Lời nói đầu
Tại đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ VI, đảng và Nhà nước ta đề ra ba chương trình kinh tế lớn đó là: “ Sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu “. Sau một thời gian thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn đó nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đã đạt được nhiều thành tựu mà một trong những mặt hàng mũi nhọn của sản xuất hàng tiêu dùng được chú trọng phát triển và phá
40 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1181 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty 247 - Bộ quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển đạt hiệu quả đó là sản xuất hàng may mặc. Có thể nói, đây là một ngành sản xuất cần ít vốn đầu tư, song lại thu hút được nhiều lao động và mang lại những lợi ích lớn cho nền kinh tế.. Phát triển sản xuất hàng may mặc sẽ tăng sản xuất hàng tiêu dùng trong nước và góp phần quan trọng trong sản xuất hàng may mặc xuất khẩu, thu hút được nhiều ngoại tệ, giảm nhập khẩu, tiết kiệm được ngoại tệ, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định kinh tế cho đất nước.
Trong sự phát triển của ngành may, hoạt động thương mại có một vị trí, vai trò rất quan trọng, nó là động lực tạo điều kiện cho phát triển và đáp ứng nhu cầu cơ bản và ngày càng nâng cao đời sống kinh tế - xã hội. Với đặc điểm và xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã khẳng định dịch vụ là khu vực có tỷ trọng rất lớn, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường một phần lớn phụ thuộc vào chất lượng hoạt động dịch vụ - thương mại.
Từ vai trò và những đóng góp quan trọng nêu trên của ngành may và hoạt động dịch vụ - kinh doanh thương mại trong ngành may, cùng với quá trình công tác tại công ty May 247 - Bộ quốc phòng, với những trăn trở : làm gì và làm như thế nào để nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Công ty, bản thân em đã rút ra nhận xét và mạnh dạn chọn chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty 247 - Bộ quốc phòng" .
* Nội dung của đề tài nhằm :
- Nghiên cứu lý luận sự phát triển của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay.
- Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty 247 - Bộ quốc phòng trong thời gian qua.
- Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Công ty 247 - Bộ quốc phòng.
* Kết cấu, bố cục của đề tài : Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 phần chính sau :
+ Phần thứ nhất : Lý luận chung về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
+ Phần thứ hai : Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty 247 - Bộ quốc phòng.
+ Phần thứ ba : Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Công ty 247 - Bộ quốc phòng trong thời gian tới.
Đề tài nghiên cứu là một vấn đề phức tạp, rộng lớn, trình độ bản thân còn hạn chế về nhiều mặt chắc chắn bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em mong rằng qua đề tài này sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến và nhận xét của thầy giáo : Từ Huy Phương , các thầy cô giáo trong khoa quản lý, các cô chú lãnh đạo trong công ty 247 để giúp em hoàn thiện đề tài và nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh sau này.
Phần I
lý luận chung về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
I- thực chất hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường:
* Các yêu cầu đặt ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện nay :
A - Các quan niệm về thị trường :
Có rất nhiều cách định nghĩa về thị trường, thực tế cho thấy thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá.
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi buôn bán hàng hoá. Như vậy, mỗi một loại hàng hoá đều có thị trường riêng của nó, tại đó người mua và người bán thoả thuận và quyết định giá cả, số lượng hàng hoá được mua bán. Hành vi mua bán này được thể hiện ở tất cả những gì có thể mua bán được như : mua bán cổ phiếu, tín phiếu, tiền tệ, sức lao động, thậm chí cả trí tuệ con người .... địa điểm không nhất thiết phải diễn ra ở các cửa hàng, các chợ, các siêu thị mà nó có thể diễn ra qua điện thoại, điện tín, hợp đồng ...
Vậy theo nghĩa rộng, thị trường là nơi mà ở đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá được mua bán; thị trường là nơi thể hiện tập trung nhất quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
Đặc trưng của các hoạt động thị trường là nơi tất cả các hoạt động kinh tế diễn ra không có sự bắt buộc nào, không có sự điều khiển tập trung nào cả. Khi mà nền sản xuất của xã hội đạt đến trình độ cao, lúc đó hàng trăm, hàng triệu người tiêu dùng tham gia mua bán một cách tự nguyện. Tuy vậy sự vận động của thị trường luôn tuân theo một trật tự nhất định và nó được điều chỉnh bởi “ bàn tay vô hình “ đó là giá cả.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển, trong nền kinh tế đó tất
cả các quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán, giữa tất cả mọi người tham gia đều được tiền tệ hoá, mọi yếu tố như đất đai, tài nguyên, sức lao động, các sản phẩm dịch vụ làm ra, thậm trí cả trí tuệ con người đều có giá. Giá cả của các loại hàng hoá được phân phối sẽ được quyết định bởi thị trường; mọi quan hệ giữa người sản xuất với nhau, giữa người tiêu dùng với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng đều được dung hoà bởi “ bàn tay vô hình “. Chính sự sắp đặt của “ bàn tay vô hình “ là hạt nhân nảy sinh ra cơ chế thị trường.
