Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu

lời nói đầu Gia công quốc tế là một hình thức phân công lao động quốc tế đồng thời là một phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. ở Việt Nam, hoạt động gia công hàng hoá xuất khẩu đã có lâu và hiện nay đang phát triển một cách mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ, đem lại lợi ích về nhiều mặt cho đất nước. Song do cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này chưa được thống nhất và đồng bộ dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các d

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp kinh doanh gia công gây thiệt hại cho nền kinh tế. Đồng thời những tồn tại vướng mắc trong khi thực hiện quản lý hoạt động gia công xuất khẩu đã gây nhiều cản trở cho sự phát triển của phương thức kinh doanh này ở nước ta, tạo sơ hở cho một số doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách, làm rối loạn thị trường nội địa,... Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động gia công quốc tế ở Việt Nam và chế độ quản lý Nhà nước nhằm đưa ra những biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu là rất cần thiết. Vì vậy trong thời gian thực tập ở Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại, được nghiên cứu về tình hình gia công hàng xuất khẩu ở nước ta, cùng với những kiến thức đã được đào tạo ở trường em đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu” Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu, phân tích vai trò của kinh doanh gia công trong buôn bán quốc tế cũng như kinh nghiệm tiến hành gia công hàng xuất khẩu của một số nước trên thế giới và khu vực để làm cơ sở lý luận cho việc tiếp tục phát triển phương thức kinh doanh này ở Việt Nam. Mặt khác đánh giá thực trạng hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở nước ta và chế độ quản lý Nhà nước, đưa ra phương hướng chung và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện chế độ, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động gia công quốc tế. Đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động gia công hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp ở trong nước, không nghiên cứu hoạt động thuê nước ngoài gia công hàng hoá cho Việt Nam. Và đề tài đi sâu nghiên cứu chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở tầm vĩ mô. Bằng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thông qua các giáo trình, tài liệu, các báo cáo tổng kết, chuyên đề, các ý kiến phát biểu của các cán bộ, chuyên viên của Bộ Thương mại, Hải quan,... Em đưa ra các phần cơ bản của đề án như sau: Chương I: Lý luận chung về gia công hàng xuất khẩu. Chương II: Thực trạng công tác quản lý hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Trong thời gian thực tập tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của cán bộ, chuyên viên ở Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại. Do kinh nghiệm thực tế chưa có, kiến thức có hạn em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo. Chương 1 Lý luận chung về gia công hàng xuất khẩu 1-/ Vai trò của gia công hàng xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. 1.1. Vị trí của hoạt động gia công hàng xuất khẩu trong thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế ngày nay phát triển mạnh mẽ, nó diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Đây là một tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế, xã hội của nhân loại. Thương mại quốc tế giúp cho các nước mở rộng các quan hệ kinh tế, chính trị để phát triển nhanh hơn; đặc biệt là nó giúp cho mỗi nước mở rộng được khả năng tiêu dùng của nước mình, họ có thể tiêu dùng được tất cả các mặt hàng tốt nhất, rẻ nhất, độc đáo nhất,... Do nhận thức được vai trò lớn của thương mại quốc tế mà mỗi nước đều ra sức tăng cường quan hệ buôn bán với các nước khác trên thế giới. Nội dung của thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước bằng việc nhập khẩu hàng hoá để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu hàng hoá đáp ứng cho nhu cầu khách hàng nước ngoài. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta bao gồm: - Tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hoá. - Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ. - Gia công, chế biến hàng hoá và bán thành phẩm cho nước ngoài hoặc thuê nước ngoài gia công, chế biến. - Đại lý mua bán hàng hoá, uỷ thác và nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Như vậy, gia công là một trong những hình thức buôn bán quốc tế và nó được thực hiện khá phổ biến nhất là đối với Việt Nam. Gia công đem lại lợi ích rất lớn cho cả hai bên: * Đối với bên đặt gia công (Bên thuê gia công). Lợi ích lớn nhất đối với bên thuê gia công là giảm được chí phí sản xuất do tận dụng được nguồn nhân lực và một phần nguyên vật liệu thường là với giá rẻ ở nước nhận gia công. Chính lợi ích này quyết định xu hướng chuyển dần các ngành sản xuất đòi hỏi nhiều nhân công, nhiều công đoạn tỉ mỷ từ các nước có nền kinh tế phát triển sang các nước mới phát triển có nguồn lao động dồi dào. Bằng phương thức thuê gia công, các nhà kinh doanh ở các nước công nghiệp phát triển đã tiết kiệm đến mức tối đa chi phí đầu vào cho sản xuất, đó là chí phí về tiền công, chí phí về phụ liệu rẻ hơn rất nhiều so với trong nước của họ. Mặt khác là bên đặt gia công còn có thể chủ động điều chỉnh được nguồn hàng để phục vụ yêu cầu kinh doanh của mình một cách có lợi nhất. Người đi thuê gia công thường có thế mạnh là họ có thị trường tiêu thụ, khi những thị trường này phát sinh nhu cầu lớn thì người thuê gia công vẫn có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường bằng cách đặt gia công mà không cần phải bỏ thêm vốn đầu tư mở rộng sản xuất. Như vậy, họ vẫn giữ được thị trường tiêu thụ, tiết kiệm được vốn đầu tư mà vẫn thu về được lợi nhuận lớn. Trong quá trình thuê gia công, bên đặt gia công còn có thể tạo thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá của mình ngay tại nước nhận gia công. * Đối với bên nhận gia công. Việc nhận gia công cho nước ngoài đem lại rất nhiều lợi ích cho nước nhận gia công. Thể hiện ở các mặt sau: - Giải quyết được những khó khăn ban đầu của các nước này khi tham gia vào thị trường thế giới và việc thực hiện chiến lược ngoại thương của mình. - Khai thác được lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào trong nước; giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lao động dư thừa trong xã hội; góp phần cải thiện đời sống cho người lao động. - Giải quyết được khó khăn về vốn đầu tư và kỹ thuật, làm tiền đề để xây dựng các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp nhẹ trong nước, dần dần làm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỉ trọng hàng đã qu chế biến, giảm tỉ lệ hàng là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, tăng hiệu quả hoạt động xuất khẩu. - Khắc phục được khó khăn về thị trường tiêu thụ, không phải chịu những rủi ro khi tìm kiếm thị trường nước ngoài. Đồng thời sử dụng được mạng lưới và kinh nghiệm tiêu thụ hàng hoá của nước đặt gia công, nhờ đó mà có khả năng thâm nhập được vào thị trường mới. - Nhờ gia công hàng xuất khẩu mà có thể kết hợp xuất khẩu được một số vật tư, nguyên liệu sẵn có trong nước, phát triển thêm nguồn hàng; khai thác được triệt để nguồn nhân lực nhàn rỗi mang tính mùa vụ. - Trang bị và khai thác được máy móc, thiết bị tiên tiến, quy trình công nghệ mới mà không mất nhiều thời gian nghiên cứu, thử nghiệm. - Góp phần tăng thu ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước, giảm sự mất cân đối trong thanh toán quốc tế,... Chính vì hoạt động này đem lại nhiều lợi ích như vậy nên phương thức kinh doanh gia công trên thị trường quốc tế ngày càng phát triển, không chỉ với những nước kinh tế đang phát triển quan tâm mà cả những nước công nghiệp phát triển cũng vẫn sử dụng để có được lợi ích mà phương thức gia công đem lại. 1.2. Khái quát về gia công hàng xuất khẩu. 1.2.1. Khái niệm về gia công. Gia công thương mại là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhận nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến, cải tiến, lắp ráp thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận một khoản thù lao gọi là phí gia công. Nội dung gia công gồm: sản xuất, chế biến, chế tác, sửa chữa, tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói hàng hoá,... theo