Lời nói đầu
Từ sau đại hội Đảng VI (1986) nước ta chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế mới đã đem lại những kết quả nhất định. Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển đổi rõ rệt, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và dần dần phát triển đều đặn vững chắc.
Trong quá trình phát triển và thành công đó, có sự đóng góp đáng kể và quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt là khi xuất
37 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh Xuất nhập khẩu ở Công ty Thực phẩm miền Bắc - Finoxim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập khẩu được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế đối nội cũng như đối ngoại, tạo nền tảng cho sự phát triển và thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với nền kinh tế thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng được chú trọng.
Với sự quan tâm khuyến khích và đầu tư thích đáng của Nhà nước, hàng loạt các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ra đời và phát triển nhưng có không ít những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị phá sản. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì phải kinh doanh có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư máy móc thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên... Chính vì vậy, hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Tuy nhiên làm thế nào để kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả-đó là câu hỏi được đặt ra với các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay. Để trả lời tốt câu hỏi này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả một cách khoa học khách quan. Từ đó giúp cho họ có các giải pháp hữu hiệu trong hoạt động kinh doanh của mình.
Qua thời gian thực tập tại công ty thực phẩm miền Bắc (203 Minh Khai-Hà Nội), được sự giúp đỡ của các cán bộ phòng kế hoạch và thị trường và một số phòng ban khác, đặc biệt là sự hướng dẫn của cô giáo Phạm Thị Lụa em chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc-FONEXIM”.
Nội dung báo cáo quản lý gồm:
Chương I.Những vấn đề chung.
Chương II: Thực trạng về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở công ty thực phẩm miền Bắc.
CHƯƠNG I: NHữNG VấN Đề CHUNG
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty thực phẩm miền Bắc, có tên giao dịch quốc tế The Northern Foodstuff Company-FONEXIM, là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh trên cả ba lĩnh vực: sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, du lịch khách sạn. công ty có hệ thống hạch toán độc lập, hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước Việt Nam và sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước.
Năm 1981 thành lập công ty rau quả trực thuộc Bộ Ngoại thương (nay là Bộ thương mại).
Năm 1991, công ty thực phẩm công nghệ miền Bắc sát nhập với công ty Rau Quả thành công ty thực phẩm miền Bắc trực thuộc Tổng công ty thực phẩm Bộ Thương mại.
Đến tháng 8/1999, Bộ Thương mại đã quyết định sát nhập các đơn vị phía Bắc vào Công ty thực phẩm miền Bắc.
Công ty thực phẩm miền Bắc
Bộ thương mại
Công ty thực phẩm XK Nam Hà
Xí nghiệp thực phẩm Thăng long
Công ty bánh kẹo Hữu Nghị
Trại chăn nuôi Thái Bình
Chi nhánh thực phẩm Tại Hà Nội
Trong cơ chế cũ, tuy là một đơn vị kinh doanh nhưng công ty bị hạn chế bởi chính sách quản lý chung của Nhà nước theo kiểu kế hoạch hoá tập trung, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà nước sắp đặt trước bằng các kế hoạch, từ xuất nhập khẩu mặt hàng gì? ở đâu? bán cho ai? Cho đến giá bao nhiêu? đều được quy định trước. Do đó, công ty không thể chủ động phát huy khả năng và nguồn lực của mình.
Đại hội Đảng VI với chủ trương chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong đó có công ty thực phẩm miền Bắc. Với việc giao quyền chủ động cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đã tạo điều kiện cho công ty thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Tuy nhiên đó cũng là một thách thức lớn đối với công ty. Để tồn tại và phát triển hoà nhập với xu thế mới của đất nước và thế giới, công ty đã từng bước bố trí, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức kinh doanh phù hợp với quy mô và khả năng sản xuất kinh doanh, không ngừng nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo, bồi dưỡng, tăng cường kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong công ty, nhanh chóng đổi mới phương thức kinh doanh, mở rộng mặt hàng xuất nhập khẩu, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh.