B- Cơ chế thị trường :
Đó là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế. Các bộ phận hợp thành của cơ chế thị trường là cung, cầu và giá cả thị trường.
a- Cung cầu và giá cả thị trường :
Cung hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người sản xuất muốn có khả năng sản xuất để bán theo mức giá nhất định. Như vậy cung hàng hoá phản ánh mối quan hệ trực tiếp trên thị trường của hai biến số : Lượng hàng hoá dịch vụ cung ứng và giá cả trong một thời gian nhất định. Quy luật về cung nói : Người ta sản xuất nhiều hơn nếu giá tăng và ít hơn nếu giá giảm. Quy luật này được giải thích bằng thu hoạch giảm dần.
Đồ thị biểu diễn đường cung có dạng: (Hình 1)
Giá
H1 : Đường cung Lượng
Cầu hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người mua muốn và có khả năng mua theo giá nhất định. Giá thị trường của hàng hoá chúng ta cần mua càng tăng thì chúng ta càng phải từ chối nhiều hơn các sản phẩm khác, ngược lại, giá thị trường giảm thì chúng ta có thể mua được nhiều loại hàng hoá hơn. Giá cả càng cao thì chi phí cơ hội càng cao và chi phí cơ hội quyết định khả năng người ta có thể mua được những gì. Đó chính là nội dung của quy luật về cầu : Giá thị trường càng cao thì nhu cầu càng thấp và ngược lại.
Quy luật về cầu được giải thích bằng chi phí cơ hội hoặc chi phí lựa chọn. Đồ thị biểu diễn đường cầu có dạng : ( Hình 2 )
Giá
H2 : đường cầu Lượng
Quy luật về cung cho ta biết ở mặt bằng giá nhất định có bao nhiêu sản phẩm sẽ được nhà sản xuất đưa bán ở thị trường, quy luật về cầu lại cho biết với giá như vậy có bao nhiều sản phẩm sẽ được người tiêu dùng chấp nhận mua.
Trong trường hợp nếu tách riêng ra thì không có quy luật nào trong hai quy luật ấy giúp ta xác định được sự biến động của giá cả. Còn nếu kết hợp quy luật về cung cầu thì quy luật đó sẽ cho ta hiểu biết về giá cả thị trường. Theo quy luật cung cầu thì một hàng hoá sẽ được bán theo giá vừa phù hợp với cung lại vừa phù hợp với cầu, tức là ở đó cung và cầu gặp nhau, đồ thị biểu diễn có dạng sau : ( Hình 3 )
Giá
Po
H3 : Đường cung - cầu Lượng
Điểm P0 gọi là mức giá cả bình quân ( hay giá trị thị trường ) ở mức giá cả đó số lượng cầu bằng số lượng cung
II- Kinh doanh và những yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh :
1. Kinh doanh và những quy luật :
Kinh doanh là đầu tư công sức và tiền của để tổ chức mọi hoạt động nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đầu tư lao động, tiền vốn, của cải vào mà không nhằm mục tiêu sinh lợi thì đó không phải là kinh doanh. Lợi nhuận là một mục tiêu đầu tiên trong kinh doanh do đó các doanh nhân đều nhằm vào tối đa hoá lợi nhuận nhưng không phải là tối đa hoá lợi nhuận cho một đơn vị hàng hoá mà là tổng lợi nhuận tối đa. Kinh doanh chịu tác động của vô vàn các nhân tố chủ quan, khách quan, những rủi ro trong kinh doanh là thường xuyên do vậy các doanh nghiệp thu được lợi nhuận nhưng phải đảm bảo độ an toàn cao - an toàn là mục tiêu thứ hai của nhà kinh doanh.
Với ngành nào, lĩnh vực nào cũng có rất nhiều người kinh doanh, vấn đề đặt ra làm sao phải chiếm lĩnh được thị trường, vị trí của mình trên thị trường là chắc chắn và không ngừng được củng cố, nâng cao do đó vị trí trở thành mục tiêu thứ ba của doanh nghiệp.
