Lời nói đầu
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến phương pháp quản lý kinh doanh sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Với doanh nghiệp sản xuất cũng như các doanh nghiệp khác, thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh đến theo nguyên tắc lấy thu bù chi và bảo đảm có lãi kể cả các doanh nghiệp hoạt động công ích.
Muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, bảo đảm có lãi các doanh nghiệp phải biết xây dựng và tổ chức tốt các phương án sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời tổ chức tốt
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nâng cao lợi nhuận ở Công ty cấp nước Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công tác hạch toán các hoạt động sản xuất - kinh doanh theo phương án đề ra. Chủ động tìm mọi biện pháp khai thác khả năng tiềm năng của doanh nghiệp mình để tăng thu và giảm chi phí trong sản xuất kinh doanh.
Cũng như tất cả các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cấp nước Ninh Bình cũng phải thường xuyên quan tâm đến lợi nhuận trong kinh doanh vì lợi nhuận chính vì kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó chính là yếu tố sống còn đối với các doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần như hiện nay. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận và các biện pháp nâng cao lợi nhuận đối với các doanh nghiệp, tôi đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu chuyên đề "Một số biện pháp nâng cao lợi nhuận ở công ty cấp nước Ninh Bình".
Mục đích của chuyên đề là hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về lợi nhuận của doanh nghiệp, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty. Ngoài các phần nói đầu và kết luận, nội dung của chuyên đề được chia làm 3 phần.
Chương I: Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
Chương II: Tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của Công ty cấp nước Ninh Bình
Chương III: Đánh giá chung hoạt động kinh doanh của công ty và một số giải pháp nâng cao lợi nhuận của công ty
Chương I
Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận
trong nền kinh tế thị trường
I. Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp 1) Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
a) Nền kinh tế thị trường:
Trước hết ta cần phải hiểu nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế mà các hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi đều thông qua thị trường do thị trường chi phối, về bản chất nó đồng nghĩa với nền kinh tế hàng hoá phát triển. Chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa biến nền kinh tế hàng hoá chuyển thành nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là nền kinh tế được điều chỉnh chủ yếu bằng thị trường. Giá cả hàng hoá trên thị trường được xác định bằng quan hệ cung, cầu, quan hệ này do các quy luật kinh tế chi phối.
Vậy thị trường là gì và vai trò thị trường đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường là chỗ gặp nhau giữa người mua và người bán của cung và cầu các loại hàng hoá dịch vụ. Hay theo nghĩa bóng thị trường hiểu như là một quá trình trao đổi mua bán hàng hoá và dịch vụ hay quá trình tổng hoá các mối quan hệ giữa cung và cầu để thống nhất hay xác định giá cả. Số lượng hàng hoá và dịch vụ mua bán.
Trong nền kinh tế thị trường thì mọi việc mua bán đều diễn ra trên thị trường. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, là nơi tập hợp các quan hệ kinh tế ở đó người mua và người bán, người mua và người mua, người bán với người bán sẽ cạnh tranh với nhau để tồn tại và có thể đứng vững trên thị trường.
Bởi vậy doanh nghiệp muốn tồn tại được thì phải đứng vững trong cạnh tranh và phải tìm cách tối đa hoá lợi nhuận của mình. Thị trường có thể chia làm hai loại:
+ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
- Thị trường cạnh tranh mang tính độc quyền.
?ở nước ta hiện nay đang tồn tại chủ yếu thị trường tự do. Thị trường chưa đồng bộ và còn yếu. Các thị trường cơ bản như thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường lao động, thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Với việc thúc đẩy mạnh mẽ theo mô hình kinh tế mở dẫn đến sự giao lưu hàng hoá. Sự đầu tư trực tiếp của nước ngoài hy vọng các yếu tố thị trường sẽ phát triển mạnh mẽ ở nước ta.
Thị trường có vai trò rất quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình tái sản xuất được tiến hành theo trình tự.
Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng
T - H
TLSX
SLĐ
H' - T'
Thị trường còn được coi là môi trường kinh doanh. Thị trường tồn tại khách quan trong nền kinh tế hàng hoá mà bất cứ doanh nghiệp nào không thể thay đổi được. Ngược lại sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào khả năng thích ứng và khai thác thị trường của doanh nghiệp đó. Vì vậy thị trường như tấm gương để các doanh nghiệp soi vào để tìm ra nhu cầu của thị trường, qua đó tự đánh giá lại mình.
b) Hoạt động của các doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế - một tập hợp người và vốn có mục đích sản xuất kinh doanh hàng hoá - dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế kinh doanh hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu của thị trường và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa và hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh có hiệu quả là doanh nghiệp thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường và xã hội về hàng hoá dịch vụ trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và thu được lợi nhuận nhiều nhất, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
Các doanh nghiệp có quyền bình đẳng trước pháp luật của nhà nước trong sản xuất kinh doanh, được quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn và quyền lợi của các doanh nghiệp gắn chặt với nhau. Các doanh nghiệp được thành lập, hoạt động và giải thể theo đúng quy định của nhà nước. Đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội quan trọng nhất chịu sự chi phối của một doanh nghiệp nhà nước. Các loại hình doanh nghiệp khác chịu sự chi phối của một doanh nghiệp khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm hình thức khác nhau. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật - xã hội của từng loại doanh nghiệp. Chính vì vậy quá trình kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tổng hợp với rất nhiều nhân tố chính trị, kinh tế - kỹ thuật, tổ chức, tâm lý và xã hội. Muốn cho quá trình kinh doanh đạt hiệu quả cao phải giải quyết đồng bộ nhiều biện pháp để đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất để sao cho thu lợi nhuận cao nhất. Trong đó nhân tố kinh tế có vai trò quyết định trong nền kinh tế thị trường. Nhưng không được coi nhẹ nhân tố xã hội đặc biệt là nhân tố theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy muốn không ngừng nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản: Quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Nhưng việc lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề cơ bản nói trên lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, khả năng và điều kiện phụ thuộc vào việc lựa chọn hệ thống kinh tế để phát triển, phụ thuộc vào vai trò, trình độ và sự can thiệp của chính phủ, chế độ chính trị - xã hội của đất nước.
2) Lợi nhuận và phương pháp xác định lợi nhuận
Con người tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh với động cơ kinh tế là tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí cho các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ các chi phí bỏ ra. Số dư còn lại để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Vì vậy nếu không tạo ra lợi nhuận thì doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại, phát triển được và sẽ đi đến phá sản.
a) Lợi nhuận là gì
Lợi nhuận được định nghĩa một cách khái quát là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí, còn tối đa hoá lợi nhuận hoặc cực tiểu hoá chi phí sản xuất tức làm sao cho đạt lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp.
Cần phân biệt lợi nhuận tính toán và lợi nhuận kinh tế
Lợi nhuận tính toán = ồ doanh thu - ồ chi phí tính toán
Lợi nhuận kinh tế = ồ doanh thu - (ồ chi phí tính toán + chi phí cơ hội)
Việc tính thu nhập và chi phí được tính theo giá cả thị trường. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh tỏng doanh nghiệp là chỉ tiêu kế toán tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả của quá trình hoạt động kinh doanh. Nó phản ánh cả mặt lượng và chất của quá trình kinh doanh ấy.
Lợi nhuận của doanh nghiệp còn là một bộ phận quan trọng của thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp. Thu nhập thuần tuý được nâng cao thì khả năng thu nhập quốc dân càng lớn và do đó khả năng tái sản xuất và phát triển kinh tế hàng hoá cũng được mở rộng. Nếu xét trên góc độ kinh tế đơn thuần thì lợi nhuận là mục tiêu cơ bản nhất của sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp. Việc tăng lợi nhuận tất yếu của việc tăng kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường. Bởi vì lợi nhuận của doanh nghiệp vừa phải bảo đảm tích luỹ để phát triển các nguồn vốn sản xuất kinh doanh, đổi mới kỹ thuật, công nghệ, tái sản xuất mở rộng sức lao động, vừa phải bảo đảm yêu cầu tích luỹ để phát triển kinh tế và các mục tiêu kinh tế xã hội.
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều quyết định doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không vì thế lợi nhuận coi như đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ lợi nhuận tác động đến tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Vì vậy việc xác định lợi nhuận một cách chính xác rất quan trọng để tránh tình trạng "lãi giả, lỗ thật".
b) Phương pháp xác định lợi nhuận
Để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ta có thể sử dụng chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối theo công thức.
