Lời mở đầu
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình tái sản xuất của mỗi doanh nghiệp. Thế nhưng, một điều thực sự cần được quan tâm là số vốn đó được sử dụng như thế nào và đem lại hiệu quả ra sao?
Hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân của nước ta. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở các doanh nghiệp này còn thấp. Theo điều tra trong toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước, người ta có n
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hận xét chung là vốn lưu động chu chuyển chậm, hệ số sinh lời bình quân thấp khoảng 11% năm.
Trong bối cảnh đó, Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng đã có nhiều cố gắng trong việc huy động và sử dụng vốn lưu động và đã đạt được những kết quả nhất định. Bên cạnh đó, Công ty vẫn còn tồn tạ một số vấn đề bất cập trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động. Do vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động là rất cần thiết và cấp bách.
Xuất phát từ thực tế trên và được sự hướng dẫn của thầy giáo Bùi Tiến Hanh, tôi đã chọn đề tài : “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng" làm mục đích và nội dung nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, nội dung chính của chuyên đề gồm 3 phần sau:
Phần I: Những vấn đề lý luận về vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng sử dụng VLĐ ở Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng.
Phần I
Những vấn đề lý luận về vốn lưu động trong doanh nghiệp
I. vốn lưu động trong doanh nghiệp
1. Khái niệm và đặc điểm vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động các doanh nghiệp còn cần phải có các đối tượng lao động như nguyên liệu, nhiên liệu, công cụ, dụng cụ khác với các tư liệu lao động, các đối tượng lao động này chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm.
Những đối tượng lao động nói trên xét về hình thái vật chất được gọi là các tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Giá trị các loại tài sản lưu động của các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm từ 25 - 50% tổng giá trị tài sản của doannh nghiệp.
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi nhũng tài sản lưu động.
Sự vận động của đối tượng lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh có thể biểu diễn khái quát bằng sơ đồ sau:
(3)
(2)
(1)
T - H - SX - H' - T'
ở giai đoạn (1) doanh nghiệp dùng tiền để mua nguyên nhiên vật liệu, công cụ dụng cụ để dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn (2) nguyên nhiên vật liệu ở khâu dự trữ được đưa vào sản xuất, tại đây tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động thông qua sự hoạt động của con người. Quá trình này làm cho đối tượng lao động bị biến dạng và chuyển sang hình thái hiện vật khác. Cùng với quá trình này một số bộ phận khác của đối tượng lao động như nhiên liệu, năng lượng, công cụ lao động nhỏ, ...Cũng bị tiêu hao trong quá trình sản xuất. Toàn bộ đối tượng lao động trong giai đoạn (1),(2) được gọi là tài sản lưu động sản xuất.
Quá trình sản xuất của doanh nhiệp luôn luôn gắn với quá trình lưu thông, ở giai đoạn (3) doanh nhiệp phải tiến hành một số công việc như: chọn lọc, đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh toán...đối tượng lao động trong giai đoạn này được gọi là các tài sản lưu đông lưu thông.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vân động thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, để hình thành các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông các doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư ban đầu nhất định. Vì vậy cũng có thể nói vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư mua sắm tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Phù hợp với đặc điểm trên của tài sản lưu động, vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ của sản xuất. Nói một cách khác vốn lưu động tham gia trực tiếp, toàn bộ và một lần vào chu kỳ sản xuất, nó được thu hồi toàn bộ giá trị sau mỗi chu kỳ sản xuất.
Vốn lưu động của doanh nghiệp không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên lập lại theo chu kỳ được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại thay đổi hình biểu hiện từ hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ đến vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ.
2. Vai trò của vốn lưu động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Trong cùng một lúc vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới những hình thái khác nhau. Muốn cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư vào các hình thái khác nhau đó.
Vốn lưu động tham gia toàn bộ và một lần vào chu kỳ sản xuất, nó là bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm, dịch vụ. Do vậy chi phí về vốn lưu động là cơ sỏ để xác định giá thành sản phẩm sản xuất hay dịch vụ hoàn thành. Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy việc quản lý vốn lưu động giúp doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất, đánh giá tác động và hiệu quả thực hiện các biện pháp tổ chức kỹ thuật đến sản xuất, phát hiện và tìm ra những tồn tại, yếu kém để có biện pháp loại trừ .
Bên cạnh đó vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của vật tư. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn lưu động thể hiện sự vận động của vật tư. Vốn lưu động nhiều hay ít sẽ phản ánh vật tư hàng hoá nằm trên các khâu nhiều hay ít. Mặt khác vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí. Do vậy thông qua tình hình luân chuyển vốn lưu động có thể đánh giá một cách kịp thời của việc mua sắm vật tư dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
3. Phân loại VLĐ:
Để quản lý, sử dụng VLĐ có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại VLĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có những cách phân loại sau đây.
3.1. Phân loại theo vai trò từng loại VLĐ trong quá trình SXKD.
Theo cách này VLĐ của doanh nghiệp có thể chia thành 3 loại:
- VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất: bao gồm giá trị các khoản vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tùng thay thế công cụ lao động nhỏ.
- VLĐ trong khâu sản xuất: bao gồm các khoản giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển.
- VLĐ trong khâu lưu thông: bao gồm giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền (kể cả vàng, bạc, đá quý...), các khoản vốn đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn...) các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn; các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, các khoản tạm ứng...)
Cách phân loại này cho thấy vai trò của sự phân bố của VLĐ trong từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu VLĐ sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất.
3.2. Phân loại theo hình thái biểu hiện:
Theo cách này VLĐ có thể chia thành 2 loại:
- Vốn vật tư hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm.
- Vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt, tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư ngắn hạn.
3.3. Phân loại theo hệ sở hữu về vốn
Theo cách này người ta chia VLĐ thành 2 loại;
- Vốn chủ sở hữu: Là số vốn lưu động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Tuỳ theo loại hình doanh nghiêp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng như: vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra, vốn góp cổ phần...
- Các khoản nợ: là các khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán.
Cách phân loại này có thể thâý kết cấu VLĐ của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay từ các khoản nợ. Từ đó có các quyết định trong huy động và quản lý, sử dụng VLĐ hợp lý hơn.
3.4. Phân loại theo nguồn hình thành
Nếu xét là nguồn hình thành VLĐ của doanh ngiệp có thể chia thành các nguồn như sau:
Nguồn vốn điều lệ: là số vốn lưu động được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc nguồn vốn điêù lệ bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này cũng có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Nguồn vốn tự bổ xung: Là số vốn do doanh nghiệp tự bổ xung trong quá trình sản xuất kinh doanh từ lợi nhuận của doanh nghiệp được tái đầu tư.
- Nguồn vốn liên doanh liên kết: là số vốn lưu động được hình thành từ vốn góp liên doanh của các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc vật tư, hàng hoá...
- Nguồn vốn đi vay: là số vốn lưu động được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng hoặc vay bằng phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong kinh doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó. Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm thấp chi phí sử dụng vốn của mình.
4. Kết cấu VLĐ và các nhân tố ảnh hưởng:
Từ các phân loại trên doanh nghiệp có thể xác định được kết cấu vốn lưu động của mình theo những tiêu thức khác nhau. Kết cấu VLĐ phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần VLĐ chiếm trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu VLĐ cũng không giống nhau. Việc phân tích VLĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng các trọng điểm để có biện pháp quản lý VLĐ hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Tất nhiên việc quản lý phải trên tất cả các mặt, các khâu và từng thành phần VLĐ, thế nhưng việc tập chung các biện pháp vào quản lý những bộ phận chiếm tỷ trọng lớn có ý nghĩa quyết định đến việc tăng nhanh vòng quay và tiết kiệm vốn lưu động. Mặt khác thông qua việc thay đổi kết cấu VLĐ của doanh nghiệp trong những thời kỳ khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực hoặc những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý VLĐ của từng doanh nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu VLĐ của doanh nghiệp có nhiều loại, có thể chia thành 3 nhóm chính:
- Các nhân tố về mặt dự trữ vật tư như; khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp , khả năng cung cấp của thị trường, kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng, đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp.