Làm bất cứ việc gì muốn thành công phải biết được bản chất, quy luật vận động của sự vật, hiện tượng, làm trái với quy luật thì chỉ gặt hái được sự thất bại. Trong kinh doanh cũng có những quy luật riêng của nó. Có ba quy luật cơ bản như sau :
- Quy luật hàng hoá vận động từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao. Nếu đi đúng dòng này thì doanh nghiệp đạt được kết quả cao, nếu đi ngược dòng thì không có kết quả.
- Quy luật mua rẻ bán đắt, đầu tư tiết kiệm đúng mức, đúng chỗ thì đạt được hiệu quả cao.
- Quy luật mua của người chán bán cho người cần. Hàng hoá người bán đã chán thì muốn bán cho nhanh và bán với giá rẻ, ngược lại hàng hoá người mua cần thì thường trả giá cao.
2. Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là hướng tới lợi ích người tiêu dùng :
Bất kỳ nền hoạt động sản xuất nào cũng chủ yếu là hướng tới lợi ích của người tiêu dùng. Sản phẩm hàng hoá - thành phẩm, kết quả hoạt động của người công nhân lao động được thị trường chấp nhận hay không chấp nhận là việc sản phẩm hàng hoá đó có đáp ứng được các nhu cầu của thị trường hay không, tức là sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó có hướng tới lợi ích của người tiêu dùng không, vì vậy nếu sản phẩm hàng hoá dịch vụ không được thị trường thừa nhận khi ấy hoạt động sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa và không thể tồn tại được. Cho nên dù muốn hay không, đã bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ thì doanh nghiệp phải hướng tới lợi ích của người tiêu dùng.
Để hướng tới lợi ích của người tiêu dùng, trước hết các doanh nghiệp phải nghiên cứu các nhu cầu của thị trường để từ đó có nhiều thông tin cần thiết giúp doanh nghiệp chọn cho mình một phương sách hoạt động sản xuất hàng hoá, dịch vụ thích hợp.
Doanh nghiệp phải trả lời được tất cả các câu hỏi liên quan đến thị trường, cung, cầu, giá cả. Trên phương châm kinh doanh “ Khách hàng là thượng đế “ ngay từ khi hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ doanh nghiệp đã phải nghĩ ngay tới lợi ích của người tiêu dùng. Sản phẩm dịch vụ đó có lợi gì cho người tiêu dùng hay không ....
Chính vì vậy khẩu hiệu “ Tất cả vì khách hàng “ hay “ Khách hàng là tất cả “ nhưng thực chất là tất cả vì doanh nghiệp. Điều này được chứng minh trong lý thuyết “ Tối đa hoá lợi ích “. Người sản xuất muốn tối đa hoá lợi nhuận, còn người tiêu dùng muốn tối đa hoá lợi ích. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt tới được lợi ích cao nhất khi nào sản xuất dịch vụ đáp ứng được sự thoả mãn cao nhất lợi ích của người tiêu dùng. Muốn vậy sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp luôn phải có chất lượng tốt, giá cả hợp lý, đặc biệt là phải tiện lợi cho người tiêu dùng, sản phẩm dịch vụ luôn phải phù hợp với đời sống của khách hàng, nhất là trong thời kỳ kinh tế mở như hiện nay đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Khi đó sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng, mới đáp ứng được đầy đủ ý nghĩa của việc hướng tới lợi ích của người tiêu dùng.
Để đáp ứng được các yêu cầu hướng tới lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp luôn phải chú ý đến các vấn đề sau :
- Mạnh dạn đầu tư cho chất xám, cho nghiên cứu khoa học, cho việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm dịch vụ mới.
- Chú ý đến việc nghiên cứu, sửa chữa những nhược điểm của sản phẩm, dịch vụ đang thực hiện. So sánh, cải tiến phương pháp làm việc, so sánh sản phẩm dịch vụ của mình với các doanh nghiệp khác để có phương pháp sản xuất phù hợp.
- Tận dụng tiềm năng về nhân tài, vật lực, địa lý ...., lợi dụng những ưu thế của người khác để nâng cao chất lượng, phát triển sản phẩm dịch vụ của mình.
Tuy nhiên trong thực tế, những công việc này trở nên rất khó khăn, tốn kém, không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng làm được. Tuỳ theo đặc điểm và điều kiện của từng doanh nghiệp mà có thể lựa chọn các biện pháp khác nhau để tạo sản phẩm dịch vụ hướng vào lợi ích của người tiêu dùng.