Trong quá trình hoạt động của mình, công ty đã trải qua nhiều khó khăn do tình hình kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến phức tạp nhưng công ty vẫn đứng vững và phát triển, ngày càng mở rộng thị trường trong và ngoài nước, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, mở rộng các quan hệ kinh tế với các bạn hàng nước ngoài như Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Ba Lan... ở trong nước, công ty có quan hệ với nhiều doanh nghiệp như công ty bánh kẹo Trường An, Hải Châu, Hải Hà, các cơ sở ở các tỉnh phía Bắc, các tư nhân ở các chợ lớn như Đồng Xuân, Hàng Da, các siêu thị lớn trong thành phố Hà Nội... Ngoài ra, công ty còn tiến hành tổ chức sản xuất và kinh doanh dịch vụ, khách sạn-du lịch. Công ty đầu tư, mở rộng, nâng cấp mạng lưới bán lẻ, tiến hành xuất nhập khẩu tại chỗ thu ngoại tệ, áp dụng biện pháp hữu hiệu để tổ chức nguồn hàng xuất nhập khẩu, định giá mua bán trên cơ sở căn cứ vào thị trường, thu thập thông tin, mở hội nghị khách hàng, rút kinh nghiệm... Qua đó, công ty thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, hướng nhập khẩu vào những mặt hàng chủ yếu phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đem lại hiệu quả kinh doanh cao đúng với chức năng ngành hàng, đúng hướng kinh doanh.
Hiện nay, công ty có 28 đơn vị trực thuộc ở các tỉnh trong cả nước:
1. Xí nghiệp chế biến, thực phẩm Tông Đản- Hà Nội.
2. Chi nhánh Lào Cai
3. Xí nghiệp thực phẩm Thái Bình.
4. Chi nhánh Hải Phòng.
5. Chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh.
6. Chi nhánh Việt Trì
7. Nhà máy bánh kẹo cao cấp Hữu Nghị.
8. Chi nhánhThanh Hoá.
9. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 1.
10. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 2.
11. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp 203 Minh Khai.
12. Cửa hàng thực phẩm tổng hợp số 3.
13. Khách sạn Nam Phương.
14. Trung tâm thuốc lá.
15. Trung tâm Rượu bia.
16. Trạm kinh doanh thực phẩm Nam Định
17. Trạm kinh doanh thực phẩm Ninh Bình.
18. Trạm kinh doanh thực phẩm Quảng Ninh.
19. Trạm kinh doanh thực Bắc Giang.
20. Khách sạn Hà Nội
21.Cửa hàng thực phẩm Hòn Gai.
22.Trung tâm thực phẩm Tây Nam Bộ.
23.Trung tâm thương mại thực phẩm.
24.Trung tâm nông sản thực phẩm
25.Trung tâm KCS.
26.Chi nhánh Quy Nhơn.
27. Chi nhánh Nghệ An.
28. Văn phòng công ty.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty
Để thực hiện tốt mục tiêu, chiến lược kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài thì tổ chức bộ máy quyết định sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ khuyến khích người lao động trong công ty làm việc có chất lượng và năng suất cao. Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty bao gồm:
Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty thực phẩm miền Bắc
Giám đốc
Các XN sản xuất
Các cửa hàng
XN bánh quy
Các chi nhánh
Các khách sạn
Phòng kỹ thuật
Phòng kinh doanh
Phòng kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế hoạch
PGĐ XNK
PGĐ Kinh doanh
PGĐ sản xuất
Đứng đầu công ty là Giám đốc do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm. Giám đốc điều hành công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của công ty trước pháp luật, trước Bộ Thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên chức của công ty về việc tồn tại và phát triển của công ty cũng như các hoạt động: Ký kết hoạt động, thế chấp vay vốn, tuyển dụng nhan viên, bố trí sắp xếp lao động... Giám đốc có trách nhiệm tổ chức bộ máy quản lý, mạng lưới kinh doanh cho phù hợp với nhiệm vụ của công ty và phân cấp quản lý của Bộ.
Dưới Giám đốc còn có 3 Phó Giám đốc phụ trách 3 mảng hoạt động của công ty:
- Phó Giám đốc phụ trách xuất nhập khẩu.
- Phó Giám đốc phụ trách hoạt động kinh doanh nội địa.
- Phó Giám đốc phụ trách sản xuất.
Các phòng ban cùng với Ban Giám đốc điều hành toàn bộ công việc của công ty từ việc tổ chức lao động đến việc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Phòng kinh doanh: Là phòng chịu trách nhiệm hoạt động sản xuất kinh doanh ở thị trường trong và ngoài nước. Phòng kinh doanh tham mưu cho Giám đốc về:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty dựa trên thông tin ở phòng kế hoạch.