yêu cầu bằng nguyên vật liệu của bên đặt gia công. Đặc điểm của phương thức này là hoạt động sản xuất gắn liền với tiêu thụ hàng hoá, bên đặt gia công là nơi cung cấp nguyên vật liệu đồng thời cũng chịu trách nhiệm tiêu thụ hàng hoá. Luật Thương mại Việt Nam (thông qua tại kỳ họp Quốc hội ngày 10/5/1999) đưa ra khái niệm về gia công với thương nhân nước ngoài như sau: Gia công với thương nhân nước ngoài là việc gia công trong thương mại theo đó bên đặt gia công, bên nhận gia công là thương nhân có trụ sở chính hoặc nơi cư trú thường xuyên tại các nước khác nhau nhưng phải có một bên là thương nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam. Như vậy, phạm vi hoạt động gia công với thương nhân nước ngoài bao gồm: - Thương nhân Việt Nam gia công cho thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. - Thương nhân Việt Nam thuê thương nhân nước ngoài gia công ở nước ngoài. Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, hoạt động thuê nước ngoài gia công còn rất ít, hầu như nói đến gia công quốc tế ở Việt Nam người ta chỉ chú trọng đến gia công hàng hoá cho nước ngoài hay còn gọi là gia công hàng xuất khẩu. Ta có khái niệm về gia công hàng xuất khẩu sau: Gia công xuất khẩu ở Việt Nam là một hành vi thương mại mà người đặt gia công - chủ hàng nước ngoài giao cho người nhận gia công - doanh nghiệp Việt Nam nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm,... để sản xuất, chế biến, lắp ráp ra sản phẩm mới, hoặc bán thành phẩm theo mẫu mã, tiêu chuẩn kỹ thuật do người đặt gia công quy định, sau đó xuất trả chủ hàng nước ngoài, hoặc bên nước ngoài khác do bên đặt gia công chỉ định. Doanh nghiệp Việt Nam nhận gia công được trả một khoản tiền gọi là phí gia công theo thoả thuận giữa hai bên. Theo quy định của Luật pháp Việt Nam thì hiện nay doanh nghiệp nhận gia công cho nước ngoài ở Việt Nam bao gồm các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, hoặc chưa có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo quy định của Luật Đầu tư của Nhà nước Việt Nam. 1.2.2. Các hình thức gia công chủ yếu. Có rất nhiều cách phân loại. Sau đây là các cách phân loại chủ yếu: 1.2.2.1. Căn cứ vào quyền sở hữu nguyên vật liệu để gia công: Có hai hình thức: + Giao nguyên liệu, thu thành phẩm. Bên đặt gia công giao nguyên liệu, bán thành phẩm và các yêu cầu về mẫu mã cho bên nhận gia công sau thời gian chế tạo, sản xuất sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Với hình thức này thì quyền sở hữu về nguyên vật liệu, hàng hoá vẫn thuộc về bên đặt gia công trong suốt thời gian sản xuất, người đặt gia công phải lo tiêu thụ sản phẩm. Bên nhận gia công có lợi là không phải bỏ tiền mua nguyên vật liệu, nếu biết sử dụng một cách tiết kiệm so với định mức tiêu hao nguyên vật liệu thì còn được hưởng phần nguyên liệu dôi ra. Tuy nhiên, bên nhận gia công sẽ bị phụ thuộc nhiều vào bên thuê gia công về tiến độ sản xuất, thị trường tiêu thụ, dễ bị động trong tổ chức sản xuất và phí gia công thường thấp, hiệu quả kinh tế kém. + Bán nguyên liệu, thu thành phẩm. Bên thuê gia công giao nguyên liệu, thường là nguyên liệu chính có tính tiền, bên nhận gia công tổ chức sản xuất rồi giao thành phẩm cho bên thuê gia công và nhận về tiền sản phẩm bao gồm cả tiền công và tiền nguyên vật liệu. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên vật liệu thuộc về bên nhận gia công. Sử dụng hình thức này người thuê gia công không phải chịu chi phí ứng trước về nguyên vật liệu, ít chịu rủi ro trong quá trình sản xuất. Bên nhận gia công có thể chủ động trong khâu sản xuất, có thể đưa thêm một số nguyên vật liệu phụ sẵn có trong nước, giảm chí phí sản xuất. Kết quả là thu được số tiền nhiều hơn kiểu làm thuê thông thường. 