Lời mở đầu
Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường đã phát triển, hàng hoá đã được lưu thông rộng rãi trong các khu vực, các nước khác nhau trên thế giới. Chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nền kinh tế. Các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam luôn tìm kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh mới nhằm thu được lợi nhuận tối đa, đồng thời bảo đảm được các mục tiêu an toàn và thế lực cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực hiện tất cả các mục tiêu đó không phải là điều đơn giản, đôi khi phải trả những cái giá rất đắt, thậm chí có thể thất bại dẫn đến phá sản. Nghiên cứu vấn đề này, nhiều nhà kinh tế cho thầy rằng sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp trên thương trường phụ thuộc rất lớn vào chiến lược cạnh tranh mà họ đã đề ra.
Đã biết rằng, kinh tế thị trường không chỉ là chiếc “nôi” cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn là một “đấu trường”. Trên thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh gay go khốc liệt giữa các doanh nghiệp nhằm giành lấy khách hàng. Tìm được các bí quyết để cạnh tranh có hiệu quả là tìm ra bí quyết của sự tăng trưởng, quyết định vận mệnh của doanh nghiệp .
Công cuộc CNH,HĐH đất nước đã đem lại cho nền kinh tế nước ta một sinh khí mới và trong đó có ngành công nghiệp dệt may với những động lực và hướng phát triển mới.
Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam , với vai trò vừa cung cấp hàng hoá trong nước vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm trên thị trường thế giới, và cũng là ngành có lợi tức tương đối cao.
Chỉ trong 3 năm 1995-1997, giá trị tổng sản lượng của ngành dệt may đã tăng lên 20,3%, trong đó ngành dệt tăng 11,7% ngành may tăng 38,3% so với mức 29.3% của giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp. Sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt 1349 triệu USD, chiếm 15,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và chiếm trên 70% trong tổng giá trị xuất khẩu của hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp.
Tuy nhiên, liệu mặt hàng dệt may của nước ta cũng như toàn ngành dệt may tới đây có tiếp tục duy trì được tốc độ phát triển trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của nước ta hay không ? Vấn đề này chỉ có thể giải đáp dựa trên cơ sở những kết quả nghiên cứu dự báo về triển vọng thị trường thế giới mặt hàng này cũng như lợi thế và năng lực phát triển ngành dệt may của Việt Nam. Những biến động trên thị trường thế giới trong thời gian qua đã tác động mạnh mẽ đến thị trường dệt may nói chung và ngành dệt, may nói riêng càng làm cho việc nghiên cứu về thị trường hàng dệt may trở nên cấp thiết. Nhằm phân tích, đánh giá những thuận lợi và khó khăn của hàng dệt may Việt Nam, trên cơ sở đó xác lập những căn cứ khoa học để dự báo khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cũng như đề xuất một số chính sách, giải pháp hỗ trợ cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may trong nước thời gian tơí.
Trước những vấn đề đó, với sự khuyến khích của thầy giáo hướng dẫn, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới”. Đề tài này tập trung nghiên cứu những biến động thị trường dệt may trong những năm qua, triển vọng hàng dệt may, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.. .
Đề tài này gồm những nội dung chủ yếu sau :
Chương 1 Tổng quan về cạnh tranh.
Chương 2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam
Chương 3 Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
Đây là một đề tài với nội dung nghiên cứu rộng nên không tránh khỏi những thiếu xót. Hy vọng sẽ nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để đề tài nghiên cứu này được hoàn chỉnh hơn .
Xin chân thành cảm ơn !
Chương 1: Tổng quát về cạnh tranh
1.1 Tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1 .1.1 Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm cổ điển thì thị trường là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá, theo như cách hiểu này thị trường được thu hẹp lại ở “cái chợ ‘’
Sản xuất hàng hoá càng phát triển, các hình thức mua bán ngày càng đa dạng phong phú thì khái niệm thị trường có nhiều sự thay đổi. Theo nghĩa hiện đại, thị trường là quá trình mà người mua, người bán tác động qua lại nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá mua bán. Như vậy, theo cách hiểu này thị trường được mở rộng hơn cả về không gian, thời gian, cá nhân và dung lượng.
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế được điều tiết chủ yếu bởi các quy luật của thị trường như quy luật cung cầu, giá cả, quy luật tiền tệ, quy luật cạnh tranh. .. Trong số các quy luật của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một trong những quy luật có tác dụng rất lớn trong việc điều tiết, thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Sự tồn tại của cạnh tranh là tất yếu trong mỗi nền kinh tế.
Cạnh tranh kinh tế là một sự ganh đua giữa các cá nhân, tổ chức, đơn vị trong các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. ở đâu có lợi ích kinh tế thì ở đó sẽ có sự cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường, là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh mà kết quả là sẽ có doanh nghiệp bị bật ra khỏi thị trường, có nguy cơ phá sản song cũng có những doanh nghiệp trụ lại được và ngày càng phát triển.
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sản xuất hàng hoá cũng ngày càng phát triển với quy mô hết sức rộng lớn, nó không chỉ giới hạn ở một quốc gia nào đó mà đã mở rộng ra phạm vi thế giới. Chính điều này đã làm cho cạnh tranh ngày càng sâu rộng và gay gắt hơn. Nó được xem như một yếu tố tồn tại khách quan của nền kinh tế. Mỗi một doanh nghiệp dù muốn hay không vẫn phải chấp nhận sự cạnh tranh.
1 .1.2 Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh có vai trò rất to lớn và quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và với bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng. Bất kỳ một nền kinh tế nào cũng cần thiết phải duy trì sự cạnh tranh. Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được những sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả rẻ. Chính vì vậy duy trì sự cạnh tranh là nhằm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh sẽ là điều kiện thuận lợi để mỗi doanh nghiệp tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường, tự hoàn thiện bản thân để vươn lên giành ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Trên thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất nhằm giành dật người mua, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, toạ ưu thế về mọi mặt cho doanh nghiệp nhằm thu dược lợi nhuận lớn nhất.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sản xuất và cung ứng những hàng hoá và dịch vụ mà thị trường cần để đáp ứng nhu cầu ngày càng dda dạng và phong phú của khách hàng. Cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không có đích, là quá trình các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kinh tế tích cực và sáng tạo nhằm đứng vững trên thương trường và tăng lợi nhuận trên cơ sở tạo ra ưu thế về sản phẩm, giá bán và tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp muốn tạo ra ưu thế về sản phẩm và giá bán thì phải tăng chất lượng sản phẩm và giá bán phải rẻ. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh nhằm nâng coa chất lượng sản phẩm và dịch vụ, bên cạnh đó phải tối ưu hoá các yếu tố đầu voà của sản xuất để giảm tối đa giá thành sản phẩm. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp nào cung cấp hàng hoá dịch vụ với chất lượng tốt mà giá thành rẻ nhất thì sẽ chiến thắng. Chính vì vậy, cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh và khuyến khích, tạo diều kiện cho các doanh nghiệp có chi phí thấp vươn lên.
Để tham gia vào thị trường doanh nghiệp phải tuân thủ quy luật đào thải chọn lọc. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao chất lượng của mình, nâng cao trình độ kiến thức về kinh doanh. Do đó, cạnh tranh tranh là điều kiện rất tốt để để đào tạo ra những nhà kinh doanh giỏi.
Cạnh tranh là động lực phát triển cơ bản nhằm kết hợp một cách tối ưu nhất lợi ích của các doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của xã hội. Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh được coi là cá lớn nuốt cá bé, do đó không được khuyến khích. Song hiện nay, cạnh tranh đã được nhìn nhận theo xu hướng tích cực, tác dụng của nó thể hiện rất rõ ở sự phá sản của một số doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và sự phát triển vượt bậc của những doanh nghiệp khác biết sử dụng hiệu quả các yếu tố của quá trình kinh doanh.
Tóm lại, cạnh tranh là động lực phát triển của mỗi quốc gia nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng, là công cụ hữu hiệu để điều tiết hoạt động kinh doanh trên thương trường.
1 .1.3.Các loại hình cạnh tranh trong kinh doanh:
*Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm 2 loại:
-Cạnh tranh trong nội bộ ngành:là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một loại dịch vụ. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp hoạt động kinh doanh, thậm chí bị phá sản còn doanh nghiệp nào chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường, uy tín và vị thế của doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là một cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, năng lực quản lý...nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch
-Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
*Xét theo mức độ cạnh tranh:
-Cạnh tranh hoàn hảo:
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều người bán sản phẩm tương tự nhau về phẩm chất, quy cách, chủng loại, mẫu mã. Giá cả của sản phẩm là do cung cầu trên thị trường xác định,những nhười bán trong thị trường này không có khả năng chi phối đến giá cả. Các doanh nghiệp được tự do gia nhập và rút khỏi thị trường. Do đó, trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh muốn thu được lợi nhuận tối đa thì không còn cách nào khác là phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí đầu vào tới mức thấp nhất.
Cạnh tranh hoàn hảo là trạng thái thị trường ưu việt nhất. Trong thị trường này, người tiêu dùng có thể dễ dàng lựa chọn những hàng hoá dịch vụ tốt nhất với mức giá hợp lý. Đồng thời, các doanh nghiệp sc kinh doanh phải luôn tìm mọi cách cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Lợi ích của xã hội luôn được bảo đảm do có sự phân bổ hợp lý các nguồn tài nguyên. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay không có thị trường nào lại đạt được trạng thái cạnh tranh hoàn hảo.
-Cạnh tranh không hoàn hảo:
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại thị trường phổ biến nhất hiện nay. Sức mạnh thị trường thuộc về một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường này kinh doanh những loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Sự khác biệt giữa những loại hàng hoá và dịch vụ này ở nhãn hiệu. Trên thị trường, có những loại hàng hoá dịch vụ chất lượng như nhau song sự lựa chọn của người tiêu dùng lại căn cứ vào uy tín của nhãn hiệu sản phẩm. Cạnh tranh không hoàn hảo có 2 hình thức:
+Độc quyền tập đoàn: là loại thị trường mà ở đó nhu cầu về một số loại hàng hoá và dịch vụ đều do một vài doanh nghiệp lớn đáp ứng. Những doanh nghiệp này rất nhạy cảm với hoạt động kinh doanh của nhau, họ phụ thuộc lẫn nhau trong việc định giá và số lớn hàng hoá bán ra. Các doanh nghiệp đều muốn cung cấp hàng hoá dịch vụ với giá rẻ nhằm thu hết khách hàng song nếu họ có ý định giảm giá xuống thấp thì sau một thời gian sẽ có doanh nghiệp khác giảm giá xuống mức thấp hơn. Trong thị trường này các doanh nghiệp cũng không thể tự ý tăng giá vì nếu tăng giá trong khi giá của các doanh nghiệp khác không tăng thì sẽ rất có hại, khách hàng sẽ tìm đến những doanh nghiệp cung cấp với giá rẻ hơn.
+Cạnh tranh mang tính độc quyền với mức độ rất khác nhau. Số lượng doanh nghiệp tham gia kinh doanh trên thị trường này tương đối lớn. Sản phẩm của các doanh nghiệp là khác nhau thể qua bao bì, nhãn hiệu sản phẩm, mẫu mã, quy cách, chủng loại… Giá cả của mỗi doanh nghiệp là do chính doanh nghiệp đó đặt ra tuy nhiên không thể hoàn toàn theo ý mình.
Mức độ cạnh tranh ở thị trường cạnh tranh không hoàn hảo giảm hơn so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Độc quyền:
Thị trường cạnh tranh độc quyền là loại thị trường mà ở đó có một doanh nghiệp duy nhất kiểm soát hoàn toàn số lượng hàng hoá, dịch vụ bán ra trên thị trường. Trên thị trường này, các doanh nghiệp không thể tự do ra nhập vì họ phải bảo đảm rất nhiều yếu tố như vốn đầu tư, công nghệ kỹ thuật… giá cả trên thị trường do doanh nghiệp đặt ra, người mua phải chấp nhận giá. Vì vậy, để kiếm được lợi nhuận tối đa doanh nghiệp độc quyền đã tạo ra sự khan hiếm hàng hoá để nâng mức giá lên cao. Nhiều nước trên thế giới đã có lụt chống độc quyền, tuy nhiên độc quyền cũng có nhiều mặt tích cựcbởi vì doanh nghiệp độc quyền có khả năng bỏ vốn lớn để nghieen cứu phát triển công nghệ hiện đại, mở rọng quy mô sản xuất do đó giảm được chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm.
