LỜI NÓI ĐẦU
Kể từ khi nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang một cơ chế hoạt động mới, cơ chế thị trường thì hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp quốc doanh nói riêng có nhiều thay đổi. Chính nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh là nền tảng đã làm bộc lộ những yếu kém của các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải từng bước khắc phục các nhược điểm cố hữu do cơ chế cũ để lại.
Một trong các vấn đề đang được các doanh
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm duy trì & mở rộng thị trường Tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Chế biến ván nhân tạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp quan tâm nhất là duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bởi vì thông qua duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp mới có thể thực hiện được hoạt động tái sản xuất, mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cũng như các doanh nghiệp khác, Công ty chế biến ván nhân tạo cũng rất quan tâm đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường sản phẩm của Công ty. Công ty chế biến ván nhân tạo đã và đang ổn định vị thế của mình trên thị trường, thực hiện tốt với ngân sách với Nhà nước, không ngừng nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong Công ty.
Xuất phát từ thực tiễn trên cùng với những kiến thức đã học trong trường, em chọn đề tài:
“Một số biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tại Công ty chế biến ván nhân tạo”.
* Đề tài được chia làm 3 phần.
Phần I: Cơ sở lý luận về thị trường duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Phần II: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ván nhân tạo của Công ty chế biến ván nhân tạo trong những năm qua.
Phần III: Phương hướng và các biện pháp duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ván nhân tạo của Công ty chế biến ván nhân tạo.
Do sự hiểu biết có hạn nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự chỉ bảo của thầy cô.
Em xin chân thành cám ơn cô giáo đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bản viết này.
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG, DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
I-/ NHỮNG QUAN NIỆM VỀ THỊ TRƯỜNG, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM.
1-/ Những quan niệm về thị trường.
Thị trường ra đời và gắn liền với nền sản xuất hàng hoá cho nên cùng với sự phát triển nhanh của sản xuất, khái niệm thị trường cũng ngỳa càng phức tạp.
Hiểu một cách đơn giản thì thị trường là nơi giao dịch mua bán hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế. ở đó người có nhu cầu về hàng hoá,dịch vụ sẽ được nhận thứ mà mình cần và ngược lại người có hàng hoá, dịch vụ sẽ được nhận lại một số tiền tướng ứng. Trong khái niệm này thị trường được hiểu theo nghĩa “cái chợ” - “Market”. Lịch sử đã chứng minh rằng sự nhận thức phiến diện về thị trường cũng như sự điều tiết thị trường theo ý muốn chủ quan, duy ý chí trong quản lý và chỉ đạo kinh tế đều đồng nghĩa với việc đi ngược lại các hệ thống quy luật kinh tế vốn có của thị trường và hậu quả se kìm hãm sự phát triển kinh tế.
SƠ ĐỒ 1 - HỆ THỐNG THỊ TRƯỜNG ĐƠN GIẢN.
Sản xuất
Người bán - Cung
Thị trường
Người mua - Cầu
Thông tin
HH, dịch vụ
Tiền
Thông tin
Quan điểm này chỉ thích ứng với nền sản xuất hàng hoá nhỏ, lượng hàng ít, nhu cầu hầu như không biến đổi. Với sự phát triển ngày càng cao về nhu cầu đã tạo nên sự đa dạng hoá về sản phẩm như hiện nay, hệ thống thị trường đơn giản không còn phù hợp nữa. Theo Mác: “Sự phân công là cơ sở chung của mọi nền sản xuất hàng hoá ở đó có thị trường. Thị trường chằng qua là sự biểu hiện của sự phân công xã hội.” Hiểu theo nghĩa rộng, thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá. Một quan niệm khác nữa mà Samuel Son hiểu theo thị trường là: “Một phương thức lưu thông hàng hoá mà tại đó hàng hoá được trao đổi thông qua tiền tệ làm môi giới.
Nói tóm lại, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, một loại hàng hoá dịch vụ. Tại điểm cân bằng, lợi ích của người mua và người bán có thể hoà đồng với nhau trên cơ sở sự thoả thuận và nhân nhượng lẫn nhau. Ngày nay khi nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh và phức tạp, do có hệ thống thị trường cùng biến đổi theo, do tổ chức có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải hiểu biết rõ những khái niệm về thị trường, hệ thống thị trường và những vấn đề xung quanh nó.
Thị trường các nguồn tài nguyên
Thị trường Chính phủ
Thị trường những người trung gian
Thị trường các nhà sản xuất
Thị trường Chính phủ
Thị trường những người tiêu thụ
Các nguồn tài nuyên
Tiền
D/vụ tiền
Tiền
Thuế hàng
Nguồn lao động
Tiền
Tiền
Dịch vụ Tiền
Thuế hàng
SƠ ĐỒ 2 - HỆ THỐNG THỊ TRƯỜNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
2-/ Phân loại thị trường.
2.1 Phân loại thị trường.
Nghiên cứu phân loại thị trường là điều rất quan trọng, nó giúp doanh nghiệp có cách thức ứng xử phù hợp với mỗi loại thị trường. Trong kinh doanh người ta đưa vào nhiều tiêu thức để chia thị trường thành:
a, Căn cứ vào vị trí lưu thông của hàng hoá và dịch vụ để xem xét thì có thể phân ra làm các loại thị trường sau:
- Thị trường trong nước, thị trường địa phương.
- Thị trường ngoài nước, thị trường khu vực.
b, Căn cứ vào sự chuyên môn hoá sản xuất và kinh doanh để xem xét thị trường thì thị trường bao gồm.
- Thị trường chuyên về Nông- Lâm- Thuỷ sản.
- Thị trường hàng tiểu thủ công nghiệp, hàng công nghiệp.
- Thị trưòng hàng cơ khí hoá chất điện tử, vật liệu xây dựng.
c, Căn cứ vào đối tượng lưu thông hàng hoá và dịch vụ.
- Thị trường hàng hoá, tư liệu sản xuất
- Thị trường tiền tệ.
- Thị trường lao động.
d, Căn cứ vào tính chất của thị trường để xem xét thì thị trường bao gồm.
-Thị trường cung (thị trường bán), tthị trường cầu (thị trường những người mua).
- Thị trường độc quyền, thị trường cạnh tranh.
- Thị trường đầu vào, đầu ra (các hàng hoá, dịch vụ).
Đứng trên nhiều góc độ khác nhau ta có thể phân ra làm nhiều loại thị trường. Nhưng mỗi một loại dù có mang đặc điểm tên gọi khác nhau nhưng vẫn mang một điểm chung đó là sự gặp gỡ giữa những người cần bán và người cần mua để từ đó dãn đến một sự cân bằng về lợi ích giữa nguời mua và người bán, đều thoả mãn nhu cầu của mình.
2.2 Phân đoạn thị trường.
Phân đoạn thị trường là việc căn cứ vào mục đích nghiên cứu và các tiêu thức cụ thể để chia thị trường thành một số đơn vị nhỏ (đoạn, khúc) để doanh nghiệp áp dụng chiến lược Marketing thích hợp cho khúca hay đoạn thị trường đó.
Các doanh nghiệp cần phải phân đoạn (khúc) thị trường, bởi thị trường là một thể thống nhất nhưng không đồng nhất, trong đó có nhiều người mua, người bán có giới tính, thu nhập, tuổi tác khác nhau đặc điểm thói quen tiêu dùng khác nhau và khả năng của doanh nghiệp có hạn. Chính vì vậy, phải tìm cho mình đoạn (khúc) thị trường nào đó cho phù hợp với đặc điểm và áp dụng chiến lược Marketing thích hợp với thị trường đó.
Thị trường rất đa dạng, do đó không phải bất cứ thị trường nào cũng phải phân đoạn. Có thị trường vô khúc, đa khúc, đa đoạn việc phân đoạn thị trường chủ yếu được dựa vào các tiêu thức sau:
+ Tiêu thức dân số.
+ Tiêu thức địa lý.
+ Tiêu thức tâm lý.
+Tiêu thức thái độ với khách hàng...
3-/ Vai trò của thị trường tiêu thụ sản phẩm đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì thị trường đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Đó là môi trường để thực hiện các hoạt động thương mại của doanh nghiệp, là một trong các yếu tố cấu thành hoạt động thương mại. Doanh nghiệp mua sắm các yếu tố trên thị trường và bán sản phẩm mình sản xuất ra cho các chủ thể kinh tế khác cũng trên thị trường. Vai trò của thị trường có thể thấy rõ qua một số nhận xét sau.
- Thị trường là khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất hàng hoá, là “cầu nối” giữa sản xuất và tiêu dùng. Thị trường là tấm gương để các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận biết được nhu cầu xã hội và để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính bản thân mình.
- Qua thị trường có thể nhận biết được sự phân phối của các nguồn lực sản xuất thông qua hệ thống giá cả. Bởi lẽ, qua thị trường giá cả hàng hoá và các nguồn lực về tư liệu sản xuất về sức lao động luôn luôn biến đổi. Cho nên phải đảm bảo nguồn lực có hạn này, sử dụng hợp lý để sản xuất ra đúng hàng hoá và dịch vụ về số lượng và chất lượng mà xã hội có nhu cầu.