- Tham mưu cho Giám đốc về các hợp đồng xuất nhập khẩu, thực hiện kế hoạch do công ty giao cho, tham gia các hoạt động phối hợp chung của công ty.
- Mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
- Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu và lập phương án xuất nhập khẩu.
- Tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng hoá của công ty trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc.
- Nghiên cứu, tìm kiếm biện pháp thúc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá của công ty.
- Tổ chức các nguồn hàng nội địa, quan hệ chặt chẽ với các nhà sản xuất ngành hàng thực phẩm.
Phòng kế hoạch và thị trường: Tham mưu cho Giám đốc về:
- Xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm từ các số liệu báo cáo định kỳ của các bộ phận khác trong công ty, từ tình hình thực tế của thị trường, xây dựng phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh và kế hoạch dài hạn.
- Điều tiết kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng quý, hàng năm theo nhu cầu sản phẩm trên thị trường, điều tiết kế hoạch vận chuyển hợp lý.
- Có kế hoạch cung ứng vật tư cho các đơn vị theo kế hoạch.
- Có trách nhiệm về chất lượng và bảo quản vật tư trong kho, quản lý tốt các kho của công ty.
- Nghiên cứu và tìm các biện pháp mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của công ty.
Phòng tài chính kế toán: Tham mưu cho Giám đốc về:
- Quản lý toàn bộ nguồn vốn, các tài liệu, số liệu về kế toán tài chính, quyêt toán, tổng kiểm kê tài sản hàng năm theo định kỳ của Nhà nước.
- Báo cáo về tài chính lên cơ quan cấp trên và nộp các khoản ngân sách cho Nhà nước theo quy định.
- Tính toán các thương vụ kinh doanh của các đơn vị, cơ sở trực thuộc đưa ra các phương án khả thi để bảo lãnh vay ngân hàng trong hoạt động sản xuất thuận lợi. Quản lý chi phí hợp lý và có hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ với phương châm tổng thu phải lớn hơn tổng chi.
- Kiểm tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong công ty qua hoạt động tài chính.
- Hàng quý hoặc hàng tháng tổ chức quyết toán, khi cần thiết thì tiến hành thanh tra tài chính đối với các thành viên trong công ty.
- Làm thủ tục thanh lý và quản lý tốt tiền mặt, điều phối vốn trong công ty
- Bảo toàn và phát triển vốn tăng nhanh vòng quay của vốn.
Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho Giám đốc về:
-Tổ chức nhân sự, tổ chức bộ máy quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác quản lý hồ sơ của cán bộ công nhân viên trong công ty.
- Cân đối tiền lương, tuyển lao động ngắn hạn và dài hạn, điều chỉnh lao động giữa các đơn vị, giải quyết, quyết định cho cán bộ công nhân viên thôi việc về hưu, mất sức, kỷ luật...
- Căn cứ vào chế độ chính sách của Nhà nước để giải quyết các vấn đề cụ thể và chế độ bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bồi dưỡng...
- Xây dựng kế hoạch lao động, quỹ tiền lương hàng năm, quy chế hoá các nguyên tắc trả lương, tiền thưởng, xác định đơn giá tiền lương, các định mức lao động.
- Công tác đào tạo mới, thi nâng bậc công nhân, bồi dưỡng cán bộ quản lý tổ chức hướng dẫn các đoàn tham gia, thực tập.
Phòng kỹ thuật: Tham mưu cho Giám đốc về máy móc kỹ thuật trong các dây chuyền, bộ phận sản xuất của công ty, xác định việc sửa chữa khôi phục mới máy móc thiết bị, nghiên cứu hình thức mẫu mã, bao bì của sản phẩm.
Với cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý như hiện nay của công ty là tương đối hợp lý. Một mặt giữ nguyên chế độ một thủ trưởng, chỉ có giám đốc là người có quyền ra quyết định đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mặt khác phát huy được sự giúp đỡ của các phòng ban trong việc chuẩn bị các quyết định, đồng thời hướng dẫn, tư vấn, kiểm tra đối với các đơn vị thực hiện quyết định như các xí nghiệp sản xuất, các chi nhánh, các trạm kinh doanh thực phẩm.
3.Nhiệm vụ của công ty
- Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, dịch vụ du lịch khách sạn, liên doanh liên kết đầu tư trong và ngoài nước... theo đúng luật pháp hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Thương mại.