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo, độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ tổ chức quá trình sản xuất.
- Các nhân tố về mặt thanh toán như: phương thức thanh toán được lựa chọn theo các hợp đồng hợp đồng bán hàng, thủ tục thanh toán, việc chấp hành kỷ luật thanh toán...
II. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp.
1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải luôn quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Chỉ khi hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp mới có thể tự trang trải chi phí đã bỏ ra, làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và quan trọng hơn là duy trì và phát triển quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là kết quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận. Trong đó, hiệu quả sử dụng VLĐ gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.
Có thể nói rằng mục tiêu lâu dài của mỗi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Việc quản lý sử dụng tốt VLĐ sẽ góp phần giúp doanh nghiệp thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Bởi vì quản lý vốn lưu động không những đảm bảo sử dụng VLĐ hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa đối với việc hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu tiền bán hàng. Từ đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Việc quản lý và sử dụng VLĐ không tốt, tức là để xảy ra tình trạng thừa hoặc thiếu VLĐ sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có mức VLĐ quá cao nghĩa là doanh nghiệp ứng ra một lượng vốn lớn mà quy mô sản xuất của doanh nghiệp không đòi hỏi như vậy, trong trường hợp này sẽ không khuyến khích doanh nghiệp khai thác các khả năng tiềm tàng, tìm mọi biện pháp cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.Điều này gây nên tình trạng ứ đọng vật tư hàng hoá; vốn chậm luân chuyển và phát sinh các chi phí không cần thiết làm tăng giá thành sản phẩm. Trong điều kiện vốn lưu động phải do vay hoặc do phát hành trái phiếu... thì một đồng vốn phải cộng thêm chi phí cho nó (lãi suất) chắc hẳn không có doanh nghiệp nào laị đi vay vốn khi thực sự chưa cần thiết và để cất nó trong kho.
Ngược lại nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động sẽ gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thiếu vốn sẽ không bảo đảm sản xuất được thường xuyên, liên tục, gây nên những thiệt hại do ngừng sản xuất, không có khả năng thanh toán và thực hiện các hợp đồng đã ký kết với khách hàng.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là yêu cầu tất yếu khách quan của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ đơn thuần do quản trị vốn lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng sự bất lực của một số doanh nghiệp trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ.
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ trong DN:
Các hệ số tài chính là những biểu hiện đặc trưng nhất về tình hình tài chính của mỗi doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Mỗi doanh nghiệp khác nhau có các hệ số tài chính khác nhau, thậm chí một doanh nghiệp ở những thời điểm khác nhau cũng có các hệ số tài chính không giống nhau. Thông qua việc tính toán, đánh giá các chỉ tiêu tài chính sẽ giúp cho người sử dụng thông tin nắm được thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp, đồng thời xác định rõ nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính. Trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra các quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ trong các doanh nghiệp có thể sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
2.1. Tốc độ luân chuyển VLĐ
Việc sử dụng hợp lý tiết kiệm VLĐ biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp nhanh hay chậm. VLĐ luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng VLĐ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Tốc độ luân chuyển VLĐ có thể đo bằng hai chỉ tiêu là số lần luân chuyển (số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn (số ngày một vòng quay vốn)
Số lần luân chuyển VLĐ phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện trong một thời kỳ nhất định, thường tính trong một năm.
Công thức tính như sau:
Trong đó:
L: Số lần luân chuyển (số vòng quay) của VLĐ trong kỳ
M: Tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ.
Vlđ: Vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Kỳ luân chuyển vốn phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay VLĐ.
Công thức tính toán như sau:
Hay
Trong đó:
K: kỳ luân chuyển VLĐ
M, Vlđ: Như công thức trên
Vòng quay vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả.
Trong các công thức trên, tổng mức luân chuyểnvốn phản ánh tổng giá trị luân chuyển của doanh nghiệp thực hiện trong kỳ, nó được xác định bằng tổng doanh thu trừ đi các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải nộp cho ngân sách Nhà nước.
Như vậy doanh nghiệp muốn tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động thì trước hết doanh nghiệp phaỉ làm thế nào để tăng doanh thu bán hàng đồng thời quản lý chặt chẽ VLĐ sao cho phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ.
Số VLĐ bình quân trong kỳ (VLĐ) được tính theo phương pháp bình quân số VLĐ trong từng quý hoặc tháng.
Công thức tính như sau:
Hay
Trong đó:
VLĐ: VLĐ bình quân trong kỳ
Vq1, Vq2, Vq3, Vq4: VLĐ bình quân các quý1,2,3,4.
Vđq1: VLĐ đầu quý 1
Vcq1, Vcq2, Vcq3, Vcq4: VLĐ cuối quý 1,2,3,4.
2.2. Mức tiết kiệm VLĐ do tăng tốc độ luân chuyển.
Mức tiết kiệm VLĐ là số VLĐ doanh nghiệp tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển vốn.
Công thức tính như sau:
Trong đó Vtk: VLĐ tiết kiệm.
M1 Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch
K0, K1: kỳ luân chuyển vốn năm báo cáo và năm kế hoạch.
2.3. Hiệu quả sử dụng VLĐ:
Hiệu quả sử dụng VLĐ được xem xét như là một bộ phận của hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Việc phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ là một phần quan trọng trong phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh. Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ chúng ta phải lượng hoá nó bằng nhhững con số để so sánh, đối chiếu và đánh giá, từ đó đề ra các biện pháp có hiệu lực để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp.
Công thức tính:
Hiệu quả sử dụng
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VLĐ mà doanh nghiệp đang sử dụng có thể làm ra bao nhiêu đồng doanh thu. Số doanh thu được tạo ra trên một đồng VLĐ càng lớn thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao. Như vậy, trên lý thuyết để tăng chỉ tiêu này lên, không những doanh nghiệp cần phải tăng doanh thu mà còn phải quản lý chặt chẽ tài sản lưu động.
2.4. Hàm lượng VLĐ
Là số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ.
Công thức tính:
VLĐ bình quân trong kỳ
Hàm lượng VLĐ =
Tổng doanh thu thực hiện trong kỳ
2.5. Mức doanh lợi VLĐ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Công thức tính:
Tổng lợi nhuận (trước hoặc sau thuế TN)
Mức doanh lợi VLĐ =
VLĐ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Mức doanh lợi VLĐ càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
2.6. Các hệ số về khả năng thanh toán
Tình hình tài chính được đánh giá là lành mạnh trước hết phải được thể hiện ở khả năng chi trả. đây là vần đề được nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp nguyên vật liệu... họ luôn đạt ra câu hỏi: hiện doanh nghiệp có đủ khả năng trả món nợ tới hạn không? Để trả lời câu hỏi đó người ta thường dựa vào các chỉ tiêu sau:
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát:
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát là mối quan hệ giữa tổng tài sản mà hiện nay doanh nghiệp đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả (nợ ngắn hạn, nợ dài hạn)
Công thức:
Hệ số thanh toán tổng quát =
Nếu hệ số này < 1 là báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, tổng số tài sản hiện có (TSCĐ, TSLĐ) không đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán.
- Hệ số khả năng thanh toán tạm thời:
Hệ số khả năng thanh toán tạm thời là mối quan hệ giữa TSLĐ và đầu tư ngắn hạn với các khoản nợ ngắn hạn . Hệ số thanh toán tạm thời thể hiện mức độ đảm bảo của TSLĐ vơí nợ ngắn hạn.