- Do thị trường là khách quan, mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh không có khả năng làm thay đổi thị trường mà ngược lại họ tiếp cận để thích ứng với thị trường, để xác định được thế mạnh kinh doanh, trên cơ sở những đòi hỏi của thị trường mà có phương án kinh doanh phù hợp. Tuân theo các quy luật của thị trường, phát huy khả năng sẵn có là phương châm hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
- Qua thị trường, các doanh nghiệp sẽ làm căn cứ để hoạch định chiến lược sản phẩm, xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm hợp lý.
- Thị trưòng còn là công cụ bổ sung cho các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước, là nơi Nhà nước tác động và quá trình kinh doanh của cơ sở.
II-/ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM.
1-/ Mối quan hệ giữa công tác tiêu thụ sản phẩm và duy trì mở rộng thị trường sản phẩm của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất mở rộng trong các doanh nghiệp, là quá trình thực hiện giá trị sản phẩm.
Khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trưc tiếp quy định việc hình thành nhiệm vụ sản xuất và tạo ra nguồn thu nhập tiền tệ để cho doanh nghiệp mua sắm các yếu tố sản xuất.
Tiêu thụ sản phẩm giữ vị trí quan trọng trong việc phản ánh kết quả hoạt động cuối cùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh và củng cố vị trí của doanh nghiệp trên thương trường.
Trên thị trường hoạt động cơ bản của nhà kinh doanh là bán sản phẩm hay có thể nói là tiêu thụ sản phẩm. Quy mô thị trường lớn tới đâu thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được diễn ra tới đó. Hoạt động tiêy thụ tốt sẽ góp phần phát triển thị trường hiện có và tìm kiếm thị trường mới và ngược lại. Tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển và mở rộng thị trường với tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thực tế, trên thị trường không phải tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm là sẽ mở rộng thị trường, có thể thấy quan hệ giữa tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường trong 3 trường hợp sau:
* Trường hợp 1: Xét trong kỳ kinh doanh của một doanh nghiệp thấy: số lượng sản phẩm tiêu thụ tăng lên, thời gian luân chuyển của nột đời sản phẩm giảm (tức là khoảng thời gian bắt đầu đưa nguyên vật liệu vào sản xuất cho tới khi sản phẩm bán được và doanh nghiệp đã thu tiền được rút ngắn) có thể kết luận được là tốc độ tiêu thụ sản phẩm tăng lên. Song chưa thể kết luận rằng thị trường doanh nghiệp đã được mở rộng. Doanh nghiệp phải căn cứ vào một vài số liệu khác như phần thị trường của doanh nghiệp tăng lên, trên thị trường đã tiêu thụ một số sản phẩm mới của doanh nghiệp nhưng số sản phẩm cũ vẫn duy trì nhu cầu. Trường hợp này tốc độ tăng tiêu thụ sản phẩm sản phẩm đã giúp cho doanh nghiệp mở rộng được thị trường đồng thời với tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
* Trường hợp 2: Thị trường của doanh nghiệp được mở rộng song xét về thực chất, nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất đã bão hoà. Trên thị trường người tiêu dùng, tiêu thụ một số sản phẩm mới của doanh nghiệp nhưng những người tiêu dùng đó là khách hàng đã tiêu thụ sản phẩm cũ và hiện tại chuyển sang tiêu thụ sản phẩm mới. Như vậy, xét trên toàn bộ thị trường thì tổng cầu về sản phẩm của doanh nghiệp là không đổi, chỉ có thể thay đổi về cơ cấu tiêu dùng sản phẩm.Trong trường hợp này, thị trường của doanh nghiệp được mở rộng nhưng không làm tăng thêm tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
* Trường hợp 3: Trong kinh doanh, giữa mở rộng thị trường và tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm cũng có thời điểm tồn tại quan hệ tỷ lệ nghịch. Quan hệ này xảy ra khi mở rộng được thị trường song tốc độ tiêu thụ sản phẩm giảm. Nguyên nhân của hiện tượng này do doanh nghiệp chưa xây dựng được chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường phù hợp. Doanh nghiệp tập trung các nguồn lực vào vùng thị trường mới nên không chú ý tới các hoạt động củng cổ thị trường cũ. Dẫn tới số lượng sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ trên thị trường cũ giảm, thậm chí nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp bị thay thế bằng sản phẩm của doanh nghiệp khác. Đối với các doanh nghiệp trong trường hợp này cần chú ý tới các chiến lược, sách lược nhằm giữ vững thị trường hiện có.
Trong kinh doanh, muốn mở rộng thị trường tiêu thụ, các doanh nghiệp cần tôn trọng những nguyên tắc đã nêu ở trên. Đồng thời nên điều chỉnh các hoạt động sao cho tạo được quan hệ tỉ lệ thuận giữa mở rộng thị trường và tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, điều đó sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả kinh doanh.
2-/ Xây dựng chiến lược thị trường sản phẩm.
Chiến lược thị trường sản phẩm là những quan điểm, phương hướng, chính sách lớn, phương thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở thoả mãn nhu cầu của thị trường và thị hiếu của khách hàng trong thời gian nhất định.
Xây dựng chiến lược sản phẩm phải phù hợp với thị trường về cơ cấu, số lượng chất lượng, thời gian...
Chiến lược sản phẩm bảo đảm sự phát triển sản xuất kinh doanh đúng hướng, gắn bó chặt chẽ giữa sản phẩm và tiêu thụ, giữa kế hoạch và thị trường, đảm bảo việc đưa sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ và thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận. Chiến lược sản phẩm bảo đảm sự phát triển và mở rộng thị trường trên cơ sở coi trọng công tác cải tiến và chế thử sản phẩm mới cũng như việc theo dõi chu kỳ sống của sản phẩm. Vấn đề then chốt của chiến lược sản xuất cũng như mục tiêu của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường chấp nhận và đạt được mục tiêu doanh lợi.
Đối với những sản phẩm đã và đang được sản xuất được tiêu thụ trên thị trường thì mục tiêu của chiến lược này là mở rộng thị trường bằng cách đưa sản phẩm vào thị trường mới.
Đối với những sản phẩm cải biến và hoàn thiện đang được tiêu thụ trên thị trường hiện có thì mục tiêu chiến lược là phải đáp ứng kịp thời thị hiếu của giới tiêu thụ.
Đối với những sản phẩm mới tương tự được tiêu thụ trên thị trường hiện có thì loại sản phẩm này phải được sản xuất trên cơ sở tiến hành đa dạng hoá sản phẩm. Doanh nghiệp dành thắng lợi trong cạnh tranh là doanh nghiệp đưa ra thị trường, đưa ra những hàng hoá đồng dạng song có sắc thái riêng, hấp dẫn khách hàng.
Đối với những sản phẩm mới hoàn toàn được tiêu thụ trên thị trường hiện có thì mục tiêu chiến lược không những nâng cao hiệu quả mà còn phải đảm bảo sản xuất liên tục bởi vì những sản phẩm này tạm thời chưa có đối thủ cạnh tranh và bán theo giá áp đặt của doanh nghiệp.
Cùng với việc xây dựng chiến lược cần phải chú ý đặc biệt đến chiến lược giá cả. Chiến lược giá cả giữ vai trò quan trọng đặc biệt, nó là mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp, quyết định mức lợi nhuận đạt được và do đó quyết định mức doanh số đạt được, nó góp phần củng cố vị trí và hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cần phải tính toán đầy đủ chi phí cũng như thu nhập và lợi nhuận mà doanh nghiệp dự kiến đạt tới để có thể lựa chọn được một mức giá cuối cùng phù hợp với tình hình cạnh tranh và thích ứng với những điều kiện bên trong của doanh nghiệp. Xác định mức giá tất nhiên phải có lợi nhuận cho người sản xuất kinh doanh, song đối với từng lô hàng không nhất thiết giá cả phải thống nhất mà cần phải có chính sách giá linh hoạt. Xây dựng giá phân biệt theo thời vụ và thời điểm, theo số lượng mua theo điều kiện phương thức mua bán thanh toán...
3-/ Chính sách giao tiếp khuếch trương.
Chính sách giao tiếp khuếch trương là một công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Giao tiếp khuếch trương giúp cung và cầu gặp nhau để thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, giảm chi phí tiêu dùng, giảm chi phí lưu thông tồn kho trong kinh doanh. Chính sách giao tiếp khuếch trương bao gồm một số nội dung sau đây:
- Quảng cáo: là việc sử dụng các phương tiện thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp trong một khoảng không gian và thời gian nhất dịnh. Một quảng cáo được đánh giá là hiệu quả là một quảng cáo truyền tải nhiều thông tin của doanh nghiệp nhất, dễ hiểu, dễ nhớ, chi phí thấp nhất. Tuỳ thuộc vào đối tượng tác động, đặc tính của sản phẩm mà lựa chọn phương tiện quảng cáo cho phù hợp. Có thể lựa chọn nhứng phương tiện quảng cáo như: Rađio, báo, tạp chí, Panô, tờ rơi...