Trong điều kiện hiện nay, ở tất cả các nước trên thế giới hầu như không tồn tại trạng thái thị trường cạnh tranh hoàn toàn và độc quyền hoàn toàn.
ở nước ta, thị trường độc quyền chỉ tồn tại dưới dạng ít bị cạnh tranh như ngành xăng dầu, bưu chính viễn thông... Nhà nước ta cho phép một số doanh nghiệp trong nước và nước ngoài kinh doanh trong một số lĩnh vực lớn để phá vỡ độc quyền, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng.
1 .2. Những hoạt động chủ yếu của cạnh tranh trong kinh doanh.
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi cạnh tranh. Nếu doanh nghiệp không dám đương đầu với sự cạnh tranh thì sẽ dân đến phá sản. Các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh, dự báo trước sự cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng linh hoạt vũ khí cạnh tranh để thắng được các đối thủ. Bản chất của cạnh tranh trong kinh doanh là phải tạo ra ưu thế so với các đối thủ. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có ưu thế khác nhau, song nhìn chung các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về sản phẩm, về giá cả của sản phẩm, về cách thiết lập mạng lưới kênh phân phối, về các hoạt động xúc tiến, khuếch trươngưu thế của doanh nghiệp cề dịch vụ và một số hoạt động khác… Song trước hết mỗi doanh nghiệp muốn cạnh tranh thành công thì phải xây dựng chiến lược kinh doanh. Chiến lược kinh doanh có vai trò rất quan trọng, có tính chất quyết định đến vận mệnh của doanh nghiệp.
Thực tiễn ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh đã cho thấy rằng, không ít những người ra nhập lang kinh doanh từ số vốn ít ỏi nhưng đã nhanh chóng thành đạt trên thương trường nhờ có chiến lược kf hiệu quả. Bên cạnh đó đã có những người đã từng khuynh gia bại sản do không có chiến lược kinh doanh hoặc có chiến lược kinh doanh sai lầm trong đó có cả những người đã từng một thời rất nổi tiếng trên thương trường.
Chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp thấy rõ cơ hội và nguy cơ xảy ra trong hiện tại và trong tương lai, để phân tích đánh giá dự báo các điều kiện môi trường trong tương lai, tận dụng cơ hội, giảm nguy cơ, đưa doanh nghiệp vượt qua cạnh tranh dành thắng lợi trên thương trường. Kinh doanh trong một môi trường có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh thì việc xây dựng chiến lược kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp tránh đfược những rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả là vấn đề đầu tiên cần phải thực hiện nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, khi đac xây dựng được chiến lược kinh doanh thì các doanh nghiệp mới có cơ sở để thực hiện các hoạt động tiếp thao.
1 .2.1.Cạnh tranh về sản phẩm.
Sản phẩm xét dưới góc độ kỹ thuật là những hàng hoá cứng, còn xét dưới góc độ khách hàng là những hàng hoá mềm và bao gồm cả dịch vụ đi kèm với sản phẩm, thoả mãn nhu cầu con người. Mỗi doanh nghiệp cần xem xét sản phẩm dưới góc độ của khách hàng.
Chúng ta thấy rằng, yếutố đầu tiên quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trước hết ở chỗ sản phẩm của doanh nghiệp có thể cạnh tranh được với sản phẩm của các doanh nghiệp khác hay không? Mỗi doanh nghiệp đều có ưu thế khác nhau về sản phẩm. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện qua chất lượng. Chất lượng là yếu tố quan trọng nhất mà người tiêu dùng sẽ quyết định nên lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp nào. Để có thể cạnh tranh được về chất lượng sản phẩm bắt buộc các doanh nghiệp phải đầu tư nghiên cứu, cải tiến công nghệ kỹ thuật sản xuất, tạo ra sự khác biệt thông qua tính năng tác dụng của sản phẩm. Sản phẩm muốn cạnh tranh được phải có những nét đặc sắc riêng, điều này cũng ảnh hưởng tới vị trí của sản phẩm trên thị trường. Đảm bảo chất lượng sản phẩm luôn là phương châm kinh doanh đồng thời là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả của nhiều doanh nghiệp trên thế giới. Nhà sản xuất ô tô Mercedes – Benz cua CHLB Đức khi được hỏi: Bí quyết thành công ở đâu? Họ đã trả lời rằng ở chất lượng của hàng hoá và dịch vụ. Công ty này đã luôn coi chất lượng là lòng tin. Chính vì vậy khi nền kinh tế của các nước trên thế giới gặp khó khăn, các loại ô tô bị ứ đọng thì ô tô Mercedes – Benz đã trở thành món hàng tiêu thụ được trên thế giới. Tục ngữ có câu: “Không sợ không biết hàng hoá, chỉ sợ hàng hoá đối địch với hàng hoá”. Do đó cải tiến và nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ là cơ sở quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc nâng cao chất lượng của sản phẩm mới cũng là công cụ để cạnh tranh rất hiệu quả. Trong tình hình hiện nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đang thay đổi nhanh chóng, cạnh tranh về thị trường hết sức gay gắt, để thoả mãn nhu cầu không ngừng thay đổi của khách hàngthì biện pháp quan trọng nhất của doanh nghiệp là phải không ngừng đổi mới sản phẩm và cung cấp những dịch vụ mới. Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm mới và tốc đọ phát triển càng nhanh thì càng có khả năng cạnh tranh.
Vậy phát triển về sản phẩm mới là liều thuốc cải tử hoàn snh, phát triển sản phẩm mới phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường. Trong trường thị trường khan hiếm về sản phẩm của doanh nghiệp thì việc doanh nghiệp đưa ra những loại sản phẩm mới có phong cách độc đaó , chất lượng cao sẽ là điều kiện rất thuận lợi để giành giật thị trường.
Với hàng dệt may Việt Nam thì về sản phẩm có những đặc tính sau để có thể cạnh tranh: sản phẩm phong phú, đa dạng, mang tính thời trang cao, phụ thuộc vào thời vụ... Những đặc trưng đó cũng tạo nên những thuận lợi trong cạnh tranh về sản phẩm.
Với những doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thì việc nâng cao chất lượn sản phẩm và phát triển các sản phẩm mới chính là việc doanh nghiệp nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp cho khách hàng và phát triển thêm nhiều loại dịch vụ mới. Đây là kinh nghiệm cạnh tranh và gây uy tín cho khách hàng của công ty kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, kinh doanh các khu vui chơi giải trí ở một số nước phát triển trên thế giới.
Như vậy, cạnh tranh về sản phẩm là một trong những sách lược cạnh tranh cơ bản nhất mà các doanh nghiệp thường áp dụng. Trong đó cạnh tranh về chất lượng, về chủng loại, về kiểu dáng một sản phẩm là những vấn đề trọng tâm, chất lượng của sản phẩm là nội dung quyết định hiệu quả của nội dung cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải thiết lập được chiến lược về sản phẩm hợp lý, phải nghiên cứu từ khâu thiết kế, đưa vào sản xuất, tung ra thị trường đến các hoạt động hoàn thiện đổi mới sản phẩm, đảm bảo nâng cao chất lượng tạo uy tín trên thị trường. Ngoại hình và kiểu dáng của sản phẩm cũng là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả. Chỉ có những sản phẩm có kiểu dáng mới, ngoại hình đẹp thì mới có sức hấp dẫn mạnh. Nhất là trên thị trường quốc tế, không có những sản phẩm mang phong cách độc đáo thì sẽ thiếu năng lực cạnh tranh. Vì vậy, cạnh tranh về sản phẩm luôn là vấn đề mà các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh trên thương trường đều quan tâm.
1 .2.2.Cạnh tranh về giá cả.
Giá cả là một trong những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản phẩm. Một doanh nghiệp có sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả hợp lý thì luôn chiếm ưu thế trên thị trường. áp dụng những chính sách định giá linh hoạt, đa dạng là nhân tố quan trọng tạo nên thành công trong tiêu thụ sản phẩm. Sách lược định giá sản phẩm chủ yếu phải căn cứ vào giá thành sản phẩm, nhu cầu thị trường và nhu cầu cạnh tranh của thị trường để xác định. Cạnh tranh bằng giá cả phải tuỳ thuộc vào tình hình và phải lấy giá thị trường làm chuẩn.
Có các chính sách định giá nư sau:
-Chính sách định giá thấp: Là chính sách định giá thấp hơn giá thị trường. áp dụng khi doanh nghiệp mới xâm nhập thị trường hoặc tiêu thụ khối lượng sản phẩm lớn trong thời gian ngắn hoặc nhằm mục đích cạnh tranh. Một số doanh nghiệp trên thế giới đã rất thành công trong chiến lược cạnh tranh bằng cách định giá thấp như cửa hàng bán lẻ lớn nhất nước Pháp – La Fayetle. Họ đã đưa ra khẩu hiệu: “hãy định giá bán thấp hơn người khác”. Kinh nghiệm làm ăn của cửa hàng này là nếu bạn muốn cạnh tranh thành công thì giá bán hàng hoá của bạn phải thấp hơn của đối thủ cạnh tranh.
-Chính sách bán với giá thị trường: áp dụng khi doanh nghiệp không có ý định lôi cuốn khách hàng bằng cách bán với giá thấp hơn giá của doanh nghiệp cạnh tranh và cungx không muốn để mất khách hàng.
Bán với giá thị trường sẽ không mang lại nhiều lợi nhuận song vẫn đảm bảo có lãi. Trong quá trình kinh doanh một số doanh nghiệp đã áp dụng chính sách định giá này như siêu thị Đại Vinh của Nhật Bản, họ đã áp dụng đối với những loại hàng hoá chiến lược. Đối với những loại hàng hoá này thì kiểu cách, chủng loại làm chính, giá cả không phải là yếu tố thu hút khách hàng.
-Chính sách bán với giá cao hơn giá thị trường: áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp có hàng hoá và dịch vụ độc quyền, không bị cạnh tranh. Kinh doanh độc quyền thì việc định giá là không có giới hạn, bởi vì những người có nhu cầu muốn mua thì giá cao bao nhiêu họ vẫn có thể mua. Làm như vậy vừa mở rộng được thị trường , vừa thu được lãi nhiều. Đây chính là chính sách định giá của nhiều hãng kinh doanh nổi tiếng trên thế giới như hãng sản xuất TV của Nhật Bản khi kinh doanh trên thị trường Trung Quốc. Năm 1979, khi ngành sản xuất TV của Nhật Bản thâm nhập thị trường Trung Quốc họ đã nghiên cứu kỹ thị trường và thấy Trung Quốc là thị trường tiêu thụ TV trắng đen có tiềm lực rất lớn. Trong khi đó ở Trung Quốc chưa có sự cạnh tranh của TV nước ngoài. TV của Nhật Bản sản xuất chất lượng tốt hơn TV do Trung Quốc sản xuất nên họ quyết định định giá sản phẩm của mình cao hơn Trung Quốc hàng trục nhân dân tệ. Với cách định giá này, Nhật bản đã thu được một khoản lợi nhuận lớn mà vẫn chiếm được thị trường Trung Quốc.
Nhưng theo quan điểm của nhiều hãng kinh doanh trên thế giới (như công ty điện máy National) thì trong điều kiện kinh doanh thị trường phát triển như ngày nay mà áp dụng cạnh tranh giá cả thì chỉ là cạnh tranh mang tính chất chữa cháy. Nếu dùng giá cả để khống chế thị trường thì đương nhiên dẫn đến sự cạnh tranh hạ giá của đồng nghiệp và sẽ dẫn đến thất bại. Đây là sự thất bại triệt để của kinh doanh thị trường. Vì vậy, để có thể cạnh tranh trong kf, mỗi doanh nghiệp phải ra sức phát triển những hàng hoá và dịch vụ mới có chất lượng tốt, có những đặc điểm riêng của mình và giá cả phải hợp lý.