LNdn = ----------
Trong đó:
LNdn: tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp
Qih: sản lượng hàng hoá loại, tiêu thụ
Gih: giá cả hàng hoá loại i tiêu thụ
Zih: giá thành hàng hoá loại i tiêu thụ
Ti: thuế hàng hoá loại i tiêu thụ.
n: số loại hàng hoá
m: số loại thuế
Theo công thức trên rõ ràng tổng lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc vào sản lượng tiêu thụ, giá cả tiêu thụ, giá thành sản phẩm và thuế nộp cho nhà nước.
Như vậy giá thành sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, nếu giá thành giảm tức chi phí giảm thì lợi nhuận sẽ tăng và ngược lại. Vì vậy các doanh nghiệp không ngừng tìm mọi biện pháp để tiết kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận. Tuy nhiên nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất đa dạng vo vậy lợi nhuận thu được cũng rất đa dạng. Có thể nói lợi nhuận hình thành từ 3 hoạt động chính:
- Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
- Lợi nhuận của hoạt động tài chính. - Lợi nhuận cảu hoạt động bất thường.
Chúng ta cũng không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng sản xuất kinh doanh. Không thể chỉ chúng ra để so sánh chất lượng sản xuất kinh doanh với các doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy để đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải sử dụng đến chỉ tiêu tương đối đó là tỷ suất lợi nhuận. Sau đây các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận
=
Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp
Doanh thu/vốn cố định/vốn lưu động/tiền lương
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Điều này cho thấy hiệu quả kinh tế cao hay thấp của hoạt động kinh doanh.
Đồng thời tỷ suất lợi nhuận cho ta thấy rõ hai mặt:
Tổng số lợi nhuận tạo ra do tác động toàn bộ chi phí bỏ ra nhiều hay ít. Số lợi nhuận tạo ra trên một đơn vị chi phí cao hay thấp.
Ngoài ra vì mục đích nghiên cứu, phân tích đánh giá khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận có thể tính khác nhau:
- Tỷ suất lợi nhuận theo thị trường
Tst
=
Lợi nhuận kinh doanh
Tổng doanh thu
Chỉ tiêu này phản ánh số lợi nhuận thu được trên, đơn vị doanh thu. Do vậy tỷ suất lợi nhuận càng lớn thì kết quả hoạt động kinh doanh càng cao và ngược lại. Tỷ lệ này giúp ta xác định khung giá mua, bán hàng hoá và ước tính được tổng lợi nhuận khi thay đổi doanh thu bán hàng hoặc thay đổi khối lượng hàng hoá tiêu thụ.
Tuy nhiên việc sử dụng tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu không cho phép so sánh được hiệu quả hoạt động kinh doanh giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. Trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp có thể nâng cao tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu nhưng thực chất sử dụng kém hiệu quả các yếu tố đầu vào. Có khi còn lỗ nên tính thêm yếu tố lạm phát.
TSP
=
Lợi nhuận kinh doanh
Tổng chi phí lưu thông
x
100%
Chi phí này phản ánh mức độ sinh lời trên 1 đồng chi phí bỏ ra để thực hiện lưu chuyển hàng hoá. Việc sử dụng chỉ tiêu này xác định các mặt hàng có lợi thế về mặt chi phí lưu thông.
- Tỷ suất lợi nhuận theo giá thành.
Tz
=
Lợi nhuận kinh doanh
Tổng giá thành sản phẩm
Đây tỷ suất nhằm so sánh tổng số lợi nhuận với tổng giá thành hàng hoá tiêu thụ. Cách so sánh này cho ta thấy hiệu quả của một đồng vốn chi ra đã sử dụng trong giá thành sản phẩm thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Điều này nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tìm biện pháp để hạ giá thành sản phẩm, để thắng trong cạnh tranh.
- Tỷ suất lợi nhuận theo vốn
Tsv = -------- x 100%
Trong đó:
Tsv: tỷ suất lợi nhuận vốn.
P: lợi nhuận trong kỳ
Vbq: tổng số vốn sản xuất sử dụng bình quân trong kỳ
Đây là thể hiện mối quan hệ giữa tổng lợi nhuận đạt được so với tổng số vốn chi ra (bao gồm vốn lưu động và vốn cố định). Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng vốn, tức là một đồng vốn đầu tư vào sản xuất sẽ đem lại bao nhiêu lợi nhuận. Cách tính này có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quản lý chặt chẽ. Sao cho sử dụng vốn để nâng cao lợi nhuận.
+ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định
Tco
=
Lợi nhuận kinh doanh
Tổng số vốn cố định
x
100%
Đây chỉ tiêu cho ta biết hiệu quả sử dụng của một đồng vốn cố định đặc biệt là trong việc sử dụng máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh.
+ Tỷ suất lợi nhuận toàn vốn lưu động.
Đây chính là tỷ lệ giữa tổng số lợi nhuận trên tổng số vốn lưu động sử dụng trong kỳ. Chỉ tiêu này chỉ ra hiệu quả sử dụng một đồng vốn lưu động thu bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chính thông qua chỉ tiêu này giúp các doanh nghiệp tiết kiệm vốn lưu động. Sử dụng một cách hợp lý và tiết kiệm các nguyên vật liệu trong sản xuất kinh doanh.
+ Tỷ suất lợi nhuận theo lưu động.
Đây chính là so sánh giữa tổng số lợi nhuận với tổng số lưu động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quản lý và sử dụng tốt lao động đặc biệt sử dụng lao động trong các doanh nghiệp theo hợp đồng. Như phần trước ta nói đến lợi nhuận tính toán, lợi nhuận kinh tế, lợi nhuận bình quân.
Khi tính toán lợi nhuận thực tế của doanh nghiệp chúng ta cần phải lưu ý đến việc tính toán cả chi phí cơ hội. Tỷ lệ lãi của vốn đầu tư nếu đầu tư vào chõ khác hoặc gửi ngân hàng (gọi lãi suất bình quân). Khi các nhà đầu tư (hoặc doanh nghiệp) bỏ vốn ra để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Thì họ mong muốn đạt lãi suất cao hơn lãi suất bình quân. Tức lợi nhuận kinh tế > lợi nhuận bình quân.
Như vậy có nghĩa là chỉ khi nào lợi nhuận thực tế cao hơn mức trung bình thì mới có thể nói rằng doanh nghiệp đó đạt được lợi nhuận kinh tế. Còn lợi nhuận thực tế = lợi nhuận bình quân thì lợi nhuận kinh tế bằng không.
Muốn đạt được lợi nhuận kinh tế thì doanh nghiệp phải tìm được cơ hội làm ăn, phải năng động, không ngừng sáng tạo ra các mẫu mã sản phẩm mới, phương án sản xuất tối ưu với chi phí sản xuất thấp nhất, giảm chi phí tiêu thụ để nâng cao lợi nhuận. Đôi khi doanh nghiệp phải mạo hiểm trong kinh doanh mới thu được lợi nhuận cao.
3. ý nghĩa của việc nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp khi hoạt động sản xuất kinh doanh mục tiêu chính của các doanh nghiệp này làm sao sản xuất kinh doanh có hiệu quả để thu được lợi nhuận cao nhất có thể với số vốn bỏ ra của mình bởi vì lợi nhuận là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời là điều kiện sống còn đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ hoạt động và tồn tại khi hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thu không đủ bù đắp chi thì doanh nghiệp đi đến giải thể hoặc phá sản.
Khi chúng ta đang trong cơ chế bao cấp - kế hoạch hoá tập trung thì ****** các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Theo các chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước đổi được nhà nước bổ trợ và bao cấp do vậy họ không quan tâm đến lợi nhuận khi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp tự hạch toán trong sản xuất kinh doanh. Do đó có hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp, công ty giải thể hoặc phá sản do hoạt động kinh doanh không có hiệu quả và thua lỗ, đặc biệt doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau rất gay gắt và khốc liệt, đồng thời nó sẽ sa thải các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả. Chính vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng và đóng vai trò chính trong việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Vậy tại sao chúng ta nói vai trò của lợi nhuận đến sự sống còn của các doanh nghiệp.
* Lợi nhuận ngày càng cao thì càng thể hiện sức sống, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng chịu trách nhiệm và phát triển vươn lên của doanh nghiệp. Đó chính là thể hiện tiềm lực tài chính của doanh nghiệp để doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng nhờ có lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể đầu tư vào lĩnh vực thu được lợi nhuận cao và có tính cạnh tranh để có thể đứng vững trên thị trường.
* Lợi nhuận càng cao thể hiện năng lực, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của đội ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Trong khi tất cả các doanh nghiệp phải thực hiện hạch toán theo cơ chế mới mà thu được lợi nhuận một cách hợp lý và hợp pháp tức doanh nghiệp đáp ứng được với kinh doanh mới.
* Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có lợi nhuận cao thì sẽ có điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất cho người lao động, tăng quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, điều đó tạo cho người lao động và doanh nghiệp có mối quan hệ gắn bó mật thiết hơn.
* Lợi nhuận ngày càng cao chính là điều kiện để các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm đối với xã hội. Chúng ta biết mỗi doanh nghiệp là một tế báo trong hệ thống kinh tế. Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì tiềm lực tài chính của quốc gia sẽ vững mạnh.
Đây chính là khối cạnh cơ bản thể hiện ý nghĩa quan trọng của việc không ngừng nâng cao lợi nhuận của các doanh nghiệp.
II) Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố. Trước hết chịu sự tác động trực tiếp của quan hệ cung cầu - giá cả. Hay nói cách khác chịu sự tác động trực tiếp của các yếu tố đầu vào - đầu ra với giá cả thị trường. Và các nhân tố này chịu tác động trực tiếp quá trình kinh doanh các hoạt động sản xuất. Các hoạt động về quản lý của các nhân tố chính trị, tư tưởng, kinh tế kỹ thuật, tổ chức, tâm lý, xã hội. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của thị trường trong và ngoài nước, của ngành, địa phương, các doanh nghiệp khác.
1) Các chính sách của nhà nước
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhà nước là người hướng dẫn kiểm soát và điều tiết các hoạt động của doanh nghiệp trong thành phần kinh tế thông qua biện pháp kinh tế, các chính sách, pháp luật về kinh tế. Nhà nước tạo hành lang và môi trường cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và dịch vụ và hướng các hoạt động kinh tế theo quỹ đạo của kế hoạch vĩ mô. Tuỳ vào thời kỳ chiến lược phát triển kinh tế mà qua đó nhà nước đưa ra các chính sách và biện pháp khác nhau. Nó thể hiện sự định hướng của nhà nước đối với các doanh nghiệp trong việc đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh, thông qua đòn bẩy kinh tế của nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào những lĩnh vực có lợi.
Qua đó cho thấy chính sách nhà nước đã có tác động trực tiếp và gián tiếp đến lợi nhuận của các doanh nghiệp.
a) Chính sách thuế
Thuế là một trong chi phí của doanh nghiệp vì vậy thuế thấp hoặc cao sẽ có ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt đến các doanh nghiệp nhà nước.
b) Chính sách lãi suất
Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài vốn tự có và vốn do nhà nước cấp thì các doanh nghiệp cần huy động vốn bên ngoài thông qua đi vay hoặc phát hành cổ phần và trái phiếu và họ trả lợi tức cho các khoản vay đó thông qua lãi suất trên thị trường. Lãi suất chính là chi phí vốn vay do vậy khi lãi suất cao hay thấp sẽ ảnh hưởng đến chi phí do vậy ảnh hưởng đến lợi nhuận.
2) Các nhân tố về phía doanh nghiệp
Lợi nhuận kinh doanh chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố ở đây chỉ đề cập đến các nhân tố chính ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
a) Nhân tố về doanh thu và chi phí
Lợi nhuận chịu ảnh hưởng trực tiếp của 2 nhân tố đó là doanh thu và chi phí.
Lợi nhuận = Thu nhập - Tổng chi phí
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Thực hiện các mục tiêu của kinh doanh doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ nhất định.
Nội dung chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được cấu thành 3 bộ phận:
Chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và các loại thuế gián thu gắn với sản xuất kinh doanh.
+ Doanh thu tiêu thụ sản phẩm
Kết thúc quá trình sản xuất, sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường doanh nghiệp thu được khoản tiền bán hàng. Đó là doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là một bộ phận chủ yếu trong thu nhập của doanh nghiệp.
Thông thường, doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm: doanh thu tiêu thụ sản phẩm từ hoạt động sản xuất chính và có thể có doanh thu từ việc bán sản phẩm - lao vụ, dịch vụ từ hoạt động sản xuất phụ.
Ngoài doanh thu về tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp còn có những khoản thu nhập khác trong đầu tư.