- Tổ chức sản xuất nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với thị hiếu của khách hàng.
- Chấp hành luật pháp của Nhà nước, thực hiện các chế độ, chính sách về quản lý và sử dụng vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
- Thực hiện đầy đủ cam kết trong hợp đồng kinh tế đã ký kết với các đơn vị trong và ngoài nước.
- Quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ công nhân viên theo phân cấp quản lý của Bộ Thương mại. Thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách của Nhà nước đối với cán bộ công nhân viên, phát huy quyền làm chủ tập thể, khả năng sáng tạo trong kinh doanh, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật cho người lao động, phân phối lợi nhuận theo kết quả lao động một cách công bằng hợp lý.
4. Cơ cấu sản xuất của công ty
-Công nghệ sản xuất sản phẩm là một trong những căn cứ quan trọng để chất lượng sản phẩm cạnh tranh với các đối thủ kinh doanh chiếm được cảm tình của khách hàng nâng cao uy tín thương hiệu của sản phẩm đẻ thực hiện tốt công tác tổ chức lao động cần thiết phải lắm và hiểu kỹ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm .
Trong lĩnh vực sản xuất: bánh ,kẹo ,rượu bia,thực phẩm nguội... mỗi sản phẩm tương ứng với một quy trình công nghệ khác nhau . Trong đó quy trình sản xuất rượu vang của công ty là tiêu biểu nhất với sản phẩm rượu vang mang thương hiệu Hữu Nghị đã có uy tín trong và ngoài nước , được người tiêu dùng tin dùng.
-Sau đây là quy trình công nghệ sản xuất rượu vang của công ty.
các nguyên vật liệu để sản xuất rượu vang.
+Qủa mơ tươi +Cồn tinh chế
+Cồn , dich quả +Nước mềm axit Ciric
+Đường kính trắng +Màù thực phẩm
-Quy trình sản xuất rượu vang
Qủa mơ tươi
Ngâm cồn
Dịch quả
Rửa sạch
Nước mềm axt cirics
Pha chế Rượu
Đường kính trắng cồn tinh chế
Tàng trữ
Lọc trong
Đóng chai
KCS
Nhập kho thành phẩm
5. kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua
Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
(giai đoạn1999-2001)
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
1999
2000
2001
Tốc độ tăng (lần)
2000/1999
2001/2000
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)=(5)/(4)
(8)=(6)/(5)
1
2
3
4
5
Tổng doanh thu
Các khoản nộp NSNN
Tổng kim ngạch XNK
Lợi nhuận
Hệ số hiệu quả =DT/CP
Tỷ đồng
Tỷ đồng
Tr. USD
Tr. đồng
340
16,146
11,1
290
1,0008
536
27,420
7,03
603
1,0011
653
32,27
6,4
900
1,0013
1,576
1,698
0,736
2,079
1,218
1,177
0,783
1,493
Nhìn vào bảng 1 ta thấy: Nhìn chung tình hình sản xuất kinh doanh trong giai đoạn 1999-2001 đạt kết quả khá, điều này thể hiện ở một số mặt chủ yếu sau:
- Tổng doanh thu của công ty năm 1999 đạt 340 tỷ đồng, năm 2000 đạt 536 tỷ đồng tăng 1,576 lần so với năm 1999 với mức tăng tuyệt đối là 196 tỷ đồng. Năm 2001 tổng doanh thu tăng 1,218 lần so với năm 2000 với mức tăng tuyệt đối là 117 tỷ đồng.
- Do hoạt động kinh doanh của công ty trong giai đoạn này đạt hiệu quả cao nên không chỉ giúp công ty mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước thông qua các khoản nộp ngân sách Nhà nước của công ty. Năm 1999 công ty đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước 16,15 tỷ đồng, năm 2000 đã tăng lên 27,42 tỷ đồng tăng 1,698 lần so với năm 1999 với mức tăng tuyệt đối là 11,27 tỷ đồng, điều này là do doanh thu của công ty năm 2000 đã tăng 1,576 lần so với năm 1999 nên các khoản nộp ngân sách Nhà nước tăng lên. Năm 2001 các khoản nộp ngân sách Nhà nước là 32,27 tỷ đồng tăng 1,117 lần so với năm 2000 với mức tăng tuyệt đối là 4,85 tỷ đồng.