Công thức:
TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn
Khả năng thanh toán tạm thời =
Tổng nợ ngắn hạn
Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh Ngành nghề nào mà có TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn (như ngành thương nghiệp) trong tổng tài sản thì hệ số này lớn và ngược lại
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
TSLĐ trước khi mang đi thanh toán cho chủ nợ đều phải chuyển đổi thành tiền. Trong TSLĐ hiện có thì vật tư hàng hoá chưa thể chuyển đổi ngay thành tiền, do đó nó có khả năng thanh toán kém nhất. Vì vậy hệ số khả năng thanh toán nhanh là thước đo về khả năng trả nợ ngay, không dựa vào việc phải bán các loại vật tư hàng hoá.
Công thức.
Khả năng thanh toán nhanh=
Độ lớn của hệ số này cũng phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn thanh toán của món nợ phải thu, phải trả trong kỳ.
2.7. Các chỉ số về hoạt động
- Số vòng quay hàng tồn kho:
Số vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt, bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp những vẫn đạt được doanh số cao.
Công thức:
Giá vốn hàng bán
Số vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho bình quân
- Số ngày một vòng quay hàng tồn kho:
Phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho.
Công thức:
Số ngày một vòng quay hàng tồn kho
=
360 ngày
Số vòng quay hàng tồn kho
- Số vòng quay các khoản phải thu:
Phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt.
Công thức:
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu =
Số dư bình quân các khoản phải thu
Vòng quay càng lớn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu hồi là tốt vì doanh nghiệp không bị chiếm dụng vốn (không phải cấp tín dụng cho khách hàng)
- Kỳ thu tiền trung bình:
Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ và ngược lại.
Công thức.
Kỳ thu tiền trung bình
=
360
=
Số dư bình quân các khoản phải thu
x 360
Vòng quay các khoản phải thu
Doanh thu thuần
Kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể có kết luận chắc chăn mà còn phải xem xét lại các mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng....
III. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng là yêu cầu khách quan đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Do vậy, việc tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động luôn được các nhà quản lý đặc biệt quan tâm chú ý. Các giải pháp cụ thể của mỗi doanh nghiệp thường không giống nhau, do điều kiện đặc điểm sản xuất khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy rằng hiệu quả sử dụng vốn lưu động thường gắn liền với hiệu quả công tác quản trị vốn lưu động. Do vậy những giải pháp chung để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là phải làm tốt những nội dung quản trị vốn lưu động trong doanh nghiệp. Những giải pháp chung đó cụ thể như sau:
1. Xác định đúng đắn nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
Xác định đúng đắn nhu cầu VLĐ thường xuyên cần thiết là một biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Hơn nữa trong điều kiện các doanh nghiệp chuyển sang thực hiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, mọi nhu cầu về VLĐ cho sản xuất họ đều phải tự tài trợ thì điều này càng có ý nghĩa quan trọng và thể hiện trên các mặt sau:
- Tránh được tình trạng ứ đọng vốn giúp sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm.
- Đáp ứng yêu cầu SXKD của DN được bình thường và liên tục.
- Không gây nên sự căng thẳng giả tạo về nhu cầu vốn kinh doanh.
- Là căn cứ quan trọng cho việc xác định các nguồn tài trợ nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
Khi xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp cũng cần thấy rằng VLĐ doanh nghiệp là một đại lượng không cố định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như:
- Quy mô SXKD của doanh nghiệp trong từng thời kỳ
- Sự biến động giá cả của các loại vật tư hàng hoá mà doanh nghiệp sử dụng.
- Chính sánh chế độ về lao động và tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp.
- Trình độ tổ chức quản lý sử dụng VLĐ của doanh nghiệp trong quá trình dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ, giảm thấp tương đối nhu cầu VLĐ không cần thiết thì các doanh nghiệp cần tìm các biện pháp phù hợp tác động đến các nhân tố ảnh hưởng trên sao cho có hiệu quả nhất.
Để xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Tuỳ theo điều kiện cụ thể doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một phương pháp thích hợp. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu.
1.1. Phương pháp trực tiếp
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là căn cứ vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc dự trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để xác định nhu cầu của từng khoản VLĐ trong từng khâu rồi tổng hợp lại toàn bộ nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
Công thức tính tổng quát như sau:
VLĐ =
Trong đó:
VLĐ: nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
M: Mức tiêu dùng bình quân 1 ngày của loại vốn được tính toán
N: Số ngày luân chuyển của loại vốn được tính toán
i: Số khâu kinh doanh (i= 1,k)
J: loại vốn sử dụng (j=1,n)
Mức tiêu dùng bình quân của một ngày của loại vốn được tính bằng tổng mức tiêu dùng trong kỳ (theo dự toán chi phí) chia cho số ngày trong kỳ (360ngày/năm.) Số ngày luân chuyển của một loại vốn nào đó được xác định căn cứ vào các nhân tố liên quan về số ngày luân chuyển của loại vốn đó trong từng khâu tương ứng .
ưu điểm của phương pháp tính toán trực tiếp là xác định được nhu cầu cụ thể của từng loại vốn trong từng khâu kinh doanh. Do đó tạo điều kiện tốt cho việc quản lý sử dụng vốn theo từng loại trong từng khâu sử dụng. Tuy nhiên việc tính toán nhu cầu vốn theo phương pháp này tương đối phức tạp và mất nhiều thời gian.
Sau đây là phương pháp xác định nhu cầu VLĐ cho từng khâu kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1. Xác định nhu cầu VLĐ cho khâu dự trữ sản xuất
VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm: giá trị các loại NVL chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
Đối với nhu cầu vốn nguyên vật liệu chính công thức tính toán như sau :
Vnl= Mn x Nnl
Trong đó:
Vnl: nhu cầu nguyên liệu chính năm kế hoạch.
Mn: mức tiêu dùng NL chính bình quân ngày.
Nnl:Số ngày dự trữ hợp lý
Mức tiêu thụ bình quân 1 ngày về nguyên vật liệu chính được xác định bằng cách lấy tổng chi phí sử dụng NVL chính trong năm kế hoạch chia cho số ngày trong năm (360 ngày). Trong đó tổng chi phí NVL sử dụng trong năm được xác định căn cứ vào số lượng sản phẩm dự kiến sản xuất, mức tiêu dùng NVL chính cho mỗi đơn vị sản phẩm và đơn giá kế hoạch của NVL. Số ngày dự trữ về NVL chính là số ngày kể từ khi doanh nghiệp bỏ tiền ra mua cho đến khi đưa NVL vào sản xuất. Nó bao gồm số ngày hàng đi trên đường, số ngày nhập kho cách nhau (sau khi đã nhân với hệ số xen kẽ vốn), số ngày kiểm nhận nhập kho, số ngày chuẩn bị sử dụng và số ngày bảo hiểm.
Đối với các khoản vốn khác trong khâu dự trữ sản xuất như vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế... nếu sử dụng nhiều và thường xuyên có thể áp dụng phương pháp tính toán như đối với vốn NVL chính đã nêu trên.
Ngược lại đối với các khoản vốn được sử dụng không nhiều và không thường xuyên, mức tiêu dùng ít biến động thì có thể áp dụng những phép tính theo tỷ lệ (%) với tổng mức luân chuyển của loại vốn đó trong khâu dự trữ sản xuất.
Công thức: Vnk= MlcxT%
Trong đó: Vnk:Nhu cầu vốn trong dự trữ của loại vốn khác
Mlc:Tổngmức luân chuyển của loại vốn đó trong phần dự trữ
T%:Tỷ lệ %của loại vốn đó so vói tổng mức luân chuyển
1.1.2 Xác định nhu cầu vốn lưu động cho khâu sản xuất
VLĐ trong khâu SX gồm vốn sản phẩm đang chế tạo và vốn chi phí chờ kết chuyển
a) Xác định nhu cầu vốn sản phẩm đang chế tạo :
Để xác định vốn nhu cầu vốn này phải căn cứ vào 3 yếu tố cơ bản là mức chi phi sản xuất bình quân một ngày, độ dài chu kỳ sản xuất sản phẩm và hệ số sản phẩm đang chế tạo:
Công thức: Vđc = Pn x Ck x Hs.