1.2.2.2. Căn cứ vào giá cả gia công Có hai hình thức: + Hợp đồng thực chi, thực thanh: trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chí phí thực tế của mình cộng với tiền thu lao gia công. + Hợp đồng khoán: trong trường hợp này người ta xác định một giá định mức cho mỗi sản phẩm, bao gồm chí phí định mức và thu lao định mức. Dù chí phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa thì hai bên vẫn thanh toán với nhau theo giá định mức. 1.2.2.3. Căn cứ vào các bên tham gia hợp đồng gia công. Có hai hình thức. + Hình thức gia công hai bên: mối quan hệ giữa bên thuê gia công và bên nhận gia công được xác định trong một hợp đồng gia công. + Hình thức gia công nhiều bên hay gia công chuyển tiếp: theo hình thức này thì sản phẩm gia công của đơn vị trước là nguyên liệu gia công của đơn vị sau. Việc giao nhận giữa bên nhận gia công và bên thuê gia công có thể phải qua nhiều nước hoặc nhiều tổ chức gia công khác nhau trong cùng một nước. Hình thức này đã có từ lâu, về cơ bản cũng giống như hình thức giao nguyên liệu, nhận thành phẩm nhưng có khác nhau về chủ thể trong mối quan hệ gia công. Bên đặt gia công vẫn là một bên trong hợp đồng, còn bên nhận gia công có thể là nhiều đối tượng khác nhau. Đối tượng thực hiện gia công chuyển tiếp này phải được bên đặt gia công chỉ định. Bên đặt gia công lựa chọn hình thức này nhằm mục đích tận dụng tối đa năng lực, tay nghề của mỗi nước; giảm chi phí vận chuyển đồng thời. Dù áp dụng hình thức gia công nào thì mối quan hệ giữa hai bên vẫn được xác định trong hợp đồng gia công trong đó quyền và nghĩa vụ của các bên được quy định cụ thể. 1.3. Lợi ích của gia công hàng xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam. Việc gia công hàng hoá cho nước ngoài được Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ, không phải chỉ do xu thế phát triển của phân công lao động quốc tế, do lợi ích của bản thân phương thức này đem lại mà còn do lợi thế của nước ta trong việc phát triển kinh tế đối ngoại nói chung trong đó có hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Đó là những lợi thế: - Vị trí địa lý: Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Châu á là nơi có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế cao và năng động. Vị trí của Việt Nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước: Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc sang cácn ước Nam á, Trung Đông và Châu Phi,... Ven biển Việt Nam có nhiều cảng sâu, khí hậu tốt, ít bão và sương mù, tàu bè nước ngoài có thể cập bến an toàn quanh năm. Việt Nam còn nằm trên trục đường bộ và đường sắt từ Châu Âu sang Trung Quốc qua Campuchia, Thái Lan, Pakistan, ấn Độ,... Về vận tải hàng không có sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí trung tâm của các thủ đô và thành phố trong vùng nên việc đi lại và vận chuyển rất thuận lợi. - Nguồn lao động dồi dào: theo điều tra dân số mới đây thì hiện nay dân số nước ta là trên 81 triệu người với tỉ lệ tăng là 2%/năm, trong đó có khoảng 40 triệu người đang ở độ tuổi lao động. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách về phát triển kinh tế để giải quyết công ăn việc làm nhưng hiện nay tỉ lệ thất nghiệp vẫn còn khá cao (khoảng 10-15% số người trong độ tuổi lao động). Giá nhân công ở nước ta xếp vào một trong những nước trẻ nhất thế giới, khoảng 0,16 USD/1 giờ lao động trong khi đó ở Nhật Bản là 13 USD/1 giờ lao động. Trong đội ngũ lao động có trên 700 người có trình độ đại học và trên đại học, ngoài ra có khoảng 30 vạn lao động được đào tạo ở các trường trung cấp và dạy nghề hàng năm. Đó là nguồn lao động có khả năng tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và sản xuất hàng xuất khẩu. - Tài nguyên thiên nhiên: so với các nước trên thế giới và khu vực thì nước ta thuộc loại có tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu. - Ngoài ra nước ta còn là một thị trường lớn, yêu cầu của dân cư trong thị trường này chưa tới mức khắt khe nên khả năng thâm nhập thị trường tương đối dễ. Điều này khiến các thương nhân nước ngoài tăng cường buôn bán với Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường hoặc thông qua việc đặt gia công để dần dần chiếm lĩnh thị trường. Ngoài các lợi thế trên Việt Nam còn có các chính sách ưu đãi về thuế quan, các Hiệp định bảo hộ đầu tư đối với một số mặt hàng như dệt, may mặc, giầy dép đã thúc đẩy các bạn hàng tìm đến Việt Nam để tranh thủ lợi thế này để có đựoc giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) nhằm giảm được mức thuế nhập khẩu khi xuất sản phẩm sang thị trường các khối nước phát triển như EU, Canada, Mỹ,... 