- Tổng kim ngạch XNK của công ty năm 1999 đạt 11,13 triệu USĐ đã giảm xuống chỉ còn 8,19 triệu USD năm 2000 đạt 73,6% so với năm 1999 với mức giảm tuyệt đối là 2,94 triệu USD. Năm 2001 các khoản nộp ngân sách Nhà nước giảm xuống chỉ còn 6,41 triệu USD đạt 78,3% so với năm 2000 với mức giảm tuyệt đối là 1,78 triệu USD. Tổng kim ngạch XNK của công ty đạt kết quả như vậy là do cuộc khủng hoảng của các nước trong khu vực đã làm ảnh hưởng đến hoạt động XNK của các nước, trong khi bạn hàng XNk chủ yếu của công ty là những nước của khu vực Châu á.
- Mặc dù tổng kim ngạch XNK trong giai đoạn này có giảm, tuy nhiên do hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa của công ty có hiệu quả nên tổng doanh thu vẫn tăng qua các năm cả về tuyệt đối lẫn tương đối . Vì vậy lợi nhuận của công ty đạt được khá cao, năm 1999 đạt 290 triệu đồng, năm 2000 tăng lên 603 triệu đồng tăng hơn 2 lần so với năm 1999 và đến năm 2001 đạt 900 triệu đồng tăng gấp 1,493 lần so với năm 2000. Tuy tốc độ tăng lợi nhuận có giảm song về mặt tuyệt đối vẫn tăng qua các năm.
- Qua chỉ tiêu hệ số hiệu quả ở bảng trên cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, song hệ số này còn thấp vì vậy công ty cần tìm cách nâng cao hệ số này . Năm 1999 hệ số hiệu quả là 1,0008 có nghĩa là 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ đem lại 1,0008 đồng doanh thu, mức doanh thu do 1 đồng chi phí bỏ ra là quá nhỏ. Tuy nhiên hệ số này tăng lên qua năm 2000 và 2001.
chương ii :
Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty
1. Đặc điểm của công tác xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu
Công tác xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty có những nét đặc thù riêng biệt, xuất phát từ chính đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty, từ phương hướng, đường lối phát triển thương mại quốc tế của đất nước được Bộ Thương mại cụ thể hoá cho từng đơn vị và trực tiếp quản lý. Từ đó phòng kế hoạch và thị trường đưa ra kế hoạch xuất nhập khẩu của từng năm cho từng mặt hàng của công ty.
Kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty được xây dựng dựa vào:
- Nhu cầu sản xuất của các đơn vị cơ sở trực thuộc đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất như bột mỳ, đường, sữa... Các đơn vị sản xuất như xí nghiệp bánh kẹo Hữu Nghị, xí nghiệp bánh quy cao cấp, xí nghiệp chế biến thực phẩm trình kế hoạch về kế hoạch mua sắm nguyên vật liệu cho sản xuất nên công ty. Từ đó công ty sẽ tập hợp các nhu cầu lại và đưa ra kế hoạch nhập khẩu cho các mặt hàng này.
- Mặt hàng kinh doanh truyền thống của công ty: Đường, sữa, dầu ăn... là những mặt hàng truyền thống đã có bạn hàng trong nước và quốc tế đáng tin cậy, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu. Mặt hàng cao su là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu.
- Dựa vào đường lối phát triển thương mại quốc tế của đất nước, căn cứ vào các điều luật về các mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, biểu thuế quan và hạn ngạch xuất nhập khẩu mà Bộ Thương mại cấp cho công ty hàng năm. Cụ thể như hạn ngạch nhập khẩu đường của công ty năm 2001 là 7000 tấn. Còn một số mặt hàng thì công ty được Bộ Thương mại cấp giấy phép cho là đầu mối xuất nhập khẩu như rượu, cao su... thì công ty được quyền chủ động kinh doanh.
- Dựa vào chiến lược phát triển của công ty trong những năm tới.
Việc xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu:
+ Đường: Dựa vào nhu cầu cho sản xuất của các đơn vị cơ sở để quy định lượng nhập khẩu cung cấp cho cơ sở.
Dựa vào hạn ngạch nhập khẩu của các đơn vị để quy định lượng nhập khẩu trực tiếp tối đa mà doanh nghiệp thực hiện.
Dựa vào hiệu quả kinh doanh đem lại quy định kế hoạch nhập khẩu trực tiếp hay nhập khẩu uỷ thác ở các đơn vị bạn.