1 .2.3.Cạnh tranh trong thiết lập mạng lưới kênh phân phối:
Thiết lập mạng lưới kênh phân phối hợp lý hiệu quả sẽ là yếu tố rất có lợi để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Một doanh nghiệp mà có khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ đúng nơi, đúng lúc, kịp thời đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất thì sẽ tạo được lòng tin, uy tín đối với khách hàng và sẽ được khách hàng lựa chọn.
Thiết lập mạng lưới kênh phân phối phải căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá dịch vụ và yêu cầu của khách hàng. Có các cách thiết lập kênh phân phối như sau:
Cách 1: sản xuất --- Tiêu dùng.
Cách 2: sản xuất --- Người bán lẻ --- Tiêu dùng.
Cách 3: sản xuất --- Bán buôn --- Bán lẻ --- Tiêu dùng.
Cách 4: sản xuất --- Trung gian --- Bán buôn --- Bán lẻ --- Tiêu dùng.
Lựa chọn hình thức bán cũng là một trong những vấn đề quyết định đến hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp vì nó tác động rất lớn đến tâm lý của khách hàng. Kinh nghiệm kinh doanh của nhiều nước đã cho thấy, bán hàng thông qua các hình thức như gọi điện thoại (bán hàng từ xa), bán hàng qua các nhân viên tiếp thị ... là những hình thức rất hiệu quả.
ở nước ta, hình thức phục vụ khách hàng đến tận nơi cũng bắt đầu phổ biến. Một số công ty đã rất thành công trong lĩnh vực này như Công ty bưu chính viễn thông Hà nội với phương thức thu cước phí điên thoại, công ty sẽ phục vụ tận nơi.
Một số doanh nghiệp lớn trên thế giới cũng đã rất thành công trong hoạt động cạnh tranh khi họ biết thiết lập hợp lý mạng lưới kenh phân phối, chẳng hạn như công ty Daiwa Seiko của Nhật Bản đã cạnh tranh thành công khi họ quyết định bỏ cửa hàng bán buôn để giảm khâu lưu thông hàng hoá. Olympic và Daiwa Seiko là hai công ty sản xuất lưỡi câu lớn nhất của Nhật Bản. Đầu những năm 1960 sản phẩm của Olympic hầu như đã lũng đoạn thị trường cả nước còn của Daiwa Seiko thì cả về doanh thu đến lợi nhuận kinh doanh đều chưa băng một nửa của Olympic. Vào thời kỳ khó khăn này, Daiwa Seiko đã quyết định áp dụng hai sách lược để thay đổi cách buôn bán ở trong nước và xuất khẩu hàng loạt sản phẩm. Công ty đã nhận thấy nước Nhật đất hẹp, thị trường có hạn, không có tiền đồ phát triển rộng lớn, cần phải đi vào thị trường quốc tế. Đồng thời thay đổi trình tự buôn bán hàng hoá vốn đã thành truyền thống trong nước là: Công ty --- Cửa hàng bán buôn --- Cửa hàng bán lẻ --- Người tiêu dùng. Công ty đã dứt khoát bỏ khâu trung gian là cửa hàng buôn bán làm cho quá trình buôn bán thành: Công ty --- Cửa hàng bán lẻ --- Người tiêu dùng và nhờ đó mà công ty đã khống chế được toàn bộ quá trình sản xuất, tiêu thụ. Do vậy, một mặt đã giảm được những phiền phức do cửa hàng bán buôn gây ra, mặt khác quan trọng hơn là có thể nhanh chóng và trực tiếp nắm được sở thích của người tiêu dùng, gắn chặt sản xuất với tiêu dùng, tăng hiệu quả sản xuất và tiêu thụ. Quyết sách của công ty Daiwa Seiko đã bắt đầu có hiệu lực từ cuối những năm 1960. Vào cuối những năm 1970 nó đã hoàn toàn vượt hẳn Olympic và từ đó đã chiếm vị trí hàng đầu trên thị trường thế giới về sản phẩm lưỡi câu.
1 .2.4. Cạnh tranh thông qua các hoạt động xúc tiến quảng cáo.
Quảng cáo và xúc tiến bán hàng là những hoạt động nhằm giới thiệu và thông tin cho khách hàng về các sản phẩm của doanh nghiệp, đồng thời lôi kéo khách hàng tiêu dùng những sản phẩm đó. Hoạt động này không thể thiếu được trong cạnh tranh của doanh nghiệp.
Quảng cáo, đó là hoạt động thông qua các phương thức tuyên truyền để tuyên truyền một cách rộng rãi các loại hàng hoá, các thông tin dịch vụ nhằm đạt mục đích và mở rộng ảnh hưởng, đi vào lòng người và tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên, sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu tuỳ thuộc vào chất lượng của sản phẩm. Nhưng một sản phẩm có chất lượng tốt, nếu được quảng cáo thì hiệu quả tiêu thụ sẽ lớn hơn nhiều. Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá phát triển, phần lớn hàng hoá, dịch vụ đều phải được quảng cáo, đặc biệt là những sản phẩm mới vì chúng chưa được mọi người biết đến. Trong điều kiện đảm bảo chất lượng hàng hoá dịch vụ thì việc cố gắng nâng cao hiệu quả tuyên truyền quảng cáo dịch vụ cũng là biên pháp để doanh nghiệp cạnh tranh thành công trong kinh doanh. Các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ các cách quảng cáo, dùng phương thức gì để quảng cáo, áp dụng những kỹ sảo quảng cáo nào, lợi dụng những dịp nào để quảng cáo sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
Quảng cáo chính là nghệ thuật thu hút khách hàng, do đó mỗi doanh nghiệp muốn thành công thì phải:
-Khéo lợi dụnh các phương tiện thông tin để quảng cáo rộng rãi.
Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, phương tiện thông tin cũng ngày càng nhiều, ngày càng tiên tiến. Nhiuuè doanh nghiệp có thể tuyên truyền, quảng cáo một cách thành công vì trước hết họ đã khéo léo trong việc lựa chọn những phương tiện thông tin có hiệu quả, rõ ràng, chẳng hạn như:
+ Quảng cáo thông qua phương tiện in ấn, bưu điện, truyền thanh như báo, tạp trí, phát thanh, thư từ và đơn đặt hàng, danh mục hàng hoá và các bản thuyết minh…
+ Quảng cáo qua màn ảnh: Cách quảng cáo này rất lý thú và hấp dẫn, có tác dụng cạnh tranh cao song tốn kém hơn.
-Vận dụng nghệ thuật quảng cáo khéo léo:
Nghệ thuật quảng cáo khéo léo là sự kết tinh của trí tuệ, đòi hỏi người làm quảng cáo phải có kiến thức, am hiểu nghệ thuật và có khả năng tưởng tượng nhạy bén về nhiều mặt. Nếu kết hợp các loại nghệ thuật thì có thể phát huy được tác dụng của quảng cáo, thu hút được nhiều đối tượng tuyên truyền. Mặc dầu cần có nghệ thuật khéo léo trong quảng cáo nhưng không có nghĩa là giả tạo, bởi vì như vậy chính là lừa dối mọi người mà ngược lại quảng cáo phải chân thực. Tuyên truyền một cách thực sự cầu thị là thái đọ cơ bản và cũng là một kỹ sảo trong quảng cáo.
-Doanh nghiệp phải biết nắm bắt các thời cơ để quảng cáo. Nắm được thời cơ thì đôi khi có thể giành giật được thời gian để đi trước một bước khi đối thủ cạnh tranh hoặc có thể giành được khách hàng để mở rộng thị trường, hay giảm được chi phí, tiết kiệm được thời gian và tiền của. Nghĩa là nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
Bên cạnh quảng cáo, xúc tiến bán hàng và yểm trợ bán hàng cũng là hoạt động giúp cho chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp hiệu quả hơn. Những hoạt động này thường được thực hiện thông qua các triển lãm, hội chợ, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, thông qua việc bàn thử các loại sản phẩm.
Nói tóm lại, việc lựa chọn hình thức quảng cáo và xúc tiến nh._.ư thế nào phải dựa vào những nhân tố như tính năng, đặc điểm của loại hàng hoá, dịch vụ , giá sử dụng cũng như phạm vi sử dụng và khả năng chi phí cho quảng cáo. hiệu quả của hs quảng cáo và xúc tiến bán hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường nói riêng và việc thực hiện các mục tiêu trong kinh doanh của doanh nghiệp nói chung trong điều kiện có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh khác.
1.2.5. Cạnh tranh bằng hoạt động dịch vụ trước, trong và sau bán hàng.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển, dịch vụ là một trong những kâu được các nhà kinh doanh chú ý đến nhiều nhất bởi vì người tiêu dùng sẽ lựa chọn những doanh nghiệp có những hoạt động dịch vụ thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ. Dịch vụ thường là những hoạt động đánh vào tâm lý người tiêu dùng rất hiệu quả. Vì thế, mỗi doanh nghiệp muốn cuốn hút khách hàng, muốn tạo ra ưu thế so với các doanh nghiệp khác thì phải đầu tư và hoàn thiện các hoạt động dịch vụ của mình. Các hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp có thể được thực hiện trước, trong và sau khi bán hàng tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh.
Như vậy, các hoạt động dịch vụ cũng là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả. Mỗi doanh nghiệp phải nghiên cứu để tìm cho mình những cách thức phục vụ tối ưu để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nói riêng đến các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ta thấy rằng họ đã bắt đầu chú ý đến những khâu dịch vụ bởi vì họ đã nhận ra rằng hoạt động dịch vụ hỗ trợ rất đắc lực cho các hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn. Chính vì vậy trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp đã nổi trội hơn hẳn các doanh nghiệp khác trên thị trường đôi khi không phải là do chất lượng sản phẩm của họ tốt hơn mà là họ đã biết sử dụng những hoạt động dịch vụ đi kèm rất hiệu quả.
Cạnh tranh trong nền kinh tế chủ yếu là ở hoạt động dịch vụ. Sản phẩm của mỗi doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường nói chung đều giống nhau ửo chất lượng. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp thể hiện ưu thế của mình đều bằng các hoạt động dịch vụ. Dịch vụ sẽ là nam châm thu hút khách hàng đến với doanh nghiệp.
1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường sẽ chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những yếu tố của môi trường kinh doanh. Những doanh nghiệp chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh trên thương trường là những doanh nghiệp biết tặan dụng và khai thác tối đa những yếu tố môi trường. Môi trường kinh doanh có thể tác đọng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhìn chung, những nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể chia làm 2 loại:
1 .3.1.Các nhân tố khách quan.
Nhân tố khách quan là những nhân tố tác động từ bên ngoài doanh nghiệp, dù muốn hay không muốn, doanh nghiệp vẫn phải chấp nhận sự tác động này, tìm mọi cách khai thác những điểm thuận lợi và tránh những bất lợi ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh cuả doanh nghiệp trên thương trưòng.
Trên thực tế, nhân tố khách quan cơ bản nhất tác động đến hoạt động kinh doanh nói chung và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng là luật pháp và các chính sách của chính phủ. Đây là nhân tố thuộc môi trường vĩ mô của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có biết tận dụng ưu thế cạnh tranh của mình hay không phụ thuộc rất lớn vào khả năng khai thác những yếu tố trong luật pháp và trong các chính sách của chính phủ.
Giả sử loại hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp đang kinh doanh nằm trong chính sách khuyến khích hỗ trợ của chính phủ thì đây là một điều kiện rất thuận lợi và doanh nghiệp phải biết khai thác lợi thế này để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của mình tạo vị thế cạnh tranh trên thương trường, đồng thời đạt được các mục tiêu về lợi nhuận.