2-/ Những vấn đề về hợp đồng gia công quốc tế. 2.1. Đặc điểm của hợp đồng gia công quốc tế. Cũng như các hoạt động giao dịch trong thương mại, việc gia công hàng hoá cho nước ngoài được thực hiện thông qua việc ký kết một hợp đồng. Là một dạng của hợp đồng giao dịch ngoại thương, nó cũng có những đặc tính cơ bản của một hợp đồng kinh tế. Việc ký kết phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, hai bên cùng có lợi và phải tuân thủ sự điều chỉnh của hệ thống các quy phạm pháp luật. Hợp đồng gia công quốc tế được hình thành bởi yếu tố nước ngoài. Điều này tạo nên tính chất phức tạp của hợp đồng gia công và nó có những đặc điểm riêng như: về chủ thể hợp đồng, đối tượng hợp đồng, đồng tiền thanh toán, nguồn luật điều chỉnh. - Chủ thể hợp đồng gia công cho nước ngoài có thể là cá nhân hoặc pháp nhân có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau vì vậy mà các bên tham gia quan hệ chịu sự điều chỉnh của các hệ thống pháp luật khác nhau căn cứ vào nơi đăng ký kinh doanh. - Đối tượng của hợp đồng gia công cho nước ngoài là nguyên vật liệu, bán thành phẩm, các loại sản phẩm gia công được chuyển dịch qua biên giới nên các đối tượng này phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý và chịu các nghĩa vụ về thuế xuất, nhập khẩu đồng thời phải tuân thủ các điều ước quốc tế về quyền và nghĩa vụ giao hàng. - Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng gia công quốc tế mang đặc điểm của hợp đồng kinh doanh xuất, nhập khẩu; nó được thoả thuận khi ký kết hoạt động và luôn là ngoại tệ với một trong hai bên hoặc cả hai bên, đồng tiền thanh toán thường là một ngoại tệ mạnh. - Nguồn luật điều chỉnh: phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật quốc gia, hệ thống luật pháp quốc tế gồm các công ước, hiệp ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc tế,... Với những đặc điểm trên, ta có thể nhận thấy rõ những khác biệt cơ bản của hợp đồng gia công quốc tế so với các hợp đồng kinh tế thông thường. Có thể nói, đặc điểm tiêu biểu nhất chỉ ra bản chất của hợp đồng gia công quốc tế cũng như khẳng định tính đặc biệt của loại hợp đồng này trng kinh doanh xuất nhập khẩu đó là: quan hệ hợp đồng này là làm thuê để nhận thu lao, ở đây sức lao động là hàng hoá. Với tính chất là hợp đồng làm thuê cho nước ngoài, hợp đồng gia công cho nước ngoài thực hiện việc xuất khẩu tại chỗ sức lao động - một hoạt động đem lại lợi ích kinh tế cho mỗi quốc gia và phù hợp với xu hướng phân công lao động, và chuyên môn hoá ngày càng cao của nền kinh tế thế giới. 2.2. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng gia công quốc tế. Hợp đồng gia công hàng xuất khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên đặt gia công và bên nhận gia công có trụ sở đóng ở các nước khác nhau nhằm mục đích sản xuất, chế biến, lắp ráp sản phẩm cho bên đặt gia công quy định trên cơ sở nguyên vật liệu do bên đặt gia công giao trước để sau đó bên nhận gia công được nhận một khoản thu lao nhất định. Để tránh những tranh chấp xảy ra, để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết hợp đồng thì một hợp đồng gia công phải bao gồm các điều khoản sau: 2.2.1. Điều khoản về nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là đối tượng của hợp đồng gia công thường bao gồm toàn bộ nguyên vật liệu để chế biến, sản xuất sản phẩm gia công, nhưng có khi chỉ là nguyên liệu chính. Điều khoản này bao gồm: tên, loại nguyên liệu, quy cách; phẩm chất; số lượng; giá cả nguyên vật liệu; định mức nguyên vật liệu; sự bảo đảm số lượng và chất lượng nguyên vật liệu. - Tên nguyên vật liệu được ghi tỷ mỷ, chi tiết, dễ hiểu không dùng tiếng địa phương thay cho tên khoa học, để tránh nhầm lẫn, tránh tranh chấp có thể xảy ra. - Quy cách phẩm chất của nguyên vật liệu có ý nghĩa quan trọng để quyết định chất lượng của thành phẩm sản xuất ra. Vì vậy phải được quy định tỷ mỷ, chi tiết để tránh sự tranh chấp sảy ra. Trên thực tế hầu hết các tranh chấp về hợp đồng đều xuất phát từ vấn đề quy cách, phẩm chất. Thông thường nguyên vật liệu mà người đặt hàng giao phảo phù hợp với mẫu chuẩn hay sự mô tả trong tài liệu kỹ thuật. - Số lượng nguyên vật liệu phải được tính toán chính xác dựa trên yêu cầu về số