Trong đó: Vđc: Nhu cầu vốn sản phẩm đang chế tạo
Pn: Mức chi phí bình quân một ngày.
Ck: Chu kỳ sản phẩm sản xuất.
Hs: Hệ số sản phẩm đang chế tạo.
b) Xác định nhu cầu vốn chí phí chờ kết chuyển.
Để xác định vốn chi phí chờ kết chuyển phải căn cứ vào số dư chi phí chờ kết chuyển đầu kỳ, số chi phí chờ kết chuyển dự kiến phát sinh trong kỳ và số chi phí chờ kết chuyển dự kiến phân bổ vào giá thành sản phẩm trong kỳ
Công thức : Vpb = Vpđ + Vpt - Vpg
Trong đó: Vpb: Vón chi phí chờ kết chuyển sang kỳ kế hoạch
Vpđ: vốn chi phí chờ kết chuyển đấu kỳ kế hoạch.
Vpt: vốn chi phí chờ kết chuyển tăng trong kỳ kế hoạch
Vpg vốn chi phí chờ kết chuyển vào giá thành sản phẩm trong kỳ kế hoạch.
1.1.3. Xác định nhu cầu VLĐ khâu lưu thông
Công thức: Vtp = Z sx x Ntp
Trong đó:
Vtp: vốn thành phẩm kỳ kế hoạch
Z sx: : giá thành sản xuất sản phẩm bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch
Ntp : Số ngày luân chuyển vốn thành phẩm
Sau khi xác định được nhu cầu VLĐ cho từng loại vốn trong từng khâu kinh doanh tổng hợp lại sẽ có toàn bộ nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
1.2. Phương pháp gián tiếp;
Đặc điểm của phương pháp gián tiếp là dựa vào kết quả thống kê kinh nghiệm về VLĐ bình quân năm báo cáo, nhiệm vụ SX kinh doanh năm kế hoạch để xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp năm kế hoạch.
Công thức:
Vnc = VLĐ0 x
Vnc: nhu cầu VLĐ trong kế hoạch
M1, M0: Tổng mức luân chuyển VLĐ năm kế hoạch và năm báo cáo.
t: tỷ lệ tăng giảm số ngày luân chuyển VLĐ năm kế hoạch với năm báo cáo.
t =
2. Quản trị vốn tồn kho dự trữ:
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, tài sản dự trữ thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động (thường từ 30%- 60%). Do vậy việc quản lý tồn kho dự trữ đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Nhờ có dự trữ tồn kho đúng mức, hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp không bị gián đoạn sản xuất, không bị thiếu sản phẩm hàng hoá để bán, đồng thời lại sử dụng tiết kiệm và hợp lý VLĐ.
Về cơ bản mục tiêu của việc tồn kho dự trữ là nhằm tối thiểu hoá các chi phí dự trữ tài sản tồn kho trong điều kiện vẫn đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường. Nếu các doanh nghiệp có mức vốn tồn kho quá lớn thì sẽ làm phát sinh thêm các chi phí như chi phí bảo quản, lưu kho...đồng thời doanh nghiệp không thể sử dụng số vốn này cho mục đích sản xuất kinh doanh khác và làm tăng chi phí cơ hội của số vốn này.
Để tối._. thiểu hoá chi phí tồn kho dự trữ nguyên vật liệu, nhiên liệu thì doanh nghiệp phải xác định được số lượng vật tư, hàng hoá tối ưu mỗi lần đặt mua sao cho vẫn đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần phải có những biện pháp quản lý hữu hiệu để bảo đảm nguyên vật liệu trong kho không bị hư hỏng, biến chất, mất mát.
Khi xác định mức tồn kho dự trữ, doanh nghiệp nên xem xét, tính toán ảnh hưởng của các nhân tố. tuỳ theo từng loại tồn kho dự trữ mà các nhân tố ảnh hưởng có đặc điểm riêng.
Đối với mức tồn kho dự trữ nguyên vật liệu, nhiên liệu thường phụ thuộc vào.
- Quy mô sản xuất và nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất
- Khả năng sãn sàng cung ứng của thị trường.
- Chu kỳ giao hàng quy định trong hợp đồng giữa người bán với doanh nghiệp.
- Thời gian vận chuyển nguyên vật liệu từ nơi cung ứng tới doanh nghiệp.
- Giá cả của các nguyên vật liệu, nhiên liệu được cung ứng.
Đối với mức tồn kho dự trữ bán thành phẩm, sản phẩm dở dang các nhân tố ảnh hưởng gồm:
- Đặc điểm và các yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ trong quá trình chế tạo sản phẩm.
- Độ dài thời gian chu kỳ sản xuất sản phẩm.
- Trình độ tổ chức quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Đối với tồn kho dự trữ sản phẩm thành phẩm, các nhân tố ảnh hưởng là:
- Sự phối hợp giũa khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
- Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và khách hàng.
- Khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Tóm lại, nếu thực hiện tốt công tác quản trị vốn tồn kho dự trữ, doanh nghiệp có thể tăng khả năng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế mà không cần tăng thêm nhu cầu về vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh. Do đó để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ thì doanh nghiệp cần phải đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản trị vốn tồn kho dự trữ.
3. Quản trị các khoản phải thu
Trong nền kinh tế thị trường việc mua chịu, bán chịu là điều khó tránh khỏi. Doanh nghiệp có thể sử dụng các khoản phải trả chưa đến kỳ hạn thanh toán như một nguồn vốn bổ xung để tài trợ cho các nhu cầu VLĐ ngắn hạn và đương nhiên doanh nghiệp cũng bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn. Việc bán chịu sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiêu thụ được sản phẩm đồng thời góp phần xây dựng môí quan hệ làm ăn tốt đẹp với khách hàng. Tuy nhiên nếu tỷ trọng các khoản phải thu quá lớn trong tổng số vốn lưu động thì nó sẽ gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp.
Quản trị các khoản phải thu tốt, tức là hạn chế mức tối thiểu lượng vốn lưu động bị chiếm dụng sẽ làm giảm số ngày của chu kỳ thu tiền bình quân, thúc đẩy vòng tuần hoàn của vốn lưu động. Đồng thời sẽ làm giảm các chi phí quản lý nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ, chi phí rủi ro...
Trong chính sách tín dụng thương mại doanh nghiệp cần đánh giá kỹ ảnh hưởng của chính sách bán chịu đối với lợi nhuận của doanh nghiệp. Đồng thời để hạn chế mức thấp nhất mức độ rủi ro có thể gặp trong việc bán chịu doanh nghiệp có thể xem xét trên các khía cạnh mức độ uy tín của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng...
Để giúp doanh nghiệp có thể nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu hạn chế rủi ro và các chi phí không cần thiết phát sinh làm giảmhiệu quả sử dụng VLĐ, doanh nghiệp cần coi trọng các biện pháp chủ yếu sau:
- Phải mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp và thường xuyên đôn đốc để thu hồi đúng hạn.
- Có biện pháp phòng ngừa rủi ro không được thanh toán (lựa chọn khách hàng, giới hạn giá trị tín dụng, yêu cầu đặt cọc...)
- Tiến hành xác định và trích lập dự phòng phải thu khó đòi vào chi phí sản xuất kinh doanh.
- Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng bán hàng, nếu vượt quá thời hạn thanh toán theo hợp đồng sẽ bị phạt hoặc được thu lãi suất như lãi suất quá hạn của ngân hàng.
- Phân loại các khoản nợ quá hạn, tìm nguyên nhân của từng khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp như gia hạn nợ, thoả ước xử lý nợ, xoá một phần nợ cho khách hàng, hoặc yêu cầu toà án giải quyết.
4. Quản trị vốn tiền mặt
Tiền mặt tại quỹ là một bộ phận quan trọng cấu thành vốn bằng tiền của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ tiền mặt ở một quy mô nhất định. Vốn tiền mặt đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý một cách chặt chẽ hơn các loại tài sản khác vì nó rất dễ bị tham ô, lợi dụng, mất mát.