- Xúc tiến bán hàng: là hoạt động của người bán trực tiếp tác động vào tâm ls người mua nhằm nắm bắt với người mua để nắm bắt cụ thể hơn nhu cầu và thông qua sự phản ánh của khách hàng với doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp thoả mãn tốt hơn nhu cầu thị trường. Xúc tiến bán hàng bao gồm những công việc nhằm xây dựng mối quan hệ thường xuyên với khách hàng để tạo lòng tin cho khách hàng với quan điểm “ khách hàng là thượng đế”. Các phương pháp xây dựng mối quan hệ với khách hàng là:
+ Hội nghị khách hàng.
+ Hội thảo.
+ Tặng quà.
+ In ấn Cataloge.
+ Bán thử.
- Yểm trợ bán hàng: là hoạt động rất quan trọng trong công tác tiêu thụ sản phẩm hoạt động yểm trợ ban hàng được thông qua việc sử dụng hoạt động của các hiệp hội kinh doanh, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hội chợ triển lãm..để đẩy nhanh hoạt động và nâng cao hiệu quả của chính sách giao tiếp khuếch trương.
4-/ Chính sách giá cả.
Giá cả luôn là một vũ khí cạnh tranh sắc bén, nhất là trong điều kiện thị trường còn chưa phát triển ở nước ta thì chính sách giá cả trong kinh doanh là vô cùng quan trọng. Chính sách trong hoạt động tiêu thụ là một con dao hai lưỡi nên áp dụng nó không thể tuỳ tiện mà phải có cơ sở chắc chắn. Nhiều khi doanh nghiệp có hàng hoá tốt, mẫu mã đẹp giá bán rẻ mà tốc độ tiêu thụ vẫn chậm vì tâm lý của người tiêu dùng cho là “ của rẻ là của không tốt”. tuy nhiên, người sản xuất cũng không tự ý đặt giá cao hơn giá bình quân trên thị trường thì khách hàng sẽ mua loại hàng khác có công dụng, giá thấp để thay thế hoặc họ sẽ chạy sang phía các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp để mua hàng. Bên cạnh đó, mức giá bán sản phẩm cũng không thế áp dụng một cách cứng nhắc mà cần có sự điều chỉnh liên tục cho phù hợp với thị trường lấy giá thành toàn bộ để xác định giá bán. Việc định giá phải phù hợp với các mục tiêu mà Công ty đã đặt ra: tối đa hoá doanh thu, tối đa hoá lợi nhuận, thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường.
5-/ Các biện pháp hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.
Để thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần phải tiến hành một loạt các hoạt động hỗ trợ, các hoạt động này được thực hiện trong suốt quá trình sản xuất, nó trở thành công cụ đắc lực của các hoạt động Marketing. Tác dụng của các biện pháp hỗ trợ tiêu thụ nhằm duy trì và tạo ra các yêu cầu mới để có tăng dung lượng thị trường, củng cố vị trí và uy tín sản phẩm doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho sự lựa chọn của khách hàng. Mặt khác, thông qua các biện pháp hỗ trợ tiêu thụ có hiệu quả, doanh nghiệp có thể giúp cho người tiêu dùng định hướng và sử dụng thu nhập của mình vào việc mua sắm những loại hàng hoá phù hợp.
a, Thiếp lập các cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
Thiết lập các cửa hàng giới thiệu sản phẩm sẽ làm tăng doanh thu bởi các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ngoài chức năng như tên gọi của cửa hàng, nó có thể đáp ứng ngay nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng về địa điểm, thời điểm, số lượng cửa hàng giới thiệu sản phẩm sẽ mở để công tác này đạt hiệu quả cao.
b,Tham gia các hiệp hội kinh doanh.
Biện pháp này khiến ra nghĩ về cầu nói xưa về hoạt động kinh doanh: “ Đi buôn có bạn, đi bán có phường” thực chất là một doanh nghiệp không thể hoạt động đơn độc trên thị trường mà cần có sự phối hợp với các chủ thể khác trong việc chi phối thị trường, chống hàng giả. Trong điều kiện hiện nay liên kết trong kinh doanh là điều cần thiết.
Ngoài ra còn có các biện hpáp khác như: quảng cáo, tổ chức các dịch vụ sau bán hàng...được áp dụng rất rộng nhiều lĩnh vực và đã có nhiều doanh nghiệp áp dụng các biện pháp này một cách có hiệu quả. Đặc biệt là biện pháp quảng cáo nó giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm thông qua việc thu hút sự quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm...
III-/ QUAN NIỆM VỀ VẤN ĐỀ DUY TRÌ VÀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG.
1-/ Tính tất yếu phải duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
a, Khái niệm về duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Duy trì mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là việc duy trì và mở rộng nơi trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ. Thực chất của nó là giữ và tăng thêm khách hàng của doanh nghiệp.
Mở rộng thị trường theo chiều rộng nghĩa là lôi kéo khách hàng mới, khách hàng theo vùng địa lý tăng doanh số bán với khách hàng cũ.
Mở rộng thị trường theo chiều sâu nghĩa là phân đoạn cắt lớp thị trường để thoả mãn nhu cầu muôn hình muôn vẻ của con người. Mở rộng theo chiều sâu là qua sản phẩm để thoả mãn từng lớp nhu cầu, để từ đó mở rộng theo vùng địa lý. Đó là vừa tăng số lượng sản phẩm bán ra vừa tạo nên sự đa dạng của chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Đó là việc mà doanh nghiệp giữ vững, thậm chí tăng số lượng sản phẩm cũ đã tiêu thụ trên thị trường, đồng thời tiêu thụ được những sản phẩm mới trên thị trường đó. Sự đa dạng hoá về chủng loại mặt hàng và nâng cao số lượng bán ra là mở rộng thị trường theo chiều sâu.
Tóm lại, mở rông thị trường theo chiều rông hay chiều sâu cuối cùng phải dẫn đến tăng tổng doanh số bán tiến tới công suất thiết kế và xa hơn nữa là vwotj công suất thiết kế của doanh nghiệp để từ đó doanh nghiệp có thể đầu tư phát triển quy mô mới.
b, Tính tất yếu của việc duy trì và mở rộng thị trường đối với các doanh nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay, duy trì và mở rộng thị trường là một tất yếu khách quan đối với các doanh nghiệp, lag điều kiện đểcho doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.
Trong kinh doanh vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp thay đổi rất nhanh cho nên mở rộng thị trường khiến cho doanh nghiệp tránh được tình trạng tụt hậu. Cơ hội chỉ thực sự đến với những doanh nghiệp nhạy bén, am hiểu thị trường. Mở rộng thị trường giúp doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, khai thác triệt để tiềm năng của thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lợi nhuận và khẳng định vai trò của doanh nghiệp trên thị trường. Cho nên duy trì và mở rộng là nhiệm vụ thường xuyên liên tục của doanh nghiệp kinh doanh trong kinh tế thị trường.
SƠ ĐỒ 3 - CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM A.
Thị trường lý thuyết sản phẩm A: Tập hợp các đối tượng có nhu cầu
Thị trường tiềm năng của doanh nghiệp về sản phẩm A
Người không tiêu dùng tuyệt đối
Thị trường hiện tại về sản phẩm A
Người không tiêu dùng tương đối
Thị trường các đối thủ cạnh tranh
Thị trường của doanh nghiệp
Trên thực tế đã có nhiều doanh nghiệp rất nỗ lực trong vấn đề duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bằng nhiều phương pháp các doanh nghiệp đã cạnh tranh với nhau nhằm đánh bẹp đối thủ và tăng thị phần của mình trên thị trường. Chẳng hạn như bằng biện pháp tăng khoản chi phí cho các tiết mục như quảng cáo, khuyến mại, tiếp thị...Với mục đích là giữ vững và mở rộng thị phần vốn có của mình.
Tăng thêm phần thị trường tức là tăng tỷ lệ phần trăm bộ phận thị trường của doanh nghiệp nắm giữ trên toàn bộ thị trường sản phẩm đó, là mục tiêu rất quan trọng của doanh nghiệp. Duy trì và mở rộng thị trường làm rút ngắn thời gian sản phẩm nằm trong quá trình lưu thông, do đó tăng nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, góp phần vào việc đẩy nhanh chu kỳ tái sản xuất mở rộng, tăng vòng quay của vốn, tăng lợi nhuận. Tăng nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm khiến cho các doanh nghiệp có điều kiện tăng nhanh tốc độ khấu hao máy móc thiết bị, giảm bớt hao mòn vô hình mà do đó có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đổi mới kỹ thuật ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất. Đến lượt nó, kỹ thuật mới lại góp phần vào việc đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, duy trì và mở rộng thị trường sản phẩm.
