Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh Xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị 2

Lời mở đầu Hoạt động kinh doanh Quốc tế đóng một vai trò quan trọng vào sự thành công của công cuộc Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm một sự quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh: “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực tr

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh Xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong nước là chính đi đôi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Vai trò này đã được Đảng ta nhận thức rất sớm và nhấn mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Đại hội đã khẳng định: “xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế xã hội trong 5 năm 1986-1990, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai Công nghiệp hoá Xã hội Chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo”. Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và hối thúc các nghành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và nâng cao mức sống. Nhận thức được sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, cũng như trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu, cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập cuối khoá tại Công ty Thương Mại Hữu Nghị II, để đi sâu nghiên cứu vấn đề em mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Đề tài này nhằm mục đích trình bày những vấn đề cốt lõi của nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu, những lợi ích nó mang lại cho nền kinh tế quốc dân và thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty, qua đó rút ra những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại đó và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Công ty. Đây là một đề tài rộng và phức tạp, lại do những hạn chế về trình độ cũng như về thời gian nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn. Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Chương II : Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II thời gian qua . Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II . Xin chân thành cảm ơn! Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh xuất khẩu. I.Khái niệm và vai trò của xuất khẩu. 1.Khái niệm về xuất khẩu. Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia phát triển, sự phân công lao động quốc tế hình thành rõ nét, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia ( hay thị trường nội địa với các khu chế xuất trong nước ). Cơ sở lý thuyết về hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển . Do khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, các nguồn tài nguyên... dẫn đến sự khác biệt về lợi thế trong các lĩnh vực khác nhau của các quốc gia . Để khai thác tối đa lợi thế và khắc phục các hạn chế , tận dụng các cơ hội và hạn chế các thách thức tạo ra sự cân bằng các yếu tố trong quá trình sản xuất và tiêu dùng , các quốc gia phải tiến hành trao đổi các loại hành hoá và dịch vụ cho nhau. Tuy nhiên, xuất khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có những lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Ngay cả khi các quốc gia không có lợi thế về điều kiện tự nhiên , nguồn nhân lực , tài nguyên thiên nhiên... thì quốc gia đó vẫn có thể thu được lợi ích không nhỏ khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Cơ sở và lợi ích xuất khẩu đã được chứng minh qua lý thuyết lợi thế so sánh. Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia hoạt động xuất khẩu để tạo ra lợi ích cho mình, nếu bỏ qua thì quốc gia đó sẽ mất cơ hội phát triển. Khi tiến hành hoạt động xuất khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra các loại hàng hoá vẫn có thể thu được lợi ích cho mình bằng việc chuyên môn hoá vào sản xuất loại hàng hoá, mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác, đồng thời nhập khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng là bất lợi nhất. Mô hình so sánh của David Ricardo được xây dựng dựa trên 5 giả thiết được đơn giản hoá sau đây: 1. Thế giới chỉ có hai quốc gia và hai hàng hoá. Mỗi quốc gia có lợi thế trong việc sản xuất một mặt hàng. 2. Lao động là yếu tố duy nhất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng không di chuyển giữa hai quốc gia. 3. Công nghệ sản xuất của hai quốc gia là cố định. 4. Chi phí sản xuất không đổi, không phát sinh các loại chi phí khác. 5. Hoạt động thương mại hoàn toàn tự do giữa hai quốc gia. Có thể minh hoạ mô hình về lợi thế so sánh của D.Ricardo áp dụng cho hai quốc gia là Việt Nam và Nhật Bản, và hai loại hàng hoá là Vải và Gạo trong bảng 1 sau đây: Minh họa mô hình lợi thế so sánh. Quốc gia Hàng hoá Việt Nam Nhật Bản Vải (m/giờ gia công) 1 6 Gạo (kg/giờ công) 2 4 Mô hình trên cho thấy Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam trong việc sản xuất cả hai loại hàng hoá là vải và gạo. Nhưng khi phân tích cụ thể chúng ta thấy rằng: Trong khi năng suất lao động trong ngành dệt của Nhật Bản gấp 6 lần năng suất lao động trong ngành dệt của Việt Nam thì năng suất lao động trong ngành sản xuất gạo của Nhật Bản chỉ cao gấp 2 lần. Như vậy, trong sản xuất giữa gạo và vải thì Nhật Bản có lợi thế tương đối trong sản xuất vải còn Việt Nam có lợi thế trong sản xuất gạo ( mặc dù về lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam không có lợi thế trong sản xuất mặt hàng nào). Theo quy luật lợi thế so sánh, thì cả hai quốc gia là Việt Nam và Nhật Bản đều có lợi thế nếu Việt Nam chuyên môn hoá trong sản xuất gạo còn Nhật Bản chuyên môn hoá trong sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi cho nhau . Nếu tiến hành trao đổi 6m vải lấy 4 kg gạo của Việt Nam thì Nhật Bản sẽ chẳng có lợi gì cả bởi vì khi mà ngay trong nước họ cũng đã trao đổi theo tỉ lệ này do đó họ sẽ không trao đổi. Tương tự như vậy, nếu trao đổi 1m vải lấy 2 kg gạo thì Việt Nam cũng từ chối trao đổi này, bởi vì Việt Nam sẽ không được lợi gì khi mà ngay trong nước tỷ lệ trao đổi này đang được diễn ra. Do đó, tỷ lệ trao đổi quốc tế nằm ở khoảng giữa tức là: < Tỉ lệ trao đổi quốc tế vải/gạo < Bây giờ giả sử trao đổi 1m vải lấy 1 kg gạo. Trong trường hợp này nếu Nhật Bản trao đổi 6m vải lấy 6 kg gạo thì Nhật Bản sẽ được lợi 2kg gạo hay tiết kiệm được giờ công. Còn Việt Nam nhận được 6m vải mà bình thường Việt Nam phải mất 6 giờ công mới sản xuất được. Nếu 6 giờ công ấy Việt Nam dành để sản xuất gạo sẽ thu được 12 kg gạo và chỉ phải dùng 6kg gạo để đổi lấy 6m vải và như vậy Việt Nam đã lợi 6 kg gạo hay tiết kiệm được 3 giờ công. Qua phân tích ví dụ trên cho thấy, hoạt động xuất khẩu mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia bằng cách xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế so sánh và nhập khẩu những hàng hoá không có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi hàng hoá khai thác tốt lợi thế của mỗi quốc gia. 2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước. Chính vì vậy, nó có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là : tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở của nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng lại với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần làm rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước khác. Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và Thương mại Quốc tế nói riêng phải được coi là một chính sách cơ cấu quan trọng, chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật , công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển , giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện phương châm phát triển thương mại với nước ngoài để đẩy mạnh sản xuất trong nước,vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá để xuất khẩu. Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có vai trò quan trọng, thể hiện: 2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công cuộc Công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện đường lối Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước, trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu sau đây: Vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu thiết bị chính là xuất khẩu. Ngược lại, nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu làm thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân. 2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành khác có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, khi phát triển nghành dệt-may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện đầy đủ cho việc phát triển các nghành sản xuất nguyên liệu như trồng bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy hấp... Cũng như vậy, sự phát triên của nghành chế biến thực phẩm xuất khẩu cũng có thể kéo theo sự phát triển của nghành công nghiệp trồng trọt , chăn nuôi và cả các nghành công nghiệp khác như xay xát, chế biến thức ăn gia súc... Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần làm cho sản xuất ổn định và phát triển, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô (hiệu quả kinh tế nhờ quy mô). Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, nâng cao hiệu quả sản xuất của quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Ngày nay, với một loại sản phẩm, người ta nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm ở các nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực hiện ở nước thứ năm. Như vậy hàng hoá được sản xuất ra ở một nước và tiêu thụ ở những nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của hoạt động xuất khẩu đối với việc chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều kiện cho chuyên môn hoá sâu. Với đặc điểm quan trọng là ngoại tệ được sử dụng làm phương tiện thanh toán xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ cho một quốc gia. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước, mở rộng khả năng tiêu dùng của quốc gia. Thông qua xuất khẩu , hàng hoá của một quốc gia có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này có tác dụng buộc các nhà doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất hợp lý luôn thích nghi được với sự biến động của thị trường thế giới. 2.3 Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị trường mà ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả do đó phụ thuộc rất lớn vào kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn tìm tòi sáng tạo để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh, đòi hỏi phải nâng cao tay nghề người lao động. 2.4 Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống trên nhiều phương diện. Một mặt sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập ổn định. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng phong phú của nhân dân. 2.5 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế ... xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như : vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường... Đối với nước ta hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại , rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, bất cứ một quốc gia nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì nền kinh tế của nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao. Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, tiềm năng và cơ hội của Đất nước. 3.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các Doanh nghiệp. Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp, việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau đây: Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Qua đó có điều kiện giữ gìn nâng cấp và phát triển trình độ kỹ thuật công nghệ, phát triển hệ thống các kênh phân phối sản phẩm. Xuất khẩu đảm bảo cho doanh nghiệp luôn nâng cao việc sử dụng các kỹ năng quản lý chuyên môn, chẳng hạn như kỹ năng quản lý hoạt động xuất khẩu, bán hàng trên thị trường quốc tế, quản lý và dự đoán những xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái. Mặt khác, qua xuất khẩu doanh nghiệp có được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật để tái đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định cho các bộ công nhân viên, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng, vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú của nhân dân, vừa tăng khả năng quay vòng vốn nhanh, tạo điều kiện thu hút lợi nhuận cao. II. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu: Với mục tiêu là đa dạng hoá kinh doanh xuất khẩu, nhằm phân tán và chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thương có thể lựa chọn nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Một số hình thức xuất khẩu chủ yếu là: Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là hình thức đơn vị ngoại thương xuất khẩu các loại hàng hoá dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh, song nó lại có những ưu điểm nổi bật sau: Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên ta có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết. 2.Xuất khẩu uỷ thác. Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định ( thường là tỷ lệ % của giá trị lô hàng xuất khẩu). Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất. 3.Xuất khẩu gia công uỷ thác. Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất. Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp thương mại không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, rủi ro ít hơn, việc thanh toán chắc chắn hơn. Tuy nhiên, nó đòi hỏi phải tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục xuất nhập khẩu, các cán bộ kinh doanh phải có kinh nghiệm và nghiệp vụ kể cả trong quá trình giám sát và kiểm tra công việc. 4.Buôn bán đối lưu . Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị lô hàng xuất khẩu. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán. 5.Xuất khẩu theo nghị định thư ( Xuất khẩu trả nợ). Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu của Nhà nước giao tiến hành xuất khẩu một số mặt hàng hoá nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thường không có sự rủi ro trong thanh toán ( thanh toán do chính phủ thực hiện). Trên thực tế, hình thức xuất khẩu này chỉ xuất hiện rất ít, thường trong môt số nước XHCN trước đây và chỉ trong một số doanh nghiệp Nhà nước. 6. Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh , trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công ) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác ( gọi là bên nhận gia công ) để chế biến thành ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công ). Đây cũng là một hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ được nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia có nguồn lao động dồi dào tài nguyên thiên nhiên phong phú, áp dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia công, ngoài việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động họ còn có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị kỹ thuật công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Đối với nước đặt gia công họ cũng có lợi ích vì lợi dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia công. Hình thức xuất khẩu này, chủ yếu được áp dụng trong những ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may, giày da... Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng phương thức gia công quốc tế mà có được một nền công nghiệp hiện đại, chẳng hạn như Hàn Quốc, Thái Lan, Xingapore... 7.Tái xuất khẩu. Nội dung của hình thức xuất khẩu này là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn. Chủ thể tham gia hoạt động tái xuất khẩu nhất thiết phải có sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất khẩu. Hàng hoá là đối tượng xuất khẩu có thể đi thẳng từ nước xuất khẩu tới nước nhập khẩu hoặc từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất khẩu và sau đó mới tới nước nhập khẩu. Sỡ dĩ có hoạt động tái xuất khẩu là do sự thuận lợi và khó khăn trong quan hệ thương mại giữa các nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, chẳng hạn như bị cấm vận, trừng phạt kinh tế... Tóm lại, các hình thức xuất khẩu có nhiều và rất đa dạng. Trong thực tế hoạt động xuất khẩu, đối với một doanh nghiệp có thể thực hiện cùng một lúc một hay một vài hình thức xuất khẩu khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện và khả năng thực tế của từng doanh nghiệp cụ thể. III.Nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Xuất khẩu là hoạt động hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Hoạt động xuất khẩu phải trải qua nhiều khâu ràng buộc lẫn nhau và đòi hỏi nhà kinh doanh phải hết sức thận trọng, linh hoạt để nắm bắt được thời cơ, giảm rủi ro và thu về lợi nhuận cao nhất. Tuỳ theo các loại hình xuất khẩu khác nhau mà số bước thực hiện cũng như cách thức tiến hành có những nét đặc trưng riêng. Song trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trực tiếp thì nội dung cơ bản của xuất khẩu có thể được thực hiện bởi các vấn đề sau đây: 1.Nghiên cứu thị trường. Vấn đề nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ một Công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, hàng cung ứng, giá cả trên thị trường, qua đó giúp nhà kinh doanh giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh, như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh hàng hoá. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra kết luận đúng đắn để lập kế hoạch Marketing. Nội dung chính của nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước là nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường. Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trường chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái.. Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua hàng, những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu thị trường thường được tiến hành theo hai phương pháp chính. Phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Thông thường nghiên cứu thị trường bao gồm các công việc sau đây: Một là, nghiên cứu thị trường bao gồm: Phân tích tình hình cung: trước hết cần biết rõ tình hình cung toàn bộ khối lượng hàng hoá bán ra trên thị trường đối với một sản phẩm tương tự cần xem xét giá cả trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình bán hàng, sản phẩm của hãng đang ở giai đoạn nào trên thị trường, xem xét tính cạnh tranh của mặt hàng đó. Phân tích tình hình cầu: từ những thông tin về hàng hoá đang bán cần xác định xem những sản phẩm nào có thể thương mại hoá được. Cần xác định: +Người tiêu dùng là ai, tuổi, giới tính, nghề nghiệp... +Nhịp điệu mua hàng. +Lý do mua hàng của khách hàng là gì? +Ai có khả năng trở thành người tiêu dùng? +Sản phẩm của ta liệu có kéo dài được chu kỳ sống hay không? Phân tích những điều kiện của thị trường: phải phân tích cẩn thận tất cả những điều kiện mà việc thương mại hoá sản phẩm của ta có thể gặp như về quy chế pháp lý, về tài chính kỹ thuật hoặc về con người và tâm lý. Hai là, lựa chọn đối tác buôn bán: Để lựa chọn đối tác buôn bán có hiệu quả nên tìm hiều các nội dung sau: +Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó. +Lĩnh vực kinh doanh của thương nhân đó. +Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ. +Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ. +Những người chịu trách nhiệm thay mặt để kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với Công ty. 2.Lập phương án kinh doanh. Trên cơ sở những kết quả đã thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây dựng phương án bao gồm: Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn. Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan. Đề ra mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng? Với giá bao nhiêu? Sẽ thâm nhập thị trường nào? Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đặt ra mục tiêu đã đề ra. Những biện pháp này bao gồm các biện pháp áp dụng trong nước đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế và các biện pháp ngoài nước như quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, tham gia hội chợ quốc tế, mở rộng mạng lưới đại lý. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ tiêu chủ yếu : +Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ. +Chỉ tiêu thời gian hoà vốn. +Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi. +Chỉ tiêu điểm hoà vốn. 3.Tạo nguồn hàng xuất khẩu. Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một Công ty, một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm điều kiện xuất khẩu được, nghĩa là nguồn hàng cho xuất khẩu phải bảo đảm những yêu cầu về chất lượng quốc tế. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư, sản xuất kinh doanh cho đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản, sơ chế phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Như vậy công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có thể được chia thành hai loại hoạt động chính: Loại những hoạt động sản xuất và tiếp tục sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thì hoạt động này là cơ bản và quan trọng nhất. Loại những hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu, thường do các tổ chức ngoại thương làm chức năng trung gian cho xuất khẩu hàng hoá. Thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo ra nguồn hàng cho xuất khẩu. Công tác thu mua tạo nguồn hàng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến độ giao hàng, đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh. Thông qua hệ thống các đại lý thu mua hàng xuất khẩu mà các doanh nghiệp chủ động và ổn định được nguồn hàng. Đẩy mạnh công tác thu mua tạo nguồn hàng là một trong những chiến lược của doanh nghiệp nhất là trong tình hình cạnh tranh diễn ra gay gắt. 3.1. Các hình thức thu mua hàng xuất khẩu. Thu mua tạo nguồn theo đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng. Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, quy cách, chủng loại, phẩm chất, kiểu dáng, số lượng, thời gian giao hàng... Đơn hàng thường là căn cứ để ký kết hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Đây là hình thức ưu việt đảm bảo an toàn cho các doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ của đôi bên. Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng : là hình thức mua bán trao tay, sau khi người bán giao hàng, nhận tiền, người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nghiệp vụ mua bán, hình thức này thường sử dụng thu mua hàng trôi nổi trên thị trường, chủ yếu là hàng nông sản chưa qua sơ chế . Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua liên doanh, liên kết với các đơn vị sản xuất, đây là hình thức các doanh nghiệp đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Việc đầu tư để tạo ra nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý. Thu mua nguồn hàng xuất khẩu thông qua đại lý. Tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà các doan._.h nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu chọn các đại lý thu mua cho phù hợp. Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng. Đây là hình thức phổ biến trong trường hợp các doanh nghiệp ngoại thương là người cung cấp nguyên liệu, vật liệu, vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị... cho người sản xuất hàng xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng trong trưòng hợp các mặt hàng trên là quý hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu trên thị trường. Tóm lại, các hình thức thu mua tạo nguồn hàng là rất phong phú, đa dạng. Tùy theo từng trường hợp cụ thể của doanh nghiệp , của mặt hàng, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn, áp dụng các hình thức thu mua thích hợp. 3.2. Nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng. Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp vụ được thể hiện qua các nội dung sau : Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu. Muốn tạo được nguồn hàng ổn định, nhằm củng cố phát triển các nguồn hàng, doanh nghiệp ngoại thương phải nghiên cứu các nguồn hàng thông qua việc nghiên cứu tiếp cận thị trường. Một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh là nghiên cứu tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán được xu hướng biến động của hàng hoá, hạn chế được rủi ro của thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng trong khoảng thời gian hợp lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu còn nhằm xác định mặt hàng dự định kinh doanh xuất khẩu còn phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu của thị trường nước ngoài về những chỉ tiêu kinh tế_kỹ thuật không? Trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có hướng dẫn kỹ thuật giúp người sản xuất điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường nước ngoài.Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu phải xác định được giá cả trong nước của hàng hoá so với giá cả quốc tế như thế nào? Sau khi đã tính đủ những chi phí mua hàng, vận chuyển, bao gói... thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu cho doanh nghiệp, chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó quyết định chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương. Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu. Xây dựng một hệ thống thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiệm được chi phí thu mua, nâng cao được năng suất và hiệu quả thu mua. Lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua, là cơ sở để tạo ra nguồn hàng ổn định và hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng xuất khẩu. Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu: Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp ngoại thương với nhà sản xuất hoặc các chân hàng đều thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng gia công...Do vậy, việc ký kết hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu. Dựa trên những thoả thuận và tự nguyện mà các bên ký hợp đồng, đây là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra bình thường. Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi đã ký kết hợp đồng với các chân hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương phải lập được các kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện theo kế hoạch. Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho giao hàng theo kế hoạch. 4. Giao dịch_đàm phán_ký kết hợp đồng xuất khẩu. 4.1. Các hình thức giao dịch: Trên thị trường thế giới tồn tại nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có những đặc điểm riêng với kỹ thuật giao dịch riêng. Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất nhập khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và năng lực của người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp chọn phương thức giao dịch phù hợp. Thông thường có các hình thức giao dịch sau: Giao dịch trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán thoả thuận, bàn bạc, thảo luận trực tiếp về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán...Đây là hình thức hết sức quan trọng, đẩy mạnh tốc độ giải quyết mọi vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm. Hình thức này thường được dùng khi có nhiều vấn đề cần phải giải thích cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc là những hợp đồng lớn, phức tạp. Giao dịch qua thư tín: Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để giao dịch giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua thư tín. Ngay cả sau khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì quan hệ cũng phải qua thư tín. Sử dụng thư tín để giao dịch đàm phán phải luôn nhớ rằng thư từ là “sứ giả” của mình đối với khách. Bởi vậy, cách viết thư, gửi thư cần đặc biệt chú ý. Giao dịch qua điện thoại: Việc giao dịch qua điện thoại giúp nhà kinh doanh đàm phán một cách khẩn trương, đúng thời cơ cần thiết. Trao đổi qua điện thoại là trao đổi bằng miệng, không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận quyết định trong trao đổi. Bởi vậy, hình thức đàm phán này chỉ nên dùng trong những trường hợp chỉ còn chờ xác nhận một cách chi tiết. Khi phải trao đổi bằng điện thoại cần chuẩn bị nội dung chu đáo. Sau khi đã trao đổi bằng điện thoại, cần có thư xác nhận nội dung đã đàm phán. 4.2. Đàm phán và nghệ thuật đàm phán. Đàm phán trong kinh doanh bất kỳ một loại hình nào , đều là một nghệ thuật. Trong kinh doanh thương mại quốc tế, các chủ thể đàm phán từ các quốc gia khác nhau, với ngôn ngữ và tập quán trong kinh doanh cũng khác nhau làm cho việc đàm phán phức tạp hơn. Quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng ngoại thương là cơ sở để đi đến ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, những tranh chấp trong thương mại quốc tế đòi hỏi chi phí cao... Chính vì vậy, đàm phán kinh doanh xuất nhập khẩu càng đòi hỏi phải tinh tế, khéo léo. 4.3 Ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá. Đối với quan hệ mua bán hàng hoá, sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì phải thực hiện lập và ký kết hợp đồng. Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta. Đây là hình thức tốt nhất để bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên. Hợp đồng xác nhận trách nhiệm rõ ràng của bên mua và bên bán tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay quan niệm. Trước khi ký kết bất ký một hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu nào, nhà xuất khẩu cần lưu ý đến các khía cạnh dưới đây. Thứ nhất là, tính hợp pháp của hợp đồng xuất khẩu, thể hiện: Người ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi. Các chủ thể hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp. Đối với một số loại hợp đồng đặc biệt khi ký kết phải tuân thủ theo những thể thức nhất định . Thứ hai là, nội dung các điều khoản của hợp đồng: Một hợp đồng mua bán ngoại thương thông thường gồm có các điều khoản như sau: Tên hàng ( Commodity ). Cần kiểm tra xem tên hàng được ghi trong điều khoản này đã đủ để mô tả chính xác hàng hoá, phù hợp với đối tượng của hợp đồng hay chưa? Điều kiện phẩm chất ( quality). Điều khoản này cho biết các đặc trưng chính của hàng hoá bao gồm: tính năng, quy cách, kích thước, chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, mùi vị... Trước khi ký kết, nhà xuất khẩu cần xem xét rõ những nội dung ghi ở điểm này đã đúng với thoả thuận đàm phán chưa? đồng thời xem xét phương pháp xác định phẩm chất có hợp lý, rõ ràng không ? Điều kiện về số lượng ( quantity ). Điều kiện này nói lên số lượng của hàng hoá giao dịch. Nhà xuất khẩu cần lưu ý đến tính chính xác và đơn vị tính số lượng được ghi trong hợp đồng . Đơn vị được dùng trong mua bán ngoại thương theo những tiêu chuẩn quốc tế, có nhiều điểm khác với đơn vị tính trong nước. Vì vậy, cần thiết phải ghi rõ tính xác định của đơn vị là thuộc loại tiêu chuẩn gì. Điều khoản giao hàng ( Shipmemt/Delivery ) Trong điều khoản này, cần lưu ý đến các nội dung sau: +Thời điểm giao hàng: là thời hạn giao hàng có định kỳ, thời hạn giao hàng không có định kỳ hay thời hạn giao hàng ngay. +Địa điểm giao hàng: phải tương ứng với điều kiện cơ sở giao hàng. +Phương thức giao hàng: Quy định về giao nhận sơ bộ hay giao nhận cuối cùng, giao nhận số lượng hay giao nhận chất lượng. +Thông báo giao hàng. +Một số quy định khác đối với việc giao hàng như: hàng có khối lượng lớn, trường hợp hàng cần thay đổi phương tiện vận chuyển, hàng hoá đến trước giấy tờ. Điều khoản giá cả: Cần lưu ý đến các điểm sau đây: +Đồng tiền tính giá, phương pháp định giá; Có thể xác định theo các cách như: giá xác định hay giá cố định, giá quy định sau hay giá có thể xem xét lại, giá di động hay giá trượt...Mỗi phương pháp xác định giá sẽ có các mức giá khác nhau. +Giảm giá: Cần quy định rõ ràng giá được giảm trong những trường hợp nào? tỷ lệ phần trăm của mỗi lần giảm giá là bao nhiêu? Điều kiện cơ sở giao hàng: Đây là một điều khoản phức tạp và quan trọng, có liên quan trực tiếp đến giá cả. Việc xem xét điều kiện cơ sở giao hàng có đúng như đã đàm phán hay không sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng sau này, tránh những tranh chấp đáng tiếc xảy ra. Điều khoản thanh toán ( Settement payment ). Thanh toán là vấn đề quan trọng trong hợp đồng mua bán ngoại thương nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi cũng như mục đích của các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng. Điều khoản này cần quy định những điểm sau: +Đồng tiền thanh toán ( Curreny of payment ). Đồng tiền thanh toán được thoả thuận có thể khác với đồng tiền định giá. +Thời hạn thanh toán: Có thể trả ngay, trả trước, trả sau hay sự kết hợp giữa các hình thức trên. +Phương thức thanh toán: gồm các phương thức chủ yếu sau: phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ, phương thức chuyển tài khoản , ghi sổ ... Hiện nay phương thức tín dụng chứng từ đang được sử dụng phổ biến nhất. +Các chứng từ thanh toán. Điều khoản bao bì, ký mã hiệu ( parking, marking): Cần chú ý kiểm tra những nội dung sau: *Bao bì phải phù hợp với phương tiện vận tải . *Các quy định cụ thể: Vật liệu làm bao bì. *Ký mã hiệu hàng hoá : được viết bằng mực không phai, không nhoè, dễ đọc, dễ thấy, không làm ảnh hưởng đến phẩm chất của hàng hoá. Điều khoản bảo hành ( Warranty ). Trước khi ký kết hợp đồng nhà xuất khẩu nên lưu ý kiểm tra tính rõ ràng của thời hạn bảo hành và các nội dung liên quan đến bảo hành. Phạt, bồi thường thiệt hại ( Penalty ). Trong điều khoản này cần chú ý xem xét những trường hợp nào được bồi thường, phạt và mức độ bồi thường, phạt như thế nào, căn cứ vào đâu để tính toán. Điều khoản bảo hiểm( Insuarrance ). Điều khoản bảo hiểm quy định rõ ai là người mua bảo hiểm và mua theo điều kiện nào. Điều khoản về bất khả kháng ( Force majeure clause ). Trong quá trình thực hiện hợp đồng, có những cản trở bất khả kháng liên quan đến từng công đoạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Ký kết hợp đồng phải quy định rõ trường hợp như thế nào được coi là bất khả kháng, thủ tục ghi nhận bất khả kháng và hệ quả của bất khả kháng. Điều khoản khiếu nại và trọng tài ( Claim and Arbtration). Quy định rõ khi có tranh chấp xảy ra thì giải quyết bằng thương lượng trực tiếp, nếu không thành thì đưa lên trọng tài thương mại hoặc toà án kinh tế. Các điều kiện khác: như lệ phí, thuế quan, chi phí ngân hàng có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng do ai chịu. 4.4 Thực hiện hợp đồng xuất khẩu . Thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và các mối quan hệ với bạn hàng ở các nước. Bất kỳ một sai sót nào xảy ra trong quá trình thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đều có thể dẫn đến những hậu quả đáng tiếc như làm chậm tiến độ hợp đồng, suy giảm chất lượng hàng hoá ...dẫn đến những tranh chấp khiếu nại rất khó giải quyết, gây tổn thất về mặt kinh tế. Vì vậy tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi phải tiến hành chu đáo, có bài bản trên cơ sở tiết kiệm tối đa các khâu chi phí, nhằm nâng cao lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy ký kết hợp đồng xong, các bên sẽ thực hiện các điều kiện mà mình đã cam kết trong hợp đồng. Với tư cách là nhà xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ cam kết thực hiện các công việc sau ( Tuy nhiên trên thực tế, tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người xuất khẩu có thể bỏ qua một hoặc một vài công đoạn). Giục mở và kiểm tra thư tín dụng. Trong hoạt động buôn bán quốc tế ngày nay, việc sử dụng thư tín dụng (L/C) trở nên phổ biến hơn cả do những lợi ích mà nó mang lại. Sau khi nhà nhập khẩu mở thư tín dụng, nhà xuất khẩu cần phải kiểm tra cẩn thận, tỷ mỉ và chi tiết các điều kiện trong L/C xem có phù hợp hoặc có sai sót thì cần phải thông báo cho nhà nhập khẩu biết để sữa chữa kịp thời. Bởi vì khi người mua ( nhà nhập khẩu) đã mở L/C thì lúc này L/C trở thành trái vụ độc lập và các bên sẽ thực hiện các điều kiện trong L/C chứ không căn cứ vào hợp đồng nữa. Xin giấy phép xuất khẩu . Trong một số trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước quản lý, doanh nghiệp phải tiến hành xin giấy phép xuất khẩu. Việc cấp giấy phép xuất khẩu đối với hàng mậu dịch thì do Bộ Thương Mại cấp, còn Tổng cục Hải Quan cấp giấy phép hàng phi mậu dịch ( hàng mẫu, quà biếu, hàng triển lãm). Chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu trực tiếp, việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu là tương đối đơn giản, sau khi đã tiến hành sản xuất ra sản phẩm doanh nghiệp chỉ cần lựa chọn, đóng gói kẻ ký mã hiệu và vận chuyển tới nơi quy định. Đối với doanh nghiệp ngoại thương, các công việc thường tiến hành trong công tác chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu là: Thu gom hàng xuất khẩu : Để thực hiện công việc này doanh nghiệp xuất khẩu cần phải ký kết hợp đồng với các nhà sản xuất trong nước. Đóng gói hàng hoá xuất khẩu: Hàng hoá có thể được đóng gói trong hòm, bao, chai, lọ... Ngày nay, container đang được sử dụng rộng rãi do những ưu điểm to lớn mà nó mang lại. Ký mã hiệu. Kiểm định hàng hoá. Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, phẩm chất, trọng lượng của hàng hoá đó. Nếu hàng hoá là động thực vật thì cần phải kiểm tra mức độ vệ sinh, an toàn thực phẩm và mức độ lây bệnh. Thuê phương tiện vận chuyển. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc thuê uỷ thác cho một Công ty uỷ thác thuê tàu. Việc lựa chọn phương tiện vận chuyển nào, phương thức vận chuyển ra sao là căn cứ vào các yếu tố sau: Những điều khoản của hợp đồng xuất khẩu . Đặc điểm của hàng hoá. Điều kiện vận tải . Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa bên uỷ thác thuê tàu và bên nhận uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. Có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và hợp đồng uỷ thác thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu cần căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp. Mua bảo hiểm hàng hoá. Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường được chuyên chở chủ yếu bằng đường biển. Tuy nhiên, vận chuyển bằng đường biển cũng gây ra không ít rủi ro do đó cần mua bảo hiểm hàng hoá. Việc mua bảo hiểm hàng hoá cần được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm là : hợp đồng bảo hiểm bao và bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm bao, chủ hàng (tức đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu) ký hợp đồng từ đầu năm còn đến khi giao hàng xuống tàu xong chủ hàng chỉ gửi đến Công ty Bảo Hiểm một số thông báo bằng văn bản gọi là: “Giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Khi mua bảo hiểm chuyến chủ hàng phải gửi đến Công ty Bảo Hiểm một văn bản được gọi là “Giấy yêu cầu bảo hiểm”. Trên cơ sở “Giấy yêu cầu bảo hiểm” này, chủ hàng và Công ty Bảo Hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm . Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro ( điều kiện A ), bảo hiểm có tổn thất riêng (điều kiện B) và bảo hiểm miễn tổn thất riêng(điều kiện C). Cũng có một số điều kiện bảo hiểm phụ như : vỡ, rò, gỉ, mất trộm, mất cắp và không giao hàng, gỉ và ôxi hoá, hư hại do móc cẩu, dây bẩn do dầu hoặc mỡ ...Ngoài ra, còn một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt như: bảo hiểm chiến tranh(war rish), bảo hiểm đình công, bạo động và dân biến (strike, riost and civil commotion. Viết tắt là SRCC). Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm dựa trên 4 căn cứ : Điều khoản hợp đồng : chẳng hạn khi bán CIF chúng ta chỉ cần mua bảo hiểm theo điều kiện C. Tính chất hàng hóa. Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng. Loại tàu chuyên chở. (7)Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi vượt biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước sau đây: Khai báo Hải quan: Doanh nghiệp khai báo tất cả các đặc điểm của hàng hoá về số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các chứng từ cần thiết phải xuất trình kèm theo là: giấy phép xuất khẩu, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết, hoá đơn... Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất nhập khẩu được sắp xếp trật tự , thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng. Thực hiện các quyết định của Hải quan. Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra những quyết định như: cho hàng được phép ngang qua biên giới (thông quan), cho hàng đi qua một cách có điều kiện (như phải sửa chữa, phải bao bì lại...), cho hàng đi qua sau khi doanh nghiệp đã nộp thuế, lưu kho ngoại quan, hàng không được xuất (hoặc nhập) khẩu. Các doanh nghiệp phải nghiêm túc thực hiện các quyết định đó. (8)Giao hàng lên tàu. Tuỳ theo thoả thuận về điều kiện cơ sở giao hàng mà việc giao hàng lên trách nhiệm của bên bán hay bên mua. Nếu việc giao hàng là thuộc trách nhiệm của nhà xuất khẩu thì cần thiết phải theo dõi bốc xếp hàng qua cơ quan điều độ cảng để tổ chức vận chuyển hàng hoá, bố trí lực lượng xếp hàng lên tàu. Sau khi bốc xếp thì thực hiện thanh toán phí bốc xếp và lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển nên là vận đơn hoàn hảo đã bốc hàng và có thể chuyển nhượng được. (9)Làm thủ tục thanh toán. Sau khi đã thực hiện chuyển giao hàng hoá lên tàu, nhà xuất khẩu cần lấy đầy đủ các giấy tờ như hoá đơn thương mại, vận đơn đường biển ... Đến thời hạn giao hàng nhà xuất khẩu xuất trình các chứng từ theo quy định trong L/C tại ngân hàng thông báo để nhận tiền từ ngân hàng này hoặc từ ngân hàng thanh toán. Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán tiền hàng bằng phương thức nhờ thu thì ngay sau khi giao hàng, đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng việc thu đổi tiền. Chứng từ thanh toán cần được lập hợp lệ, chính xác và được nhanh chóng giao cho ngân hàng nhằm nhanh chóng thu hồi vốn. (10) Khiếu nại, trọng tài(nếu có). Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu có thể xảy ra những vấn đề phức tạp, không mong muốn làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hợp đồng. Khi đó hai bên cần có thiện chí trao đổi, thảo luận để giải quyết. Nếu giải quyết không thành thì tiến hành các thủ tục kiện đối tác lên trọng tài. Thông thường kiện tụng được đưa ra giải quyết ở cơ quan trọng tài quốc tế. Việc kiện qua cơ quan trọng tài hay được sử dụng để giải quyết tranh chấp vì án phí rẻ hơn so với tòa án , giải quyết nhanh, đảm bảo được bí mật. Phán quyết của trọng tài kinh tế là chung thẩm và có giá trị bắt buộc đối với cả hai bên. Tóm lại, việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là hết sức quan trọng. Thông qua hợp đồng này, nó đưa lại kết quả phản ánh hiệu quả hoạt động của Công ty. Thực hiện tốt các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là cơ sở để nâng cao uy tín, đặt quan hệ kinh doanh lâu dài với bạn hàng, tạo điều kiện mở rộng phạm vi và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Đến đây, một thương vụ xuất khẩu coi như đã kết thúc và doanh nghiệp bắt đầu tiến hành một thương vụ kinh doanh mới. IV.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu . 1.Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. 1.1.Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô. Các nước khác nhau có chính sách thương mại khác nhau, thể hiện ý chí và mục tiêu của Nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế của đất nước mình. Để nền kinh tế trong nước vận hành có hiệu quả thì những chính sách Thương mại thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu những công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết quản lý hoạt động này là: a.Thuế quan. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ đối ngoại. Thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và do mức tiêu dùng trong nước giảm. Nhìn chung công cụ này chỉ được áp dụng đối với một số ít mặt hàng xuất khẩu bổ sung nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. b.Các công cụ phi thuế quan. Công cụ Quota (hạn ngạch xuất khẩu). Hình thức này áp dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hoá . Hạn ngạch được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu, nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép. Mục đích của Chính phủ khi sử dụng Quota xuất khẩu là nhằm quản lý kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả hơn và thông qua đó điều chỉnh loại hàng hoá xuất khẩu. Hơn thế nữa có thể bảo vệ tài nguyên cũng như điều chỉnh cán cân thanh toán... Bên cạnh việc thi hành những biện pháp quản lý hàng xuất khẩu như đã kể trên, các quốc gia còn áp dụng một số biện pháp thuế quan khác như: Đặt ra các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, các thông số kỹ thuật quy định cho hàng xuất khẩu. c.Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất khẩu. Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước. Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này được áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài thì sự rủi ro cao hơn so với tiêu thụ trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu cho các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu có thể dưới các hình thức trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu hoặc cho bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi để có điều kiện mua sản phẩm nước mình... d.Các chính sách đối với cán cân thanh toán Thương mại. Trong hoạt động thương mại nói chung bảo đảm cân bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc củng cố lòng tin đối với các đối tác nước ngoài, nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế và tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế nhanh. Đương nhiên biện pháp để giữ cân bằng không phải là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn. Sự cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là cần khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó chú trọng tới mặt hàng chủ lực, giảm bớt nhập siêu tiến tới cân bằng xuất khẩu. Như vậy nhìn chung việc giữ cán cân thanh toán, cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó những yếu tố thúc đẩy xuất khẩu. 1.2.Các quan hệ kinh tế quốc tế. Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, các mối quan hệ quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu. Khi xuất khẩu hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, nhà xuất khẩu phải đối mặt với hàng rào thuế quan, hàng rào phi thuế quan, các hàng rào này chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa các nước nhập khẩu và nước xuất khẩu. Khi đó, với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế cũng được ký kết với mục tiêu thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào các liên minh kinh tế và các hiệp định thương mại ấy sẽ là một tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của quốc gia. Nếu không chính nó lại trở thành vật cản đối với việc thâm nhập vào thị trường trong khu vực đó. Tóm lại có được mối quan hệ quốc tế mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của một quốc gia. 1.3.Các yếu tố chính trị, chính phủ và pháp luật. Các yếu tố chính trị, chính phủ và pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động mua bán quốc tế. Các Công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của chính phủ liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế hiện hành. Khi hoạt động kinh tế quốc tế nói chung kinh doanh xuất khẩu nói riêng các nhà kinh doanh luôn phải lưu ý: Các quy định của luật pháp Việt Nam đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế (thủ tục và quy định về mặt hàng xuất nhập khẩu, quy định về quản lý ngoại tệ). Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia. Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà Doanh nghiệp có quan hệ làm ăn. Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới việc xuất khẩu như: Công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế năm 1980 hay luật bảo hiểm quốc tế, luật vận tải quốc tế, các quy định về giao nhận ngoại thương, Incoterm. 1.4. Các yếu tố khoa học công nghệ. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nhiều công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng cao và mẫu mã đa dạng hơn. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm được kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Trong hoạt động xuất khẩu cũng vậy, việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ có tác động làm tăng hiệu quả của công tác này. Điều thấy rõ nhất là nhờ sự phát triển của Bưu chính Viễn thông, Tin học mà các đơn vị ngoại thương có thể đàm phán ký kết hợp đồng với đối tác qua điện thoại, điện tín... giảm được chi phí đi lại. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ còn có tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, bảo quản hàng hoá, kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng... đó cũng là những nhân tố ảnh hưởng tích cực đến hoạt động xuất khẩu. 2. Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp. 2.1.Nhân tố bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính. Là sự tác động trực tiếp của các cấp lãnh đạo xuống CBCNV nhằm mục đích thực hiện hoạt động của doanh nghiệp. Để quản lý tập trung thống nhất phải sử dụng phương pháp hành chính. Việc thiết lập cơ cấu tổ chức của bộ máy Doanh nghiệp cũng như cách thức điều hành của các cấp lãnh đạo là nhân tố quyết định tính hiệu quả trong kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý, có cách điều hành sáng suốt sẽ góp phần thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngược lại, nếu cơ cấu tổ chức xuệch xoạc, cách điều hành kém cỏi sẽ dẫn đến hiệu quả thấp trong hoạt động kinh doanh. 2.2.Nhân tố con người. Con người được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con người bởi vì con người là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động. ảnh hưởng của nhân tố này thể hiện qua hai chỉ tiêu: Đó là tinh thần làm việc và năng lực công tác. Tinh thần làm việc biểu hiện bởi bầu không khí trong doanh nghiệp, tình đoàn kết và ý chí phấn đấu cho mục tiêu chung. Năng lực của nhân viên lại biểu hiện qua kỹ năng điều hành công tác và các nghiệp vụ cụ thể và qua kết quả hoạt động. Để nâng cao vai trò của nhân tố con người các doanh nghiệp một mặt phải nâng cao nghiệp vụ cho họ mặt khác phải quan tâm thích đáng đến lợi ích cá nhân bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. 2.3.Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp ngoại thương phụ thuộc rất lớn vào hệ thống mạng lưới kinh doanh của nó. Mạng lưới kinh doanh rộng lớn là điều kiện để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động tạo nguồn hàng vận chuyển làm đại lý xuất khẩu ... Do vậy mạng lưới kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Nếu mạng lưới kinh doanh không hợp lý sẽ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh làm triệt tiêu tính năng động và khả năng cạnh tranh của Doanh nghiệp trên thương trường. 