Nhu cầu dự trữ tiền mặt trong các doanh nghiệp thông thường là để đáp ứng yêu cầu giao dịch hàng ngày như mua sắm hàng hoá, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu vốn bất thường chưa dự đoán được và dộng lực " đầu cơ" trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng sử dụng khi xuất hiện cơ hội kinh doanh tốt. Việc duy trì một mức dự trữ tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp cơ hội thu được triết khấu khi mua hàng, làm tăng hệ số khả năng thanh toán.
Nội dung quản trị vốn tiền mặt trong các doanh nghiệp gồm:
4.1. Xác định mức tồn quỹ tối thiểu
Mức độ tồn quỹ tối thiểu được xác định bằng cách lấy mức xuất quỹ trung bình hàng ngày nhân với số ngày dự trữ tồn quỹ.
Mức tồn quỹ tối thiểu cần được xác định sao cho doanh nghiệp có thể tránh được rủi ro.
Do không có khả năng thanh toán ngay, phải gia hẹn thanh toán nên phải trả lãi cao hơn.
- Mất khả năng mua chịu của nhà cung cấp.
- Không có khả năng tận dụng các cơ hội kinh doanh tốt.
4.2. Dự toán các luồng nhập, xuất ngân quỹ.
Dự đoán ngân quỹ là tập hợp các dự kiện về nguồn và sử dụng ngân quỹ, ngân quỹ hàng năm lập vừa tổng quát vừa chi tiết cho hàng tháng và tuần.
Dự đoán các luồng nhập ngân quỹ bao gồmluồng thu nhậptừ kết quả kinh doanh, luồng đi vay và các luồng tăng vốn khác. Dự đoán các luồng xuất quỹ thường bao gồm các khoản chi cho hoạt động kinh doanh như mua sắm tài sản, trả lương, nộp thuế, chi khác..
Trên cơ sở so sánh các luồng nhập quỹ và xuất quỹ, doanh nghiệp có thể thấy được mức dư hay thâm hụt. Khi luồng nhập ngân quỹ nhỏ hơn luồng xuất thì cần tăng tốc độ thu hồi các khoản nợ phải thu, huy động các khoản vay thanh toán của ngân hàng. Ngược lại khi luồng nhập lớn hơn luồng xuất thì doanh nghiệp có thể sử dụng phần dư ngân quỹ để thực hiện các khoản đầu tư trong thời hạn cho phép để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi của mình.
Trên đây là những phương hướng giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong các doanh nghiệp. Khi thực hiện doanh nghiệp không nên quá coi trọng một biện pháp nào đó mà phải thực hiện đồng bộ tất cả các giải pháp trên. Tuy nhiên đây chỉ là những giải pháp chung nên mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào những biện pháp chung này đồng thời kết hợp với điều kiện và tình hình thực tế của mình để đề ra những biện pháp cụ thể, có tính khả thi để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.
Phần II
Thực trạng sử dụng vốn lưu động ở Công ty gốm xây dựng hữu hưng
I. Đặc điểm chung của Công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng Công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng, đóng trên địa bàn Hà Nội.
Trụ sở đặt tại : Đại Mỗ - Từ Liêm - Hà Nội
Tên giao dịch :Huu Hung CERAMIC COMPANY
Lĩnh vực kinh doanh : Sản xuất gạch ngói
Tổng số cán bộ công nhân viên : 706 người
Công ty được thành lập năm 1959. Thời kỳ này nền kinh tế nước ta là kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, quyền tự chủ của các doanh nghiệp rất bị hạn chế. Bởi vì toàn bộ việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp đều phải làm theo mệnh lệnh của Nhà nước và bị Nhà nước áp đặt. Dù muốn hay không doanh nghiệp cũng chỉ là người thi hành. Thời gian này do tổ chức quản lý chưa ổn định, máy móc thiết bị thiếu thốn, lạc hậu, dây chuyền công nghệ sản xuất là hệ máy sản xuất gạch Việt Nam, nung trong lò vòng. Sản lượng sản phẩm sản xuất ra thời kỳ này còn thấp (8-10 triệu viên/năm), chất lượng sản phẩm chưa cao, mẫu mã còn đơn điệu, chủng loại chưa phong phú.
Năm 1992, cùng với sự chuyển biến của cơ chế thị trường, Công ty đã mạnh dạn đầu tư chiều sâu, đổi mới dây chuyền công nghệ, thay thế máy sản xuất gạch cũ bằng máy sản xuất công nghệ mới của Italia và lò nung Tuynen với giá trị 12 tỷ VND. Nguồn vốn đầu tư là vốn vay ngân hàng và vốn tự có của Công ty. Đây là dây chuyền công nghệ sản xuất gạch tiên tiến nhất tại Việt Nam. Việc đầu tư mới đã tạo điều kiện đưa công suất nhà máy tăng lên 66 triệu viên năm 1998; 80 triệu viên năm 1999.
Từ 01/6/1998, Nhà máy gạch Hữu Hưng và phân xưởng Ngãi Cầu thuộc Công ty Gạch ốp lát Hà Nội sát nhập với Công ty Gốm xây dựng Từ liêm và được đổi tên thành Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng. Sau khi sát nhập tổng vốn kinh doanh của Công ty là 31 tỷ VNĐ.
Đến nay, qua 40 năm tồn tại và hoạt động, Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng đang trên đà phát triển mạnh. Chất lượng sản phẩm của Công ty ngày càng được nâng cao, chủng loại phong phú, đáp ứng được yêu cầu thị hiếu của khách hàng.
Để đánh giá khái quát tình hình phát triển của Công ty trong những năm gần đây, ta có thể xem xét một số chỉ tiêu sau:
Đơn vị: 1000đ
Năm
Chỉ tiêu
98
99
2000
99/98
(%)
00/99
(%)
1. Doanh thu thuần
15.687.712
19.141.451
24.030.632
122
125,5
2. Lợi nhuận sau thuế
128.630
169.133
228.903
131
135
3. Nộp ngân sách
949.729
961.288
983.814
101
102
4. Thu nhập CNV/tháng
690
730
810
105
110
Qua bảng trên ta thấy, hiện nay Công ty đang trên đà phát triển mạnh. Cụ thể doanh thu thuần hàng năm tăng trên 20% và lợi nhuận tăng trên 30%. Đây là mức tăng trưởng khá cao so với các đơn vị khác cùng ngành.
Đạt được kết quả trên là do Công ty đã biết kết hợp đồng bộ giữa đầu tư đổi mới máy móc thiết bị với việc đổi mới con người, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân và hiệu quả quản lý sản xuất kinh doanh.
2. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm
Hiện nay, dây chuyền sản xuất gạch của Công ty là dây chuyền công nghệ do Italia sản xuất. Đây là dây chuyền sản xuất gạch tiên tiến nhất tại Việt Nam. Với dây chuyền công nghệ này, mỗi ngày Công ty có thể sản xuất khoảng 230.000 viên gạch.
Italia là quốc gia nổi tiếng trên toàn thế giới về các sản phẩm gốm sứ cũng như công nghệ sản xuất sản phẩm này. Đặc điểm nổi bật về quy trình công nghễ gạch ngói là công nghệ sản xuất hàng loạt, tương đối khép kín, chu kỳ ngắn và xen kẽ.
Nhìn chung, quy trình sản xuất gạch của Công ty chia làm hai khâu: khâu chế biến tạo hình và khâu nung. Quy trình sản phẩm ở các khâu như sau:
- Khâu chế biến tạo hình: Đất mua về được xe đưa vào máy cấp liệu cùng với than đã được nghiền mịn. Hỗn hợp này lần lượt được xử lý qua các máy: Máy cán - Máy xúc - Máy nhào - Bàn cắt tự động, tạo thành gạch mộc và được đem ra phơi trong nhà kính hoặc phơi ra ngoài trời tuỳ theo tình hình thời thiết. Thời gian phơi trong mùa hè là 3 ngày, mua đông thường là 5-6 ngày. Gạch phơi khô theo đúng tiêu chuẩn quy định đạt độ ẩm từ 10-15%, rồi được xếp lên xe goòng để đưa vào công đoạn tiếp theo. Trong khâu này nếu có những viên gạch không đúng tiêu chuẩn sẽ bị loại ngay và được đưa trở lại bãi nguyên liệu ban đầu.