2-/ Yêu cầu đối với việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Duy trì và mở rộng thị trường sản phẩm thì các doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt các yêu cầu sau đây:
a, Đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm hiện có.
Yêu cầu này xuất phát từ mối quan hệ qua lại giữa tốc độ tiêu thụ sản phẩm với việc duy trì và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm có nghĩa là tăng tốc số lượng sản phẩm tiêu thụ rút ngắn thời gian luân chuyển của một đời sản phẩm. Khi thị phần của doanh nghiệp tăng lên do số lượng người tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp tăng thì cũng tức là thị trường của doanh nghiệp được mở rộng.
Đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm tức là rút ngắn thời gian thực hiện giá trị của sản phẩm, rút ngằn thời gian hoàn vốn. Do đó các doanh nghiệp cần phải coi trọng công tác tiếp cận thị trường lập phương án giao dịch và tuyên truyền quảng cáo.
b, Mở rộng mặt hàng.
Muốn duy trì và mở rộng thị trường các doanh nghiệp luôn luôn phải mở rộng mặt hàng cả về chiều rộng và chiều sâu. Tức là cần phải đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã, kiểu dáng, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng nhiều hơn những nhu cầu đa dạng của thị trường. Trên cơ sở đó, việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được thuận lợi.
c, Có chính sách giá hợp lý.
Trong nhiều trường hợp cần phải đảm bảo thị trường đó có một giá bán có thể chấp nhận được để có hiệu quả. Duy trì thị trường tiêu thụ sản phẩm hiện có của doanh nghiệp đã là điều khó nhưng mở rộng thị trường lại là điều khó hơn. Nguyên nhân của tình trạng này là do bức rào cản khá mạnh của các đối thủ cạnh tranh, thói quen tiêu dùng sản phẩm của một doanh nghiệp của người tiêu dùng. Lợi nhuận đem lại là chính sách giá cả đó phải lớn hơn hoặc cùng lắm là bằng với lãi suất nếu sử dụng vốn đó để gửi vào ngân hàng mà không kinh doanh. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là đó là một nguyên tắc bất di bất dịch mà trong nhiều trường hợp tuỳ thuộc vào sản phẩm đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống mà người kinh doanh có thể chấp nhận bán với mức lợi nhuận thấp hơn lãi suất ngân hàng. Nhìn chung, trong quá trình cạnh tranh các doanh nghiệp đều phải chấp nhận những thua thiệt trong thị trường nhằm giải quyết công ăn việc làm cho người lao động tạo ra vị thế trên thị trường.
d, Phải đảm bảo giữ được uy tín trên thị trường.
Yêu cầu này khiến ta nghĩ tới một thuật ngữ thương mại của các chủ doanh nghiệp và các chủ kinh doanh “chữ tín quý hơn vàng”. Đó là phương châm của giới kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời đây cũng là bí quyết nhằm dành thắng lợi trong cạnh tranh của các doanh nghiệp lớn. Thực tế đã chứng minh rằng một số doanh nghiệp có tốc độ tiêu thụ giảm sút phần thị trường bị thu hẹp đó bi các đối thủ cạnh tranh xâm chiếm. Điều này một phần là do dịch vụ sau bán hàng tồi như dịch vụ bảo hành miễn phí nhưng thời gian sửa chữa kéo dài, thái độ nhân viên phục vụ kém hoà nhã đối với khách hàng...một phần khác là do chất lượng sản phẩm không đúng với lời quảng cáo của Công ty.
3-/ Các nhân tố ảnh hưởng đến việc duy trì và mở rộng thị trường, các biện pháp duy trì và mở rộng thị trường.
a, Quan hệ cung cầu - giá cả thị trường là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến việc duy trì và mở rộng thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của quy luật cung cầu và giá cả. Trong cơ chế thị trường giá cả là một nhân tố tác động, các doanh nghiệp muốn thắng đối thủ cạnh tranh của mình đều phải cần có những chính sách giá cả mềm mại, linh hoạt phù hợp với từng giai đoạn, trường hợp. Việc định chính sách giá bán phù hợp với cung cầu trên thị trường sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh. Tuy nhiên, bản thân công cụ giá trong kinh doanh chứa đựng nội dung phức tạp, hay biến động do phụ thuộc vào nhiều nhân tố nên trong thực tế khó có thể lường hết các tình huống có thể xảy ra. Các doanh nghiệp hiện nay tuỳ từng trường hợp sử dụng một số chính sách định giá sau:
+ Chính sách định giá theo thị trường.
+ Chính sách định giá thấp.
+ Chính sách định giá cao.
+ Chính sách ổn định giá bán.
+ Chính sách bán phá giá.
b, Nhịp độ phát triển sản xuất kinh doanh của các ngành kinh tế quốc dân là nhân tố ảnh hưởng rất mạnh đến thị trường. Sự phát triển của sản xuất sẽ tác động đến cung cầu hàng hoá, thị trường ngày càng mở rộng. Ngoài ra, nhịp độ phát triển của ngành khoa học, kỹ thuật, văn hoá - nghệ thuật cũng tác động đến thị trường. Khi khoa học phát triển tạo ra thiết bị công nghệ mới chất lượng cao, hạ giá thành sản phẩm. Từ đó hàng hoá sản xuất ra sẽ đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng và đáp ứng được khả năng tanh toán ủa họ làm tăng sức mua trên thị trường và kết quả là thị trường được mở rộng.
c, Mức thu nhập bình quân trong từng thời kỳ của các tầng lớp dân cư cũng ảnh hưởng tới thị trường. Thu nhập tăng hay giảm làm ảnh hưởng tới sức mua của người lao động. Khi thu nhập tăng, khả năng thanh toán của người dân được đảm bảo thì tạo điều kiện cho các doanh nghiệp rút ngắn được thời gian hoàn vốn, tái sản xuất mở rộng sản phẩm bán được, từ đó làm cho thị trường tiêu thụ sản phẩm sẽ có cơ hội và phát triển rộng.
d, Nhân tố kỹ thuật công nghệ:
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược kinh doanh của các lĩnh vực ngành cũng như nhiều doanh nghiệp. Thực tế trên thế giới đã chứng kiến sự biến đổi công nghệ làm chao đảo nhiều lĩnh vực nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, hoàn thiện mới. Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học và công nghệ, do đó việc phán đoán sự thay đổi công nghệ là rất quan trọng và cấp bách hơn lúc nào hết. Doanh nghiệp trong công tác duy trì và mở rộng thị trường cần theo dõi thường xuyên và liên tục vấn đề này để có những chiến lược thích ứng.
4-/ Các biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường sản phẩm.
SƠ ĐỒ 4 - PHƯƠNG HƯỚNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP.
Thị trường sản phẩm liên quan trong sản xuất
Thị trường sản phẩm liên quan trong tiêu dùng
Thị trường sản phẩm chuyên môn hoá
Thị trường sản phẩm chuyên môn hoá được cải tiến
Thị trường sản phẩm có thể thay đổi
Thị trường sản phẩm mới
a, Nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ.
Nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ là một biện pháp chủ yếu nhằm duy trì và mở rộng thị trường. Có những sản phẩm khi mới ra đời được thị trường chấp nhận nhanh chóng do kiểu dáng, mẫu mã mới và việc tiêu dùng như một “ mốt” nhưng vòng đời của sản phẩm chỉ kéo khi sản phẩm đó có chất lượng cao. Chất lượng sản phẩm là m._.ột hệ thống những đặc tính nội tại của sản phẩm được xác định được những thông số có thể đo được hoặc so sánh được, phù hợp với những điều kiện kỹ thuật hiện tại và thoả mãn được những nhu cầu nhất định của xã hội.
Chất lượng sản phẩm cũng đã được đánh giá bởi tỷ lệ sai hỏng:
Tỷ lệ sai hỏng = x100%
Để nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, đổi mới công nghệ phải có trọng điểm, chú trọng những khâu có ảnh hưưỏng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cần phải lựa chọn công nghệ thích hợp với điều kiện của mình cùng với việc nâng cao năng lực công nghệ nội sinh để làm chủ được công nghệ được chuyển giao. Việc trợ giúp các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn cho đổi mới công nghệ cần được thực hiện bằng cách tăng vốn tín dụng trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua.
b, Hạ giá thành sản phẩm.
Hạ giá thành sản phẩm làm tăng thêm sức mạnh cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Giá thành hạ, doanh nghiệp có thể giảm giá bán đi một chút mà vẫn đảm bảo lợi nhuận và do đó người tiêu dùng dễ chấp nhận hơn. Để hạ được giá thành sản phẩm thì doanh nghiệp cần phải coi trọng vấn đề quản trị chi phí nhất là khi nhập các yếu tố đầu vào. Đồng thời cần phải đổi mới công nghệ vì công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Công nghệ hiện đại thích hợp sẽ nâng cao được năng suất lao động. Và từ đó có thể hạ được giá thành sản phẩm chứ không hạ chất lượng sản phẩm.
c, Nâng cao chất lượng công tác dự báo nghiên cứu nhu cầu thị trường.