Như vậy toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp thu được nhờ đầu tư sản xuất - kinh doanh trong thời kỳ nhất định gọi là thu nhập của doanh nghiệp. Thu nhập trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm:
Thu tiêu thụ sản phẩm, thu lãi từ hoạt động liên doanh đầu tư tài chính và một số khoản thu khác.
Phần chênh lệch giữa thu nhập và toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra được gọi là lợi nhuận của doanh nghiệp.
b) Nhân tố về quy mô sản xuất - kinh doanh hàng hoá - dịch vụ.
Quyết định sản xuất cái đòi hỏi phải làm rõ nên sản xuất hàng hoá, dịch vụ gì với số lượng bao nhiêu thì phải căn cứ nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ. Nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ rất phong phú đa dạng và ngày càng tăng cả số lượng và chất lượng nhưng trên thực tế nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp cho nên muốn thoả mãn nhu cầu lớn trong khi khả năng thanh toán có hạn, đòi hỏi các doanh nghiệp cần xác định quy mô sản xuất như thế nào cho phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Quy mô sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Khi quy mô sản xuất tăng tức hàng hoá và dịch vụ sẽ được cung ứng càng nhiều ra thị trường, làm cho doanh thu tăng lên đồng thời chi phí giảm đi, tức chi phí cố định không thay đổi nhiều. Khi số lượng hàng hoá sản xuất ra tăng lên. Qua đó làm cho lợi nhuận cao và ngược lại. Nhưng điều quan tâm ở đây làm thế nào để các nhà sản xuất kinh doanh dịch vụ xác định được giá cả hợp lý sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp tức có thể bán khối lượng hàng hoá nhiều nhất và thu lãi nhiều nhất.
Khi quan hệ cung cầu hàng hoá - dịch vụ trên thị trường thay đổi thì ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất và lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp phải xác định quy mô sản xuất tối ưu chỉ như vậy thu được lợi nhuận tối đa.
c) Nhân tố tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ.
Sau khi đã lựa chọn được sản xuất cái gì tức xác định quy mô sản xuất hàng hoá - dịch vụ. Thì các doanh nghiệp phải lựa chọn việc sản xuất những hàng hoá - dịch vụ như thế nào để sản xuất nhiều hàng hoá để đáp ứng nhu cầu thị trường với chi phí ít nhất và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường để có lợi nhuận cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm lựa chọn các đầu vào tốt nhất với chi phí thấp nhất. Lựa chọn các phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất. Muốn vậy các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới kỹ thuật, công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ công nhân nhằm tăng hàm lượng chất xám trong hàng hoá và dịch vụ. Chất lượng hàng hoá và dịch vụ là vấn đề có ý nghĩa quyết định sống còn trong cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường, chất lượng bảo đảm chữ tín của doanh nghiệp với bạn hàng, chiếm lĩnh thị trường và cạnh tranh thắng lợi.
d) Nhân tố về tổ chức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
Để tổ chức tốt quá trình tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp chúng ta vận dụng rất nhiều khâu như vấn đề quảng cáo, tổ chức marketing, giao nhận hàng, tổ chức thanh toán, vận chuyển.
Việc tổ chức bán hàng, chọn địa điểm bán hàng làm sao để hàng hoá tiêu thụ được nhanh chóng với giá cả hợp lý và thanh toán thuận tiện. Qua đó tiết kiệm được chi phí lưu thông. Qua đó nâng cao lợi nhuận đồng thời giữ chữ tín cho khách hàng về sản phẩm hàng hoá đã cung cấp cũng như dịch vụ sau khi bán hàng. Có thể nói vấn đề tổ chức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ là khâu quan trọng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp nó là khâu kết thúc quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu khâu tiêu thụ chậm hoặc không tiêu thụ được thì doanh nghiệp bị ứ đọng vốn hoặc lỗ vốn sẽ không tiếp tục sản xuất và mở rộng sản xuất được.
e) Nhân tố về tổ chức quản lý các hoạt động kinh tế vi mô của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý các hoạt động kinh tế vi mô là một nhân tố rất quan trọng có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình quản lý các hoạt động kinh tế vi mô bao gồm các nhân tố cơ bản, về cả các khâu tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên chức có trình độ và tay nghề cao và sắp xếp hợp lý lao động. Định hướng chiến lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh doanh và các phương án kinh doanh tổ chức thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu của quá trình quản lý các hoạt động kinh tế vi mô làm tốt sẽ tăng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành, giảm chi phí quản lý. Đó chính là điều kiện nâng cao lợi nhuận.