lượng thành phẩm định gia công, định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm và tỷ lệ hao hụt nguyên vật liệu cho phép trong gia công. Định mức tiêu hao nguyên vật liệu có ảnh hưởng đến hiệu quả của việc gia công hàng xuất khẩu và là cơ sở để cơ quan hải quan xác đinh tỷ lệ giữa nguyên vật liệu nhập khẩu và sản phẩm xuất khẩu để quản lý, tránh trường hợp lợi dụng để nhập khẩu nguyên liệu trốn thuế. Định mức này thường được căn cứ vào tài liệu kỹ thuật của bên đặt gia công đưa ra hoặc căn cứ vào quá trình sản xuất thử. Nhìn chung định mức này phải sát với thực tế về điều kiện sản xuất và tay nghề của công nhân. Không thể lấy định mức tiêu hao nguyên vật liệu ở một nước có cơ sở máy móc hiện đại, tay nghề cao,... áp dụng vào một nước mà trình độ khoa học, kỹ thuật máy móc, và tay nghề còn non yếu. Định mức sau khi hai bên đã thống nhất một cách thích hợp sẽ được dùng làm chuẩn cho quá trình sản xuất cũng như thanh quyết toán nguyên phụ liệu sau này. Nếu bên nhận gia công trong quá trình sản xuất biết quản lý và sử dụng tốt nguyên vật liệu, không làm thất thoát, hư hao... giảm được định mức tiêu hao sản phẩm thì sẽ được hưởng số nguyên vật liệu dôi ra đó, ngược lại thì phải bồi thường cho bên đặt gia công. - Giá cả nguyên vật liệu. Trong trường hợp người đặt hàng giao nguyên vật liệu không tính tiền thì điều khoản giá cả nguyên vật liệu nhiều khi không cần thiết trong các loại hoạt đồng gia công. Tuy vậy cũng có nhiều hợp đồng quy định cụ thể giá cả nguyên vật liệu làm cơ sở để giải quyết những tranh chấp trong trường hợp nguyên vật liệu bị tổn thất, hư hỏng. Đối với những hình thức mua đứt bán đoạn nguyên vật liệu thì hai bên sẽ căn cứ vào giá nguyên vật liệu trong nước của nước đặt hàng có tham khảo giá quốc tế cho từng loại nguyên vật liệu, sau đó thống nhất với nhau giá cả của từng loại nguyên vật liệu. Việc xác định giá nguyên vật liệu làm cơ sở để tính toán giá cả của thành phẩm sau khi đã gia công. 2.2.2. Điều khoản về thành phẩm. Thành phẩm là đối tượng chính của hợp đồng gia công, số lượng thành phẩm dựa trên yêu cầu của người đặt gia công và khả năng sản xuất của người nhận gia công. Quy cách phẩm chất của thành phẩm được quy định theo hai cách: - Trước khi tiến hành sản xuất bên nhận gia công phải tiến hành sản xuất thử sản phẩm theo yêu cầu mẫu mã của người đặt hàng đưa ra nếu sản phẩm đó được bên đặt gia công chấp thuận nó sẽ trở thành mẫu đối, mỗi bên sẽ giữ một bản để làm chuẩn. - Dựa vào sự mô tả trong tài liệu kỹ thuật, việc quy định này phải đòi hỏi tỷ mỷ, cụ thể, chính xác để tránh sự hiểu lầm của 2 bên. Tốt hơn cả là kết hợp cả hai cách xác định quy cách phẩm chất trên. 2.2.3. Điều khoản về giá gia công. Giá gia công phụ thuộc vào từng loại mặt hàng, tính chất phức tạp của sản phẩm và mặt bằng giá chung của từng thời điểm. Giá gia công bao gồm: chi phí nhân công + lãi định mức + chí phí hành chính của bên nhận gia công. Có hai loại giá phổ biến là CMP (Cutting Making Packaging) pha cắt, chế tạo, đóng gói; và CMT (Cutting Making and Trimming) pha cắt, chế tạo, chỉnh trang. Thông thường giá gia công thể hiện phần chí phí lao động và các chí phí trực tiếp làm ra sản phẩm có so sánh với mức chí phí lao động bình quân trên thế giới. Điều khoản này thường gây tranh cãi nhiều nhất trong đàm phán ký kết hợp đồng vì bên thuê bao giờ cũng muốn ép giá gia công xuống mức thấp nhất còn bên nhận gia công lại muốn đòi giá cao hơn. Tuy nhiên trường hợp bên nhận gia công do thiếu việc làm nên sẵn sàng chấp mức giá gia công thấp. 2.2.4. Điều khoản về phương thức thanh toán. Trong hoạt động gia công hàng xuất khẩu phương thức thanh toán có thể được tiến hành theo hai cách: thanh toán bằng ngoại tệ hoặc bằng cách đổi hàng. Trong trường hợp thanh toán bằng phương thức đổi hàng phải được sự đồng ý của Bộ Thương mại đối với loại hàng hoá thanh toán, do đó các bên ít áp dụng hình thức này (nếu là trường hợp trừ dần vào máy móc, thiết bị sản xuất thì bên nhận gia công phải nộp thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị đó). Thông thường trong hợp đồng gia công thường áp dụng phương thức thanh toán L/C hoặc phương thức nhờ thu. 2.2.5. Quy định