2.4.Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của Doanh nghiệp. Cơ sở vật chất của Doanh nghiệp như vốn cố định bao gồm các máy móc thiết bị, hệ thống kho tàng, nhà xưởng, hệ thống phương tiện vận tải, các điểm thu mua hàng, các đại lý chi nhánh và trang thiết bị của nó...cùng với vốn lưu động là cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Các khả năng này quy định quy mô, tính chất lĩnh vực hoạt động xuất khẩu và vì vậy góp phần quyết định hiệu quả kinh doanh. Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương mại hữu nghị ii thời gian qua I. giới thiệu chung về công ty . 1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty qua các giai đoạn : - Công ty thương mại GMC là một đơn vị kinh doanh thuộc Tập đoàn ERON - USA. - Công ty thương mại GMC được thành lập theo quyết định số 394/UN ngày 20/06/1990 của ER- USA. - Sau một thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, Công ty xin phép UN cho Công ty được mở rộng địa bàn hoạt động ra các Quốc gia để phù hợp với chính sách kinh tế " Đổi Mới " của USA và nhân dân đã đề ra, đồng thời có cơ hội nắm bắt Thị trường, làm quen dần với các mô hình kinh tế Cộng sản mới bằng cách đặt một Công ty tại Hà nội City. -Ngày 14 tháng 5 năm 1991 UBND TP Hà nội cho phép Công ty thương mại GMC được đặt Công ty tại số 02 đường Hùng Vương , quận Ba Đình, TP Hà nội. -Trải qua 11 năm hoạt động, Chi nhánh ngày càng ổn định và phát triển. 2. Chức năng và nhiệm vụ chính của Công ty : - Sản xuất chế biến hàng xuất khẩu các loại nông,lâm,thuỷ sản. - Nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu, vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu và nhập các loại hàng để kinh doanh. -Kinh doanh mua bán,trao đổi hàng hoá vật tư sản phẩm các loại,làm gia công chế biến và tổ chức dịch vụ kinh doanh. - Phạm vi kinh doanh của Công ty : a- Kinh doanh trong nước : - Sản xuất chế biến và gia công các nhóm hàng nông,lâm,thuỷ sản và đặc sản ( cao._.ong nước và xuất khẩu. Công ty khi quyết định tham gia vào thị trường Châu Âu thì phải nghiên cứu đến các sản phẩm chế biến bởi nhu cầu về các sản phẩm thô ở khu vực này rất thấp, công tác phát triển thị trường khó thành công ở đây với các chủng loại hàng hiện nay của Công ty. Việc chinh phục các thị trường này thường rất khó khăn bởi khoảng cách về địa lý, về tâm lý tiêu dùng, về những quy chế bảo hộ ngành lâm nghiệp của các nước và các đòi hỏi về các thông số kỹ thuật , song Công ty nên xác định đây là thị trường chính của Công ty sau này. Do cộng đồng Châu Âu có những mức quy định chung nên khi hàng của Công ty đã gia nhập thị trường của một nước trong khối thì sẽ dễ dàng trong việc phát triển ra thị trường các nước khác. Quy mô của thị trường Châu Âu khá lớn và khả năng thu lợi nhuận cao. Trong những năm trước việc xuất hàng đi các nước Phương Tây là tương đối khó khăn do ở thị trường Đông Âu tuy nhu cầu tiêu thụ hàng còn khá lớn nhưng những hạn chế về chính trị đã gây khá nhiều trở ngaị, thị trường Tây Âu thì lại là thị trường mới hoàn toàn với rất nhiều quy định hạn chế. Gần đây, nhờ xúc tiến tích cực của chính phủ, khu vực thị trường này lại trở nên hấp dẫn với rất nhiều Công ty. Chính vì thế Công ty nên đẩy mạnh việc thăm dò, tìm kiếm mở rộng thị trường. Với khu vực Tây Âu, Mỹ, Công ty phải đưa ra các sản phẩm chế biến hay những mặt hàng mang tính khu vực : Hoa hồi quế,Hạt Điều, Hạt tiêu... Đây là các thị trường đầy triển vọng nên Công ty phải tập trung các nỗ lực Marketing để đạt được thành công. Đối với thị trường khác: Do Công ty có quan hệ kinh tế không thường xuyên với khá nhiều nước nên kim ngạch vào thị trường này tuy cao nhưng lại không ổn định. Trong thời gian tới, Công ty nên có định hướng duy trì và phát triển ở thị trường này thông qua việc tăng cường nâng cao chủng loại hàng bán, tạo ra độ đa dạng trên thị trường, để góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. 1.2Phát triển kênh phân phối. Một mạng lưới kênh phân phối rộng khắp và hợp lý chính là nhân tố thúc đẩy tiêu thụ. Chính vì thế các Công ty luôn phải tiến hành các nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn mạng lưới phân phối của mình. Kênh phân phối của Công ty Thương Mại Hữu Nghị II trong thời gian tới. Người sản xuất, chế biến nông sản Các đại lý thu mua của công ty Văn phòng công ty Các đơn vị kinh doanh nước ngoài Các chi nhánh của công ty Đại diện của công ty ở nước ngoài Người tiêu dùng cuối cùng Một trong những hạn chế khi phát triển thị trường ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II là hiện nay kênh phân phối hàng của Công ty mới dừng ở các nhà buôn nước ngoài. Sản phẩm của Công ty thường bị đem đi chế biến lại và đưa ra thị trường với nhãn mác khác nên không được người tiêu dùng thực sự biết đến. Và chính kênh phân phối này khiến Công ty bị phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, khó chủ động trong việc dự đoán nhu cầu thị trường. Để có thể phát triển thị trường tốt Công ty nên xây dựng lại kênh phân phối hàng bằng nhiều hướng: qua các đối tác kinh doanh nước ngoài, qua các phòng đại diện hay chi nhánh Công ty ở nước ngoài... Ngoài ra Công ty cũng có thể sử dụng phương pháp liên doanh liên kết sản xuất để tăng cao sự xuất hiện trên thị trường nước ngoài. 1.3Nâng cao hiệu quả công tác thu mua, tạo nguồn hàng. Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt động xuất khẩu của Công ty. ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II, hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương, cơ sở sản xuất rồi đem về chế biến lại. Nhưng nếu Công ty chỉ duy trì một hình thức tạo nguồn này thì sẽ không đạt hiệu quả cao trong công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu vì Công ty đã vô tình thu nhỏ các mối quan hệ của mình đối với các đơn vị sản xuất. Công ty không thể tự đi thu gom hàng hoá từ các hộ sản xuất nhỏ lẻ mà phải mua lại qua các đầu mối trung gian, như vậy hiệu quả kinh doanh mang lại bị giảm đi rất nhiều. Do đó, Công ty nên tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Cụ thể là ngoài việc thu mua hàng xuất khẩu Công ty có thể tiến hành tự sản xuất hàng xuất khẩu, liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất chế biến, các nhà máy chế biến. Có những mặt hàng Công ty tự sản xuất lại đem về lợi nhuận lớn hơn là thu mua lại, đồng thời Công ty có thể gia công chế biến hàng nông sản theo đúng như mong muốn của bên nước ngoài. Công ty có thể chủ động về số lượng, chất lượng, khống chế số lượng hàng sản xuất ra cho phù hợp với đơn hàng xuất khẩu tránh dư thừa, tồn kho do không kiểm soát được chất lượng hàng xuất khẩu để khách hàng từ chối nhận hàng. Công ty cũng có thể chế biến thuê cho các đơn vị khác khi họ gặp khó khăn về khối lượng, thời gian, trình độ công nghệ. Ngược lại, Công ty cũng có thể liên doanh liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất chế biến để thu mua hàng xuất khẩu của họ khi chưa sản xuất được hoặc thuê họ chế biến khi Công ty gặp phải hợp đồng quá gấp gáp về thời gian, khối lượng quá lớn hoặc công nghệ chế biến của Công ty chưa đạt yêu cầu chất lượng hay mặt hàng nào đó không thể sản xuất được. Tất cả các hình thức mở rộng nguồn hàng xuất khẩu đều nhằm làm cho Công ty tăng thu, giảm chi, ổn định nguồn hàng, là một đối tác uy tín lớn đối với bên nước ngoài. 1.4 Hoàn thiện cơ cấu hàng xuất khẩu. Bên cạnh lĩnh vực tạo nguồn hàng xuất khẩu, Công ty cần thực hiện cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mặc dù hàng của Công ty đưa ra thị trường quốc tế gồm nhiều loại khác nhau nhưng để cạnh tranh được với các đối thủ lớn khác, Công ty cần phải không ngừng thay đổi, bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh một số mặt hàng truyền thống như :Cao Su, Hạt Điều , Công ty cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực của các mặt hàng trên nhưng cũng cần phải quan tâm khai thác các mặt hàng, nhóm hàng khác mà thế giới có nhu cầu như: Dầu lạc, Hạt Tiêu… Hạt Điều là một trong những hàng hoá đang chiếm được cảm tình của người tiêu dùng nên trong thời gian tới Công ty phải nhanh chóng đưa mặt hàng này vào danh mục mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của Công ty. Ngoài ra trong thời gian tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty cũng nên có một sự cải biến cho phù hợp với xu thế tiêu dùng của thế giới và tiềm năng sẵn có của Công ty, của quốc gia, đó là sự bổ sung những mặt hàng mới như Chè, Tinh Dầu… Kinh doanh những mặt hàng mới sẽ gặp nhiều khó khăn, song muốn tồn tại và phát triển, Công ty không còn cách nào khác là phải đối mặt và giải quyết những khó khăn đó. 1.5Chính sách khuyếch trương, quảng cáo hàng xuất khẩu với bạn hàng Để mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu thì sau khi đã nghiên cứu thị trường, xác định thị trường mục tiêu và đưa ra các chiến lược phát triển thị trường thì Công ty không thể bỏ qua việc xúc tiến bán hàng. Trong thị trường ngày nay, nếu ta chỉ mới cung cấp các sản phẩm chất lượng tốt và giá cả hợp lý thì vẫn chưa đủ. Công ty chỉ bán được hàng khi những giá trị của sản phẩm được thông tin đến cho người mua, thúc đẩy nhu cầu về hàng hoá của Công ty. Các chính sách về quảng cáo và xúc tiến bán hàng có vai trò như các chất xúc tác, nếu được thực hiện tốt chúng sẽ đem lại hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty, tăng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay ngân sách dành cho quảng cáo của Công ty vẫn còn hạn chế, mới chỉ đủ cho các chương trình quảng cáo nhỏ. Các hoạt động quảng cáo xúc tiến bán hàng của Công ty vẫn còn rất đơn điệu, chưa tạo được nét hấp dẫn cần thiết. Để xúc tiến bán hàng xuất khẩu, Công ty nên áp dụng các hình thức như: gửi catalog ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài. Gửi catalog cho nước ngoài sẽ giúp rút ngắn khoảng cách giữa người bán và người mua. Thông qua catalog khách hàng có được các thông tin về chủng loại hàng hoá, kích cỡ màu sắc... vì thế catalog phải được in ấn đẹp đẽ, dễ đọc, dễ hiểu, màu sắc bố cục ấn tượng, dễ nhớ. Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết về hình dáng, chất lượng, hương vị của hàng hoá. Đặc biệt đối với mặt hàng lâm sản không một hình thức nào hay hơn là để khách hàng tiếp xúc trực tiếp với hàng hoá để họ tự cảm nhận. Tiến xa hơn nữa Công ty có thể thành lập các phòng đại diện ở nước ngoài. Việc thành lập các văn phòng đại diện ở nước ngoài sẽ giúp Công ty rất nhiều trong hoạt động giao dịch, ký kết hợp đồng, giới thiệu sản phẩm với khách hàng và nhanh chóng đưa sản phẩm vào thị trường. 1.6 Huy động tốt các nguồn vốn phục vụ cho xuất khẩu. Vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nói chung và Thương Mại Hữu Nghị II nói riêng. Công ty thường không thể đảm bảo đủ vốn cho các hoạt động kinh doanh của mình và phải huy động vốn từ các nguồn trong nước và nước ngoài. Việc huy động vốn trong nước Công ty có thể huy động thông qua một số nguồn sau: Công ty có thể huy động vốn từ chính lợi nhuận tích luỹ được hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản và lâu dài của Công ty và tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nguồn vốn tự có này thể hiện quy mô của doanh nghiệp và nó thường chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên vì điều kiện thực tế là Công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực vốn bị rải rác, trong khi hoạt động xuất nhập khẩu lại yêu cầu phải có một lượng vốn lớn nên ngoài vốn tự có, Công ty phải sử dụng các hình thức khác để huy động vốn. Huy động thông qua hình thức vay Ngân hàng. Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện các hệ thống Ngân hàng và các hoạt động của Ngân hàng ở nước ta. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là nguồn vốn rất quan trọng giúp Công ty thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi vốn lớn, đặc biệt là các nguồn vay ngắn hạn. Nhu cầu vay vốn cho các hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng lớn. Chính vì vậy Công ty nên tận dụng các khoản cho vay của ngân hàng. Việc huy động vốn nước ngoài có thể thông qua một số hình thức sau: Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của Công ty, đặc biệt là bạn hàng quen thuộc có mối quan hệ lâu dài. Hoặc tận dụng nguồn vốn của khách hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng hay xin ứng trước vốn khi xuất hàng. Cụ thể là với một số hợp đồng xuất khẩu, Công ty yêu cầu người mua (người nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, Công ty có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như một phần vốn của mình. Đối với những hợp đồng có giá trị quá lớn vượt xa khả năng của Công ty thì Công ty có thể áp dụng hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng. Bên cạnh hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng Công ty cũng có thể thực hiện hợp đồng bằng cách mời một nhà xuất khẩu Việt Nam khác cùng tham gia và 2 bên cùng nhau chia sẻ lợi nhuận. Công ty có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào Công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Công ty tiến hành liên doanh liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn và sử dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho Công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của Công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà Công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt động mà Công ty định liên kết kinh doanh. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín mạnh trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới. Ngoài ra cần thiết phải có những thoả thuận chi tiết về thời hạn liên doanh liên kết, tỷ lệ góp vốn, phạm vi hoạt động... trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thực trạng, xu hướng phát triển của Công ty, của đối tác, của thị trường mặt hàng kinh doanh, các chính sách và pháp luật của Nhà nước. Có thể nói liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng cũng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì cần phải có một sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện. Vốn luôn là vấn đề nan giải đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng hơn là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn cũng là do việc sử dụng vốn lãng phí, bừa bãi, không tiết kiệm. Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở khâu này trong khi thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra. Sau đây là một số biện pháp Công ty cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn: + Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng xuất khẩu, thực hiện thanh toán đúng thời hạn, tránh để tình trạng bị chiếm dụng vốn. + Phân bố cơ cấu vốn hợp lý trong kinh doanh. Đảm bảo nguyên tắc cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định là 8:2 ưu tiên sử dụng vốn lưu động vào việc khai thác các nguồn hàng có tốc độ vòng quay lớn. Thực hiện tỷ lệ doanh thu hàng hoá 8:2 (tức là 80% doanh thu từ 20% mặt hàng chủ lực) + Có các biện pháp giảm các chi phí bất hợp lý, đặc biệt là chi phí giao dịch, đi lại hiện vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn. + Tranh thủ các điều kiện tín dụng mà phía bạn hàng dành cho Công ty như các hợp đồng trả trước bằng tiền mặt, thúc đẩy thực hiện các hợp đồng gia công. 1.7 Chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu. Để làm ăn có hiệu quả với khách hàng nước ngoài, Công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi bởi con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động xuất nhập khẩu. Yêu cầu đối với Cán bộ là phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc tư duy, phải năng động sáng tạo, có khả năng dự báo, ứng phó kịp thời với những biến động trên thị trường, thông thạo ít nhất là một ngoại ngữ, đọc thông viết thạo và hiểu rõ những nội dung của thư chào hàng, thư hỏi giá, nội dung hợp đồng, làm hợp đồng... Hàng năm thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, Công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên cho đến nay Công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ sung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận rộn công việc, mà chỉ tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ làm ở các phòng ban khác. Vì vậy, để đảm bảo cho Công ty có được đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm Công ty phải có kế hoạch đào tạo lại cán bộ thông qua các hình thức : Gửi cán bộ, các nhân viên có năng lực đi nghiên cứu, học tập ở các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu trong và ngoài nước. Đào tạo cán bộ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ mới để họ nâng cao trình độ nghiệp vụ. Cử các đoàn cán bộ kinh doanh ra nước ngoài để nắm bắt nhu cầu thị trường, kinh nghiệm làm ăn, tạo dựng mối quan hệ bạn hàng vững chắc. 1.8 Thực hiện từng bước cổ phần hoá Công ty. Giải pháp cổ phần hoá Công ty có tính chất chiến lược dài hạn. Do vậy, nó không thể thực hiện được ngay trong một năm, giải pháp cổ phần hoá Công ty đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Công ty nói riêng, nó còn tạo nguồn động lực tốt cho phát triển và mở rộng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung. Giải pháp này cũng phù hợp với xu hướng chung của Đảng và Nhà nước về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Về mặt cơ sở pháp lý có nghị định 28CP ngày 07/05/1996 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần và quyết định của Bộ trưởng, trưởng Ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá về việc ban hành quy trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần số 01/CPH ngày 04/09/1996 và một số văn bản khác có liên quan tới cổ phần hoá. Việc cổ phần hoá Công ty nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đưa các yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Mục đích cổ phần hoá Công ty nhằm: Thứ nhất, huy động vốn của các CBCNV trong Công ty, cá nhân các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ nhằm mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của Công ty nói chung và đẩy mạnh phát triển xuất khẩu nói riêng (tức là nâng cao nội lực của Công ty lên một bước mới) Thứ hai, tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong Công ty có cổ phần, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong Công ty có hiệu quả. Thực hiện thành công cổ phần hoá Công ty sẽ góp phần quan trọng cho việc đẩy mạnh xuất khẩu vì thông qua cổ phần hoá nó thay đổi cơ Cấu lãnh đạo điều hành, phát huy tính độc lập tự chủ của Cán bộ công nhân viên với Công ty. Trong quá trình tiến hành cổ phần hoá Công ty THương mại Hữu Nghị II có thể lựa chọn một trong các hình thức cổ phần sau: Giữ nguyên giá trị hiện có của Công ty, phát hành cổ phiếu thu thêm vốn để đầu tư cho phát triển Công ty. Bán một phần giá trị hiện có của Công ty. Hoặc tách một phần (bộ phận) của Công ty có đủ điều kiện để cổ phần hoá. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Công ty để áp dụng một trong các hình thức nêu trên. ở đây nên sử dụng hình thức thứ ba là tách một bộ phận Công ty có đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá là phù hợp nhất vì làm theo hình thức này Công ty vừa làm vừa rút kinh nghiệm thực tế trong quá trình thực hiện cổ phần hoá phát sinh. Qua đây sẽ tạo ra nhiều kinh nghiệm hơn và có nhiều giải pháp, hướng đi tốt hơn cho việc cổ phần hoá những bộ phận tiếp theo. Để thực hiện cổ phần hoá thành công, Công ty cần phải tiến hành làm các công việc sau: Trước tiên, thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thuộc Công ty xuất nhập khẩu Thương Mại Hữu Nghị II gồm từ 5 đến 6 đồng chí trong đó gồm: một đồng chí trưởng ban và các uỷ viên là những người có trình độ chuyên môn trong công tác tổ chức điều hành hoạt động doanh nghiệp, có kiến thức chuyên môn trong kinh doanh, có quan điểm nhất quán, mong muốn và thực sự quan tâm tới việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Công ty. Sau đó, tiến hành xây dựng phương án cổ phần hoá Công ty bao gồm: Phân tích, đánh giá chính xác quá trình và đầy đủ thực trạng và triển vọng của Công ty trong ba năm trước thời điểm cổ phần hoá. Nêu khái quát quá trình hình thành, đặc điểm sản xuất_kinh doanh của Công ty về: nghề nghiệp, quy mô, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. đánh giá triển vọng phát triển của Công ty trong tương lai. Phân tích tình hình kinh tế tài chính. Tiếp theo là, lập phương án kinh doanh sau khi cổ phần hoá thời gian khoảng 3á5 năm. Tiếp đến, lập báo kiến nghị xử lý lao động, vốn tự có, công nợ, thanh lý tài sản … trước, trong và sau khi cổ phần hoá. Vấn đề tiếp theo là xác định cổ phiếu và phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Cùng với quá trình này Công ty tiến hành thành lập bộ máy quản lý và soạn thảo điều lệ Công ty để sớm đưa Công ty đi vào hoạt động có hiệu quả. Nhìn chung để thực hiện cổ phần hoá thành công Công ty phải có một tỷ lệ sinh lợi hấp dẫn, có thông tin và quản lý thông báo công khai trên thị trường chứng khoán, có cơ chế để thu hút nguồn vốn đầu tư của xã hội. Công ty có thể sử dụng các hình thức ưu đãi sau để khuyến khích người mua: Cho phép mua cổ phiếu trả tiền dần nhiều lần, những lần thanh toán dần có thể từ 3á6 tháng trong khi lợi tức cổ phần lại được tính ngay từ đầu. Người mua cổ phiếu và giữ cổ phiếu không bán lại cho người khác trong một thời gian nhất định thì được hưởng theo tỷ lệ số cổ phiếu hiện có. Đối với viên chức và công nhân trong Công ty có bán cổ phiếu rộng rãi đều được hưởng những ưu đãi khi mua cổ phiếu, chẳng hạn được mua giá thấp hơn, hoặc được hưởng thêm cổ phiếu tỷ lệ với số lượng cổ phiếu đã mua, được quyền mua trước người ngoài Công ty. Cổ phần hoá Công ty cũng là một giải pháp tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty về vốn, cơ cấu bộ máy tổ chức lãnh đạo, trách nhiệm của cán bộ công nhân viên đối với Công ty... tất cả vì sự phát triển chung của Công ty. 2. Một số kiến nghị đối với Nhà Nước Doanh nghiệp là một thực thể trong nền kinh tế, nó hoạt động trong môi trường kinh doanh nhất định bao gồm môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp nhất định của mỗi quốc gia. Các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ và bị chi phối bởi các yếu tố môi trường vĩ mô này chẳng hạn đối với môi trường luật pháp, nếu không nhất quán và ổn định sẽ tác động trực tiếp (có lợi-hại) cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Ta nhận thấy rõ hơn về luật thuế xuất nhập khẩu sẽ tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu về mặt giá cả. Đó là các nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Đề tài xin kiến nghị một vài ý kiến về tạo môi trường kinh doanh xuất khẩu lành mạnh và thông thoáng hơn, lập các quỹ bảo hiểm và trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu. 2.1Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng dẫn đơn giản hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường. Những quy định về xuất nhập khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu nông lâm sản nói riêng và xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung ở nước ta hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu phải được đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là: Hệ thống các văn bản pháp lý, quy định phải được đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các Công ty sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bàn thành phẩm không được hưởng các ưu đãi. Vì thế Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số vấn đề bất cập không thích hợp với những diễn biến của hoạt động xuất khẩu làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu và đòi hỏi phải giải quyết. Về lâu dài, các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung và sửa đổi tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi. Hiện nay ở nước ta, thủ tục xuất khẩu vẫn còn rườm rà gây phức tạp, lãng phí thời gian, công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu khi tiến hành các thủ tục xuất khẩu. Vì thế trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính Việt Nam cần đặc biệt chú trọng đến cải cách công tác quản lý các hoạt động xuất khẩu, từng bước bãi bỏ các thủ tục không cần thiết để tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức cho các doanh nghiệp. Về khâu tổ chức xuất khẩu hàng hoá có hạn ngạch Nhà nước không thể thả nổi cho các doanh nghiệp tự do xuất khẩu hàng hoá vì thế dễ dẫn đến trường hợp cơ cấu hàng xuất khẩu không phù hợp nhưng cũng không nên quá cứng nhắc trong việc chỉ định các doanh nghiệp xuất khẩu. Chế độ cấp và phân bổ hạn ngạch phải đúng, đủ và kịp thời để các doanh nghiệp được giao nhiệm vụ xuất khẩu có điều kiện chủ động trong hoạt động kinh doanh. Chế độ phân bổ hạn ngạch theo từng tháng, quý như hiện nay cũng cần phải được chấn chỉnh vì nó hạn chế khả năng của các doanh nghiệp trước những biến động của thị trường. Thay vào đó Nhà nước nên sử dụng chế độ phân bổ hạn ngạch một cách tương đối ổn định cho các doanh nghiệp đã được lựa chọn. Về lâu dài Nhà nước cần phải thay quản lý xuất khẩu và điều hành xuất khẩu qua việc định đầu mối xuất khẩu, phân bổ hạn ngạch xuất khẩu và cấp quota bằng đấu thầu quota hay đánh thuế xuất khẩu cho mọi thành phần cùng tham gia xuất khẩu. Nguồn thu từ đấu thầu quota xuất khẩu sẽ bổ sung vào ngân sách Nhà nước, quỹ bình ổn giá và quỹ phát triển sản xuất. Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu. Đây là chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. 2.2. Lập các quỹ bảo hiểm. Do cung, cầu hàng hoá trên thị trường thế giới không ổn định nên giá cả cũng lên xuống thất thường. Vì việc thiết lập ra các quỹ bảo hiểm để hạn chế bớt rủi ro là rất cần thiết. Thông thường Nhà nước không xây dựng quỹ từ nguồn ngân sách Nhà nước mà khuyến khích các hiệp hội ngành tự nguyện thành lập. Quỹ bảo hiểm có nhiệm vụ trợ giúp các thành viên hiệp hội khi giá cả biến động thất thường . Cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định , nhưng nhìn chung nên đặt ra một mức giá bảo hiểm, đảm bảo cho người sản xuất thu hồi vốn đầu tư và có mức lợi nhuận thoả đáng. 2.3.Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu. Giúp đỡ về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu lâm sản nói riêng . Hiện nay có một thực tế là nhiều doanh nghiệp do thiếu vốn nên đã bị hạn chế trong kinh doanh, trong khi đó ở các Ngân hàng lại xảy ra tình trạng ứ đọng vốn do các doanh nghiệp khó có thể đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn... nên rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này. Trong thời gian tới, Nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho các Công ty vay vốn để sản xuất, thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước cũng nên bỏ quy định khống chế hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu. Về phía Ngân hàng, Nhà nước cần xem xét lại các quy định về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là điều kiện đảm bảo an toàn vốn cho vay chứ không phải là vật căn cứ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy tổ chức tốt khâu cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết và là vấn đề chiếm vị trí quan trọng trong việc thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Hiện nay ở nước ta thông tin về thị trường vẫn còn rất thiếu và chậm, mức độ chính xác không cao nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến xuất khẩu. Trong thời gian tới, Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan cần chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo thị trường thế giới. Đồng thời tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường. Nhà nước đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc phối hợp với các doanh nghiệp tìm kiếm, mở rộng thị trường, giúp các doanh nghiệp giải quyết được những khó khăn ở tầm vĩ mô. Qua đó tạo điều kiện cho họ tiếp cận và xâm nhập vào thị trường mới, có cơ hội giới thiệu sản phẩm của mình cho khách hàng nước ngoài. Thông qua các chính sách kinh tế đối ngoại như mở rộng các quan hệ song phương, đa phương, ký kết các hiệp định thương mại sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước đó. Sự tham gia của nước ta vào các hiệp định chung về thương mại và các tổ chức thương mại quốc tế sẽ dẫn dắt các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận tốt với thị trường thế giới, nắm bắt nhu cầu tốt hơn. Đặc biệt sự tham gia của nước ta vào các khối liên kết kinh tế như ASEAN đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho xuất khẩu của nước nhà. Vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước cần phấn đấu tích cực để tiếp tục tham gia hơn nữa vào các tổ chức kinh tế khu vực cũng như toàn cầu nhằm từng bước tạo ra thị trường ổn định, định hướng đúng đắn cho các nhà sản xuất, kinh doanh xuất khẩu. Kết luận Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam, là điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là tiền đề để thực hiện Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước. Việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cũng chính là đã góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển xuất khẩu và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước. THương mại Hữu Nghị II cũng là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Sau hơn 10 năm hoạt động, phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi cơ chế kinh tế, do những biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới song Công ty đã không chịu bó tay mà ngược lại, vẫn đang tìm những hướng đi mới, những giải pháp mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Qua thời gian thực tập ở Công ty em đã làm chuyên đề nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu của Công ty Thương Mại Hữu Nghị II , cùng với một số ý kiến đề xuất của bản thân về một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Do thời gian có hạn và năng lực bản thân còn hạn chế nên nội dung chuyên đề còn rất nhiều thiếu sót, rất mong có sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn quan tâm đến vấn đề này nhằm bổ sung hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Thạc sỹ Nguyễn Anh Minh, người đã trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú trong Công ty đã tận tình tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập ở Công ty. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0429.doc