3. Nghiên cứu thị trường :
Thị trường là môi trường hoạt động kinh doanh, là nơi phán xét các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có được thừa nhận hay không. Như vậy, để tồn tại và phát triển, các hoạt động kinh doanh phải được tiến hành trên cơ sở của thị trường.
Sự ra đời của thị trường gắn liền với sự ra đời và tồn tại của sản xuất và trao đổi hàng hoá, là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá, nó là khách quan và có những quy luật vốn có của nó.
Thị trường của doanh nghiệp được xác định như thế nào ? Theo định nghĩa của các nhà kinh tế học thì nó là “ Nhóm các khách hàng đồng nhất có nhu cầu tương tự rộng lớn, với những người bán đưa ra những sản phẩm dịch vụ khác nhau với những cách thức khác nhau để thoả mãn các nhu cầu đó “
Phải khẳng định một điều rằng, thị trường đối với doanh nghiệp là hết sức quan trọng, là xuất phát điểm, chỗ dựa cho mọi quyết định của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh đặc biệt là quyết định ba vấn đề kinh tế cơ bản. Các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được tiến hành trên cơ sở thị trường, do vậy thị trường là vấn đề sống còn đối với sản xuất kinh doanh, là nơi quan trọng để đánh giá, kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng đắn của các chính sách, chủ trương, biện pháp kinh tế mà doanh nghiệp áp dụng ( Lấy thị trường làm xuất phát điểm, lấy hiệu quả làm thước đo ).
Trước đây trong cơ chế quản lý bao cấp, doanh nghiệp hoạt động theo kế hoạch phân phối tập trung của Nhà nước vì vậy doanh nghiệp không cần nghiên cứu thị trường. Đến nay, do tồn tại trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tổ chức hợp lý không chỉ tổ chức tại các nơi lao động trực tiếp và phải tổ chức tốt cả những khâu nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu các loại sản phẩm, dịch vụ nhằm thoả mãn đầy đủ nhu cầu khách hàng, đảm bảo tính liên tục của hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp nghiên cứu thị trường tốt sẽ giúp cho việc giải quyết ba vấn đề trung tâm một cách tốt nhất. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì mỗi doanh nghiệp phải tự giải quyết lấy các vấn đề này, đó là :
* Sản xuất cái gì ?
Khi hình thành doanh nghiệp, có nghĩa là phải xác định đúng, định hướng rõ ra các loại sản phẩm, dịch vụ để sản xuất, kinh doanh; Những phương thức sản xuất... vì có xác định đúng đắn những vấn đề trên thì doanh nghiệp mới đáp ứng được nhu cầu của thị trường, của người tiêu dùng.
Sản xuất cái gì ? Điều này phải xuất phát dựa trên các yêu cầu của thị trường, nó gồm các yêu cầu cụ thể của khách hàng, của người tiêu dùng.
* Sản xuất bao nhiêu ?
Nhà kinh doanh phải tính toán xác định xem doanh nghiệp phải sản xuất bao nhiêu sản phẩm, thực hiện bao nhiêu loại dịch vụ trong năm, quý, tháng ... sản phẩm, dịch vụ phải đáp ứng những yêu cầu như thế nào về chất lượng, số lượng, giá cả, hình thức kinh doanh ... ? Tính toán sử dụng máy móc vật tư, tài chính công nghệ ra sao để chi phí ít nhất mà hiệu quả hoạt động kinh doanh cao nhất. Sản xuất như thế nào ? Đây là một câu hỏi của cung, của nhà doanh nghiệp để đạt được lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Muốn đạt được những yêu cầu đề ra, nhà sản xuất kinh doanh phải luôn chú ý đến công nghệ ( công nghệ sản xuất ... ) có như vậy mới giảm được chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
* Sản xuất sản phẩm ra được phân phối cho ai ?
Sự xác định đúng đắn đối tượng người tiêu dùng, đối tượng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, bởi có xác định đúng đắn được yêu cầu trên thì kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mới bảo đảm tính khả thi, hợp lý.
Sản xuất cho ai ? Câu hỏi này chỉ có thị trường mới trả lời được, do đó việc sản xuất phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường, chính bởi vậy yêu cầu nắm bắt chính xác thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời với việc nắm bắt đời sống, thu nhập của dân cư ở khu vực mà mình đang và sẽ hoạt động sẽ giúp doanh nghiệp phát huy được hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Có thể nói, ba vấn đề trên có liên hệ chặt chẽ với nhau, để làm tốt một trong ba vấn đề cần có sự phối hợp đồng bộ với các vấn đề còn lại.