+ Cao su: Dựa vào hạn ngạch xuất khẩu quy định kế hoạch xuất khẩu lượng hàng.
Dựa vào hiệu quả kinh doanh dự tính đem lại quyết định kế hoạch lựa chọn phương thức xuất khẩu.
+ Các mặt hàng bột, mỳ, sữa... chủ yếu dựa vào nhu cầu của các đơn vị. Do đó trong việc đưa ra kế hoạch xuất nhập khẩu đòi hỏi công ty cần phải nhanh nhạy, linh hoạt đánh giá tình hình cung cầu của từng mặt hàng cụ thể, từ đó đưa ra kế hoạch xuất nhập khẩu cho hợp lý. Ngoài ra, công ty còn có quyền đề xuất với Bộ chủ quản có chủ trương can thiệp vào thị trường kịp thời. Với chiến lược nắm thông tin thị trường nước ngoài, tiến đến năm 2003 hoặc 2004 tham gia kênh xuất khẩu mặt hàng đường, tự cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu, nhập khẩu những mặt hàng cần thiết, vật tư nguyên liệu cho sản xuất chế biến, hàng tự sản xuất chế biến được thị trường trong nước chấp nhận và phấn đầu xuất khẩu. Chính vì thế, công tác xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu ở công ty được tính toán chặt chẽ cho kế hoạch cả năm và kế hoạch ở từng hợp đồng được ký.
2. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất nhập khẩu của công ty thực phẩm miền bắc
Tình hình thực hiện kế hoạch về tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty ở bảng sau:
Bảng 2: Tình hình thực hiện kế hoạch về tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc
ĐVT: Triệu USD
Năm
Kế hoạch
Thực hiện
Vượt kế hoạch
%thực hiệnkế hoạch
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)=(3)/(2)
1999
2000
2001
4,6
0,7
2
4,646
0,575
1,5
0,046
-0,125
-0,5
101
82,1
75
Kết quả từ bảng 2 cho thấy trong giai đoạn 1999-2001, công ty hầu như không hoàn thành kế hoạch xuất khẩu đặt ra. Chỉ riêng năm 1999 đạt 101% kế hoạch với mức vượt kế hoạch là 0,046 triệu USD.
Đến năm 2000, do ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và căn cứ vào tình hình thực tế kinh doanh của công ty nên năm 2000 kế hoạch về xuất khẩu cuả công ty đã giảm rất mạnh từ 4,6 triệu USD xuống còn 0,7 triệu USD, song với mức kế hoạch thấp như vậy nhưng công ty vẫn không hoàn thành kế hoạch đặt ra giá trị xuất khẩu thực hiện là 0,575 triệu USD đạt 82,1% kế hoạch. Năm 2001, kế hoạch xuất khẩu công ty đặt ra là 2 triệu USD nhưng thực tế chỉ xuất khẩu 1,5 triệu USD đạt 75% so với kế hoạch .Qua đây chứng tỏ hoạt động xuất khẩu của công ty đạt hiệu quả không cao,với giá trị thực tế thấp. Điều này là do mặt hàng xuất khẩu của công ty duy nhất là cao su, cùng với hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực nên nhu cầu nhập khẩu về cao su giảm. Chính vì vậy để cải thiện tình hình trên trong thời gian tới công ty cần tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường, kết hợp với đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu.