Thị trường tạo nên môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp mà trong đó doanh nghiệp nào cũng đặt ra yêu cầu là phải mở rộng phần thị trường của mình. Do vậy, để đảm bảo khả năng thắng lợi trong cạnh tranh, để tránh được những rủi ro bất trắc trong kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải hiểu biết cặn kẽ thị trường và khách hàng trên thị trường ấy nghĩa là doanh nghiệp phải làm tốt công tác nghiên cứu thị trường. Mục tiêu của nghiên cứu thị trường là xác định khả năng tiêu thụ các sản phẩm của doanh nghiệp, các sản phẩm này bao gồm các sản phẩm doanh nghiệp đang sản xuất (đã có trong cơ cấu sản phẩm) và các sản phẩm đã dự định sẽ sản xuất và do vậy có ý định thâm nhập thị trường ở phạm vi rộng lớn. Nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường tức là phải thấy rõ được tầm quan trọng của công tác này. Các thông tin thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp phải chuẩn xác, nhanh nhạy. Hơn nữa, việc xử lý thông tin cần phải kịp thời, hữu hiệu. Ngoài ra cần có một đội ngũ chuyên gia giỏi, giàu kinh nghiệm trong thu thập và xử lý thông tin thị trường và phải dành một phần nguồn lực tài chính của doanh nghiệp cho công tác này.
d, Xây dựng chính sách tiêu thụ sản phẩm hợp lý.
Xuất phát từ thực trạng của các doanh nghiệp, nước ta hiện nay thỉ tình trạng bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm hoạt động thị trường là tình trạng khá phổ biến. Bởi vậy trong trao đổi hàng hoá, hàng đó có hoạt động thị trường quốc tế gặp nhiều thua thiệt. Cho nên nâng cao năng lực hoạt động thị trường là điều rất cần thiết đối với các doanh nghiệp. Trên cơ sở chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh trong đó cốt lõi là chiến lược các doanh nghiệp cần phải xác định được chính sách thương mại của mình. Chính sách thương mại đó xác định những vấn đề có tính chất nguyên tắc chi phối sự ứng xử của doanh nghiệp trên thị trường đầu ra.
Để có một chính sách tiêu thụ hợp lý là phải khắc phục những yếu kém sau.
+ Dịch vụ bán hàng tồi
+ Địa điểm bán hàng không phù hợp, hệ thống bán hàng hẹp.
+ Phương pháp bán hàng cứng nhắc, nhân vien bán hàng không thuyết phục khách hàng, thái độ bán hàng cửa quyền.
e, Tăng cường hiệu quả quản lý cởi mở của Nhà nước.
Trong cơ chế thị trường, sự nỗ lực của các doanh nghiệp chỉ mang lại kết quả mong muốn khi có sự trợ giúp đúng mức của Nhà nước. Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm khó có thể thực hiện được nếu không có sự trợ giúp của Nhà nước trong công tác tiêu thụ sản phẩm trên những mặt sau:
- Xây dựng chính sách thị trường quốc gia, trong đó định hướng phát triển thị trường nội địa, các thị trường quốc tế với từng nhóm mặt hàng tổng quát, các chính sách mở rộng thị trường truyền thống và thâm nhập thị trường mới.
- Hỗ trợ đổi mới công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua việc đổi mới chính sách chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực công nghệ nội sinh của các doanh nghiệp, chính sách tài chính để khai thông các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động, thực hiện chế độ tín dụng trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi.
- Thực hiện các chính sách hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu qua trợ giúp nghiên cứu thị trường, ưu đãi thuế quan và chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý mở rộng quyền hạn của các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu. Doanh nghiệp nào có sản phẩm, có khách hàng và có thị trường đều có thể tham gia xuất khẩu trực tiếp.
- Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhằm tăng sức mua ở thị trường nông thôn.
- Thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý, kiên quyết chống buôn lậu sản xuất hàng giả, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm hiện nay đang được coi là một trong những khó khăn hàng đầu của các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Trên thị trường nội địa, một số sản phẩm đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường nhưng nhìn chung các doanh nghiệp ở những mức độ khác nhau đều gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Hàng hoá tồn kho làm tăng chi phí lưu kho, bảo quản vốn lưu động trong kinh doanh giảm sút. Trong lĩnh vực xuất khẩu tuy kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng hiệu quả kinh doanh còn thấp. Khoảng 80% là xuất khẩu sản phẩm thô hoặc chế biến đơn giản mà chủ yếu là của các doanh nghiệp liên doanh thuộc hình thức gia công cho nước ngoài.
PHẦN II
THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÁN NHÂN TẠO CỦA CÔNG TY CHẾ BIẾN VÁN NHÂN TẠO TRONG NHỮNG NĂM QUA.
I-/ ĐẶC ĐIỂM VỀ KINH TẾ - TỔ CHỨC - KỸ THUẬT ẢNH HƯỞNG TỚI VẤN ĐỀ TIÊU THỤ SẢN ƯPHẨM CỦA CÔNG TY CHẾ BIẾN VÁN NHÂN TẠO.
1-/ Sơ lược về quá trình hình thành, phát triển của Công ty chế biến ván nhân tạo.
a, Lịch sử hình thành.
Từ 1993 trở về trước, trong Liên hiệp khoa học sản xuất thiết kế và xây dựng công trình lâm nghiệp có hai xí nghiệp chế biến lâm sản là:
+ Xí nghiệp chế biến lâm sản Việt Trì
+ Xí nghiệp mộc và trang trí nội thất.
Tình hình sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp lúc đó sa sút, gần như xí nghiệp hoạt động bởi những nguyên nhân sau:
- Xí nghiệp mộc và trang trí nội thất: với nhà xưởng tồi tàn, thiết bị sản xuất lạc hậu, sản phẩm sản xuất đơn chiếc, cộng với việc thực hiện theo chỉ thị 90 của Chính phủ (từ việc xuất khẩu nguyên liệu chuyển sang chế biến thành hàng hoá) sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng bởi chất lượng thấp. Vì thế mà sản lượng sản xuất hàng năm không đáng kể.
- Xí nghiệp chế biến lâm sản Việt Trì có hai dây chuyển sản xuất ván dăm và ván sồi ép được các nước bạn là Nam Tư và Trung Quốc viện trợ trước đây so với bây giờ đã quá cũ kỹ, lạc hậu, không đồng bộ. Vì vậy, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, phải chuyển sang mặt hàng khác, nhưng tiêu thụ vẫn chậm. Do vậy sản lượng hàng năm của xí nghiệp đạt thấp; thiết bị không được khấu hao do kinh doanh thường bị lỗ.
Trước tình hình đó, lãnh đạo Liên hiệp đặt vấn đề và không thể khoanh tay ngồi nhìn để dẫn tới giải thể, phải tìm hướng phát triển mới dựa trên xu hướng sử dụng đa dạng hoá các sản phẩm ván nhân tạo bằng gỗ rừng trồng và gỗ tận dụng trên thế giới ngày càng phát triển, thay thế dần nguồn gỗ rừng tự nhiên đang ngày một kiệt quệ. Trong tình hình hiện nay và trong tương lai không xa, các sản phẩm ván nhân tạo đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội và trong nền kinh tế quốc dân bởi vì:
- Ván nhân tạo có đặc tính ưu việt là không cong vênh, không nứt nẻ, mối mọt, sản xuất được tấm lớn, rất thông dụng trong lĩnh vực đồ mộc và trang trí nội thất, nguyên liệu chủ yếu là gỗ rừng trồng và gỗ tận dụng.
- Ván nhân tạo sẽ thay thế dần các sản phẩm bằng gỗ tự nhiên ngày càng cạn kiệt, góp phần bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái.
Trên cơ sở định hướng đúng được thế mạnh của việc phát triển sản xuất và sử dụng những sản phẩm từ ván nhân tạo ở nước ta trong tương lai. Liên hiệp đã mạnh dạn lập dự án đầu tư đồng bộ, cải tạo phục hồi, bổ sung và xây dựng mới các dây chuyền sản xuất ván nhân tạo. Đến tháng 6/1994 các dây chuyền ván sợi, trang trí bề mặt và đồ mộc ván nhân tạo đã sản xuất thử để hoàn chỉnh công nghệ và đào tạo công nhân bắt đầu từ năm 1995 tất cả các dây chuyền đã ổn định và đi vào hoạt động sản xuất.
Do sự thay đổi của tổ chức ngành lâm nghiệp, thành lập tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam, khâu chế biến lâm sản của liên hiệp được Bộ lâm nghiệp cho phép thành lập Công ty chế biến ván nhân tạo theo quyết định số 568/TCQĐ ngày 31 tháng 8 năm 1995 là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam (tên giao dịch quốc tế Licola).
b, Chức năng nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hiện nay của công ty chế biến ván nhân tạo.