Để thực hiện tốt 3 vấn đề nêu trên cần lưu ý 3 căn cứ cơ bản sau :
+ Căn cứ nhu cầu của thị trường
+ Căn cứ vào khả năng về vốn, công nghệ, vị trí địa lý, khả năng kết cấu hạ tầng về đường xá, giao thông vận tải, trình độ cán bộ quản lý kinh doanh ...
+ Dự báo phát triển kinh tế mà nội dung chủ yếu là dự báo về thị trường và những biến động của thị trường.
Phần II
Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh
tại công ty 247 - bqp
I- Đặc điểm sản xuất kinh doanh ở Công ty 247 - bộ quốc phòng :
1 - Quá trình thành lập Công ty 247- Bộ quốc phòng :
Công ty 247 là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ quốc phòng, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp và Bộ tư lệnh quân chủng Phòng không - không quân.
Công ty được thành lập lại theo quyết định số : 1619/QĐ-QP của Bộ trưởng Bộ quốc phòng ngày 03/10/1996.
Trụ sở chính của công ty tại số 311 đường Trường Chinh - Quận Thanh Xuân - Thành phố Hà nội với 2 xí nghiệp thành viên là : Xí nghiệp may 19 ( xí nghiệp May I ) tại 311 đường Trường Chinh -Thanh Xuân - TP Hà nội và Chi nhánh phía Nam ( xí nghiệp May II ) tại số 99 đường Cộng Hoà - Quận Tân Bình - Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoạt động chính của công ty là sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực may mặc theo giấy phép kinh doanh số : 111519/GP do sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà nội cấp ngày 27/11/1996 và giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp số : 1.12.1.058/GP do Bộ thương mại cấp ngày 21/7/1997. Chức năng chính của các xí nghiệp thành viên :
- Xí nghiệp May đo X19 - Chuyên sản xuất hàng may đo nội địa
- Chi nhánh phía Nam ( xí nghiệp May II ) tại thành phố Hồ Chí Minh. - Chuyên sản xuất, gia công hàng xuất khẩu.
Trụ sở chính của công ty : 311 - đường Trường Chinh - Đống Đa - Hà nội.
Xí nghiệp May 19 ( xí nghiệp May I ) được thành lập ngày 01/4/1983 là một trạm may đo với nhiệm vụ may đo phục vụ nhu cầu quốc phòng. Ngày 20/5/1991 được chuyển thành xí nghiệp May đo X19 và ngày 27/7/1993 xí nghiệp được Bộ quốc phòng thành lập doanh nghiệp Nhà nước 388, hoạt động chủ yếu của xí nghiệp là may đo trang phục, quân phục phục vụ nhiệm vụ quốc phòng và nhu cầu kinh tế. Hiện nay, xí nghiệp đã có một đội ngũ công nhân lao động có tay nghề cao, có khả năng sản xuất được các mặt hàng may đo cao cấp đáp ứng được yêu cầu phục vụ nhiệm vụ quốc phòng và đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng trên thị trường hàng may mặc trong và ngoài nước.
Chi nhánh phía Nam ( xí nghiệp May II ) tại TP Hồ Chí Minh được thành lập ngày 31/01/1997, tiền thân là xí nghiệp Tân Long của sư đoàn 367 Phòng Không đóng tại TP Hồ Chí Minh. Sau khi sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước và Bộ quốc phòng, xí nghiệp Tân Long được chuyển về công ty 247 và là xí nghiệp thành viên của Công ty tại TP Hồ Chí Minh. Hoạt động sản xuất kinh doanh theo giấy phép số : 307456/GP ngày 8/7/1997 do Sở kế hoạch đầu tư TP Hồ Chí Minh cấp. Hoạt động chủ yếu của xí nghiệp là sản xuất, gia công hàng may mặc xuất khẩu theo đơn đặt hàng của khách hàng nước ngoài và các đơn vị bạn trên địa bàn thành phố.
Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế, từ một trạm may đo đến nay Công ty 247 đã có sự phát triển, trưởng thành không ngừng để từng bước khẳng định vị thế của mình trên thị trường hàng may mặc trong và ngoài nước.
