mới. Sắp xếp bố trí cán bộ phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ và trình độ. Bởi vì chất lượng tín dụng được thể hiện qua chất lượng cán bộ tín dụng. Nếu chất lượng cán bộ kém thì chất lượng cuả khoản vay mà cán bộ tín dụng đó cho vay chắc chắn không thể có chất lượng tốt được. Tác phong làm việc của cán bộ tín dụng là hình ảnh của Ngân hàng trong con mắt khách hàng.
c. Về công tác nguồn vốn
Với mạng lưới quỹ tiết kiệm hiện có, phòng nguồn cố gắng chiếm được lòng tin của khách hàng bằng phong cách giao tiếp văn minh, lịch sự thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Công tác tiết kiệm được thực hiện đúng qui trình, tạo sự yên tâm cho người gửi tiền. Cho nên số dư tiền gửi trong dân cư không ngừng tăng lên. Song song với việc huy động vốn trong dân cư, chi nhánh rất chú trọng đến việc mở rộng nguồn tiền gửi có kỳ hạn từ doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn tương đối rẻ, tốt ít chi phí huy động, ổn định tạo cơ hội thuận lợi trong việc đầu tư tín dụng vào các nghiệp vụ đầu tư khác. Trong cơ cấu nguồn vốn, nguồn tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp tăng mạnh (chiếm khoảng 34%) thể hiện sự tín nhiệm của khách hàng. Nguồn vốn trung và dài hạn chiếm tỷ lệ chưa cao là khó khăn trong việc cho vay các dự án lớn và dài hạn . Ngân hàng cần đa dạng hoá các sản phẩm , dịch vụ để thu hút nguồn tiền gửi trung và dài hạn trong dân cư. Phấn đấu sang năm 2002 đưa nguồn huy động đạt 400 tỷ đồng.
d. Về kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế
Đây là nghiệp vụ kinh doanh mới đưa vào Ngân hàng nhưng đã có bước tiến đáng kể. Hiện nay ngoại tệ trôi nổi trong dân cư là khá lớn, xây dựng chính sách huy động ngoại tệ với lãi suất hợp lý sẽ thu hút một lượng đáng kể. Hoạt động kinh doanh đối ngoại của chi nhánh mở rộng, phát triển vững chắc đa dạng hoá được các loại ngoại tệ như USD, DEM,JPY,FRF,... đây dãy doanh số mua bán ngoại tệ lên cao (khoảng 128 triệu USD vào năm 1999 tăng 11% so với năm trước). Chi nhánh cần đẩy mạnh hơn nữa dịch vụ thanh toán L/C bởi nó tạo nên uy tín cho hoạt động Ngân hàng mở ra nhiều triển vọng cho tương lai. Các hoạt động khác như chi trả kiều hối, nhất là thanh toán thử tín dụng quốc tế cần đầy mạnh hơn nữa.
e. Về công tác thu nợ
Cuối 1999, Ngân hàng thành lập bán thu nợ và được tách riêng biệt với nhiệm vụ chủ yếu là theo dõi đôn đốc khách hàng có nợ quá hạn và nghiên cứu đề ra các biện pháp nhằm khai thác xử lý TSTC để thu hồi nợ quá hạn. Đối với những khách hàng mà Ngân hàng thấy rằng nếu có sự hỗ trợ của mình thì tình hình tài chính của khách hàng sẽ được cải thiện, lúc đó Ngân hàng chưa thực hiện hình thức phạt nợ quá hạn mà có thể gia hạn cho khách hàng thêm một kỳ hạn nợ hoặc cho vay thêm để khách hàng có điều kiện về vốn để khắc phục sản suất kinh doanh, hoặc tìm và giới thiệu cho khách hàng nếu hàng hoá của khách hàng bị ứ đọng .... Mặc dù công tác thu nợ rất khó khăn, phức tạp, song Ngân hàng cố gắng tích cực tìm biện pháp khai thác triệt để đề tài sản thế chấp được kê biên, niêm phong, tìm hiểm thông tin, tham khảo ý kiến tư vấn pháp luật, xử lý việc bán tài sản thu hồi vốn cho Ngân hàng. Đối với với các món nợ quá hạn khách hàng tuy có khó khăn về kinh doanh song vẫn huy động được nguồn vốn khác để trả nợ thì ban thu nợ bám sát khách hàng để thu nợ dần. Với những món nợ quá hạn có tài sản thế chấp nhưng khách hàng thực sự không có khả năng trả nợ thì áp dụng biện pháp vừa động viên , thuyết phục, vừa ép khách hàng tự bán tài sản thanh toán nợ cho Ngân hàng. Với chính sách đúng đắn hợp lý của Ngân hàng, năm 2001 tổng số nợ quá hạn thu được gần 9,5 tỷ đồng và 850 triệu đồng tiền lãi. Trong đó Ngân hàng xử lý dứt điểm 15 món nợ quá hạn với số tiền 1,402 tỷ đồng.