- Khâu nung: Gạch ngói sau khi đã phơi đạt độ ẩm và tiêu chuẩn quy định được đưa vào hầm sấy Tuynen rồi sau đó được đưa qua lò nung. Quá trình này được diễn ra liên tục. Cứ một xe thành phẩm đưa ra khỏi lò nung thì một xe gạch mộc khác lại được đưa vào hầm sấy Tuynen. Khi gạch chín ra lò được công nhân vận chuyển ra bãi thành phẩm, phân loại thành các thứ hạng phẩm cấp khác nhau, loại bỏ những viên không đạt tiêu chuẩn. Cuối cùng, thủ kho căn cứ vào kết quả kiểm nghiệm làm thủ tục nhập kho thành phẩm.
Có thể tóm tắt quy trình công nghệ sơ đồ sau:
Nước
Kho than
Nhà chứa đất
Cấp liệu thùng
Máy cán thô
Máy cán mịn
Bể ủ
Máy xúc nhiều gầu
Máy nhào 2 trục có lưới lọc
Máy nhào ép liên hợp
Bàn cắt
Phơi đảo bảo quản
Xếp goòng
Sấy nung
Dỡ goòng phân loại sản phẩm nhập kho
Nghiền
Cấp liệu thùng
Sơ đồ quy trình sản xuất gạch
3. Đặc điểm cơ cấu tổ chức quản lý ở Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng.
Tổng số công nhân viên hiện nay của Công ty là 706 người, trong đó số nhân viên quản lý là 50 người, chiếm tỷ lệ 7%. Như vậy bộ máy quản trị của Công ty tương đối gọn nhẹ. Cơ cấu tổ chức trong Công ty theo kiểu trực tuyến chức năng, nghĩa là các phòng ban tham mưu trực tiếp cho Giám đốc theo từng chức năng nhiệm vụ của mình và giúp Giám đốc đề ra các quyết định quản lý.
Ban Giám đốc hiện nay gồm 5 người, trong đó:
- Giám đốc Công ty là người quản lý điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đại diện Công ty ký kết các hợp đồng kinh tế. Giám đốc Công ty còn trực tiếp quản lý phòng Tài chính - Kế toán, phòng Kinh doanh, phòng Tổ chức - Hành chính. Giúp việc cho Giám đốc có 4 Phó Giám đốc:
+ Một Phó Giám đốc kỹ thuật, quản lý phòng kỹ thuật - KCS, tham mưu cho Giám đốc về kỹ thuật của công nghệ sản xuất đồng thời phụ trách phân xưởng Ngãi Cầu.
+ Hai Phó Giám đốc phụ trách hai Nhà máy Hữu Hưng và Nhà máyTừ Liêm về quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Một Phó Giám đốc phụ trách quản trị hành chính nhân sự cho toàn Công ty.
Các phòng ban chức năng có nhiệm vụ sau:
- Phòng tài chính kế toán: Có nhiệm vụ quản lý toàn bộ tài sản của Công ty, ghi chép phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, giúp Giám đốc nắm bắt được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phòng kỹthuật -KCS: Quản lý về vấn đề kỹ thuật trong Công ty, Xây dựng hệ thống định mức sản xuất, lập kế hoạch sửa chữa tài sản cố định.
- Phòng kinh doanh: Có nhiệm vụ mua nguyên vật liệu, nhiên liệu. Tìm kiếm thị trường, xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, thực hiện các hoạt động Marketing.
- Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ quản lý hồ sơ cán bộ công nhân viên, quản lý chế độ chính sách, định mức lao động, xây dựng đơn giá tiền lương. Ngoài ra còn có nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trong Công ty.
Sơ đồ bộ máy quản lý ở Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng
Giám đốc
PGĐ kỹ thuật
PGĐ sản xuất
PGĐ hành chính
Phòng Kỹ thuật
PX Ngãi Cầu
PX Hữu Hưng
PX Từ Liêm
Phòng tổ chức hành chính
Phòng Kinh doanh
Phòng Tài chính - Kế toán
4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán ở Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng
Mô hình tổ chức bộ máy kế toán ở Công ty là hình thức kế toán tập chung hay còn gọi là tổ chức kế toán một cấp. Mặc dù Công ty có 3 phân xưởng sản xuất trên 3 địa bàn khác nhau nhưng toàn bộ công việc kế toán đều được tập trung về phòng kế toán trung tâm dưới sự chỉ đạo chung của kế toán trưởng. Phòng kế toán trung tâm của Công ty phải thực hiện các công việc: Thu nhận chứng từ, ghi sổ, xử lý thông tin trên hệ thống báo cáo phân tích và tổng hợp.
Quan hệ giữa các loại lao động trong bộ máy kế toán ở Công ty là quan hệ trực tuyến, nghĩa là kế toán trưởng trực tiếp điều hành các nhân viên kế toán phân hành không thông qua khâu trung gian nhận lệnh. Dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng là các nhân viên kế toán phần hành phụ trách một mảng công việc kế toán và có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng. Các nhân viên thống kê phân xưởng có nhiệm vụ tập hợp các số liệu ban đầu, thống kê tính lương cho phân xưởng theo yêu cầu của kế toán trưởng, định kỳ gửi về phòng Kế toán.
Bộ máy kế toán Công ty có nhiệm vụ sau:
- Hướng dẫn, đôn đốc các bộ phận trong Công ty thu thập đầy đủ, kịp thời chính xác các chứng từ hạch toán ban đầu.
- Phản ánh ghi chép đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tài chính.
- Thực hiện việc lập các báo cáo kế toán định kỳ gửi lên Tổng Công ty và các cơ quan của Nhà nước (cục thuế, thống kê, ngân hàng, cục quản lý vốn và tài sản...).
- Xây dựng, giám sát việc thực hiện kế hoạch giá thành, giá bán.
- Tổ chức bảo quản, lưu trữ hồ sơ tài liệu kế toán theo đúng quy định.
Trên đây là nhiệm vụ chung của bộ máy kế toán. Tuy nhiên mỗi thành viên trong bộ máy kế toán lại đảm nhiệm một phần hành kế toán nhất định. Cụ thể như sau:
- Kế toán trưởng: Phụ trách chung phòng kế toán, chịu trách nhiệm hướng dẫn chỉ đạo, kiểm tra công việc của các kế toán viên trong phòng. Kế toán trưởng phụ trách kế toán tổng hợp. Hàng quý có nhiệm vụ lập các báo cáo tài chính gửi lên Tổng Công ty và các cơ quan chức năng của Nhà nước theo yêu cầu. Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc
-Kế toán tiền gửi ngân hàng, tài sản cố định: theo dõi tình hình tiền gửi, tiền vay, trả nợ ngân hàng. Mở sổ theo dõi tài sản cố định của toàn Công ty (tình hình tăng, giảm TSCĐ) , lập kế hoạch trích và phân bổ khấu hao cho các đối tượng sử dụng .
-Kế toán vật tư: Hạch toán chi tiết và tổng hợp tình hình nhập, xuất, tồn nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ và theo dõi thanh toán với người bán.
- Kế toán tiêu thụ và xác định kết quả kinh doanh. Hạch toán chi tiết thành phẩm nhập kho, tiêu thụ. Theo dõi tình hình công nợ của khách hàng.
- Kế toán thanh toán và giá thành: Là người theo dõi thanh toán tạm ứng các khoản phải thu, phải trả, tính giá thành sản phẩm.
- Thủ quỹ: Là người chuyên thu tiền, chi tiêu khi phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến tiền mặt. Thủ quỹ ghi sổ quỹ tiền mặt.