2- Tổ chức bộ máy quản lý của công ty 247
- Bộ máy quản lý của công ty được quản lý theo mô hình trực tuyến. Với 2 xí nghiệp thành viên :
+ Xí nghiệp May đo X19
+ Chi nhánh phía Nam ( xí nghiệp May II - May xuất khẩu )
Trong đó, xí nghiệp May đo X19 chịu sự quản lý trực tiếp của công ty. Bộ máy quản lý của công ty điều hành trực tiếp mọi hoạt động của xí nghiệp may 19 ( giảm bớt nhân sự trong bộ máy quản lý gián tiếp )
* Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty như sau ( Sơ đồ trang bên ) :
Cụ thể các chức năng như sau :
+ Giám đốc công ty
Là người điều hành chung toàn bộ hoạt động của công ty, giám đốc công ty có quyền quyết định cuối cùng tất cả mọi hoạt động của đơn vị và là người chịu trách nhiệm chính về các hoạt động đó trước các cơ quan quản lý của Nhà nước trước pháp luật, đồng thời cùng là người chỉ đạo cao nhất về mọi chủ trương, đường lối của công ty.
+ Phó giám đốc công ty :
Là người được giám đốc công ty uỷ quyền thay mặt giám đốc công ty điều hành quản lý trực tiếp toàn diện mọi hoạt động của công ty và là người tham mưu giúp giám đốc công ty về các chủ trương, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.
+ Phòng kinh doanh Xnk :
Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch, ký kết hợp đồng kinh tế với khách hàng, trực tiếp quản lý và triển khai các hoạt động xuất nhập khẩu của công ty và các xí nghiệp thành viên.
+ Phòng kế hoạch
Là phòng nghiệp vụ triển khai các kế hoạch, phương án sản xuất, xây dựng kế hoạch tháng, quý, năm của công ty và điều hành hoạt động kế hoạch của công ty và các xí nghiệp thành viên.
+ Phòng kỹ thuật
Là phòng nghiệp vụ thực hiện các hoạt động triển khai kỹ thuật ( mẫu mã, kiểu dáng, thông số kỹ thuật của sản phẩm ... ) để bảo đảm khi triển khai sản xuất đạt hiệu quả.
Sơ đồ mô hình tổ chức của Công ty 247 - Bộ quốc phòng
Phó giám đốc
Giám đốc công ty
Phòng
kỹ thuật
Phòng
chính trị
Phòng
Kế hoạch
Phòng
kế toán
Phòng
kdoanh - xnk
Phó giám đốc chi nhánh
Chi nhánh phía nam
Giám đốc chi nhánh
Xí nghiệp May 19
Ban
kế toán
Ban
kỹ thuật
Tổ cắt
Phân
xưởng
cắt
Ban
kế hoạch
xnk
Văn phòng quản trị
Phân xưởng
hoàn tất
Trung tâm
huấn luyện
Phân xưởng May cao cấp
Phân
xưởng
May I
Quản đốc phân xưởng
Tổ I
Tổ hoàn tất
Tổ VI
Tổ V
Tổ IV
Tổ III
Tổ II
+ Phòng chính trị
Là phòng nghiệp vụ thực hiện các công tác tổ chức, công tác đảng, công tác chính trị trong công ty.
+ Phòng tài chính, kế toán
Là phòng nghiệp vụ thực hiện các hoạt động kế toán, tài chính, tham mưu giúp lãnh đạo hạch toán thu chi, dự trù kế hoạch tài chính năm, theo dõi, kiểm tra sổ sách, các nghiệp vụ kế toán của công ty và các xí nghiệp thành viên.
3- Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty 247 :
Từ những ngày đầu mới thành lập, xí nghiệp chỉ có 45 đồng chí, cơ sở trang thiết bị máy móc nghèo nàn, thô sơ, chỉ có 45 máy đạp chân, trình độ của cán bộ công nhân còn thấp, quy mô sản xuất của xí nghiệp còn nhỏ và thị trường tiêu thụ hẹp hầu như không có, hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính bao cấp, theo chỉ tiêu kế hoạch của quân đội.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, Công ty 247 đã có sự đổi mới không ngừng từ việc đầu tư nâng cao công nghệ, chất lượng sản phẩm, đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc hiện đại, đồng bộ, đầu tư nâng cấp nhà xưởng đến việc đầu tư nâng cao năng lực trình độ đội ngũ công nhân lao động, nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý... Chính những đầu tư đúng hướng đó đã tạo công ty những động lực mạnh mẽ để vươn lên và phát triển ngày một lớn mạnh. Kết quả Công ty đã có một đội ngũ công nhân lành nghề, có khả năng cắt, may đơn chiếc nhiều chủng loại sản phẩm cao cấp như complê, măng tô san, veston, quân phục đông ..., công ty có một hệ thống nhà xưởng cùng với các trang thiết bị may công nghiệp và chuyên dùng hiện đại, một đội ngũ cán bộ quản lý trẻ, có năng lực, có trình độ, nhanh nhạy với thị trường, thường xuyên trăn trở tìm kiếm khai thác thị trường và nắm bắt các thông tin từ phía khách hàng nhằm không ngừng hoàn thiện chất lượng, mẫu mã sản phẩm và các dịch vụ sau bán hàng của công ty.