Ngoài ra chi nhánh cần chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước, đảm bảo chính xác trung thực việc ghi chép sổ sách kế toán hợp lệ, hợp pháp tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh phát triển đồng thời đảm bảo thanh toán thu chi phù hợp. Công tác kiểm tra, kiểm toán tiến hành thường xuyên liên tục nhằm nâng cao công tác tín dụng, đảm bảo vốn tín dụng an toàn nợ qúa hạn phát sinh không đáng kể.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì nói chung và các lĩnh vực tín dụng, quản lý kinh doanh ngoại hối, dịch vụ Ngân hàng nói riêng thường xuyên cập nhật các chính sách, chủ trương đổi mới của Nhà nước. Luật Ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng phổ biến rộng rãi đến từng thành viên của Ngân hàng.
Tóm lại với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và tạo được một nguồn vốn ổn định để sử dụng , đảm bảo an toàn tuyệt đối đồng vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của Ngân hàng. Những năm tiếp theo ngân hang cần tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển chung và biện pháp theo định hướng đã đề ra. Tăng cường nắm tình hình chung tài chính, vốn kinh doanh và nhu cầu của khách hàng để phục vụ nhanh chóng kịp thời, mở rộng công tác marketing Ngân hàng, chủ động tìm dự án khả thi để mở rộng, đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn một cách có hiệu quả. Nâng cao chất lượng và tăng dư nợ lành mạnh, không để phát sinh dư nợ mới và lãi treo. Hoàn thiện và đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng gắn liền với chất lượng hiệu quả nhằm mang lại lợi ích cho mọi khách hàng và nâng cao tỷ trọng dịch vụ trong tổng nguồn thu của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì. Mở rộng quan hệ với các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước không ngừng đạo tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên, nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu nghiệp vụ mới, tiên tiến trên thế giới. Khả năng giao tiếp tốt tạo niềm tin và ấn tượng cho khách hàng .
3. Một số kiến nghị
Từ thực trạng sử dụng vốn tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì trong những năm gần đây em xin có một số kiến nghị sau đây:
Trong điều kiện hiện nay, do điều kiện thông tin chưa kịp thời, đầy đủ và các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn bị hạn chế, do đó đối với những dự án có tính khả thi cao mang lại lợi nhuận lớn nhưng cần huy động số vốn lớn thì Ngân hàng nên thực hiện phương án đồng tài trợ như đã qui định tại thể lệ tín dụng trung và dài hạn do một Ngân hàng đứng ra làm đầu mối. Bởi vì theo phương án này sẽ phân tán rủi ro cho Ngân hàng, vừa đem lại lợi nhuận, nâng cao được uy tín cho Ngân hàng.
- Tăng cường công tác thanh tra và xử lý nghiêm minh các cá nhân và tổ chức vi phạm cơ chế tín dụng. Việc thanh tra của Ngân hàng phải được tiến hành thường xuyên, tránh làm theo từng đợt vừa không phát hiện kịp thời sai phạm, không hiệu quả ảnh hưởng đến hoạt động và uy tín của Ngân hàng thương mại.
- Các cơ quan chức năng cần kiểm tra, và chấn chỉnh việc cấp giáy chứng nhận việc sở hữu tài sản, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng một tài sản thế chấp nhiều nơi để vay vốn Ngân hàng, gây thất thoát vốn của Ngân hàng.
- Cần chấn chỉnh hoạt động của các cấp có thẩm quyền duyệt dự án theo hướng nâng cao trách nhiệm hơn nữa đối với sự phát triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng các dự án duyệt thiếu căn cứ khoa học không thực tiễn nên không phát huy được hiệu quả hoạt động sản suất bị đình chỉ, lãng phí hàng ngàn tỷ đồng nợ Ngân hàng khó thu hồi.
- Bộ tài chính cần tổ chức việc thực hiện tốt công tác kiểm tra buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch toán kế toán và thống kê, đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời, nhằm giúp các Ngân hàng có những thông tin tài chính đầy đủ, đúng đắn, giúp cho việc phân tích tín dụng chính xác.
- Nhà nước cần giao cho một cơ quan tiến hành thống kê tổng hợp các tỷ lệ tài chính của các ngành, các doanh nghiệp rút ra hệ thống tỷ lệ trung bình hàng năm, đề căn cứ phân tích kinh tế, so sánh đánh giá các doanh nghiệp đang ở tình trạng nào.
