Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị ở Công ty Xây Dựng 7

lời nói đầu Trong quá trình đổi mới kinh tế thì lĩnh vực nhập khẩu từ lâu đã được thừa nhận là một mặt hoạt động cơ bản của nền kinh tế đối ngoại, nó là một phương tiện quan trọng để phát triển nền kinh tế đất nước. Nhập khẩu cho phép khai thác các tiềm năng thế mạnh của các nước trên thế giới, bổ sung các sản phẩm trong nước chưa sản xuất được hoặc không đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước . Việt Nam chúng ta là một nước đang trên đà phát triển, do vậy chúng ta đang cần phải tăng cường nhập khẩu

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị ở Công ty Xây Dựng 7, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
máy móc thiết bị tiên tiến. Các thiết bị, vật tư, máy móc giữ một vai trò, vị trí không nhỏ trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thời đại ngày nay những phát minh sáng chế trong việc thiết kế chế tạo máy móc, thiết bị trên thế giới ngày càng thay đổi. Nếu ta không nắm bắt được thông tin một cách kịp thời chính xác thì việc chúng ta nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị sẽ có thể làm cho đất nước bị tổn thất không nhỏ. Vì vậy việc nhập khẩu máy móc vật tư, thiết bị như thế nào để phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước và dem lại hiẹu quả kinh tế cao cho đất nước. Đặc biệt là việc nhập khẩu máy móc, vật tư, thiết bị trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng hiện có của đất nước đồng thời tạo điện kiện phát triển cho các ngành khác và toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. đó chính là mục tiêu chung của đất nước cũng như ngành xây dựng nói riêng. Trong thời gian thực tập nghiên cứu ở Công ty Xây Dựng 7 (VINACONCO7) (Trực htuộc tổng Công ty VINACONEX) được giúp đỡ của cơ sở thực tập và thầy giáo hướng dẫn tôi xin chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị ở Công ty Xây Dựng 7” Đề tài kết cấu gồm 3 phần chính: - Chương 1: Tổng quan lý luận về hoạt động nhập khẩu hàng hoá. - Chương 2: Thực trạng hoạt động nhâp khẩu máy móc, vật tư, thiết bị ở Công ty Xây Dựng 7. - Chương 3: Phương hướng và biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc, vật tư, thiết bị ở Công ty Xây Dựng 7. Chương I tổng quan lý luận về hoạt động nhập khẩu hàng hoá I/ Hoạt động nhập khẩu đối với sự phát triển của kinh tế đất nước: 1/ Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia không thể sản xuất ra tất cả những thứ mà quốc gia đó cần nhưng nhu cầu tiêu dùng lại rất đa dạng và phong phú. Nếu mỗi quốc gia không mở cửa và giao lưu với các nước khác trên thế giươí thì sẽ không thể đaps ứng được nhu cầu tiêu dùng của mình và sẽ không thể phát triển được nền kinh tế cũng như mọi mặt chính trị, văn hoá, xã hội ... Nhận biết được điều này ông cha ta từ ngàn xưa đã biết mở cửa, giao lưu buôn bán với các nước ở khu vực khác nhau trên thế giới. Ngày nay Đảng ta và Nhầ nước cũng đã kế thừa và biết phát huy phù hợp với sự phát triển của tình hình đất nước. Mỗi quan hệ trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa một quốc gia với một quốc gia khác là một bộ phận quan trọng của quan hệ kinh tế và kinh doanh quốc tế. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế của những hoạt động sản xuất hàng hoá riêng biệt. Nói đến thương mại quốc tế là nói đến lĩnh vực phân phối lưu thông hàng hoá và dịch vụ nước ngoài. Lĩnh vực này htuộc hai khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng, chắp nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với sản xuất và tiêu dùng nước ngoài. Nếu quá trình này mà hoạt động tốt đẹp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất và đời sống của nhân dân ta. Thưong mại xuất hiện được sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, các khu vực. Vì điều kiện sản xuất rất khác nhau giữa các nước cho nên mỗi dựa vào điều kiện thuận lợi của mình chuyên môn hoá hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện tài nguyên thiên nhiên và nhân lực của mình. Trong thời gian hiện nay TMQT lại càng trở nên quan trọng bởi nó luôn tác động đến phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sâu để có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao trong nhiều ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm và hiệu quả theo qui mô kinh tế sẽ được thực hiện. Mặt khác sự khác nhau về sở thích và nhu cầu của người dân ở các quốc gia khác nhau cũng là một nguyên nhân để có buôn bán quốc tế, ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối ở hai nơi sản xuất giống nhau cũng có thể diễn ra sự trao đổi buôn bán do sở thích khác nhau. Thương mại quốc tế làm tăng khả năng thương mại của mỗi quốc gia, mỗi nước chỉ có thể sản xuất ra một vài thứ và dùng cái đó có thể đổi lấy cái khác. Mỗi nước có các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên như: đất đai, khoáng sản, biển ... khác nhau, có nguồn lực về lao động khác nhau, có nguồn vốn khác nhau như: các nước có lực lượng sản xuất phát triển, có kỹ thuật công nghệ tiến tiến sản xuất ra nhiều mặt hàng khác nhau và có chất lượng tốt hơn. Sự khác biệt về lợi thế và nguồn lực đã làm cho chi phí sản xuất ra mỗi sản phẩm có sự khác nhau giữu nước này với nước khác. Do đó trao đổi hàng hoá trong TMQT làm cho mỗi nước có nhiều loại hàng hoá lưu, có thể có đời sống cao hơn. Thương mại quốc tế góp phần mở rộng thị trường của mỗi quốc gia, mỗi nước có thể sản xuất nhiều sản phẩm hơn, có thể sử dụng công nghệ tiên tiến có năng xuất cao lao động cao, có thể phát huy tính kinh tế về quy mô để giảm giá thành của mỗi đơn vị sản phẩm, để hạ giá bán trên thị trường trong nước và quốc tế, tức là thúc đẩy khả năng phát triển sản xuất trong nước. Thông qua TMQT một nước sở tại có thể mua hàng hoá từ nước khác với mức giá thấp hơn so với chi phí sản xuất ra loại hàng hoá đó ở trong nước với chất lượng sản phẩm tốt hơn. Nhưng sự cạnh tranh của sản phẩm, chất lượng cao và giá rẻ nhiều khi là một thách thức đối với sản xuất trong nước và có thể gây ra những khó khăn cho một tầng lớp dân cư đặc biệt là ngành hàng nhập ngoại có giá rẻ và chất lượng cao hơn. Ngoài ra thông qua TMQT cũng du nhập vào trong nước nhưng nền văn hoá, phong tục tập quán khác nhau. Chính vì vậy chính phủ các nước đều có chính sách đối với quan hệ kinh tế và KDQT của nước mình. 2/ Vai trò của nhập khẩu hàng hoá nói chung và nhập khẩu máy móc, vật tư, thiết bị nói riêng trong nền kinh tế nước ta hiện nay: Xuất nhập khẩu nói chung và nhập klhẩu nói riềng là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mầ là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Do đó xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh tế rất cao hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đương đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể tham gia nhập khẩu không dễ dàng khống chế được. Nhập khẩu là một hoạt động qua trọng của ngoại thương, nó tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất mà không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế nghĩa là để nhập về hàng hoá mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt hàng nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế trong nước, trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố sản xuất: công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động đóng vai trò quan trọng nhất. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay của nước ta vai trò quan trọng nhất của nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau: - Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất nước. - Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động. - Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy sản xuất, thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hnàg Việt Nam ra nước ngoài. - Nhập khẩu tăng khả năng tiêu dùng, đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, quy cách cho phép thoả mãn tốt hơn nhu cầu trong nước. Mặt khác nó còn làm tăng cường sự chuyển giao công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian. Đồng thời nhập khẩu cũng tạo ra động lực buộc các nhà sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, thúc đẩy sản xuất trong nước. * Ngày nay thì nhập khẩu có những chức năng sau: - Tạo vốn và kỹ thuật bên ngoài cho quá trình tái sản xuất trong nước. - Thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất. - Tăng hiệu quả của nền kinh tế thông qua lợi thế so sánh và tiếp thu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới. * Tính hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu được thể hiện ở chỗ: - Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nâng cao thu nhập bình quân. - Sử dụng tốt mọi khả năng, tiềm tàng sản xuất. - ổn định giá cả chống lạm phát. Nhà nước ta khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng trong nước không sản xuất được. Trong tình hình đó, các doanh nhiệp trong nước muốn tồn tại và phát triển được phải quan tâm hơn đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Hàng hoá nhập khẩu không những mở rộng khả năng sản xuất tiêu dùng trong nước mà còn góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao tầm hiểu biết của nhân dân về sự phát triển không ngừng của thế giới. Việt Nam là một nước nghèo và thiếu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị nhằm mục đích công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Thêo số liệu của bộ thương mại, xuất khẩu của Việt Nam hiện nay có thể lù đắp được 60% - 70% chỉ tiêu nhập khẩu. Trong tổng kim nghạch hiện nay thì có đến 80% - 90% là nhập khẩu tư liệu sản xuất nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng chỉ chiếm một tỉ lệ không đáng kể. Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò của hoạt động nhập khẩu thì điều đó còn phụ thuộc rất nhiều vào đường lối, quan điểm của Đảng. ở nước ta trong thời kỳ cơ chế quan liêu bao cấp tự cung, tự cấp quan hệ chỉ bó hẹp trong phạm vi một vài nước xã hội chủ nghĩa hoạt động nhập khẩu chỉ dựa trên các khoản viện trợ và mua bán theo nghị định thư là chính, sự quản lý quá cứng nhắc của Nhà nước đã làm mất đi tính linh hoạt uyển chuyển và tính hiệu quả của hoạt động nhập khẩu, không phát huy được hết vai trò của hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế. Bên cạnh đó chủ thể của hoạt động nhập khẩu là các doanh nghiệp nhà nước độc quyền, thụ động, cơ cấu cồng kềnh, trình độ cán bộ hạn chế, do đó việc nhập khẩu đã mang lại hiệu quả không cao đặc biệt là nhập khẩu máy móc thiết bị. Tất nhiên những cái cũ không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại sẽ bị diệt vong và thay vào đó là những cái phát triển hơn đó là nền kinh tế thị trường với cơ chế mở. Đấy chính là bước ngoặc lớn cho nền kinh tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Tuy mới một thời gian ngắn nhưng hoạt động nhập khẩu đã phát huy được vai trò của nó, nhập khẩu đã tạo ra thị trường trong nước sôi động, tràn ngập hàng hoá với đủ các quy cách, chất lượng, chủng loại mẫu mã đa dạng và phong phú hơn đáp ứng được phần nào nhu cầu tiêu dùng trong nước. Bên cạnh đó nhập khẩu cũng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, sự phá sản và sự cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp đủ các thành phần kinh tế, giúp cho nền kinh tế nước ta lúc đầu còn bỡ ngỡ đã dần tạo thế chủ động bước vào nền kinh tế thế giới. Thữh tế thời gian qua đã chững minh những ưu thế của nền kinh tế thị trường cũng như khẳng định lại vai trò nhập khẩu trong cơ chế mới. 3/ Các chính sách nhập khẩu ở nước ta hiện nay. Nhận thức được vai trò quna trọng của hoạt động nhập khẩu Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng đến việc đổi mới các chính sách nhập khẩu sao cho có thể phù hợp với thời đại hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm đối với hoạt động nhập khẩu như: - Quăn triệt bài học kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại đối với hoạt động nhập khẩu. - Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế và hoạt động dưới sự thống nhất quản lý của Nhà nước. - Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu tức là không chỉ chạy theo mục đích lợi nhuận mà bất chấp bỏ qua những lợi ích xã hội mà ngược lại phải biết kết hợp một cách hài hoà giữa các lợi ích. Những quan điểm này được cụ thể hoá trong các nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu sau: a> Sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm, đem lại hiệu quả kinh tế cao: Thực hiện các nguyên tắc này có nghĩa là đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như mỗi doanh nghiệp phải: - Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước. - Sử dụng vốn tiết kiệm, dành ngoại tệ nhập vật tư, thiết bị sản phẩm và đời sống, khuyến khích sản xuất trong nước thây thế hàng xuất khẩu. - Nghiên cứu thị trường để nhập được hàng hoá thích hợp với giá cả có lợi, nhanh chóng phát huy tác dụng, đẩy mạnh và nâng cao đời sống cho nhân dân. b> Nhập khẩu thiết bị tiên tiến hiện đại: Việc nhập khẩu những trang thiết bị tiên tiến hiện đại sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong nước có thể có hiệu quả kinh doanh cao hơn. Mặt khác với những thiết bị có kỹ thuật tiên tiến hiện đại thì các cán bộ quản lý của doanh nghiệp ta có thể học hỏi thêm nhiều về những kỹ thuật mới nhằm giúp cho doanh nghiệp phát triển hơn. c> Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩu. Đây chính là những nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu mà Đảng và Nhà nước ta đề ra. Đây cũng được hiểu như là cách xử sự hay đúng hơn là những quy tắc thực hiện trong hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của xã hội cũng như của các doanh nghiệp. * Trong những năm tới Việt Nam có chính sách nhập khẩu như: Căn cứ vào mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta đến năm 2003 và những nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu - Nhập khẩu chủ yếu là vật tư phục vụ cho sản xuất (xăng dầu, phân bón, sắt thép, bông, dụng cụ phụ tùng), hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ. - Nhập khẩu thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất máy móc tiên tiến, hiện đại, đổi mới công nghệ. Ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật, công nghệ để chế biến hàng xuất khẩu. 4/ Tổng quát về tình hình nhập khẩu của nước ta trong những năm qua. Mở rộng thương mại quốc tế và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác là vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn nước ta trong những năm qua. Nền sản xuất xã hội nước ta hướng ra ngoài và được các nước bầu bạn quốc tế hướng vào nước ta vừa làm kinh tế vừa hỗ trợ giúp đỡ thì ta sẽ có điều kiện cân đối được xuất nhập khẩu, tiến lên có “xuất siêu” và như vậy là có được tích luỹ cho sản xuất mở rộng. Kinh tế quốc dân vững mạnh thì có được uy tín chính trị cao và có điều kiện góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại. Trong quá trình phát triển của thế giới hiện đại khi quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới trở nên sâu rộng hơn bao giờ hết và khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển đến một trình độ cao trở thành một yếu tố không thể thiếu được cho sự phát triển của nền kinh tế, cho phép có thể phân chia các giai đoạn cho quá trình sản xuất thành những khâu khác nhau và phân bố ở những vị trí cách nhau hợp lý thì không một nước nào có thể đóng cửa nền kinh tế, tự mình thực hiện một chính sách biệt lập táhc khỏi mối quan hệ cũng có lợi với thế giới bên ngoài. Nhận thức được điều đó Đảng và Nhà nước ta đã có hướng đi mới trong đường lối chính sách của mình. Trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nền kinh tế đối ngoại đối với nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế của đất nước cũng như phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ. Cho đến nay chúng ta cũng thấy được những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất mới bằng những công nghệ khoa học tiên tiến, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm ngày một tăng. Bảng 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 1996. Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Xuất khẩu 2187 2681 3189 3700 5500 8000 Nhập khẩu 2448 2641 3100 4600 7900 8350 Cán cân XNK - 251 50 - 891 - 950 - 2300 - 1150 Tổng kim ngạch 4635 5322 6289 8300 13400 16350 Qua bảng trên ta thấy kim ngạh xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng tăng nhanh bình quân trên 22% mỗi năm từ thời kỳ 1996 đến nay. Cũng trong thời kỳ này tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng trung bình 16% nhập máy móc thiết bị giảm nhưng tỷ trọng nguyên vật liệu vẫn còn quá lớn, trung bình là 60% đặc biệt là xăng dầu và vật liệu xây dựng thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam vần là các nước Châu á - Thái Bình Dương. Cho đến nay tuy vẫn là nước “nhập siêu” nhưng chênh lệnh xuất nhập khẩu ngày cxàng được thu hẹp. 5/ Các hình thức nhập khẩu ở nước ta hiện nay. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp nhưng trong thực tế, co tác động của điều kiện kinh doanh và sự năng động sáng tạo của người kinh doanh mà có nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau. Dưới đây áp dụng ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay: a> Nhập khẩu tư doanh: Hoạt động nhập khẩu tư doanh là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán chi phí đảm boả kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng phương hương, chính sách, luật pháp quốc gia cũng như quốc tế. b> Nhập khẩu đổi hàng: Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là moọt hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất nhập khẩu, thanh toán không dùng tiền mà là hàng hoá. ở đây mục đích dùng hàng không phải chỉ để thu lãi từ hoạt độngnhập khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng, thu lãi từ hoạt động xuất khẩu. c> Nhập khẩu uỷ thác: Là hoạt đọng nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá những không có quyền tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập hàng theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng phần thù lao gọi là phí uỷ thác. d> Nhập khẩu liên doanh: Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biệ pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên cùng chia lãi hay cùng chịu lỗ. e> Nhập khẩu tái xuất: Là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất nhập sang một nước thứ ba nào đó nhằm thoả mãn nhu cầu và thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Vậy kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhằm mục đích kiếm lời, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam trong một thời gian nhất định rồi tái xuất mà không qua gia công chế biến. II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong các doanh nghiệp: Nhập khẩu là việc mua hàng hoá của nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song việc mua hàng ở đây có những nét riêng phức tạp hơn mua bán trong nước như: giao dịch giữa những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau ... Hoạt động nhập khẩu thực hiện với nhiều nghiệp vụ nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu nước ngoài. Mỗi nghiệp vụ, mỗi khâu này phải được tiến hành một cách đầy đủ và kỹ lưỡng để có thể đảm bảo cho hoạt động nhập khẩu đạt hiệu quả coa nhất. Như vậy cho dù nhập khẩu ở bất cứ hình thức nào thì các bước tiến hành ở các doanh nghiệp đều bao gồm các trình tự sau: 1/ Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng giao dịch: a> Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu: Mục đích của nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu để tiến hành nhập đúng chủng loại mà thị trường trong nước cần, kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết các mặt hàng nhập khẩu trước hết căn cứ vào nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của từng vùng, từng tập quán, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó xem xét các khía cạnh của hàng hoá cần nhập khẩu như: công cụ, đặc tính quy cách, phẩm chất mẫu mã. Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một nhân tố nữa được tính đến đó là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. Trong nhập khẩu tỷ suất ngoại tệ là tổng số tiền bản tệ có thể thu được khi chỉ ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. b> Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng: Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định, trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Để nghiên cứu dung lượng thị trường thì cần phải xác định được nhu cầu thật của khách hàng và khả năng cung cấp của nhà sản xuất. Nghiên cứu thị trường thì ta có thể nắm rõ được quy luật vận động của thị trường được thể hiện rõ qua nhu cầu tiêu dùng và khả năng sản xuất hàng hoá. Từ đó người nhập khẩu có thể giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến thị trường. Việc nghiên cứu dung lượng thị trường là rất quan trọng đối với người nhập khẩu . Có một số nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường. Đó là các nhân tố cơ bản sau: - Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật sản xuất và nhu cầu hàng hoá cũng được mở rộng có nghĩa là dung lượng thị trường cũng bị thay đổi. Đặc biệt đối với máy móc, thiết bị nhu cầu nhập khẩu ở các nước kém phát triển không ngừng tăng lên làm ảnh hưởng tới dung lượng thị trường. - Các chính sách của nhà nước. - Thị hiếu tập quán của người tieu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế. c> Lựa chọn đối tượng giao dịch: Bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá hay dịch vụ, lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm: - Khi chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước chúng ta cần phải nghiên cứu tình hình sản xuất của nước đó, khả năng và chất lượng hàng hoá, tập quán. - Chọn thương nhân để giao trong điều kiện cho phép hiệu qủ nhất là nên chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn thương nhân bao gồm: quan điểm kinh doanh của thương nhân đó, lĩnh vực kinh doanh của họ, khả năng vốn và cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ. d> Nghiên cứu giá cả và hàng hoá nhập khẩu: Giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường. Trong hệ mua bán quốc tế thì lại càng phức tạp vì đây là mối quan hệ giữa các khu vực khác nhau. Do vậy việc nghiên cứu giá cả là công việc rất quan trọng, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu mức giá của từng mặt hàng tại từng địa điểm trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới và là giá của những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Tóm lại qua nghiên cứu những nhân tố trên cho phép chúng ta biết rõ về quy luật vận động của thị trường. Đồng thời chúng ta sắp xếp thứ tự ưu tiên cho từng thị trường đối với từng mặt hàng cụ thể để sau này chúng ta lựa chọn đối tượng giao dịch phù hợp với chính mình và lựa chọn mặt hàng kinh doanh đảm bảo được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. 2/ Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hoá: Đàm phán là việc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà kinh doanh để đi đến dự thống nhất ký hợp đồng. Có nhiều hình thức đàm phán khác nhau: - Đàm phán qua thư tín. - Đàm phán qua điện thoại. - Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp. Mỗi hình thức đàm phán đều có ưu nhược điểm nhất định, tuỳ từng trường hợp mà lựa chọn hình thức đàm phán cho phù hợp chẳng hạn trong trường hợp nhập khẩu máy móc thiết bị đòi hỏi phải có kinh nghiệm về kỹ thuật và nêu áp dụng hình thức đàm phán trực tiếp là tốt nhất. * Các bước đàm phán trong nhập khẩu gồm có: - Hỏi giá - Chào hàng (phát hàng) - Hoàn giá (mặc cả) - Chấp nhận - Xác nhận * Hợp đồng kinh tế về nhập khẩu hàng hoá: Hợp đồng kỹ thuật ngoại thươnglà sự thoả thuận của đương sự có quốc tịch khác nhâu trong đó một bên gọi là bên bán (hay bên xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên kia gọi làc bên mua (hay bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng. Hình thức hợp đồng bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta. Các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng sao cho có cơ sở pháp lý cụ thể để tạo điều kiện cho hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác và làm căn cứ cho việc xác định lỗi (trách nhiệm) khi có tranh chấp xảy ra. * Trong mua bán quốc tế có nhiều phương thức ký kết hợp đồng khác nhau: - Hai bên cùng ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản) - Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều kiện và điều khoản của một chủ chào hàng tự do nếu người mua dùng thủ tục cần thiết và trong thời hạn hiệu lực của thư chào hàng. - Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua trong thời hạn hiệu lực của đơn đặt hàng. - Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những điều thoả thuận trong đơn đặt hàng trước đây của hai bên (nêu rõ những điều kiện đã được thoả thuận) Hợp đồng chỉ có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp các bên ký vào hợp đồng. Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật và có đủ thẩm quyền. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường: Sự biến động của tất cả các sự vật hiện tượng đều có những nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hoạt động nhập khẩu cũng vậy, luôn luôn thay đổi tuỳ theo diễn biến của tình hình do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. 1/ Chế độ, chính sách, luật pháp trong nước cũng như quốc tế: Đây là yếu tố mà tất cả các doanh nghiệp buộc phải nắm chắc và tuân theo một cách vô điều kiện bởi nó thể hiện ý trí của giai cấp cầm quyền ở mỗi nước, sự thống nhất của quốc tế, nó bảo vệ lợi ích chung cho các tầng lớp của xã hội. Hoạt động nhập khẩu được tiến hànhgiữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, bởi vậy nó chịu sự tác động của các chế độ, chính sách, luật pháp khác nhau. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong hoạt động nhập khẩu, do đó tạo nên sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này. 2/ ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu: Nhân tố này quyết định việc mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp mà tới tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi lớn trong tỷ trọng xuất khẩu và nhập khẩu, chẳng hạn khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền thuận lợi cho việc nhập khẩu thì nó lại cho việc xuất khẩu và ngược lại. Tương tự tỷ suất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàng cũng như phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu. 3/ ảnh hưởng của biến động thị trường trong nước và ngoài nước: Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như là một chiếc cầu nối thông thương giữa thị trường hai nước tạo ra sự phù hợp, gắn bó cũng như sự phán ánh tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của mỗi thị trường. Cụ thể như sự tồn đọng hàng hoá, giá cả, giảm nhu cầu về một mặt ở thị trường trong nước sẽ làm ngay lập tức lượng hàng nhập khẩu. Cũng như vậy thị trường ngoài nước sẽ làm thoả mãn các nhu cầu trên thị trường trong nước. Sự biến động của nó về khả năng cung cấp, về sản phẩm mới, về sự đa dạng của hàng hoá dịch vụ cũng như được phản ảnh qua chiếc cầu nhập khẩu để tác động vào htị trường nội địa. 4/ ảnh hưởng của nền sản xuất trong nước cũng như các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước: Sự phát triển của nền sản xuất, của những doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm nhập khẩu tạo ra sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu do vậy làm giảm nhu cầu hàng nhập khẩu và nếu như sản xuất kém phát triển, không thể sản xuất những măth hàng đòi hỏi kỹ thuật cao thì nhu cầu về hàng nhập khẩu tăng lên do đó ảnh hưởng tơi hoạt động nhập khẩu. Ngược lại sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài làm tăng khả năng của sản phẩm nhập khẩu tạo ra sản phẩm nhập khẩu phù hợp với nhu cầu hiện đại dẫn đến thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển mà hoạt động nhập khẩu bị thu hẹp mà nhiều khi để tranh sự độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh hoạt động nhập khẩu lại được khuyến khích phát triển. Tría lại để bảo vệ sản xuất trong nước khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động nhập khẩu có thể lại thu hẹp. Cũng như sản xuất sự phát triển của hoạt động thương mại trong và ngoài nước của các doanh nghiệp thương mại quyết định đến sự chuyển, lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế hay nền kinh tế các nước khác, bởi vậy tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Mặt khác do chủ thể của hoạt động nhập khẩu chính là những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nên sự phát triển của những doanh nghiệp này đồng nghĩa với sự thực hiện một cách có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp không được tự do phát triển, bị sự can thiệp quá sâu của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu không thể phát huy được. 5/ ảnh hưởng của hệ thống taì chính ngân hàng: Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh và hiện đại, có liên quan chặt chẽ tới các hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4594.doc