Với những điều kiện thuận lợi nêu trên, công ty 247 đã từng bước phát triển ổn định, vững mạnh, sản lượng sản xuất năm sau cao hơn năm trước, chất lượng sản phẩm được khẳng định trên thị trường, mẫu mã sản phẩm ngày càng được cải tiến và hoàn thiện... khẳng định hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
II- Phân tích thực trạng kinh doanh của công ty 247 - Bộ quốc phòng :
Phân tích kết quả kinh doanh của công ty 247 - Bộ quốc phòng :
1.1. Thị trường, nguồn lực sản xuất kinh doanh của công ty :
a- Thị trường :
- Thị trường quân đội : Sản xuất hàng quân trang + tạp trang cho cán bộ chiến sỹ quân chủng PK - KQ
- Thị trường Bộ công an
- Thị trường ngành QLTT
- Thị trường ngành Kiểm lâm
- Thị trường Viện kiểm sát
- Thị trường ngành Thi hành án
- Thị trường ngành Điện lực
- Thị trường ngành Hải quan
- Thị trường ngành Hàng Không
- Thị trường ngành đường sắt
- Đồng phục khối học sinh các trường PTTH - PTCS.
- Thị trường hàng complê, quần áo các loại cho người tiêu dùng dân sự, cùng nhiều khối cơ quan hành chính sự nghiệp khác (đồng phục công sở)
b- Năng lực sản xuất kinh doanh :
- Đất đai, nhà xưởng :
+ Đất sử dụng : 9.282m2
+ Nhà xưởng : 7.330m2
- Quân số : 875 người.
+ May 19 : 560 người.
+ Chi nhánh : 315 người.
- Thiết bị máy móc :
+ Máy may công nghiệp 1 kim : 612 cái
+ Máy chuyên dùng các loại : 120 cái
- Phương tiện : 06 cái
1.2. Kết quả sản xuất - kinh doanh :
* Kết quả sản xuất kinh doanh (năm 1999 ) :
a-Thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh :
* Các khoản nộp ngân sách : 285.213.000đ =106%
Trong đó :
- Thuế doanh thu : 204.623.000đ =104%
- Bảo hiểm xã hội, ytế : 73.713.000đ = 111%
- Thuế đất, thuế môn bài : 6.877.000đ = 111%
b- Thực hiện các chỉ tiêu hướng dẫn :
- Sản phẩm : 498.356sp = 113%
- Doanh thu : 17.514.323.000đ = 112%
- Lợi nhuận : 693.781.000đ = 100%
- Thu nhập bình quân : 600.000đ = 106%
* Kết quả sản xuất - kinh doanh ( năm 2000 ) :
a- Thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh :
* Các khoản nộp ngân sách : 1.493.258.000đ = 119%
Trong đó :
- Thuế GTGT : 693.430.000đ = 67%
- Bảo hiểm XH : 137.531.000đ = 102%
- Bảo hiểm ytế : 18.583.000đ = 103%
- Kinh phí công đoàn : 80.925.000đ = 127%
- Các loại thuế khác : 87.383.000đ
* Chia theo địa chỉ nộp :
- Nộp về cơ quan NN : 780.813.000đ = 75%
- Nộp về BQP : 237.039.000đ = 110%
b- Thực hiện chỉ tiêu hướng dẫn :
- Sản phẩm : 695.560sp = 116%
- Tổng doanh thu : 19.941.023.000đ
trong đó :
+ Doanh thu từ sản xuất : 19.270.608.000đ = 103%
+ Doanh thu từ dịch vụ : 670.415.000đ
- Tổng lợi nhuận : 1.625.727.000đ
+ Lợi nhuận từ sản xuất : 988.833.000đ = 141%
+ Lợi nhuận từ dịch vụ : 636.894.000đ
- Thu nhập bình quân : 721.000đ = 111%
- Khấu hao tài sản : 970.501.000đ = 100%
- Giá trị tăng thêm : 8.202.181.000đ = 132%
* Kết quả sản xuất kinh doanh ( năm 2001 ) :
a-Thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh :
* Các khoản nộp ngân sách : 1.101.694.000đ = 108%
Trong đó :
- Thuế GTGT : 701.831.000đ = 101%
- Thuế khác : 150.269.000đ = 171%
- Bảo hiểm XH : 145.569.000đ = 105%
- Bảo hiểm ytế : 19.397.000đ = 104%
- Kinh phí công đoàn : 84.628.000đ = 104%
* Chia theo địa chỉ nộp :
- Nộp về cơ quan NN : 852.100.000đ = 100%
- Nộp về BQP : 249.594.000đ = 105%
b- Thực hiện chỉ tiêu hướng dẫn :
- Sản phẩm : 749.756sp = 107%
- Tổng doanh thu : 20.136.720.000đ