về tài liệu kỹ thuật. Bên đặt gia công phải cung cấp cho bên nhận gia công toàn bộ tài liệu cùng các điều kiện kỹ thuật như mẫu, bảng thông số, kích cỡ, sách hướng dẫn kỹ thuật,... trong một thời hạn thích hợp. Có như vậy thì bên nhận gia công mới đảm bảo tiến hành sản xuất đúng tiến độ quy định trong hợp đồng. 2.2.6. Điều khoản về bao bì, đóng gói, ký mã hiệu. - Thông thường bên đặt hàng cung cấp bao bì và giá bao bì được tính gộp vào giá hàng. - Đóng gói hàng hoá cũng được quy định cụ thể đối với từng loại hàng ví dụ như hàng may mặc bao bì bên trong thường là túi PE còn bao bì bên ngoài là thùng Cacton. - Ký mã hiệu là những chữ, con số, ký hiệu đặc trưng để phân biệt hàng này với hàng khác. Bởi vậy để hàng hoá giao đúng cho người nhận, trong hợp đồng phải quy định rõ nội dung ký mã hiệu ghi trên bao bì. 2.2.7. Điều khoản về giao hàng. Thời gian giao sản phẩm tuỳ thuộc vào yêu cầu kinh doanh của bên đặt gia công, bên nhận gia công không phải chịu trách nhiệm về sự chậm trễ giao hàng do nguyên nhân bên đặt gia công không giao đầy đủ và đồng bộ nguyên vật liệu dùng cho gia công. 2.2.8. Điều khoản khiếu nại. Đây là điều khoản quy định thời hạn khiếu nại và thời hạn trả lời khiếu nại. Trong một khoảng thời gian nhất định nếu một trong hai bên có yêu cầu khiếu nại thì phải thực hiện quyền khiếu nại trong thời gian đó. Nếu quá hạn trả lời khiếu nại mà bên bị khiếu nại không giải quyết thì bên khiếu nại có thể kiện ra trọng tài kinh tế. Trong thực tiễn, do những hợp đồng gia công thường có giá trị lớn nên việc đưa ra trọng tài kinh tế rất tốn kém vì vậy các bên thường cố gắng giải quyết các tranh chấp trên cơ sở thoả thuận một mức tiền phạt hợp lý (theo Luật Thương mại, khoản tiền nộp phạt này tối đa là 8%). 2.2.9. Điều khoản về điều kiện có hiệu lực và thời hạn có hiệu lực của hợp đồng. Điều khoản này quy định các điều kiện và thời hạn hợp đồng bắt đầu có hiệu lực và hết hiệu lực. Ngoài những điều khoản trên, hợp đồng gia công còn có thể có những điều khoản khác để phục vụ quá trình thực hiện hợp đồng (ví dụ như điều khoản về nghĩa vụ bảo quản máy móc thiết bị của bên đặt gia công trong trường hợp bên nhận gia công thuê máy móc thiết bị của bên đặt gia công). Những điều khoản này có thể quy định hoặc không quy định tuỳ theo hợp đồng cụ thể vì không phải là điều khoản bắt buộc. Tóm lại để một hợp đồng gia công hàng xuất khẩu được ký kết và thực hiện theo đúng pháp luật, đem lại lợi ích cho các chủ thể, khi ký kết hợp đồng các chủ thể phải đưa ra được các hợp đồng với nội dung cụ thể, đầy đủ trên cơ sở sự thoả thuận bình đẳng. Chỉ có một bản hợp đồng cụ thể mới là cơ sở vững chắc cho việc thực hiện các quan hệ kinh tế. 3. Vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công xuất khẩu. Cơ quan Nhà nước có chức năng hoạch định chính sách, tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp thực hiện gia công xuất khẩu theo đúng pháp luật như Luật thương mại, các văn bản pháp luật, thông tư hướng dẫn thi hành Luật thương mại, các văn bản khác có liên quan. Mục tiêu chủ yếu của Việt Nam là tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng để nâng cao mức sống dân chúng và thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Như vậy gia công hàng xuất khẩu là hoạt động nằm trong định hướng phát triển của đất nước vì có liên quan đến cả xuất khẩu và nhập khẩu. Để đảm bảo sự phát triển theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đưa ra thì phải có sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan quản lý Nhà nước theo đặc thù của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực. Việt Nam là nước đang phát triển, ngành công nghiệp của ta còn ở trình độ thấp do đó đối với hoạt động gia công xuất khẩu ở nước ta mang đặc thù riêng là: - Nguyên phụ liệu chủ yếu do nước ngoài cung cấp. - Trong nhiều trường hợp máy móc, thiết bị cũng do bên đặt gia công cung cấp dưới hình thức thông qua hợp đồng mượn hoặc thuê máy móc, thiết bị. Hết thời hạn gia công (thường thường từ 3 đến 5 năm) bên nhận gia công có trách nhiệm tái xuất trả lại cho bên đặt gia công. Xuất phát từ tình hình thực tiễn nêu trên, vai trò quản lý Nhà nước hướng vào hai nội