- Nhân viên thống kê phân xưởng: Có nhiệm vụ chấm công cho công nhân hàng ngày. Ngoài ra còn lập bảng nghiệm thu sản phẩm hàng ngày theo từng loại gạch từng thứ hạng phẩm cấp. Cuối tháng kiểm kê khối lượng sản phẩm dở dang dưới phân xưởng, tính lương cho công nhân trực tiếp sản xuất, tập hợp chi phí về nguyên liệu, nhiên liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng trong tháng.
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty
Kế toán trưởng
Thủ quỹ
Kế toán
TGNH & TSCĐ
Kế toán
Vật tư & TT với NB
Kế toán
TT & Giá thành
Kế toán
TT & TT với NM
Nhân viên thống kê PX Từ Liêm, Ngãi Cầu, Hững Hưng
Báo sổ
Ghi chú:
Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ cung cấp số liệu
Hiện nay, hình thức sổ kế toán đang áp dụng tại Công ty là hình thức sổ nhật ký chung. Việc áp dụng hình thức kế toán này tạo nhiều thuận lợi cho Công ty khi ứng dụng máy tính trong xử lý thông tin kế toán trên sổ, làm giảm khối lượng công việc cho các nhân viên kế toán.
Theo hình thức này, hệ thống sổ kế toán ở Công ty gồm các loại sau: Sổ nhật ký chung, Sổ cái TK, các sổ chi tiết, các bảng kê, bảng phân bổ.
Quy trình hạch toán kế toán trên hệ thống sổ kế toán tại Công ty như sau:
Chứng từ gốc
Sổ nhật ký chung
Sổ (thẻ) chi tiết đối tượng
Sổ Cái
Bảng tổng hợp chi tiết TK
Bảng cân đối TK
Báo cáo kế toán
(5)
(1)
(1)
(2)
(3)
(4)
(2)
(1) Ghi thường xuyên trong kỳ
(2), (4), (5) Ghi ngày cuối kỳ
(3) Đối chiếu số liệu cuối kỳ
Ghi chú:
II. Tình hình sử dụng vốn lưu động ở Công ty Gốm xây dựng Hữu Hưng
1. Phân tích khái quát về cơ cấu nguồn vốn và tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty
1.1. Phân tích khái quát về cơ cấu nguồn vốn
Mục đích của ciệc phân tích này là nhằm xem xét nguồn vốn đã hình thành nên tài sản của Công ty lấy từ đâu ? Kết cấu như thế nào? Đồng thời qua đó đánh giá mức độ độc lập về tài chính của Công ty.
Bảng 2: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn
Đơn vị: 1000 đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
A. Nợ phải trả
20.140.495
61,4
17.703.327
58,7
-2.437.168
-12,1
I. Nợ ngắn hạn
10.950.325
33,4
14.141.309
46,9
3.190.984
+29,1
II. Nợ dài hạn
9.190.170
28
3.562.018
11,8
-5.628.152
-61,2
III.Nợ khác
-
-
-
-
-
-
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
12.682.510
38,6
12.447.431
41,3
-235.079
-1,8
I. Nguồn vốn quỹ
12.682.510
38,6
12.447431
41,3
-235.079
-1,8
II. Nguồn kinh phí
-
-
-
-
-
-
Tổng nguồn vốn
32.823.005
100
30.150.58
100
-2.672.247
-8,1
Bảng trên cho thấy: Quy mô nguồn vốn của Công ty có xu hướng giảm nhẹ. Năm 2000 so với năm 1999 giảm 2.672.247 ngàn đồng, tỷ lệ giảm 8,1%. Nguồn vốn giảm là do trong năm 2000, Công ty đã không đầu tư gì thêm vào TSCĐ. Điều này sẽ gây ra những khó khăn cho Công ty trong việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Đi sâu phân tích, ta thấy trong cơ cấu Nợ phải trả thì Nợ ngắn hạn chiếm tỉ trọng lớn hơn nhiều so với nợ dài hạn, đặc biệt Nợ ngắn hạn năm 2000 tăng 29,1% trong khi Nợ dài hạn lại giảm 61,2%. Trong cơ cấu nguồn vốn của Công ty thì Nợ phải trả vẫn chiếm tỉ trọng lớn so với nguồn vốn chủ sở hữu. Cụ thể tỉ suất tự tài trợ của Công ty 2 năm qua như sau:
Công thức:
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ suất tài trợ =
Tổng nguồn vốn
Năm 1999:
12.682.510
Tỷ suất tài trợ = x 100 = 38,6%
32.823.005
Năm 2000:
12.447.431
Tỷ suất tài trợ = x 100 = 41,3%
30.150.758
Như vậy, tỉ suất tự tài trợ của Công ty năm 2000 đã cao hơn so với năm 1999 nhưng chủ yếu là do quy mô nguồn vốn của Công ty giảm 8,1%. Còn trên thực tế, nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty năm 2000 so với năm 1999 vẫn giảm 1,8%.
Tóm lại, ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty chiếm tỷ trọng nhỏ, Công ty chưa chú trọng bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu. Điều này chứng tỏ mức độ lập về tài chính của Công ty chưa cao, nó sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến khả năng tự chủ trong sản xuất kinh doanh của Công ty.
1.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty
Như chúng ta đã biết, để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có tài sản gồm TSLĐ và TSCĐ. Để hình thành 2 loại tài sản này phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành TSCĐ, phần dư của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư để hình thành TSLĐ. Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với TSCĐ hoặc giữa TSLĐ với nguồn vốn ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên.
Công thức
VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ
hoặc VLĐ thường xuyên = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn (Nợ ngắn hạn)
Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, chỉ tiêu này cho biết hai điều cốt yếu:
Một là: Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không?
Hai là: TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không?
Ngoài khái niệm vốn lưu động thường xuyên ở trên, để nghiên cứu tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh người ta còn dùng chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên để phân tích.
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (TSLĐ không phải là tiền).
Công thức:
Nhu cầu VLĐ thường xuyên = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết : Nợ ngắn hạn đă đủ tài trợ cho hàng tồn kho và các khoản phải thu hay chưa?
Với các công thức trên ta tính được VLĐ thường xuyên và nhu cầu VLĐ thường xuyên ở Công ty Gốm Xây dựng Hữu Hưng như sau:
- Về vốn lưu động thường xuyên: Ta tính được VLĐ thường xuyên ở Công ty trong 3 năm qua ở bảng sau:
Đơn vị: 1000đ
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
1. Vốn chủ sở hữu
12.575.888
12.682.510
12.447.431
2. Nợ dài hạn
8.820.370
9.190.170
3.562.018
3.Tài sản cố định
25.172.736
22.175.060
18.954.331
VLĐ thường xuyên: (1)+(2)-(3)
-3.776.478
-302.380
-2.944.890
Bảng trên cho thấy, cả 3 năm qua, VLĐ thường xuyên của Công ty đều âm. Nghĩa là:
Nguồn vốn dài hạn (Nợ Dài hạn+Vốn chủ sở hữu) < TSCĐ
Hay TSLĐ < Nguồn vốn ngắn hạn (Nợ ngắn hạn)
Điều đó chứng tỏ hai điều sau:
Một là: Nguồn vốn dài hạn của Công ty không đủ đầu tư cho TSLĐ. Công ty phải đầu tư vào TSCĐ một phần vốn ngắn hạn.
Hai là: TSLĐ của Công ty không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn.
- Về nhu cầu VLĐ thường xuyên
Đơn vị: 1000đ
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
1. Các khoản phải thu
5.100.914
3.377.896
1.843.743
2. Hàng tồn kho
3.068.364
3.696.963
6.345.324
3. Nợ ngắn hạn
14.267.522
10.950.326
14.141.309
Nhu cầu VLĐ thường xuyên:1)+(2)-(3)
-6.098.244
-3.875.467
-5.952.242
Việc tính toán trên cho biết, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 3 năm qua của Công ty đều nhỏ hơn 0. Tức là: Nợ ngắn hạn > tồn kho và các khoản phải thu. Chứng tỏ Nợ ngắn hạn mà Công ty đã huy động từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp.