Các nhân tố đề cập ở trên có những ảnh hưởng khác nhau với việc tăng giảm lợi nhuận. Nhưng giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau cùng thúc đẩy nhau phát triển. Mỗi nhân tố trên đây đều bao gồm các mặt kinh tế, xã hội, kỹ thuật nhất định. Chúng ta cần nhận biết các nhân tố để phân tích một cách khoa học các tác động của nó đến lợi nhuận và tìm các biện pháp tối ưu để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ngoài ra lợi nhuận chịu tác động nhân tố vô hình, đó là các nhân tố như uy tín của doanh nghiệp, vị trí với doanh nghiệp nơi đang hoạt động sản xuất - kinh doanh. Có thể nói trong điều kiện sản xuất - kinh doanh hiện nay các nhân tố vô hình có vị trí quan trọng. Đặc biệt khi nền kinh tế thị trường phát triển đến mức cao nhất.
Chương II
Tình hình và kết quả kinh doanh của công ty cấp nước Ninh Bình
I. Khái quát tình hình hoạt động của Công ty
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty cấp nước Ninh Bình (tên giao dịch)
Là một đơn vị kinh tế quốc doanh trực thuộc Sở Xây dựng Ninh Bình. Thực hiện chế độ tính toán kinh doanh độc lập, tự chủ mặt tài chính, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng và có con dấu riêng theo mẫu quy định của Nhà nước.
Công ty là doanh nghiệp nhà nước chuyên doanh trong lĩnh vực sản xuất nước và cung cấp nước, đồng thời lắp đặt hệ thống cung cấp nước cho thị xã Ninh Bình và Tam Điệp.
Đến năm 1995 Công ty được công nhận là doanh nghiệp hoạt động công ích. Công ty được thành lập trên cơ ở nhà máy nước thị xã Ninh Bình. Chính thức mang tên Công ty cấp nước Ninh Bình vào 7/93 theo quyết định của UBND tỉnh Ninh Bình.
Đến 2/99 theo quyết định 78 QĐ-UB ngày 13/1/1999 của UBND tỉnh về việc sát nhập Công ty cấp nước Tam Điệp về Công ty cấp nước Ninh Bình.
Theo quyết định lúc đầu thành lập của UBND tỉnh Ninh Bình đã quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty cấp nước Ninh Bình như sau:
a) Chức năng của Công ty:
- Căn cứ vào nhu cầu của thị trường và khả năng phát triển của Công ty và sự chỉ đạo trực tiếp của UBND, Công ty xây dựng kế hoạch hoạt động ngắn hạn và dài hạn trình UBND tỉnh và tổ chức thực hiện các mục tiêu và phương hướng sản xuất kinh doanh của mình sao cho có kết quả cao nhất.
- Thực hiện chế độ hạch toán kế toán theo định kỳ hàng năm nhằm sử dụng hợp lý lao động, tài sản, vật tư, tiền vốn, bảo đảm sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật tăng cường năng lực sản xuất, mở rộng mạng lưới kinh doanh. Nghiên cứu tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Đào tạo các đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức, đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty. Thực hiện đầy đủ các chính sách chế độ về tiền lương, bảo hiểm xã hội, về an toàn bảo hộ lao động đối với công nhân viên chức.
- Quản lý và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc theo quy chế hiện hành của nhà nước và UBND tỉnh.
b) Nhiệm vụ của Công ty
- Sản xuất, cung cấp nước sạch cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Sản xuất và dịch vụ cho mọi tầng lớp dân cư trên địa bàn thị xã Ninh Bình và Tam Điệp.
- Đồng thời đứng ra chịu trách nhiệm lắp đặt, xây dựng hệ thống đường ống cho mọi tầng lớp dân cư và các cơ qua.
- Thiết kế thi công các công trình, hệ thống cung cấp nước vừa và nhỏ.
c) Quyền hạn của Công ty:
- Kinh tế đúng ngành nghề đã đăng ký khi thành lập doanh nghiệp.
- Được giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế, hợp đồng ngoại thương, hợp đồng nghiên cứu khoa học kỹ thuật, các hợp đồng liên doanh, liên kết hợp tác đầu tư thuộc phạm vi kinh doanh đã quy định các tổ chức kinh tế và cá nhân theo ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0040.doc