- Nhà nước yêu cầu thành lập quĩ bù đắp rủi ro và qũy này phải được hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước. Bởi vì, trong hoạt động tín dụng của mình, Ngân hàng đã thành lập quĩ dự phòng bù đắp rủi ro (theo qui định hiệnnay của chính phủ thì tỷlệ trích dự phòng từ 10 á100% lợi nhuận ròng của Ngân hàng), song nếu trích ít thì không đủ bù đắp rủi ro, còn trích nhiều thì sẽ hết cả lợi nhuận của Ngân hàng. Do vậy, thiết nghĩ rằng, việc chính phủ hỗ trợ cho quĩ bù đắp rủi ro từ ngân sách Nhà nước là cần thiết vì trong bối cảnh KTTT với xu hướng hội nhập ngày càng tăng, hiện nay thì khả năng xảy ra rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng là rất lớn. Khả năng này cũng tăng lên khi sử dụng vốn mở rộng.
-Để đảm bảo kinh doanh với an toàn vốn, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Trì cần hết sức quan tâm công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ. Phải chủ động với tinh thần kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại trong mọi nghiệp vụ Ngân hàng nhất là công tác tín dụng, chỉ tiêu nội bộ và bảo toàn kho quĩ. Đối với nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng phải quan tâm và thận trọng với nghiệp vụ này, từ khâu tiếp nhận, chọn lọc khách hàng đến khâu thẩm định phương án sản suất kinh doanh của người vay. Ngân hàng phải thực hiện chặt chẽ the chế độ, thể lệ tín dụng và qui trình nghiệp vụ. Tránh tình trạng để sót những phương án không hiệu quả mà vẫn được thực thi.
*Đối với các doanh nghiệp
- Doanh nghiệp cần cung cấp một cách trung thực và đầy đủ các thông tin về tài chính, sản suất kinh doanh cũng như bản chất nghiệp vụ của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp cần phải có trách nhiệm đối với những khoản vay, phải quản lý và sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả. Phải có sự phối hợp và trao đổi thông tin chặt chẽ với Ngân hàng tạo điều kiện cho Ngân hàng trong quá trình giám sát và kiểm tra doanh nghiệp. Đồng thời phải có ý thức trong việc hoàn trả vốn với Ngân hàng, giữ chữ tín trong quan hệ với Ngân hàng.
- Doanh nghiệp cần chú trọng công tác tuyển chọn và đào tạo nhân viên để có độị ngũ công nhân viên lành nghề, yêu việc có kinh nghiệm, tạo ra năng suất lao động cao, phát huy hiệu quả kinh doanh.
- Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần thận trọng nắm thông tin về khách hàng, đặc biệt là cần quan tâm đến yếu tố thị trường thị hiếu khách hàng. ...để đứng vững trước sự biến động của thị trường.
Kết luận
Trong bối cảnh nền kinh tế đang từng bước chuyển nhanh sang cơ chế thị trường cơ sự quản lý của Nhà nước hoạt động của Ngân hàng thương mại nó chung có nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu và triển khai cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn và thông lệ quốc tế. Việc nghiên cứu, áp dụng các giải pháp về sử dụng vón là vấn đề quan trọng và cấp thiết nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế đảm bảo an toàn về vốn đào tạo điều kiện để Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Trì tồn tại và phát triển trong môi trường kinh tế thời kỳ mở cửa. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu, phạm vi nghiên cứu bản báo cáo đã hoàn toàn thành được một số nhiệm vụ đề ra.
- Nêu các luận chứng khoa học về sử dụng vốn
- Nghiên cứu tổng quát về tình hình sử dụng vốn Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Trì trong thời kỳ gần đây. Qua đó đánh giá khả năng sử dụng vốn của Ngân hàng và những định hướng trong tương lai để sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
- Nêu ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng.
Trong thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì, với những hiểu biết qua sự giảng dạy của các thầy cô giáo ở trường Đại học kinh tế quốc dân cùng với việc nghiên cứu thêm từ những tài liệu tham khảo em nhận thấy rằng: Tình hình huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần sửa đổi để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay đồng thời có thể một phần nào đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì hay nói cách khác là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng, mang lại lợi nhuận cao hơn.
Qua quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì, với sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ ngân hàng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc học hỏi và nghiên cứu, cùng với sự hướng dẫn của TS Nguyễn Hữu Tài đến nay em đã hoàn thành đề tài thực tập.
Do thời gian có hạn, với những kiến thức và hiểu biết còn nhiều hạn chế cùng với sự thiếu kinh nghiệm trong thực tiễn, vì vậy đề tài không thể tránh được những thiếu sót trong trình bày, mong rằng qua bản báo cáo thực tập này em có thể học hỏi thêm được những kiến thức cần thiết phục vụ cho công việc thực tế sau này đồng thời hy vọng với những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn có thể góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh trì.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0180.doc