Như vậy, luật pháp và các chính sách của chính phủ vừa là yếu tố thúc đẩy đồng thời cũng là yếu tố hạn chế khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước muốn hướng để phát triển một ngành nào đó thì sẽ tạo điều kiện cho ngành đó như ưu đaic về thuế, lãi suất, vốn đầu tư... Và đây cũng là những yếu tố để các doanh nghiệp trong cùng một ngành cạnh tranh với nhau nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp và đảm bảo thực hiện được các mục tiêu của xã hội.
Nhân tố khách quan thứ hai ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó là ưu thế của các đối thủ cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải biết tận dụng những kẽ hở của đối phương, đánh vào những yếu điểm đó để có thể làm nổi bật những ưu thế về hàng hoá, dịch vụ của mình. Bên cạnh đó phải cố gắng tìm hiểu mục tiêu hiện tại và tương lai của đối thủ cạnh tranh là gì? Và đối thủ cạnh tranh đánh giá như thế nào về mục tiêu và năng lực của các đối thủ cạnh tranh của họ. Một đối thủ cạnh tranh mà họ đã từng nổi tiếng trên thương trường thì khả năng cạnh tranh được là rất khó khăn. Doanh nghiệp phải phân tích được diểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh để có những biện pháp hợp lý rtrong từng điều kiện, từng hoàn cảnh. Tất cả phải đều nhằm vào mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp và lợi nhuận, vị thế, an toàn.
Nhân tố khách quan thứ ba cũng có tác động không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó là tình hình kinh doanh của các đối tác trong cùng một tập đoàn kinh doanh. Đây là yếu tố thuộc môi trường vĩ mô của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường mọi sự liên kết kinh doanh giữa các doanh nghiệp rất có lợi cho việc cạnh tranh với tập đoàn kinh tế khác. Nếu như đối tác kinh doanh với doanh nghiệp đàn trong thời kỳ hưng thịnh thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và cả tạap đoàn kinh doanh nói chung sẽ tăng lên bởi vì sức mạnh sẽ được tổng hợp lại. Và ngược lại, một sự rủi ro trong kinh doanh của đối tác cũng có thể ảnh hưởng đến cả chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn một yếu tố khách quan khác ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như: tình hình tài chính tiền tệ trong nước và nước ngoài hay sự khủng hoảng kinh tế của các nước trên thế giới có quan hệ hợp tác voứi Việt Nam cũng có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nói tóm lại, các nhân tố khách qua là những nhân tố doanh nghiệp không thể tự tạo ra và cũng không thể làm mất đi. Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, mỗi doanh nghiệp cần phải chấp nhận sự tồn tại của các nhân tố đo để tìm ra biện pháp hợp lý nhất, hiệu quả nhất cho hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp.
1 .3.2.Các nhân tố chủ quan.
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố xuất phát từ nội tại của doanh
nghiệp, thể hiện tiềm năng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chúng ta đã biết, tiềm năng của một doanh nghiệp thường được thể hiện qua tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Hai yếu tố nàycó tín chất quyết định thế lực của doanh nghiệp trên tương trường.
Tài sản hữu hình thể hiện bằng tiền vốn, máy móc, thiết bị kỹ thuật. Tài sản hữu hình của doanh nghiệp càng lớn bao nhiêu thì uy tín của doanh nghiệp sẽ càng lớn bấy nhiêu. Tuy nhiên, tài snả hữu hình chỉ biểu hiện một phần nào đó tiềm lực của doanh nghiệp còn phần phần quyết định lớn nhất đến khả năng cạnh tranh trên thị trường là tài sản vô hình.
Tài sản vô hình là tài sản quý giá nhất của dnm không thể định lượng đượcc. Đó là sự tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, hay có thể là hình ảnh quen thuộc, sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hoá đó, cũng có thể là bầu không khí tổ chức nhân sự trong doanh nghiệp, là chất lượng trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Nhân tài kinh doanh là vốn quý nhất của doanh nghiệp. Mờu chốt để một doanh nghiệp kinh doanh thành công là ở chỗ phải có nhân tài kinh doanh. Đó là những người dũng cảm, mạnh dạn, biết mưu lược kinh doanh, thông thạo kỹ năng kinh doanh và tư duy nhạy bén, hành động mau lẹ, có năng lực ứng phó, năng lực xã hội, năng lực công tác nghiệp vụ tương đối mạnh. Nhân tài kinh doanh của một doanh nghiệp nói chung thường bao gồm những người lãnh đạo, những người làm công tác kinh doanh, những người làm công tacd kỹ thuật và công nhân viên chức, những người này hình thành một tập đoàn nhân tài kinh doanh. Tập đoàn nhân tài kinh doanh của rất nhiều doanh nghiệp thành công còn có kết cấu trí tuệ hợp lý, tức là có những chuyên gia “cứng” và cũng có cả những chuyên gia “mềm”, nghĩa là có những người lãnh đạo có sở trường trong vieưẹc ra những quyết sách kinh doanh mang tính chiến lược và có cả công nhân viên chức tinh thông nghiệp vụ và nghệ thuật kinh doanh. Nhờ sự hợp lý về kết cấu trí tuệ, biết kễt hợp lẫn nhau đã làm cho kinh doanh của doanh nghiệp thành công. Vì vậy, để có thể thành công trong kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tìm mọi cách khai thác nhân tài kinh doanh và ra sức bồi dưỡng kiến thức, năng lực kinh doanh, tạo sơ sở vững chắc cho họ phái huy được tài năng kinh doanh của mình.
Nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã thành công trong kinh doanh là do họ biết phát huy thế mạnh về con người trong doanh nghiệp. Công ty bút bi Saced (Pakistan) là một ví dụ điển hình. Công ty đã tăng cườn sức cạnh tranh băng biện pháp chú trọng bồi dưỡng con người. Họ cho rằng, đối với một doanh nghiệp đang phát triển, con người là nhân tố cơ bản để tác động vào mặt kỹ thuật, thiết bị và quản lý. Do đó, công ty hết sức coi trọng việc phát huy tinh thần sáng tạo của toàn thể công nhân viên chức. Công ty thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý ra nước ngoài khảo sát, tiếp thu những kỹ thuật và những kinh nghiệm mới. Chính vì vậy, trình độ công nhân được nâng cao đã tăng cường mạnh mẽ sức cạnh tranh của công ty và đã thu được hiệu quả kinh tế rất tốt.
Như vậy, trìng độ của đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có một yếu tố cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công trong kinh doanh nói chung và khả năng cạnh tranh nói riêng đố là sự tín nhiệm- hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường.
Sự tín nhiệm đối với doanh nghiệp là uy tín và ảnh hưởng của doanh nghiệp trên thị trường, là vị trí và hình ảnh của doanh nghiệp trong con mắt người tiêu dùng. Rất nhiều doanh nghiệp đều coi việc xây dựng uy tín là một trong những bí quyết để kinh doanh thành công. Tín nhiệm đối với doanh nghiệp trên thị trường bao gồm:
-Tín nhiệm về chất lượng sản phẩm: Sự tín nhiệm đối với sản phẩm càng cao, người tiêu dùng càng tin tưởng, chỉ cần nghe nói đến sản phẩm mang tên nhãn hiệu đó thì không thể hoài nghi về chất lượng của sản phẩm. Những sản phẩm nổi tiếng lâu đời là những sản phẩm có sự tín nhệm về chất lượng cao.
-Tín nhiệm về tác phong kinh doanh của doanh nghiệp: Những doanh nghiệp có tác phong kinh doanh tốt, tuân thủ thời gian, tuân thủ hợp đồng, có tinh thần trách nhiệm cao đối với người tiêu dùng sẽ có uy tín rất cao trên thị trường.
-Tín nhiệm về sự phục vụ của doanh nghiệp bao gồm sự phục vụ về kỹ thuật, phục vụ tiêu thụ... Trong quá trình tiêu thụ hoặc sau khi bán, nếu doanh nghiệp phục vụ chu đáo, thái độ phục vụ tốt, làm cho người mua hay không mua cảm thấy hài lòng. Sau khi khách mua hàng về nhà, nếu có vấn đề thì doanh nghiệp đến tận nhà để giải quyết. Tất cả những cái đó thể hiện sự tín nhiệm đối với việc phục vụ của doanh nghiệp.
Mặc dù bản thân sự tín nhiệm không có giá trị và giá trị sử dụng nhưng bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tìm cách xây dựng tín nhiệm tố trên thị trường. Bởi vì việc xây dựng và giữ gìn tín nhiệm tôt trên thị trường đối với doanh nghiệp có tác dụng to lớn trong sự thành công của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp càng không được tín nhiệm càng không có chỗ đứng trên thị trường. Tác dụng của tín nhiệm đối với việc kinh doanh của một doanh nghiệp được biểu hiện ở các mặt sau đây:
+Sự tín nhiệm của doanh nghiệp càng cao thì càng dễ tiêu thụ sản phẩm. Đây là kinh nghiệm của hiệu giầy Nội Liên Tục – Bắc Kinh. Cửa hàng này chủ yếu kinh doanh giầy vải bắt đầu từ năm 1636. Mặc dù hiện nay các loại giầy không ngừng thay đổi về mẫu mã và kiểu dáng, nhưng do sự độc đáo về công nghệ sản xuất nên giầy Nội Liên Tục vẫn có uy tín trên thị trường. Hiện nay các loại giầy vải của họ vừa rất dễ bán vừa không ngừng mở rộng được thị trường mới ở nước ngoài như Braxin, Nhật Bản… Bất cứ sản phẩm của doanh nghiệp nào, chỉ cần xây dựng được tín nhiệm tốt trên thị trường, người tiêu dùng tin tưởng thì doanh nghiệp qua đó được sự thử thách của cạnh tranh, nhờ đó giữ vững được sức sống sản phẩm của mình.
+ Uy tín của doanh nghiệp càng cao thì càng có thể không ngừng mở rộng thị trường, mở rộng tiêu thụ.
+ Sự tín nhiệm của doanh nghiệp càng cao thì càng có thể nâng cao được hiệu quả kinh tế. Mặc dù bản thân sự tín nhiệm không có giá trị nhưng một khi doanh nghiệp xây dựng được tín nhiệm trên thị trường thì có thể mở rộng thị trường, tăng thêm tiêu thụ, sản phẩm mới sản xuất được lâu dài, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp mới có thể được nâng cao. Ngược lại doanh nghiệp không được tín nhiệm, hoặc một khi sự tín nhiệm bị mai một đi, thì sản phẩm sẽ không có thị trường, cho dù đã chiếm lĩnh được cũng sẽ mất đi cùng với sự mai một của sự tín nhiệm. Tín nhiệm là hiệu quả kinh tế, tín nhiệm là tiền. Chính vì vậy nhiều doanh nghiệp đã coi sự tín nhiệm là sinh mệnh của mình.
Bất cứ doanh nghiệp nào đã thành công trong kinh doanh đều coi việc xây dựng và giữ gìn tín nhiệm là một nhiệm vụ có tính chiến lược. Có giữ được sự tín nhiệm thì cơ hội kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường mới được nâng cao.
Nói tóm lại, những yếu tố chủ quan của doanh nghiệp có tính chất quyết định đến khả năng cạnh tranh trong kinh doanh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, doanh nghiệp nào biết phát huy năng lực của mình thì sẽ chiến thắng trong cuộc chạy đua trên thương trường.
Chương 2
Thực trạng hoạt động kinh doanh
của ngành dệt may Việt Nam
2 .1 Vai trò và đặc điểm của ngành Dệt May Việt Nam.
2 .1.1.Vai trò.
Công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Dệt may là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách địng hướng xuất khẩu của đất nước, và nói một cách chung hơn, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Công nghiệp dệt may tất yếu là một trong các ngành chủ yếu xuất khẩu trong giai đoạn đầu phát triển của các nước, xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ để mua máy móc thiết bị, hiện đại hoá sản xuất làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh.
Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Sự thất bại về xuất khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu chứng của những trở ngại có tính thâm căn cố đế trong nước và sự bất lực, không phát huy được lợi thế so sánh tiềm năng.
Quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước, trong giai đoạn phát triển dệt may thường đóng vai trò chủ đạo, nó có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề cho phát triển các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn định tình hình chính trị xã hội.
Ngành dệt may là ngành có liên quan chặt chẽ tới sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, khi dệt may là một trong những ngành hàng đầu của nền kinh tế nó sẽ cần một lượng lớn nguyên liệu là sản phẩm của các lĩnh vực khác và vì thế sẽ tạo điều kiện để đầu tư phát triển các ngành công nghiệp này.
Tại các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn qua việc sản xuất các loại nguyên liệu dệt như bông, đay, tơ tằm và là phương tiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, ở các nước công nghiệp phát triển, công nghiệp dệt may đã phát triển đến trình độ cao hơn, dáp ững nhu cầu ngày càng cao, đa dạng, phong phú của người tiêu dùng.
2 .1.2 . Đặc điểm
Công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam khoảng một thế kỷ nay, còn những hoạt động thủ công truyền thống như thêu thùa, đan lát… thì đã có từ lâu. Theo nột số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành công nghiệp dệt may này bắt đầu từ khi khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập vào năm 1889. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn, đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt may với máy móc hiên đại của Châu Âu đã được thành lập. Trong thời kỳ này tại miền Bắc, các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng thiết bị Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu, cũng đã được thành lập. Mặc dù từ những năm 1970 sau khi thực hiện công cuộc đổi mới thì thời kỳ phát triển quan trọng hướng về xuất khẩu mới bát đầu.
Vì vậy, công nghiệp dệt may có những đặc điểm sau.
-Về tiêu thụ: Trong buôn bán thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế. Hàng dệt may có những đặc trưng riêng biệt ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và buôn bán. Nghiên cứu những đặc trưng riêng biệt của thương mại thế giới hàng dệt may là một trong những yếu tố quan trọng cần thiết ddể tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm và đảm bảo xuất khẩu thành công trên thị trường quốc tế. Một số đặc trưng đó là:
+Hàng dệt may có yêu cầu phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào đối tượng tiêu dùng - người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác… sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu tiêu dùng của từng nhóm người trong các bộ phận thị trường khác nhau có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
+Hàng dệt may mang tính thời trang cao, phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng được nhu cầu thích đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng. Do đó để tiêu thụ được sản phẩm, việc am hiểu các xu hướng thời trang là rất quan trọng.
+Vấn đề nhã mác cũng là một trong những đặc trưng nổi bật trong buôn bán hàng dệt may trên thế giới. Mỗi nhà sản xuất cần tạo được nhãn hiệu hàng hoá của riêng mình. Nhãn hiệu sản phẩm theo quan điểm xã hội thường là yếu tố chứng nhận chất lượng hàng hoá và uy tín của người sản xuất, đây là vấn đề quan tâm trong chiến lược của sản phẩm vì người tiêu dùng không chỉ tính đến giá cả mà còn rất coi trongj chất lượng sản phẩm.
+Trong buôn bán các sản phẩm dệt may cần chú ý đến yếu tố thời vụ. Phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi thời tiết trong năm ở từng khu vực thị trường mà cung cấp hàng hoá cho phù hợp. Điều này cũng liên quan đến thời hạn giao hàng.
Thói quen tiêu dùng cũng là một đặc điểm cần lưu ý trong buôn bán hàng dệt may vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề tìm thị trường tiêu thụ chio sản phẩm.
-Về sản xuất: Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, vốn đầu tư ban đầu không quá lớn nhưng lại có tỷ lệ lãi cao. Chính vì vậy, sản xuất dệt may thường phát triển mạnhvà có hiệu quả rất lớn đối với các nước đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, khi một nước trở thành nước công nghiệp phát triển có trình độ công nghệ cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may giảm thì họ lại vươn tới những ngành công nghiệp khác có hàm lượng kỹ thuật cao, tốn ít lao động và đem lại nhiều lợi nhuận. Công nghiệp dệt may lại phát huy vai trò của mình ở các nước kém phát triển hơn. Lịch sử phát triển của ngành dệt may thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do sự chuyển dịch về lợi thế so sánh. Như vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở những nước công nghiệp phát triển mà thực tế ngành này tiến đến giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Trong những năm gần đây, sản xuất dệt may của Việt Nam đã có những tiến bộ nhất định và đang cố gắng để hoà nhập với lộ trình của ngành dệt may thế giới.
-Về thị trường: Các sản phẩm dệt may là một trong những mặt hàng được bảo hộ chặt chẽ. Trước khi Hiệp định về hàng dệt may - kết quả quan trọng của vòng đàm phán Uruguay ra đời và phát huy tác dụng, việc buôn bán quốc tế các sản phẩm dệt may được điều chỉnh theo các thể chế thương mại đặc biệt và nhờ đó phần lớn các nước nhập khẩu thiết lập các hạn chế số lượng để hạnh chế hang dệt may nhập khẩ. Mặt khác, mức thuế phổ biến đánh vào hàng dệt may còn cao hơn so với các hàng hoá công nghiệp khác. Tất cả những rào cản đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới.
2 .2.Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam
Theo ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 1999 có thể đạt 1650 – 1700 triệu USD, tăng 22% so với năm 1998. Với tốc độ phát triển của ngành dệt may như hiện nay thì việc đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1900 – 2000 triệu USD vào năm 2000 là có thể trở thành hiện thực
Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế giới Trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm 34% đến 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Trong 9 tháng đầu năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tại thị trường hạn ngạch chiếm khoảng 39% tăng hơn 3% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó kim ngạch sang EU chiếm tới 80% trong tổng thị trường có hạn ngạch.
Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 1/1/1993 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phát triển ngành dệt may nước ta, thể hiện rõ trong kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU liên tục tăng trong giai đoạn 1993-1997 (tốc độ tăng bình quân hơn 20%/năm), tiếp đến là hiệp định buôn bán dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1998 – 2000 được ký kết ngày 17/11/1997 cho phép nâng hạn ngạch dệt may từ Việt Nam sang EU tăng lên 40% so với giai đoạn 5 năm 1993-1997 với mức tăng trưởng 3%-6%/năm
Từ 1995 trở lại đây, trong những thị trường lớn nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, loại thị trường cần hạn ngạch gồm có 10 nước, trong đó có 9 nước thuộc EU. Những nước trong EU nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam là Đức (40%-45%), Pháp (12%-14%), Anh (7%-9%), Hà Lan (10%-14%), Bỉ (4%-5%), Italia (6%-7%)…
Trong những năm qua, thực trạng của ngành dệt may Việt Nam được tổng hợp qua ngững vấn đề sau:
2 .2.1 .Về sản lượng.
Số liệu có được chỉ ra rằng ngành công nghiệp dệt may chiếm khoảng 9% tổng sản lượng công nghiệp năm 1996, thấp hơn năm 1990. Mặc dù ngành dệt may đang tăng rất chậm, tỷ lệ ngành dẹt trong tổng sản lượng của ngành công nghiệp (6,1%) lớn hơn ngành may (2,7%).
Ngoài ra số liệu cũng cho thấy sản lượng sợi tăng chậm, mặc dù sản lượng năm 1996 thấp hơn năm 1990, sản lượng vải thể hiện một xu hướng cũng không sáng sủa, và bắt đầu từ năm 1993 sản lượng đã tăng lên một cách rõ rệt nhưng đến năm 1996 cũng chỉ đạt 75% của năm 1985 và chỉ bằng 90% của năm 1990. Sản lượng ngành may tăng vững chắc hơn, mặc dù tốc đọ tăng thấp hơn so với tỷ lệ tăng trưởng được thể hiện thông qua các số liệu xuất khẩu (xem bảng 1)
Bảng 1: Sản lượng của ngành dệt may 1991-1997.
Mặt hàng
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
-Số liệu về sản lượng sản phẩm.
Sợi (1000 tấn)
40
44
38
44
50
57
Vải (triệu mét)
180
272
215
228
221
281
Quần áo (triệu cái)
100
104
91
121
127
200
-Giá trị tổng sản lượng
(tỷ đồng- giá cố định)
Dệt
2.859
3.800
5.278
6.853
9.361
10518
11317
May
585
700
1.350
3.411
3.411
4.270
5.125
Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ công nghiệp.
2 .2.2 . Về loại hình sở hữu:
Đối với ngành dệt, doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 60% tổng sản lượng của ngành năm 1996, trong khi đó doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 24% và đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% .
Ngành may, đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ tương tự là 15 %, trong khi đó doanh nghiệp tư nhân có vị trí quan trọng hơn chiếm 49% và doanh nghiệp Nhà nước chiếm 36% . Nét đặc trưng không bình thường của tỷ trọng chia theo loại hình sở hữu đó là khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong ngành dệt may của Việt Nam. Tại phần lớn các nước có nền kinh tế thị trường , khu vực này thường chi phối ngành công nghiệp dệt may. Đồng thời vẫn còn có sự tồn tại của bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, điều này phản ánh dấu tích một thời của nền kinh tế kế hoạch tập trung cùng với những tính chất cũ của chúng trong thời kỳ đổi mới. Như vậy, việc cải cách doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển một cách hiệu quả là một trong những thách thức lớn của ngành dệt may.
2 .2.3 . Đầu tư nước ngoài :
Từ năm 1998, sau khi Việt Nam bước đầu thực hiện tự do hai chính sách về FDI, các dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt tăng lên nhanh chóng. Từ năm 1993 trở lại đây, đầu tư nước ngoài đạt trên 100 triệu USD/năm, nhưng năm 1997 và năm 1998 nguồn vốn này đã giảm. Hình thức 100% sở hữu nước ngoài đã hấp dẫn các nhà đầu tư. Kéo sợi, dệt vải và may mặc được coi là những bộ phận chính thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các nước và vùng lãnh thổ Đông á là những nhà đầu tư chủ yếu, trong đó lớn nhất là Hàn Quốc, Malaysia, và Đài Loan chiếm 90% tổng đầu tư vào ngành dệt may.
Sau 10 năm ban hành Luật Đầu Tư nước ngoài, tính đến cuối năm 1998, 178 dự án dệt may được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 1.794,65 triệu USD, trừ 33 dự án đã giải thể trước thời hạn còn 145 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 1.628,192 triệu USD. Trong đó:
+Ngành dệt: Trừ 12 dự án đã bị giải thể, ngành dệt có 61 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 1.47,88 triệu USD, trong đó có 30 dự án sản xuất sợi, dệt vải, dệt kim ; 10 dự án dệt vải lớn, đầu tư đồng bộ từ sản xuất vải tới in , nhuộm hoàn tất; 3 dự án dệt tơ tằm, lụa; 3 dự án nhuộm; 4 dự án dệt khăn bông và 11 dự án dệt len, thảm. Trong các dự án trên có 40 dự án ( chiếm 66% so với tổng số dự án ) đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư 1.431,11 triệu USD, gồm 5 dự án đang xây dựng cơ bản và 35 dự án đã đưa vào hoạt động .
Về hình thức đầu tư, số dự án 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây, trong khi số dự án theo hình thức hợp tác kinh doanh trền cơ sở hợp đồng giảm đi.
Nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Hàn Quốc với 16 trong 40 dự án đang hoạt động và tổng số vốn đầu tư lên tới677,268 triệu USD; Malaysia – 4dự án với tổng số vốn đầu tư 477,134 triệu USD, Đài Loan 11 dự án với số vốn đầu tư 137,162 triệu USD, các dự án dệt phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Nam – 37 trong tổng số 40 dự án đang hoạt động, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh 13 dự án với vốn đầu tư 723,429 triệu USD, và Đồng Nai- 9dự án với vốn đầu tư 735,875 triệu USD.
Ngành may mặc : trừ 21 dự án đang xây dựng cơ bản, 47 dự án đã đi vào sản xuất, còn lại đang làm thủ tục xây dựng cơ bản.