Theo giấy pháp kinh doanh số 109943 được Uỷ ban kế hoạch thành phố Hà Nội cấp ngày 03 - 10 - 1995. Công ty chế biến ván nhân tạo sản xuất kinh doanh các mặt hàng chính phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước:
- Sản xuất các loại ván nhân tạo: ván dăm, ván sợi ván ghép thanh tre luồng ghép.
- Trang trí bề mặt các loại ván nhân tạo.
- Sản xuất các loại đồ mộc và trang trí nội thất.
- Kinh doanh và xuất nhập khẩu các mặt hàng lâm sản và trang trí nội thất.
c, Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và đội ngũ lao động của Công ty.
* Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý:
Để tồn tại và phát triển thì đồng thời với các hoạt động kinh doanh phải tiến hành các hoạt động quản lý, do vậy cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty chế biến ván nhân tạo được hình thành và hoạt động theo sơ đồ sau.
Mô hình tổ chức quản lý:
- Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty, giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp và cao nhất đối với cấp trên trong mọi lĩnh vực hoạt động của Công ty, là người đại diện cho Công ty trước pháp luật về các hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác giám đốc là người có quyền ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
GIÁM ĐỐC CÔNG TY
PGĐ phụ trách hành chính, kỹ thuật
Kế toán trưởng
PGĐ phụ trách kinh doanh
Các giám đốc các xí nghiệp trực thuộc
Trưởng phòng tổ chức hành chính
Trưởng phòng kỹ thuật công nghệ
Phòng kế toán tài chính
Trưởng phòng kế hoạch kinh doanh
Trưởng phòng xuất nhập khẩu
Trưởng phòng trung tâm và dịch vụ thương mại
Các khối sản xuất kinh doanh, dịch vụ
Xí nghiệp ván nhân tạo Việt Trì
Xí nghiệp Điện biên Thanh Hoá
Xí nghiệp mộc và trang thí nội thất
Xí nghiệp trang trí bề mặt trung văn
- Phó giám đốc phụ trách kinh doanh là người có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về các hoạt động kinh doanh của Công ty. Trực thuộc sự quản lý của Phó giám đốc phụ trách kinh doanh là các phòng: Phòng kế hoạch, phòng xuất nhập khẩu, phòng trung tâm tiếp thị, và dịch vụ, thương mại.
- Phó giám đốc phụ trách hành chính, kỹ thuật: là người có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về các lĩnh vực kỹ thuật, xây dựng kế hoạch công tác hàng tháng, quý, năm, quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty theo phân cấp của Giám đốc Công ty, đồng thời giúp giám đốc Công ty và hướgn dẫn các đơn vị thành viên thực hiện các chế độ tuyển dụng, sử dụng lao động tiền lương và các chế độ tuyển dụng, sử dụng lao động tiền lương và các chế độ chính sách khác với người lao động theo đúng thể chế hiện hành. Trực thuộc sự quản lý của phó giám đốc phụ trách hành chính, kỹ thuật là các phòng, phòng tổ chức hành chính, phòng kỹ thuật công nghệ.
- Kế toán trưởng là người giúp giám đốc về công tác kế toán, thống kê, hạch toán của Công ty, là người thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo đúng chế độ kế toán trưởng do Nhà nước quy định. Trực thuộc sự quản lý của kế toán trưởng là phòng kế toán tài chính.
- Các phó giám đốc các xí nghiệp trực thuộc chịu sự quản lý của giám đốc Công ty, là những người có quyền ra các quyết định, có thể tự mua nguyên vật liệu, tự sản xuất theo công nghệ kỹ thuật riêng, tự thành lập hệ thống tiêu thụ cho xí nghiepẹ trực thuộc mình quản lý.
- Phòng kỹ thuật giúp giám đốc Công ty quản lý, xây dựng áp dụng và kiểm tra công tác khoa học, công nghệ và tiến bộ kỹ thuật của công ty và các đơn vị thành viên, đồng thời giúp giám đốc quản lý và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
- Phòng hành chính: tham mưu cho giám đốc thông qua phó giám đốc phụ trách hành chính về công tác lao động, quản lý, sử dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên, quỹ tiền lương, tiền thưởng định mức lao động.
- Phòng kế hoạch tham mưu cho giám đốc qua Phó giám đốc phụ trách kinh doanh về kế hoạch thu mua vật tư, kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm...
- Phòng xuất nhập khẩu tham mưu cho giám đốc về lĩnh vực xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế. Giải quyết các thủ tục trong việc ký kết các hợp đồng kinh tế.
- Phòng trung tâm tiếp thị và dịch vụ thương mại giúp giám đốc tìm hiểu nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để chuẩn bị kế hoạch kinh doanh sản xuất của Công ty phù hợp với thị trường, hướng dẫn các đơn vị xây dựng kế hoạch (quý năm) và tổng hợp xây dựng kế hoạch của toàn Công ty trình giám đốc phê duyệt, nghiên cứu xác định, điều chỉnh khoán giá khoán cho các thời điểm khác nhau trong năm theo cơ chế thị trường, hướng dẫn các xí nghiệp thực hiện hợp đồng kinh tế và tiêu thụ sản phẩm theo phân cấp của Giám đốc Công ty, theo dõi kiểm tra hướng dẫn các đơn vị trực thuộc giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình sản xuất kinh doanh (mà bản thân các đơn vị không tự giải quyết được).
- Phía dưới các phòng ban là các xí nghiệp trực thuộc. Các xí nghiệp này hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập trong phạm vi của mình các xí nghiệp có thể tự mua nguyên vật liệu, tự sản xuất theo công nghệ kỹ thuật riêng, tự thành lập hệ thống tiêu thụ. Tuy vậy hàng năm cứ căn cứ vào kế hoạch sản xuất của Công ty, các xí nghiệp được giao một phần nhiệm vụ sản xuất đó. Điều này cho chúng ta thấy được hẳn nhiệm vụ cơ bản của xí nghiệp thành viên là: một mặt hoàn thành kế hoạch sản xuất do Công ty giao cho, một mặt vẫn đáp ứng nhu cầu sản phẩm của thị trường. Đây là hướng đi mới của Công ty trong việc từng bước gắn người sản xuất với thị trường và hướng việc sản xuất theo thị trường.
* Về đội ngũ lao động của Công ty chế biến ván nhân tạo.
Công ty chế biến ván nhân tạo là một doanh nghiệp Nhà nước, có đội ngũ cán bộ, công nhân khá đông đảo. Từ khi chuyển sang chế độ tự hạch toán kinh tế, Công ty đã mạnh dạn đổi mới sắp xếp lại sản xuất lao động. Tuy nhiên, đội ngũ công nhân trẻ tuy được bổ sung song còn ít và được đào tạo chưa hoàn chỉnh. Số công nhân lớn tuổi khá đông, có phần hạn chế về sức khoẻ và trình độ chưa theo lập được những yêu cầu và đòi hỏi của một nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Số lượng lao động của Công ty biến đổi tăng, giảm theo từng năm. Điều đó tuỳ thuộc vào công nghệ sản xuất của máy móc, trình độ kỹ thuật của công nhân và bộ máy quản lý, quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty, đạt kết quả cao hay thấp. Bằng các biện pháp hợp lý đúng đắn đúng chế độ, chính sách Công ty đã giảm được một số lượng lớn lao động thừa không cần thiết, các phòng ban được sắp xếp tinh giản, gọn nhẹ. Năm 1999 số lượng lao động là 581 đến 2001 còn là 496 cán bộ công nhân viên.
Về cơ cấu lao động của Công ty được biểu hiện qua bảng sau:
BIỂU 1 - CƠ CẤU LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY CHẾ BIẾN VÁN NHÂN TẠO.
STT
Phân loại
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số lượng
% so với tổng số
Số lượng
% so với tổng số
Số lượng
% so với tổng số
1.
Tổng số lao động
581
100
565
100
496
100
2.
Theo giới tính
- Nam
395
68
390
69
312
62,9
- Nữ
186
32
175
31
184
37,1
3.
Theo trình độ
- ĐH và trên ĐH
35
6
41
7,2
50
10,1
- Trung cấp
19
3,3
21
3,7
25
4
- PTTH
527
90,7
503
89,1
421
85,9
4.
Hình thức làm việc
- Trực tiếp
475
81,8
465
82,3
409
82,5
- Gián tiếp
106
18,2
100
17,7
87
17,5
Nhìn vào cơ cấu lao động của Công ty chúng ta có nhận xét như sau:
- Đội ngũ lao động Công ty đã áp dụng các chính sách, biện pháp hợp lý để tinh giản số lượng lao động thừa. Con số biến đổi khá lớn chỉ qua hai năm 1999 số lao động của toàn Công ty là 581 người, cho đến 2001 là 496 người.