Bảng 3 : Tình hình thực hiện kế hoạch về tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty thực phẩm miền Bắc
ĐVT : Triệu USD
Năm
Kế hoạch
Thực hiện
Vượt kế hoạch
% thực hiện kế hoạch
(1)
(2)
(3)
(4)=(3)-(2)
(5)=(3)/(2)
1999
2000
2001
5,8
7,5
6,6
6,5
7,6
4,9
0,7
0,1
-1,7
112
101,3
74,2
Qua bảng 3 cho thấy tình hình nhập khẩu của công ty trong 2 năm 1999 và 2000 luôn vượt mức kế hoạch đặt ra. Năm 1999 công ty vượt mức kế hoạch là 12%, năm 2000 vượt mức kế hoạch là 1,3%. Có kết quả này là trong 2 năm đó nhu cầu về một số mặt hàng nhập khẩu như: đường, sữa, dầu ăn tăng lên đo đó làm tăng mức nhập thực tế so với kế hoạch. Tuy nhiên đến năm 2001 với chủ trương phải cân đối kim ngạch XNK và do hạn ngạch của Bộ Thương mại cấp cho công ty giảm, hơn nữa công ty cũng đẩy mạnh việc khai thác mặt hàng đường được sản xuất ở trong nước để kinh doanh như:đường Lam Sơn, đường Việt Đài, đường Tây Ninh ...làm cho công ty không thực hiện so với kế hoạch đặt ra. Để đánh giá chi tiết tình nhập khẩu của công ty ta xem xét việc thực hiện kế hoạch nhập khẩu theo mặt hàng của công ty như sau:
Bảng 4: Tình hình thực hiện kế hoạch nhập khẩu theo mặt hàng
ĐVT: Triệu USD
Mặt hàng
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
KH
TH
% thực hiện KH
KH
TH
%thực hiện KH
KH
TH
% thực hiện KH
Đường
Sữa
Dầu ăn
Bột mỳ
Còn lại
2
0,1
0,1
3,5
0,1
0
0,3
1,5
4,6
0,1
-
300
150
131,4
100
3
0,2
1,5
1,6
0,2
3,6
0,8
1,5
0,2
1,5
120
400
100
12,5
125
3,6
0,6
1,4
0,6
0,4
3,4
0,5
0,3
0,12
0,65
94,4
83,3
21,4
20
16,25
Tổng
5,8
6,5
112
6,5
7,6
101
6,6
4,9
74,2
Qua bảng 4 cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa kế hoạch đặt ra so với thực tế nhập khẩu theo mặt hàng của công ty. Sở dĩ có như vậy là do công tác lập kế hoạch kinh doanh của công ty sát với nhu cầu thực tế và thị trường, điều này có nghĩa là công tác nghiên cứu thị trường và phân tích nhu cầu tiêu dùng của công ty không có hiệu qủa. Mặt khác do kế hoạch là được đặt ra từ trước, trong khi hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng phải chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố đặc biệt trong giai đoạn này do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã dẫn đến việc lập kế hoạch đặt ra không sát với thực tế thực hiện.
3. Phân tích thị trường xuất nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường được coi là hoạt động có tính chất tiền đề của công tác kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu thị trường của công ty luôn được coi là vấn đề phức tạp, phong phú và đa dạng, đòi hỏi sự tốn kém nhiều chi phí. Chính vì thế, phải có phương pháp nghiên cứu thị trường thích hợp để giảm chi phí tối thiểu. ở đây ta quan tâm đến thị trường của sản phẩm nhập khẩu và thị trường của sản phẩm xuất khẩu tức là thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
3.1.Thị trường quốc tế
Phương pháp nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác định đúng đắn hướng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để nắm được nhu cầu thị trường. Công ty tuân theo trình tự sau:
Một là, tổ chức hợp lý việc thu thập các nguồn thông tin về nhu cầu của các loại thị trường.
Hai là, phân tích và xử lý đúng đắn các loại thông tin đã thu thập được về các loại nhu cầu của thị trường.
Ba là, xác định nhu cầu của từng loại thị trường đang đòi hỏi, các phương tiện thông tin ngày càng hiện đại, phong phú, đa dạng đã làm cho việc giao dịch trở lên khá dễ dàng, thuận lợi và nhanh chóng. Do yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên quan hệ giao dịch khá rộng rãi nên việc nghiên cứu thị trường nước ngoài ở công ty chủ yếu là dùng hình thức thông qua thông tin của Bộ Thương mại và Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam để tìm kiếm các bạn hàng quốc tế. Bởi ở công ty hiện nay chưa có bộ phận chuyên trách làm công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài và chưa có đại diện ở nước ngoài để nắm bắt được những thông tin về thị trường nhanh nhất. Công ty cũng có thể tự tìm đến các bạn hàng nước ngoài qua điện thoại, Fax để chào hàng của mình.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là Trung Quốc với mặt hàng chủ lực là cao su. Thị trường Trung Quốc có đặc điểm thuận lợi về vị trí địa lý gần với Việt Nam, do đó chi phí vận chuyển thấp công ty có thể mua hàng trực tiếp từ các nông trường của tổng công ty cao su Việt Nam và xuất sang Trung Quốc.
Thị trường xuất khẩu của công ty hiện nay còn hạn chế ở Trung Quốc, tuy nhiên từ nay đến năm 2003 và sang thế kỷ 21, công ty đang cố gắng tìm mọi biện pháp để có thể xuất khẩu các loại sản phẩm của mình sang các nước khác đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng lên.