Ngành may không có hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng mà chỉ theo hai hình thức – Liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Với ưu thế đầu tư của 17 nước, trong đó có Đài Loan đứng đầu với 23 dự án với tổng số vốn đầu tư 56,43 triệu USD, Hàn Quốc 14 dự án với tổng số vốn đầu tư là 21,843 triệu USD, Nhật Bản 10 dự án với tổng số vốn đầu tư 20,374 triệu USD, Hồng Kông 11 dự án với số vốn đầu tư 19, 206 triệu USD, Đức 4 dự án với vốn đầu tư 29,058 triệu USD.
Các dự án may cũng nằm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, trong đó thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu với 40 dự án với tổng số vốn đầu tư 104, 397 triệu USD; Đồng Nai 12 dự án với tổng số vốn đầu tư 36,679 triệu USD; Bình Dương 8 dự án với số vốn đầu tư 16,2 triệu USD. . .
2 .2.4 Về thiết bị
Ngành dệt hiện có 868.000 cọc sợi, cả sợi bông và sợi pha (bông pha với xơ PE) với chỉ số Nm (Chỉ số Quốc tế ) tử sợi Nm10 đến Nm102 bao gồm cả sợi chải kỹ, 43200 máy dệt, trong đó các xí nghiệp Quốc doanh T.W quản lý 11000 máy, xí nghiệp Quốc doanh địa phương - 3200 máy và Hợp tác xã tư nhân 29000 máy, các thiết bị nhuộm hoàn tất có thể nhuộm 450 m / năm với các loại vải từ nguyên liệu dệt khác nhau và các công nghệ nhuộm cũng như công nghệ in hoa khác nhau, các thiết bị dệt kim có thể sản xuất 20900 tấn sản phẩm / năm, bao gồm 19500 tấn dệt kim tròn / năm và 1400 tấn dệt kim dọc/năm .
Tuy nhiên, phần lớn số thiết bị ngành dệt hầu hết đã rất cũ và sự thiếu đồng bộ giữa các khâu. Thiết bị dệt còn quá ít so với thiết bị kéo sợi phần lớn lại là máy dệt thoi khổ hẹp, chủng loại nghèo nàn, vải làm ra không đáp ứng nhu cầu thị trường … Về thiết bị kéo sợi cũng có tới hơn 60% là cọc sợi chải thô, chỉ số chất lượng bình quân thấp chỉ có khoảng 26-30% là cọc sợi chải kỹ chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp dây chuyền nhuộm hoàn tất cũng đã lạc hậu phần lớn là thiết bị khổ hẹp, tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao.
Trong khi đó, trang thiết bị ngành may đã tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, nhất là về tính năng công dụng, từ máy đạp chân C22 của Liên Xô cũ, máy 8322 của Đức đến JUKI của Nhật Bản và FFAP của CHLB Đức. Số máy chuyên dùng cũng tăng lên đáng kể để đáp ứng với yêu cầu của sản xuất và của chủng loại mặt hangf như máy vắt năm chỉ, máy thùa đính, trần dầy pasant, may cạp bốn kim, bàn là treo, bàn là hơi có đệm hút chân không ... Trong từng công đoạn sản xuất may cũng được trong bị thêm máy mọc mới với tính năng công dụng mới nhằm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm trên mỗi công đoạn của chu trình sản xuất.
Về công nghệ:
Trong một số năm gần đây đã có một số dây chuyền kéo sợi mới, sử dụng công nghệ bông chải liên hợp tự động cao, các máy ghép tự động khống chế chất lượng, ứng dụng các kỹ thuật vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và kiểm tra chất lượng sợi, trong khâu dệt vải bông, nhờ sử dụng các thiết bị xe, hấp, giảm trọng lượng... nhiều sản phẩm giả tơ, giả len, sản phẩm từ microfiber đã bắt đầu dc sản xuất và tạo uy tín trên thị trường: trong khâu dệt kim, do phần lớn máy móc được nhập chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức... thuộc thế hệ mới, nhiều chủng loại đã được trang bị Computer đạt năng suất chất lượng cao, tính năng sử dụng rộng, song công nghệ và đào tạo chưa được nâng cao tương xứng nên mặt hàng còn đơn điệu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Trong lĩnh vực may, công nghệ đã có những chuyển biến khá kịp thời. Các dây chuyền may được bố trí vừa và nhỏ ( 25-26 máy ) , sử dụng 34-38 lao động cơ động nhanh và có nhân viên kiểm tra thường xuyên, có khả năng chấn chỉnh sai xót ngay c._..
3 .1.2 Chính sách về thị trường xuất khẩu
Với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá, bên cạnh việc duy trì và củng cố các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản… sớm khôi phục lại các thị trường như SNG và Đông Âu, phát triển các thị trường mới như Mỹ, Canada, Trung Đông, giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Đông Nam á .
Tăng cường vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại của Nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác Marketing. Bên cạnh việc tìm hiểu, cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả, các đặc điểm về kinh tế văn hoá xã hội cũng như bản sắc, truyền thống dân tộc của các Quốc gia, cần phải có những chính sách tiếp cận, khai thông và phát triển với từng thị trường cụ thể, trước hết là các thị trường xuất khẩu nhiều tiềm năng như đã nêu ở trên.
3 .1.3 Về nguyên liệu và phát triển sản phẩm
Quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt và các chính sách khuyến khích đâù tư phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho sự phát triển của ngành dệt, đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành và sản xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc nhuộm và các hoá chất khác cho ngành dệt, để từ đó nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm .
Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất vải đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên phụ liệu nhập ngoại . Đồng thời xây dựng hệ thống các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước (Chính sách thuế, hàm lượng nội địa của sản phẩm xuất khẩu).
Bông: Phải có chiến lược đồng bộ về cơ chế tổ chức giữa vùng nguyên liệu và chế biến, những chính sách lớn của Nhà nước về cây bông, đầu tư khoa học kỹ thuật cho giống, phòng sâu bệnh, xây dựng vùng trọng điểm đa canh, củng cố hệ thống khuyến nông, xây dựng giá và bảo hiểm giá, nâng cao chất lượng cán bông , nhằm khuyến khích nông dân mở rộng diện tích trồng, đặc biệt khai thác vùng đất Tây Nguyên có điều kiện phát triển. Mục tiêu đến năm 2000 tự túc được 30% bông ( 100.000 tấn bông xơ / năm) và đến năm 2010 tự túc được 50% bông ( 250.000 tấn bông / năm) .
Tơ tằm : Trồng dâu nuôi tằm là ngành nghề truyền thống lâu đời của nhân dân ta. Hiện nay mới khai thác nguyên liệu quý này để xuất khẩu nguyên liệu là chính, nên trong tương lai cần có công nghệ chế biến sản phẩm có chất lượng để xuất khẩu sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Xơ PE và tơ PE : dự kiến xơ PE sử dụng đến năm 2010 cả tơ và xơ PES, lên tới gần 20 vạn tấn. Với quy mô 5-6 tấn / năm cho một công trình thì hiện tại hai công trình 100% vốn nước ngoài là Hualon và Samsung đủ cho tự túc trong nước đến năm 2000. Hiện tại Việt Nam đã có dự án công trình lọc dầu tại Dung Quất, cho nên về nguyên liệu sơ và tơ PE đến năm 2010 là có triển vọng.
Nâng cao hiệu quả và chất lượng hàng may gia công, tạo dựng và củng cố uy tín trên thị trường thế giới, đồng thời tạo lập cơ sở để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp.
Có chính sách hỗ trợ , khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ cho công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, tạo điều kiện đưa các sản phẩm với tên hiệu Việt Nam ra thị trường thế giới.
Nhằm đáp ứng và đón đầu yêu cầu ngày càng cao về môi trường, an toàn sản xuất, ngay từ bây giờ phải có chính sách khuyến khích đầu tư cho sản xuất dệt “ Xanh – Sạch” theo tiêu chuẩn ISO9000 và ISO14000.
3 .1.4 Phát triển sản phẩm
Hiện nay, mặt hàng may mặc xuất khẩu chủ yếu theo phương thức gia công nên giá trị ngoại tệi thực tế thu được chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, về ý nghĩa xã hội của ngành dệt may lại rất lớn, vì hơn 40.000 lao động được thu hút vào lĩnh vực này. do vậy việc phát triển sản xuất hàng dệt may, trong đó có hàng gia công cần được chú trọng. Bên cạnh đó, chất lượng hàng dệt may cần phải được nâng cấp lên một bước, đáp ứng những thay đổi về thời trang ở các nước, đó cũng là một trong những chiến lược để nâng cao cạnh tranh cùa sản phẩm này trên thị trường thế giới.
3 .1 .5 Về phát triển khoa học, kỹ thuật, và chuyển giao công nghệ.
Kết hợp hài hoà giữa công nghệ hiên đại và thiết bị công nghệ đã trải qua sử dụng, vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản phẩm, vừa cân đối được vốn đầu tư cho trang thiết bị và đảm bảo tinha cạnh tranh về giá của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở tính hiệu quả kinh tế. Ưu tiên đầu tư cho công nghệ thiết kế trên máy vi tính, nhằm nâng cao năng lực sáng tác mẫu mã. Có chính sách khuyến khích đầu tư với các dự án sản xuất sản phẩm mơío theo tiêu chuẩn TMQ, ISO14000, ISO9000.
Triển khai và tăng cường hiệu quả của hợp tác công nghiệp ASEAN. Nhằm thu hút công nghệ mới tropng khu vực và hợp tác phát triển sản phẩm, nhãn hiệu sản phẩm, phát huy thế mạnh của mỗi nước trong hợp tác kinh tế.
Nghiên cứu áp dụng khoa học về nguyên liệu mới, vật liệu mới, về công nghệ và thiết kế hiện đang còn bỏ trống, tận dụng phế liệu dệt trong lĩnh vực vải không dệt, tận dụng phế liệu trong lĩnh vực tơ tằm để kéo sợi Spunsilk, đẩy mạnh công suất kéo sợi OE, sớm có công nghệ kéo sơi pha len/ acgrylic cho mặt hàng Veston Complet, nâng tỷ trọng mặt hàng mởitong lĩnh vực nghiên cứu sử dụng nguyên liệu mới Microfbre cho vải Jacket, Tissu giả len, giả tơ tằm sợi Lycra, Spandex có độ dàn tính caocho mặt hàng dệt làm thể thao, bít tất phụ nữ, ... Tương xứng với nguyên liệu mới phải có công nghệ xử lý hoàn tất cao cấp. Sớm đầu tư thích đáng về cơ sở tạo mốt và nâng cao nghiệp vụ mốt.
Cạnh tranh trong nước và quốc tế, chính kà giành khuyến khích mạnh nhất đối với việc nâng cấp công nghệ.
Tiếp tục giành các công nghệ nước ngoài và dàn xếp một môi trường có hiệu quả và hữu hiệu để có được và phổ biến Chính phủ loại công nghệ nhập khẩu.
Cần đẩy mạnh việc chuyển giao một cánh đầy đủ bí quyết công nghệ từ các nhad cung ứng nước ngoài.
Nhằm vào việc tăng cương khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong việc hấp thụ , áp dụng và nâng cấp các loại công nghệ nhập khẩu.
Phải đảm bảo rằng việc lựa chọn công nghệ được thực hiện bởi các cơ quan của Chính phủ.
Phân tích tác động của 4 lĩnh vực ưu tiên trong khoa học và công nghệ Quốc gia đối với cơ cấu kinh tế và khả năng cạnh tranh trong tương lai.
Dành ưu tiên cao cho việc áp dụng và sử dụng công nghệ thông tin (IT) vì như các nhà nghiên cứu sâu mới đây đã chứng minh rằngIT sẽ là một yếu tố cực kỳ quan trọng đối với khả năng cạnh tranh Quốc tế trong những năm tới.