Tóm lại, qua việc phân tích trên ta thấy tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty còn chưa tốt, cơ cấu nợ phải trả còn bất hợp lý. Công ty đang xảy ra tình trạng nguồn vốn ngắn hạn thì thừa, nợ ngắn hạn quá lớn trong khi nguồn vốn dài hạn lại thiếu, nợ dài hạn chiếm tỉ trọng nhỏ. Vì vậy Công ty cần đưa ra các giải pháp để điều chỉnh lại cơ cấu nợ phải trả cũng như cơ cấu nguồn tài trợ để làm lành mạnh hoá tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong Công ty.
2. Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động ở Công ty
2.1. Phân tích khái quát về kết cấu vốn lưu động
Kết cấu vốn lưu động của Công ty ở các thời điểm khác nhau là không giống nhau. Do vậy mục đích của việc phân tích này là thông qua sự biến động đó để đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động trong Công ty. Đồng thời thông qua việc so sánh tỉ trọng của các khoản mục tài sản lưu động trong tổng số tài sản lưu động để thấy được đâu là nhân tố có ảnh hưởng trọng yếu đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Bảng 3: Bảng cơ cấu vốn lưu động
Đơn vị: 1000 đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
I. Vốn bằng tiền
529.194
5
584.820
5,2
55.626
+1,0
II. Các khoản ĐT TCNH
-
-
-
-
-
-
III.Các khoản phải thu
3.377.896
31,7
1.843.744
16,5
-1.534.152
-45,4
IV. Hàng tồn kho
3.696.963
34,7
6.345.323
56,7
2.648.360
+71,6
V. TSLĐ khác
3.043.892
28,6
2.422.532
21,6
-621.360
-20,4
Tổng số
10.647.945
100
11.196.419
100
+584.474
+4,9
Bảng phân tích trên cho biết:
Quy mô vốn lưu động năm 2000 so với năm 1999 tăng 584.474 ngàn đồng, tỉ lệ tăng 4,9%. Cụ thể sự biến động của từng khoản mục như sau:
- Vốn bằng tiền của Công ty tương đối ổn định, chiếm 5% tổng số vốn lưu động. Vốn bằng tiền chiếm tỉ lệ nhỏ, như vậy sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến khả năng thanh toán nhanh của Công ty.
- Công ty không có các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn.
- Các khoản phải thu năm 1999 chiếm 31,7% tổng số vốn lưu động, sang năm 2000 giảm xuống chỉ còn chiếm 16,5% tổng số vốn lưu động. Lượng giảm là 1.534.152 ngàn đồng, tỉ lệ giảm 45,4%.
- Hàng tồn kho năm 99 chiếm tỉ trọng 34,7% tổng số vốn lưu động, năm 2000 tăng lên chiếm tới 56,7% tổng số vốn lưu động. Lượng tăng là 2.648.360 ngàn đồng, tỉ lệ tăng 71,6%.
- Tài sản lưu động khác năm 1999 chiếm tỉ trọng 28,6% tổng số vốn lưu động, năm 2000 giảm xuống chỉ còn chiếm 21,6%. Lượng giảm là 621.360 ngàn đồng, tỉ lệ giảm 20,4%.
Như vậy ta thấy 2 khoản mục chiếm tỉ trọng cao và có biến động lớn là các khoản phải thu và hàng tồn kho. Do đó, trọng tâm trong công tác quản lý, sử dụng vốn lưu động là hai khoản mục này.
Trên đây ta đã xem xét khái quát về kết cấu và sự biến động của vốn lưu động ở Công ty. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn thực trạng tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty ta phải đi sâu phân tích chi tiết sự biến động của từng tài khoản trong các khoản mục trên.
2.2. Phân tích tình hình quản trị hàng tồn kho.
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ là bước đệm cần thiết cho quá trình sản xuất liên tục của Công ty. Trong nền kinh tế thị trường thì Công ty không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua nguyên vật liệu đến đó mà luôn phải có nguyên vật liệu dự trữ.
Trong năm 2000, hàng tồn kho của Công ty chiếm tới 56,7% tổng số vốn lưu động hay nói một cách khác: hơn một nửa số vốn lưu động của Công ty nằm trong hàng tồn kho. Do vậy, công tác quản trị hàng tồn kho phải được đặt lên hàng đầu.
Ta hãy xem xét tình hình tăng giảm hàng tồn kho của Công ty 2 năm qua thông qua sự biến động của các tài khoản ở bảng sau.
Bảng 4: Sự biến động hàng tồn kho
Đơn vị: 1000 đồng
Hàng tồn kho
1999
2000
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Hàng mua đang đi đường
-
-
-
-
-
-
2. NL, VL tồn kho
2.137.812
58
3.748.919
59
+1.611.107
75,3
3. CC DC tồn kho
163.329
4
593.327
9
+429.998
263,2
4. Thành phẩm
500.702
14
387.151
6
-113.551
-22,7
5. Chi phí SXKD DD
895.120
24
1.615.926
26
+720.806
80,6
6. Hàng hoá tồn kho
-
-
-
-
-
-
7. Hàng gửi bán
-
-
-
-
-
-
8. Dự phòng giảm giá HTK
-
-
-
-
-
-
Tổng số
3.696.963
100
6.345.323
100
+2.648.360
+71,6
Bảng trên cho thấy:
Hàng tồn kho của Công ty tại thời điểm 31/12/2000 là 6.345.323 ngàn đồng. So với năm 1999 tăng về số tuyệt đối là 2.648.360 ngàn đồng, tỉ lệ tăng 71,6%.
Cụ thể hàng tồn kho tăng do:
- Nguyên vật liệu tồn kho tăng 1.611.107 ngàn đồng, tỉ lệ tăng 75,5%. Đây là nguyên nhân chính làm cho hàng tồn kho tăng vì nguyên vật liệu tồn kho chiếm tỉ trọng lớn nhất (59%) trong tổng số hàng tồn kho của Công ty.
- Công cụ dụng cụ tồn kho tăng 429.998 ngàn đồng, tỉ lệ tăng 263,2%.
- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng 720.860 ngàn đồng, tỉ lệ tăng 80,6%.
Như vậy, hàng tồn kho tăng chủ yếu là do nguyên vật liệu tồn kho và chi phí sản xuất kinh doanh dở dang tăng. Việc để hàng tồn kho tăng đột biến và chiếm tỉ trọng quá lớn trong cơ cấu vốn lưu động phần nào phản ánh công tác dự trữ nguyên vật liệu chưa tốt, sự phối hợp giữa các khâu trong quá trình sản xuất không được nhịp nhàng. Hơn nữa, nguyên vật liệu của Công ty chỉ bao gồm đất sét và than. Giá cả của hai mặt hàng này thường không có biến động lớn. Khả năng cung ứng của thị trường cũng tương đối dồi dào và ổn định. Do vậy Công ty cần xem xét lại xem có cần thiết phải đầu tư quá lớn như vậy vào nguyên vật liệu dự trữ không.
Trong năm 2000, thành phẩm tồn kho giảm được 113.551 ngàn đồng, tỉ lệ giảm 22,7%. Điều này chứng tỏ Công ty đã làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm.
Hiệu quả công tác quàn trị hàng tồn kho còn được biểu hiện qua chỉ tiêu số vòng quay hàng tồn kho và số ngày một vòng quay hàng tồn kho.
Công thức:
Giá vốn hàng bán
Số vòng quay =
hàng tồn kho Hàng tồn kho bình quân
* Năm 1999:
15.369.100
- Số vòng quay = = 4,5 vòng
hàng tồn kho (3.068.365 + 3.696.963)/2
360 ngày 360
- Số ngày một vòng = = = 80 ngày
quay hàng tồn kho Số vòng quay HTK 4,5
* Năm 2000
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28431.doc