- Chất lượng lao động đang dần dần được cải thiện từ chỗ số lượng lao động có trình độ Đại học và trên đại học là 6% năm 1999 tăng lên 10,1% năm 2001. Điều đó phản ánh Công ty đã tăng cường các biện pháp vừa giảm lao động thừa nhưng lại vừa chú ý bổ sung những lao động có trình độ cao để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Đội ngũ lao động trực tiếp, gián tiếp cũng thay đổi theo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Số lượng lao động gián tiếp liên tục giảm qua các năm từ 106 người vào năm 1999 xuống còn 87 người năm 2001. Trong khi đó đội ngũ lao động trực tiếp lại tăng lên từ 81,8% năm 1999 nên 82,5% năm 2001.
Tuy vậy, để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Công ty cũng cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn lao động và phân bổ nguồn lao động hợp lý hơn nữa, bởi Công ty có tồn tại và phát triển hay không điều đó phụ thuộc nhiều vào đội ngũ cán bộ công nhân viên của Công ty.
2-/ Những đặc điểm về kinh tế, kỹ thuật ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh, tới duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
a, Về máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất của Công ty chế biến ván nhân tạo.
Năm 1979, được sự giúp đỡ của các nước bạn là Trung Quốc, Nam Tư, ngay từ những ngày đầu thành lập vì thế mà máy móc của Công ty đang đi vào đã hư hỏng. Sau nhiều năm sử dụng Công ty đã từng bước thay thế mới, bổ sung các máy móc hiện đại để dần nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động bằng cách thay thế dần các loại máy móc cũ bằng các loại máy tự động và bán tự động của Trung Quốc, Việt Nam. Hiện nay Công ty có dàn máy thiết bị vào dạng hiện đại nhất trong ngành chế biến lâm sản ở Việt Nam.
Về công nghệ sản xuất của Công ty: Công nghệ sản xuất các sản phẩm ván nhân tạo là công nghệ khép kín từ khâu sơ chế qua khâu chế biến. Công nghệ của Công ty chưa mang tính đồng đều giữa các sản phẩm, cần phải thay thế dần những công nghệ cũ, lạc hậu bằng những công nghệ hiện đại hơn.
Thiết bị máy móc và công nghệ hiện đại sẽ đáp ứng được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của Công ty, nó góp phần không nhỏ trong quá trình thay đổi mẫu, chất lượng, số lượng...
Sau đây là quy trình công nghệ sản xuất ván nhân tạo và bảng liệt kê số máy móc thiết bị của Công ty chế biến ván nhân tạo.
Gỗ rừng trồng
Gỗ tận dụng
Đóng đồ mộc trang trí nội thất
Gia công thô băm nghiền
Trang trí bề mặt ván
Gia công tinh vào hoá chất hơi
Cắt xén đánh bóng ván
Trải thảm định hình ván
Ép bóng
BIỂU 2 - BẢNG LIỆT KÊ SỐ MÁY MÓC THIẾT BỊ CỦA CÔNG TY CHẾ BIẾN VÁN NHÂN TẠO
STT
Tên máy móc, thiết bị
Nước sản xuất
Năm chưa vào sử dụng
Nguyên giá
1
Dây chuyển sản xuất ván dăm
Nam Tư
1979
2.453.177.925
2
Dây chuyền sản xuất ván sợi ép
Trung Quốc
1993
3.528.223.287
3
Máy cưa đĩa F 700
Việt Nam
1980
1.541.000
4
Máy cưa cắt ngang
Việt Nam
1980
22.801.000
5
Máy tiện gỗ 83
Việt Nam
1988
3.708.028
6
Máy tiện gỗ
Trung Quốc
1988
3.635.910
7
Máy tiện kim loại C620
Trung Quốc
1980
38.746.400
8
Máy tiện kim loại S32K
Trung Quốc
1980
14.609.200
9
Máy bào kim loại B665
Trung Quốc
1980
4.832.000
10
Máy phay kim loại
Trung Quốc
1980
14.893.200
11
Máy cưa kim loại
Trung Quốc
1980
5.451.264
12
Bặm ép thuỷ lực bằng tay.
Trung Quốc
1980
4.200.000
13
Máy hàn điện 1 chiều AT 320
Trung Quốc
1980
6.126.848
14
Palăng điện
Trung Quốc
1980
473.258
15
Máy mài hai đá
Việt Nam
1980
759.500
16
Máy ngắt đầu nguồn
Việt Nam
1979
7.562.612
17
Máy đùn gạch
Việt Nam
1980
612.000
18
Máy nấu keo 2 tấn
Việt Nam
1998
64.604.241
19
Máy cưa vòng lượn
Việt Nam
1994
1.675.860
b, Về nguyên vật liệu của Công ty chế biến ván nhân tạo.
Đặc điểm chủ yếu của nguyên vật liệu sản xuất của Công ty là tính đa dạng và phức tạp. Nó được thể hiện qua đặc thù của các sản phẩm gỗ. Đó là sự kết hợp phức tạp của các nguyên vật liệu, các yếu tố hoá học. Nguyên liệu chủ yếu của Công ty bao gồm:
* Đối với ván dăm bao gồm các loại nguyên vật liệu sau:
- Gỗ nguyên liệu (bạch đàn, bồ đề).
- Keo Ure quy khô.
- Than cục số 2.
- Giấy nháp các loại.
* Đối với ván sợi ép.
- Gỗ bồ đề, gỗ bạch đàn, dổi.
- Keo Phênol
- Axit tôreich.
- Amôniắc
- Paraphin
- Phèn chua.
- Than cám.
* Nguồn cung ứng nguyên vật liệu cho Công ty từ hai nguồn chính sau:
- Nguồn trong nước: Các loại gỗ, gỗ rừng trồng và gỗ tận dụng được nhập từ các tỉnh miền Bắc là chủ yếu như các loại gỗ bạch đàn, bồ đề, gỗ thông bào, gỗ dổi... hàng năm để đáp ứng cho việc sản xuất Công ty phải nhập khoảng 13.500 m3 gỗ các loại được phân ra làm nhiều loại. Các loại gỗ chủ yếu (gỗ rừng trồng 50% = 6800 m3, gỗ tận dụng 50% = 6700 m3) được thu mua từ các hộ nông dân trồng rừng, các lâm trường thuộc Vĩnh Phú, Tuyên Quang, Bắc Thái, Hà Bắc... do đó mà quá trình thu mua nguyên vật liệu sản xuất không theo một vị trí cụ thể nhất định mà nan toả ra nhiều địa bàn khu vực rộng. Điều này gây không ít khó khăn cho công tác thu mua, vận chuyển, bốc dỡ và làm tăng các khoản chi phí bất thường. Tuy nhiên, có những khó khăn như vậy song cũng có thuận lợi là Công ty liên hệ trực tiếp với bên cung cấp nguyên liệu, không phải qua các trung gian. Vì thế mà giá mua các loại nguyên vật liệu sản xuất không cao và được sự ủng hộ nhiệt tình của bà con trồng rừng.
- Nguồn nhập khẩu: Hầu hết các nguyên liệu quan trọng của ngành đều phải nhập từ nước ngoài chủ yếu từ các nước Hồng Kông, Nhật, Singapore... Các loại vật liệu được nhập từ nước ngoài gồm có:
+ Keo Ure quy khô.
+ Keo phênol
+ Axit tonêích
+ Paraphin
+ Phèn chua
+ Amôniắc.
Chính do Công ty thường xuyên nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài nên phải phụ thuộc vào các nhà cung ứng, dễ bị gây sức ép, kế hoạch sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào thời gian nhập khẩu, thị trường cung ứng. Tuy có những khó khăn như vậy nhưng trong quá trình nhập, Công ty có những thuận lợi như nhập khẩu với khối lượng lớn, giá cả rẻ hơn và không phải trả chi phí trung gian. Điều này đòi hỏi quản lý vật tư của Công ty bộ phận tiếp liệu của Công ty phải nhanh nhạy kịp thời phục vụ cho sản xuất.
BIỂU 3 - KẾT QUẢ NHẬP KHẨU NĂM 1999, 2000, 2001
STT
Tên vật tư
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
1
Keo Ure quy khô
kg
200149
132699
77390
2
Keo phê nol
kg
100173,52
51228,48
68304,64
3
Axit tonêích
kg
1382,33
706,92
942,56
4
Paraphin
kg
7123,54
3642,96
4857,28
5
Phèn chua
kg
49955,59
25547,16
34062,88
6
Amôniắc
kg
746,66
381,84
509,12
Qua bảng liệt kê các loại vật tư nhập khẩu các năm của Công ty. Nếu ta đem so các loại nguyên vật liệu mà Công ty nhập về với các loại nguyên liệu mà Công ty dùng để sản xuất hai loại ván nhân tạo thì ta thấy Công ty còn nhập quá nhiều các loại nguyên vật liệu để phục vụ cho sản xuất trong khi với mức thuế nhập khẩu còn cao. Chính vì nguyên nhân này cũng sẽ là một trong các nguyên nhân làm cho giá thành của sản phẩm sản xuất ra tăng lên, làm ảnh hưởng đến vấn đề tiêu thụ của Công ty. Để giảm được giá thành sản phẩm Công ty cần tìm các nguồn cung cấp trong nước. Nhằm giảm bớt được các khoản chi phí khác như thuế nhập khẩu, vận chuyển,... Từ đó mà hạ giá thành sản phẩm, nâng thị phần của Công ty.
c, Thị trường tiêu thụ sản phẩm ván nhân tạo của Công ty chế biến ván nhân tạo hiện nay.