Dành ưu tiên cao cho việc xúc tiến các chính sách nghiên cứu và phát triển ( R&D ) liên quan đến ngành nông nghiệp vì lợi ích thu được từ các hoạt động nghiên cứu nông nghiệp là cao. Đó cũng là con đường chính để duy trì và nâng cao năng suất và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Khuyến khích việc nâng cấp công nghệ ở các doanh nghiệp thông qua việc cung cấp và khuyến khích như vốn miễn thuế dành cho dự trữ phát triển công nghệ.
Tăng số lượng các chuyên gia nước ngoài về công nghệ công nghiệp để đào tạo sinh viên và cố vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam .
Nâng cấp các trung tâm nghiên cứu khoa học và kỹ thuật tại các trường Đại học và gắn các dự án nghiên cứu cho các doanh nghiệp và các ứng dụng thương mại. Tăng cường khu vực dịch vụ kỹ thuật trong nước, cung cấp và khuyến khích đối với việc phát triển các cơ quan tư vấn kỹ thuật và thiết kế tư nhân.
Hình thành các trung tâm xuất sắc liên kết các ngành công nghiệp, các tổ chức và Chính phủ trong lĩnh vực có tiềm năng để phát triển các sản phẩm và dịch vụ có sức cạnh tranh ở Việt Nam .
3 .1.6 Về tổ chức quản lý
Đảm bảo phải có một sự thay đổi trong thực tiễn quản lý hiện nay, như việc thiếu trách nhiệm và thiếu các động lực khuyến khích nâng cao nghề nghiệp dẫn đến kết qủa hoạt động yếu kém ở nhiều doanh nghiệp.
Nâng cao năng lực của các nhà quản lý doanh nghiệp bằng cách nâng cao chất lượng của việc dạy lý thuyết và bằng cách tăng những cơ hội cho các nhà quản lý hiện có nâng cao các kỹ thuật kinh doanh.
Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu. Cụ thể là :
+Gắn vùng công nghiệp dệt may với chính sách ngnhf công nghiệp khác, nhằm tận dụng lao động, mối quan hệ liên ngành.
+Gắn các công trình mới về kéo sợi và dệt vải tổng hợp với khu vực quy hoạch của Nhà nước về dầu khí, ác công trình chế biến kéo sợi dệt tơ tằm với vùng nguyên liệu tằm.
+Gắn công nghiệp dệt may (là cm sử dụng nhiều lao động ) vào các vùng trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động vừa tận dungj điều kiện hạ tầng giao thông , dịch vụ , văn hoá, thông tin, vận chuyển ….
+Khắc phục những bất cập trong công tác quả lý xuất nhập khẩu, các chính sách tài chính , thuế, vốn, ưu đãi đầu tư… cải cách thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nhằm tạo mội trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp , tạo thế mạnh trong thu hút đầu tư nước ngoài thông qua hệ thống chính sách hợp lý, thông thoáng.
+Gắn công nghiệp dệt may quy mô nhỏ , xí nghiệp cổ phần , xí nghiệp tư nhân và các hộ cá thể với vùng làng nghề truyền thống, để phát huy mọi thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển ngành.
+Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu sợi, dệt, nhuộm, may, dịch vụ … giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm nâng cao một bước CNH và có điều kiện gọi vốn nước ngoài.
3 .1.7 Chính sách về lao động, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Cần có chính sách hỗ trợ , khuyến khích và thu hút các học sinh có khả
năng theo học ngành dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư dệt may trầm trọng đã xuất hiện và có thể kéo dài trong vài năm tới. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật, đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây truyền hiện đại, nhằm đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành dệt may Việt Nam.
Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế kiểu mẫu thời trang và Marketing, khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mode và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Đồng thời có chính sách hỗ trợ đảm bảo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động, khắc phục tình trạng thiếu lao động do các kỹ sư công nghệ và công nhân có tay nghề cao bị hút sang các công ty liên doanh đang ngày càng trở nên trầm trọng hơn trong ngành dệt may.
Chất lượng của nguồn nhân lực có những ý nghĩa quan trọng đối với cơ cấu sản xuất , xuất khẩu , FDI, kết quả quản lý và công nghệ. Việc tiếp tục phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam là một yếu tố quyết định then chốt đối với tăng trưởng kinh tế và công nghiệp cũng như đối với tăng khả năng cạnh tranh.
Nâng cấp hệ thống giáo dục phổ thông bằng cách nhấn mạnh phổ cập và chất lượng giáo dục tiểu học, tăng số lượng học sinh, điều chỉnh chế độ học phí, tăng số lượng người đi học, tăng cường chất lượng giáo viên cũng như chế độ đãi ngộ đối với họ.
Phát triển một chương trình chung đối với giáo dục và đào tạo trên cơ sở dần từng bước. Vì loại hình đào tạo nghề dựa vào trường học đòi hỏi chi phí rất cao và thường bộc lộ những mối liên kết yếu kém với các yêu cầu của thị trường lao động.
Tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp trong đào tạo dạy nghề , triển khai một hệ thống khuyến khích nhằm tăng cường đào tạo tại nhà máy.
Xây dựng một kế hoạch Quốc gia về tiêu chuẩn kỹ năng, kiểm tra và cấp chứng chỉ.
Đảm bảo phải có một sự thay đổi quan trọng trong thực tiến quản lý hiện nay, như việc thiếu trách nhiệm và thiếu các động lực khuyến khích nâng cao nghề nghiệp dẫn đến kết qủa hoạt động yếu kém của nhiều doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường lao động bằng cách làm thuận lợi các thủ tục đối với việc tuyển mộ lao động, xem xét lại quyết định trước đây cho lao động doanh nghiệp Nhà nước có hợp đồng, lao độngkhông có thời hạn , áp dụng bằng cách định mức tiền công gắn với năng suất lao động
Nâng cao năng lực của các nhà quản lý doanh nghiệp bằng cách nâng cao chất lượng của việc dạy lý thuyết và bằng cách tăng những cơ hội cho các nhà quản lý nâng cao các kỹ năng kinh doanh của mình.
3 .2 Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh
3 .2.1 Phương hướng
Trong thời gian tới mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam là sẽ cạnh tranh trên các mặt:
-Cạnh tranh về chất lượng
-Chí phí cho nguyên vật liệu
-Mạng lưới cung cấp hàng dệt may trên thị trường
-Cạnh tranh bằng uy tín của các doanh nghiệp …
Tất cả các mục tiêu trên đều nhằm mục tiêu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam là nâng cao khả năng cạnh tranh cua hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
Để thực hiện được những mục tiêu đó thì phải có những biện pháp cụ thể và phải được thực hiện đồng bộ.
3 .2.2 Biện pháp
Trước hết phải xây dựng chiến lược kinh doanh trong đó đặc biệt quan tâm đến chiến lược cạnh tranh. Chiến lược cạnh tranh phải được xây dựng trên cơ sở :
-Tiềm năng của các doanh nghiệp .
-Nhu cầu của khách hàng
-Tiềm lực của các đối thủ cạnh tranh , mục tiêu của các đối thủ cạnh tranh.
Trong chiến lược cạnh tranh phải nêu lên được những biện pháp có tính chiến lược - đó là những biện pháp để cạnh tranh lâu dài như chất lượng sản phẩm, uy tín… và cũng cần có những biện pháp cạnh tranh trước mắt như giá cả, mẫu mã, kiểu dáng, thiết kế...
3 .2.2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá các loại sản phẩm-biện pháp có tính chiến lược.
Trước hết phải quản lý chất lượng của sản phẩm dệt may theo một hệ thống ở các chi nhánh, từ đó đề ra các giải pháp để khắc phục, sửa chữa những chỗ còn yếu kém, phát huy những điểm mạnh.
Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, chất lượng của sản phẩm là rất quan trọng cho nên cần phải lập kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng kiến thức nâng cao năng lực của cán bộ .
Hiện nay, trong thiết bị kỹ thuật đang là vần đề ảnh hưởng rất lớn đế chất lượng sản phẩm. Nên các doanh nghiệp cần phải đầu tư trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng dệt may và đặc biệt hiệu quả cao.
Cùng với việc nâng cao chất lượng hàng dệt may, thì cũng cần phải đa dạng hoá các loại sản phẩm nhằm mục đích mở rộng thị trường và thu hút khách hàng. Chính vì vậy trong tương lai cần đầu tư nhiều .
Nói tóm lại nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá loại hình hàng dệt may là những biện pháp rất quan trọng để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, tạo ra uy thế so với các đối thủ cạnh tranh và dần chiếm được những thị phần quan trọng.
Ưu thế của sản phẩm may xuất khẩu của Việt Nam là chất lượng cao và thời hạn giao hàng đúng. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là sau năm 2005, khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thị phần mỗi nước xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đối với hàng may mặc, các biện pháp cạnh tranh “phi gía cả”, trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá, trong rất nhiều trường hợp , trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh.
Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam – EU, Nhật Bản … và Nguyện vọng là thị trường Mỹ đều là những thị trường rất “khó tính” , đòi hỏi cao về chất lượng. Người tiêu dùng các thị trường này có khả năng thanh toán cao, nên yếu tố chất lượng và nhãn mắc sản phẩm được chú ý hơn là giá cả:
Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm :
+Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phục liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, đảm bảo tổt nguyên phụ liệu, tránh xuống phẩm cấp. Cần lưu ý răng nguyên liệu sợi vải là những hàng hoá hút ẩm mạnh, dễ hư hỏng.
+Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và taì liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp về mẫu, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì:
+Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng.
Đảm bảo đúng yêu cầu về giao hàng : giao hàng đúng thời hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và hợp thời trang là một trong những yễu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này. vì vậy cần :
-Chủ động trong vận chuyển bốc dỡ hàng
-Ưu tiên cho các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu ở các khu vực thuận tiện cho giao hàng xuất khẩu .
-Đơn giản hoá khâu làm thủ tục XNK
Trong điều kiện hàng dệt may Việt Nam đang giảm ưu thế về giá nhân công, cần có các biện pháp hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh về giá sản phẩm. Ví dụ như kéo dài thời gian hoàn vốn đầu tư, khấu hao trang thiết bị lên 5 đến 7 năm nhằm giảm giá thành sản phẩm .
3 .2.2.2 thiết lập chính sách giá cả thích hợp
Giá cả là một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng. Để thu hút được khách hàng chính sách giá cả phải mền dẻo, linh hoạt phù hợp với thị trường. Tuy nhiên cần phải giữ vững 2 nguyên tắc:
+Kinh doanh có lãi.
+Đảm bảo được sự cân xứng tương đối giữa các sản phẩm và sự tương đương của giá trị đồng tiền ở các thị trường khác nhau trên thế giới.
Đối với những khách hàng khác nhau thì áp dụng những mức giá khác nhau và dùng chính sách giá để tạo cơ hội cho khách hàng mới có khả năng thâm nhập thị trường Việt Nam .
Cũng như chất lượng của sản phẩm dệt may giá cả của hàng dệt may cũng là một trong những yếu tố để khách hàng lựa chọn. Nếu doanh nghiệp nào có sản phẩm tốt, giá rẻ thì thành công trên thương trường, đẩy lùi được các đối thủ cạnh tranh. Đối với hàng dệt may Việt Nam nói riêng thì chính sách giá cả là một công cụ của Marketing hữu hiệu để thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Bên cạnh đó, đối với hàng dệt may Việt Nam thì cần phải chú trọng nhiều đến mẫu mã, mầu sắc, kiểu dáng… phù hợp với từng vùng, từng khu vực. Thiết kế cũng là một vấn đề rất quan trọng trong việc thâm nhập thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
3 .2.2.3 Hoàn thiện mạng lưói kênh phân phối.
Là việc làm rất quan trọng và cần thiết đối với ngành dệt may Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường, khi cạnh tranh là một yếu tố không thể tránh khỏi thì việc hoàn thiện, củng cố mạng lưới kênh phân phối là điều kiện để doanh nghiệp đứng vững trong cạnh tranh.