trong đó :
+ Doanh thu từ sản xuất : 19.473.305.000đ = 101%
+ Doanh thu từ dịch vụ : 663.415.000đ
- Tổng lợi nhuận : 1.661.404.000đ
+ Lợi nhuận từ sản xuất : 1.031.160.000đ = 104%
+ Lợi nhuận từ dịch vụ : 630.244.000đ
- Thu nhập bình quân : 724.000đ = 100,5%
- Khấu hao cơ bản : 1.054.085.000đ = 108%
- Giá trị tăng thêm : 8.862.913.000đ = 108%
2- Đánh giá thực trạng kinh doanh của công ty :
Công ty 247 có chức năng sản xuất, kinh doanh hàng may mặc. Là đơn vị hạch toán độc lập, công ty luôn trăn trở tìm kiếm thị trường, khách hàng để mở rộng sản xuất, tăng quy mô sản xuất, nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Do Công ty hoạt động trong lĩnh vực may mặc, một ngành nghề đang được Nhà nước khuyến khích phát triển, do đó đối thủ cạnh tranh nhiều và đa dạng. Ngoài các Công ty may lớn của Bộ quốc phòng như X20, X28, X26 ( đây là các doanh nghiệp Nhà nước, chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng cục Hậu Cần - Bộ quốc phòng, ngoài nhiệm vụ chính là may đo quần áo lực lượng quân đội nhân dân theo phân cấp của Bộ quốc phòng, các đơn vị này có sản xuất hàng xuất khẩu với sản lượng xuất hàng năm cao ) ; các Công ty may của Bộ công an như May 19/5 ( có quy mô tương đương với công ty 247 ); Tổng công ty dệt may Việt Nam với hệ thống các công ty may lớn trải dài từ Bắc vào Nam như : may Thăng Long, may 10, may Chiến thắng ....
Với một thị trường may nội địa nhỏ hẹp, với số lượng đối thủ cạnh tranh lớn ( cả về lượng và chất ) nhưng Công ty 247 vẫn từng bước phát huy những thế mạnh, những tiềm năng, dần khẳng định vai trò và vị trí của Công ty trên thị trường may mặc, đặc biệt là may đo hàng nội địa - một lĩnh vực then chốt được chú trọng đầu tư và phát triển của Công ty.
* Biểu chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty 247 :
- Biểu 1 : Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu, vốn kinh doanh, chi phí
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Tổng lợi nhuận
693.781.000
1.625.727.000
1.661.404.000
1
Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu
%
3,96
8,15
8,25
2
Tỷ suất lợi nhuận so với vốn kinh doanh
%
3,43
7,17
6,89
3
Tỷ suất lợi nhuận so với chi phí
%
4,12
8,88
8,99
- Biểu 2 : % tăng của doanh thu, vốn kinh doanh, thu nhập qua các năm
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
D. Thu
% tăng
D. Thu
% tăng
D.thu
% tăng
Doanh thu
17.514.323.000
-
19.941.023.000
113,9
20.136.720.000
100,98
Vốn kinh doanh
20.233.246.000
-
22.661.235.000
112
24.134.215.000
106,5
Thu nhập bình quân
600.000
-
721.000
120,2
724.000
100,42
* Quá trình phát triển, hoạt động thương mại của Công ty 247 đạt được những thành tựu sau :
- Xây dựng được một đội ngũ cán bộ kinh doanh năng động, nhiệt tình, có trình độ, có trách nhiệm, không ngừng tìm tòi học hỏi nâng cao kiếm thức bản thân cũng như trăn trở tìm những biện pháp hữu hiệu nhất để tìm kiếm, mở rộng thị trường, phát triển và khẳng định vai trò của Công ty trên thị trường.
- Có nguồn khách hàng với các thị trường ổn định, đã tạo được nguồn khách hàng truyền thống của công ty, từ đó tạo cơ sở cho Công ty có điều kiện tìm kiếm và mở rộng thị trường mới.
Với chất lượng không ngừng nâng cao, công ty thường xuyên trúng thầu các hợp đồng lớn với các ngành như : Bộ công an, ngà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0241.doc