Như chúng ta đã biết do xu hướng sử dụng đa dạng hoá các sản phẩm được chế tạo từ gỗ rừng đang ngày càng phát triển trên thế giới, đặc biệt là trong những năm gần đây đã gây ra một hậu quả hết sức nặng nề là nguồn gỗ rừng tự nhiên đang ngày càng trở nên khan hiếm, kiệt quệ bởi bị khai thác quá mức. Trước tình hình đó, để đáp lại nhu cầu của người tiêu dùng trong nước cũng như ngoài nước, Công ty chế biến ván nhân tạo ra đời, góp phần vào việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về các sản phẩm gỗ. Các sản phẩm ván nhân tạo mà công ty sản xuất tuy với các loại máy móc, thiết bị cũ nhưng chất lượng sản phẩm cũng đạt ngang bằng với các loại ván nhân tạo do nước ngoài sản xuất.
Với ưu điểm là không cong vênh, không nứt nẻ, không mối mọt, sản xuất được tấm lớn lại dùng rất thông dụng trong lĩnh vực đồ mộc và trang trí nội thất nên sản lượng sản xuất ra Công ty đã tiêu thụ được một số lượng lớn góp phần vào việc thay thế các loại sản phẩm gỗ dùng tự nhiên, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
Ván nhân tạo (ván dăm, ván sợi ép) do Công ty sản xuất ra, rất thích hợp cho việc đóng các đồ mộc (giường tủ, bàn làm việc và các đồ dùng sinh hoạt và các đồ trang trí nội thất. Vì thế mà đã đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng đặc biệt là dân thành thị bởi xu hướng phát triển về cơ sở hạ tầng (xây dựng nhà cửa, cao tầng...) nên cần có các sản phẩm không uốn lượn, chiếm nhiều diện tích... Đối với vùng nông thôn do sản phẩm mới sản xuất trong mấy năm gần đây nên thị trường ở vùng nông thôn chưa được mở rộng, nên nhu cầu của người nông thôn chưa cao. Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm của ván nhân tạo, thì bên cạnh đó còn tồn tại các nhược điểm mà Công ty đang dần khắc phục đó là: ngấm nước, thường bị mủn khi gặp thời tiết xấu. Chính vì những yếu điểm này mà làm giảm đi khá lớn thị hiếu của người tiêu dùng. Mặt khác lại cộng thêm các sản phẩm ngoại nhập từ bên ngoài (ván nhân tạo do các nước Nga, Hồng Kông...) sản xuất với công nghệ hiện đại hơn. Ngoài ra trong nước các sản phẩm về đồ nhựa đang có xu hướng phát triển mạnh. Tuy chất lượng của sản phẩm nhựa không cao nhưng ưu điểm là gọn gàng nhẹ, giá hạ, tạo được nhiều mẫu mã kiểu dáng. Nên rất dễ được người tiêu dùng ưa chuộng. Các nhược điểm của sản phẩm ván nhân tạo do Công ty sản xuất và các sản phẩm khác thuộc Công ty cộng với sự phát triển ngày càng mạnh của các sản phẩm thay thế, các loại ván ngoại nhập do nước ngoài sản xuất đã gây không ít khó khăn cho thị phần của Công ty trên thị trường tiêu thụ sản phẩm ván nhân tạo. Hiện nay thị trường tiêu thụ chủ yếu của Công ty vẫn là các tỉnh miền Bắc như Hà Nội, Hà Tây, Hải Phòng, Việt Trì, Quảng Ninh. Ở miền Trung Công ty có bán tại Đà Nẵng, Miền Nam có TP Hồ Chí Minh. Ngoài ra Công ty còn mở rộng thêm được nhiều thị trường khác cả trong và ngoài nước.
Một số thị trường tiêu thụ của Công ty.
STT
Thị trường trong nước
STT
Thị trường nước ngoài
1
Hà Nội
1
Đài Loan
2
Hà Tây
2
Hàn Quốc
3
Việt Trì
3
4
Hải Phòng
4
5
Đà Nẵng
5
6
Thành phố Hồ Chí Minh
6
II-/ THỰC TRẠNG TIÊU THỤ VÁN NHÂN TẠO CỦA CÔNG TY CHẾ BIẾN VÁN NHÂN TẠO.
1-/ Kết quả tiêu thụ sản phẩm những năm qua.
a, Kết quả cụ thể.
Trước cung cách làm ăn mới, không ít những doanh nghiệp có quy mô lớn đã bị phá sản, điều này cho chúng ta thấy được nhược điểm của cơ chế quản lý cũ là: tách rời doanh nghiệp với thị trường sản xuất một cách thụ động theo lệnh của cấp trên giao. Chính cung cách làm ăn đó đã làm cho các doanh nghiệp mất dần năng lực sản xuất, kém nhạy bén khi chuyển sang một cơ chế hoạt động mới, cơ chế thị trường cạnh tranh. Trong bối cảnh đó Công ty chế biến ván nhân tạo cũng như doanh nghiệp Nhà nước khác phải đối đầu với nhiều khó khăn thử thách, nhưng với sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên, Công ty đã từng bước vượt qua những khó khăn ban đầu, từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Cho đến nay Công ty đã có những bước tiến mới, nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi sự cạnh tranh của hàng ngoại và các sản phẩm thay thế làm cho sự tiêu thụ của Công ty bị chững lại. Một số mặt hàng tiêu thụ chính của Công ty vẫn là các loại ván nhân tạo, và từ các loại ván đó Công ty cho ra các sản phẩm đồ mộc, được sản xuất tại xí nghiệp mộc và trang trí nội thất. Ngoài ra Công ty còn kinh doanh một số mặt hàng khác phục vụ đời sống sinh hoạt của người tiêu dùng.
BIỂU 4 - MỘT SỐ KẾT QUẢ TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG NHỮNG NĂM 1999 - 2001
Năm
Sản phẩm
Giá bán (đ)
Khối lượng (m3)
Doanh thu (đ)
Tổng doanh thu (đ)
Tổng sản lượng (đ)
1999
Ván dăm
2.471.207
2121,6
5.242.912.771
8.552.135.412
6.525.717.000
Ván sợi ép
4.356.130
758,7
3.309.222.641
2000
Ván dăm
1.870.095
1080,94
2.021.460.489,3
4.463.850.458
5.261.500.000
Ván sợi ép
3.547.665
688,45
2.442.389.969,25
2001
Ván dăm
1.643.779
1621,8
2.665.880.782,2
5.781.954.725,6
6.972.315.000
Ván sợi ép
3.597.407
866,2
3.116.073.943,4
Nhìn vào bảng biểu ta thấy Công ty chế biến ván nhân tạo là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên chế biến các sản phẩm từ gỗ rừng trồng và gỗ tận dụng cho ra các sản phẩm ván nhân tạo phục vụ cho đời sống sinh hoạt hàng ngày của mọi người. Được thành lập từ lâu nhưng thực sự mới đi vào sản xuất chính trong mấy năm gần đây. Do vậy mà sản lượng bán ra chưa cao, đa phần không hoàn thành kế hoạch đề ra chẳng hạn tổng doanh thu tiêu thụ đề ra là 12 à 15 tỷ đồng nhưng chỉ thực hiện được 40 à 50% tổng doanh thu. Điều đó phản ảnh mức tiêu thụ sản phẩm ván nhân tạo của Công ty còn chưa cao. Tuy vậy, Công ty vẫn đảm bảo các quyền và nghĩa vụ đối với Nhà nước, đảm bảo mức thu nhập cho độingũ cán bộ công nhân viên.
BIỂU 5 - KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH NĂM 2001 - 2000 - 1999
STT
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
TH
KH
%
TH
KH
%
TH
KH
%
1
Giá trị tổng sản lượng
Triệu
6525,717
26000
25,1
5261,5
20600
25,54
7090
15000
47,3
2
Doanh thu
Triệu
8552,112
16000
53,5
4463,85
14600
30,58
5781,965
12000
48,2
3
Tổng chi phí
Triệu
8480,988
8100
104,7
4507,978
4200
107
5940,58
5800
112
4
Thu nhập bình quân
Ngàn
384
450
85,3
375
450
83,3
320
400
80
5
Lợi nhuận
Triệu
71,147412
80
88,9
44,128
60
- 73,5
- 158,615
0
PHẢN ÁNH LỢI NHUẬN VÀ TỔNG CHI PHÍ
PHẢN ÁNH DOANH THU VÀ GIÁ TRỊ TỔNG SẢN LƯỢNG
Qua bảng biểu về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ta thấy chiều hướng sản xuất kinh doanh của Công ty diễn ra theo chiều hướng không mấy thuận lợi mặc dù Công ty đã có nhiều biện pháp củng cố, hỗ t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0276.doc