3 .2.2.4 Không ngừng nâng cao uy tín đối với khách hàng.
Uy tín là vấn đề mang tính chất sống còn đối với một doanh nghiệp. Chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, giá cả, dịch vụ … đối với khách hàng ảnh hưởng rất lớn đến uy tín cho nên cần phải được coi trọng, dần dần cải thiện được hình ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp trong mắt khách hàng.
Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế. Để xuất khẩu trực tiếp sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng nhãn mác của mình trên thị trường quốc tế. Muốn vậy:
+Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm may
+Tổ chức công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
+Trước mắt, có kế hoạch hợp tác với các viện Mode, hoặc thuê chuyên gia thiết kế mode để đẩy nhanh quá trình hoà nhập và thị trường thế giới.
+Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà nhập khẩu cũng như đại diện của các mạng lưới phân phối tại nước nhập khẩu.
+Khi chưa có tên tuổi trên thị trường thế giới thì cách tốt nhất để thâm nhập thị trường trong giai đoạn đầu , là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của công ty nước ngoài để làm ra các sản phẩm của họ với giá rẻ hơn, qua đó thâm nhập vào thị trường thế giới bằng sản phẩm sản xuất tại Việt Nam , đồng thời học tập kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ để tiến tới sự thiết kế mẫu mã.
+Khai thác lợi thế của việc tham gia chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ cao của các nước ASEAN, hợp tác trong phát triển sản phẩm mới, đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và khai thác lợi thế về thuế suất, thuế quan ưu đãi bằng mức thuế suất CEPT của sản phẩm của thời điểm 2006 theo quy định của AICO cũng như các ưu đãi phi thuế quan khác.
Đẩy nhanh tiến trình triển khai chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), các tổ chức, cơ quan chức năng – Bộthương mại, Bộ công nghiệp, phong thương mại và công nghiệp Việt Nam... Cần tổ chức tuyên truyền rộng rãi cho các doanh nghiệp về AICO cũng như các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may như tìm đối tác ở các nước ASEAN khác hoặc khuyến khích tăng hàm lượng nội địa sản phẩm, tăng tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu... để đáp ứng các tiêu chuẩn tham gia AICO.
Các giả pháp về mở rộng thị trường.
Khó khăn chủ yếu của ngành dệt may Việt Nam hiện nay và cả trong những năm trước là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để mở rộng thị trường xuất khẩu, cần tiến hành một số giải pháp đồng bộ sau:
-Hỗ trợ các doanh nghiệp trong tìm kiếm thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến thị trường.
Marketing thị trường đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm dệt may do đặc điểm của nhóm ngành hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn cao xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang... Đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hầu hết các doanh nghiệp may. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại như: tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở nước ngoài qua các hội trợ triển lãm, ... cung cấp thông tin về thị trường cũng như các đặc điểm về kinh tế và xã hội, quy định, luật pháp, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan... cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
Trong các hoạt động này, các đại diện thương vụ tại các nước nhập khẩu đóng vai trò quan trọng. Việt Nam đã có thương vụ tại hầu hết các nước có quan hệ song phương. Các đại diên thương mại có thể nắm bắt nhanh nhạy các nhu cầu diễn biế thị trường để thông tin kịp thờ cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đại diên thương mại nói chung khó có thể bao quát tất cag những vấn đề của từng ngành. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của trong nướcương vụ, có thể cử một số đại diện của ngành tại thương vụ tại các thị trường xuất khẩu quan trọng nhất: Khu vực EU, Nhật Bản và các thị trường có tiềm năng:Bắc Mỹ, Đông âu, SNG...
Tiếp cận kịp thời biến động thị trường, các thay đổi về quy định pháp luật, xu hướng thương mại, thuế quan... của các thị trường nhập khẩu. Từ đó, định hướng cho hoạt động xuất khẩu.
Thúc đẩy sản xuất mẫu mốt, các mẫu chào hàng sẽ phong phú và sát thực tế thị trường.
Giới thiệu nguyên phụ liệu: vải chất lượng cao do ta sản xuất được chưa nhiều nhưng cần phải thông tin, quảng cáo ,tiếp cận và giới thiệu với khách hàng. Các phụ liệu may đã tự sản xuất gần đủ với chất lượng cao:chỉ may, tấm bông hoá học làm áo lót lạnh, cúc, khoá,... cần được trưng bày tại các phòng đại diện của ngành dệt may Việt Nam.
Tìm hiểu và tiếp cận với hệ thống phân phối sản phẩm dệt may của từng nước và giúp doanh nghiệp tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp.
Với thị trường EU, Việt Nam sẽ có điều kiện sử dụng tôt hơn số hạn ngạch công nghiệp (30% tổng hạn ngạch) bằng cách tiếp cận trực tiếp với khách hàng, tránh bị khê hạn ngạch công nghiệp vào cuối năm cũng như sử dụng tốt hơn số nạn ngạch được tính thêm khi thực hiẹen gia công thuần tuý mà chưa được sử dụng tốt.
Các đại diện thương mại, bên cạnh việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, còn có nhiệm vụ giúp doanh nghiệp trong nước tìm hiểu, tiếp cận các đối tác nước ngoài, nâng cao hiệu quả việc tham gia triển lãm, hội chợ. Khi đưa sản phẩm sang giới thiệu tại các hội trợ triển lãm, các doanh nghiệp cần có danh mục các đối tác đã được nghiên cứu, chọn lọc từ trước để giới thiệu sản phẩm, ký kết hợp đồng.
-Một kinh nghiệm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc hay Thái Lan là cử nhân viên tiếp thị mang sản phẩm mẫu đi chào hàng trực tiếp với các công ty nhập khẩu hàng dệt may. Để có bước đi này cần có sự chuẩn bị kỹ – tìm hiểu kỹ về hệ thống phân phối ở các nước nhập khẩu thông pua các phòng thương mại, các đại diện thương mại và có một đội ngũ nhân viên tiếp thị có kinh nghiệm. Phương pháp tiếp thị thứ hai cũng được nhiều doanh nghiệp sử dụng và thuê nhân viên tiếp thị của các thị trường nhập khẩu dưới hình thức trả hoa hồng theo hợp đồng mà họ ký được.
-Thành lập trung tâm thông tin ngành dệt may với các chức năng: thu nhập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp thành viên về xu thế mới, kiểu dáng, chất lượng vải, thởi trang, tư liệu kỹ thuật mới và dự báo tình hình thế giới, tổ chức hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư vấn khác.
-Khẩn trương tiến hành các bước cần thiết để tham gia vào “hệ thống thông tin ngành dệt may khu vưc Châu á - Thái Bình Dương” theo thoả thuận tại hội nghị hàng dệt may của các ước trong khu vực tháng 10/1997 và tháng 4/1998. Theo thoả thuận này, hiện nay đã có 7 nước và khu vực – Trung quốc, Ân Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philipin, Đài Loan và Mỹ đã tham gia vào hệ thống thông tin để hoà nhập vào mạng thông tin khu vực. Hệ thống này tạo khả năng truy cập nhanh, kịp thời, đầy đủ các thông tin về tình hình sản xuất, buôn bán, tiêu thụ, đầu tư trong nước và nước ngoài của các nước trong khu vực. Trong đó có các thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam – Mỹ, Nhật Bản… các thị trường trung chuyển Đài Loan, Hàn Quốc… và các thị trường cạnh tranh chủ yếu – Trung quốc, Philipin.. sẽ rất hữu ích và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp trong công tác tìm hiểu thị trường xuất khẩu.
Lời kết
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tát yếu khách quan. Mỗi doanh nghiệp khi tham gia hoạt động trên thương trường dù ở bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào đều phải chấp nhận sự cạnh tranh như một yếu tố thúc đẩy phải cố gắng hết sức để tồn tại phát triển.
Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và một số chính sách khác của Nhà nước đã tạo điều kiện cho rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại thị trường Việt Nam và cũng mở ra nhiều cơ hội để các doanh nghiệp trong và ngoài nước đua tài. Chính vì vậy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ là những cuộc cạnh tranh gay gắt, ganh đua rất quyết liệt. Ngành hàng dệt may Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đã đề ra từ nay đến năm 2010, ngành dệt may còn phải đối mặt với nhiều thách thức, từ những vấn đề tồn tại trong sản xuất và xuất khẩu của ngành đến những khó khăn của việc cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Việc nghiên cứu về biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi cạnh tranh là một yếu tố tồn tại khách quan trong nền kinh tế.
Hy vọng rằng bài viết sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong việc tìm ra biện pháp cạnh tranh hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung và cho ngành hàng dệt may Việt Nam nói riêng.
Tài liệu tham khảo
Tạp chí ngoại thương, số 1-12 năm 1996,1997, 1998
Tạp chí thương mại, số 1-12 năm 1996, 1997, 1998, 1999
Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 1-12 năm 1996, 1997, 1998, 1999
Tạp chí thương nghiệp thị trường Việt Nam. Số 1-12 năm 1996, 1997,1998,1999.
Niên giám thống kê 1996, 1997, 1008, Tổng cục thống kê.
Thời báo kinh tế Việt Nam
Luật thương mại.
MM Cormark – Bí quyết thành công trên thương trường, Nxb Thống kê, 1994.
Michael E.Porter- Chiến lược cạnh tranh, Nxb Khoa học kỹ thuật, 1996
John Shaw - Chiến lược thị trường, Nxb Thế giới 1995
Chính sách thương mại và cạnh tranh
Đào DuyHuân - Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, Nxb Thống kê, 1996
Hà Bội Đức – Mưu lược cạnh tranh thương mại, Nxb Khoa học kỹ thuật 1995
Philip Kotler – Markrting cơ bản, Nxb Thông kê, 1994
Mục lục
Phần mở đầu
Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh
1 .1 Tính tất yếu và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1 .1 .1 Tính tất yếu của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1 .1 .2 Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1 .1 .3 Các loại hình cạnh tranh trong kinh doanh
1 .2 Những hoạt động chủ yếu của cạnh tranh trong kinh doanh
1 .2 .1 Cạnh tranh về sản phẩm
1 .2 .2 Cạnh tranh về giá cả
1 .2 .3 Cạnh tranh trong thiết lập mạng lưới kênh phân phối
1 .2 .4 Cạnh tranh thông qua các hoạt động xúc tiến quảng cáo
1 .2 .5 Cạnh tranh bằng các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau bán hàng
1 .3 Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1 .3 .1 Các nhân tố khách quan
1 .3 .2 các nhân tố chủ quan
Chương 2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam
2 .1 Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
2 .1 .1 Vai trò
2 .1 .2 Đặc điểm
2 .2 Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam
2 .2 .1 Về sản lượng
2 .2 .2 Về loại hình sở hữu
2 .2 .3 Đầu tư nước ngoài
2 .2 .4 Về thiết bị
2 .2 .5 Về lương
2 .2 .6 Về năng suất
2 .2 .7 Về xuất khẩu và thị trường xuất khẩu
2 .3 Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam
2 .3 .1 Triển vọng, khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam
2 .3 .2 Những vấn đề tồn tại
Chương 3 Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới
3 .1 Một số biện pháp chung
3 .1 .1 Đầu tư phát triển
3 .1 .2 Chính sách về thị trường xuất khẩu
3 .1 .3Về nguyên liệu và phát triển sản phẩm
3 .1 .4 Về phát triển sản phẩm
3 .1 .5 Về phát triển khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ
3 .1 .6 Về tổ chức quản lý
3 .1 .7 Chính sách về lao động, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
3 .2 Phương hướng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
3 .2 .1 Phương hướng
3 .2 .2 Biện pháp
3 .2 .2 .1 Nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá các loại sản phẩm
3 .2 .2 .2 Thiết lập chính sách giá cả thích hợp
3 .2 .2 .3 Hoàn thiện mạng lưới kêng phân phối
3 .2 .2 .4 Nâng cao uy tín đối với khách hàng
3 .2 .2 .5 Các giải pháp về mở rộng thị trường
Kết luận
Tài liệu tham khảo
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34211.doc