3.2.Thị trường trong nước với hoạt động nhập khẩu
Do định hướng cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, Bộ Thương mại cho phép công ty đẩy mạnh nhập khẩu để cân đối với những ngành chỉ xuất khẩu các mặt hàng: Dầu, nguyên liệu thô... Với quan hệ làm ăn với các công ty nước ngoài và mạng lưới bàn hàng khá đồ sộ nên công ty được nhập khẩu những mặt hàng chủ yếu: Đường, sữa, dầu ăn, bột mỳ,...
Phương pháp nghiên cứu thị trường:
- Thị trường đầu vào: Doanh nghiệp có thể tự khai thác thị trường qua thông tin của Bộ Thương mại, các vụ, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, các đại diện nước ngoài tại Việt Nam và tự tìm đối tác. Công ty có thể chủ động trực tiếp gặp gỡ hoặc qua điện thoại, fax... với các công ty nước ngoài hoặc cả với người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Thị trường đầu ra: Do có mạng lưới bán hàng rộng khắp và duy trình kinh doanh mặt hàng truyền thống nên công ty có thể nắm được thông tin về những mặt hàng nào tiêu thụ ở các thị trường nào và tính chất mùa vụ của sản phẩm. Từ đó tính toán được thời gian tiêu thụ của các mặt hàng này, hạn chế tồn kho gây ứ đọng vốn. Công ty có thể bán hàng cho mọi thành phần kinh tế: Tư nhân, quốc doanh, công ty trach nhiệm hữu hạn... ở mọi nơi.
Hoà chung với quá trình đa dạng hoá và đa phương hoá mối quan hệ kinh tế trong những năm qua công ty thực phẩm miền Bắc một mặt không ngừng mở rộng thị trường xuất khẩu đồng thời cũng tích cực khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn những thị trường nhập khẩu thích hợp. Thị trường nhập khẩu chủ yếu của công ty là các nước châu á và châu Âu, điều này được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 5: Kết quả nhập khẩu theo thị trường.
ĐVT: 1000USD
Thị trường nhập khẩu
1999
2000
2001
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Giá trị
Tỷ trọng
Singapore
Nhật
ểc
Thái Lan
Đức
Pháp
Hàn Quốc
Tiệp Newzealand
1551,1
358,8
4574,3
-
-
-
-
-
-
23,9
5,53
70,5
-
-
-
-
-
-
2742
1050
-
3662
109
48
-
-
-
36
13,8
-
48,1
1,4
0,63
-
-
-
1016
136
459
-
-
363
2884
12
37
20,7
2,7
9,3
-
-
7,4
58,7
0,24
0,7
Tổng
6484,2
100%
7611
100%
4907
100%
Qua bảng 5 cho thấy trong giai đoạn 1999 - 2001, thị trường nhập khẩu truyền thống của công ty là Singapore, Nhật và úc. Đây là 3 thị trường nhập khẩu có tỷ trọng lớn nhất, trong năm 1999 thị trường nhập khẩu của công ty từ Singapore chiếm 23,9%, úc chiếm 70,5% còn lại là Nhật. Năm 2000 giá trị nhập khẩu ở thị trường truyền thống ở Singapore và Nhật tăng cả về tuyệt đối và tương đối nhưng ở thị trường úc công ty tạm ngừng nhập khẩu, thay vào đó đã mở rộng việc nhập khẩu từ một số thị trường từ Đức và Pháp và đặc biệt phải kể đến Thái Lan với mức kim ngạch nhập khẩu là 3.662.000USD chiếm 48,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty trong năm trong khi thị trường truyền thống Singapore chỉ chiếm 36%, Nhật chỉ chiếm 13,8%. Với phương châm mở rộng thị trường xuất nhập khẩu năm 2001 thị trường nhập khẩu của công ty đã mở rộng hơn như Newzealand, Tiệp và thị trường Hàn Quốc với giá trị nhập khẩu của thị trường này chiếm 58,7% tổng kim ngạch nhập khẩu
4. Phân tích một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của công ty
4.1. Mặt hàng nhập khẩu
Nhập khẩu là hoạt động chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty. Hoạt động nhập khẩu của công ty nhằm hai mục đích:
Thứ nhất, là cung cấp nguyên liệu cho sản xuất ở đơ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0510.doc