dung cơ bản sau: + Khuyến khích đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nói chung và gia công xuất khẩu nói riêng, ngày 28/10/2000 Nhà nước đã ban hành Quyết định số 1291/2000/QĐ-BTM về quy chế quản lý sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu. Doanh nghiệp nào xuất khẩu mặt hàng mới (chủng loại mặt hàng) sản xuất tại Việt Nam, lần đầu tiên được bán ra thị trường nước ngoài và được bổ sung vào danh mục mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, hoặc đối với những mặt hàng đã có trong danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam (không phải là mặt hàng mới) nhưng nếu doanh nghiệp xuất khẩu được vào một hay nhiều thị trường là nơi lần đầu tiên nhập hàng đó của Việt Nam thì nhưng trường hợp này được xét thưởng như ở mục 5.1 của Quyết định trên. + Đồng thời tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước để hạn chế, ngăn chặn những hành vi sai phạm luật pháp Việt Nam và các công ước quốc tế. Những sai phạm cơ bản, điển hình trong hoạt động gia công đó là: a. Từ phía đặt gia công. Dưới danh nghĩa là cho bên Việt Nam “mượn” hoặc “thuê thiết bị”, bên đặt gia công lợi dụng đưa thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu sang Việt Nam. Sau khi hết hạn hợp đồng gia công không tái xuất mà chuyển giao cho bên Việt Nam dưới dạng thanh lý. Dưới hình thức nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu lợi dụng đưa hàng cấm, hàng nhập khẩu có điều kiện vào để kiếm lời. b. Từ phía bên nhận gia công. - Cố tình nhập khẩu hàng lậu, hàng cấm và hàng nhập khẩu có điều kiện. - Gian lận trong định mức gia công, số nguyên liệu và sản phẩm dư thừa đem bán tại Việt Nam gây rối loạn thị trường. - Ngoài ra còn có sai phạm về “nhãn mác xuất xứ” hàng sản xuất tại Việt Nam nhưng lại cố tình đóng nhãn mác xuất xứ ở nước khác,... Xuất phát từ những thực tế khách quan trên đòi hỏi phải có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Quá trình quản lý hoạt động gia công xuất khẩu chia ra làm 2 giai đoạn: - Trước đây._., giai đoạn chưa phân cấp (1997-1998). + Bộ Thương mại duyệt hợp đồng gia công. + Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm kiểm soát hàng nhập khẩu và xuất khẩu (sản phẩm). - Bộ KHCN-MT quản lý nhãn mác. - Sau khi phân cấp, công tác quản lý điều hành các hoạt động gia công xuất khẩu phụ thuộc vào các cấp quản lý sau: + Hải quan quản lý đăng ký hợp đồng gia công, giám sát và kiểm tra nguyên phụ liệu nhập khẩu và hàng gia công xuất khẩu. + Bộ Thương mại (Vụ đầu tư) chỉ phê duyệt hợp đồng gia công thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu và tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu. + Các phòng xuất nhập khẩu khu vực (trực thuộc Bộ Thương mại). Bộ Thương mại có chức năng thẩm định, duyệt các hợp đồng gia công, trực tiếp quản lý giám sát hoạt động gia công bằng cách thường kỳ cho các chuyên viên đến tận nơi các doanh nghiệp làm hàng gia công để xem xét tình hình. Tổ chức các buổi tổng kết để thu thập ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp, các cơ quan để từ đó giải quyết những khó khăn vướng mắc trong hoạt động gia công. Soạn thảo ban hành các văn bản điều hành về hoạt động gia công và các hoạt động khác. Như vậy Bộ Thương mại có nhiệm vụ trực tiếp giải quyết những khó khăn vướng mắc phát sinh trong quá trình quản lý điều hành hoạt động gia công. Chỉ đạo các cơ quan có liên quan thực hiện việc quản lý trong lĩnh vực này. Phối kết hợp với các cơ quan, các Bộ chuyên ngành có liên quan để cùng quản lý. 4-/ Các công cụ và biện pháp quản lý. Hiện nay công cụ và biện pháp quản lý chủ yếu vẫn là định mức nguyên vật liệu và các chính sách về thuế, chính sách phân bổ hạn ngạch. 4.1. Định mức sử dụng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư. Định mức tiêu hao nguyên vật liệu là lượng tiêu hao nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dùng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, nhưng không cấu thành trên sản phẩm không biểu hiện ra bên ngoài thành một bộ phận của sản phẩm. Tỷ lệ hao hụt nguyên liệu, phụ liệu, vật tư đó là lượng nguyên, phụ liệu, vật tư hao hụt trong quá trình sản xuất. Tỉ lệ hao hụt này phụ thuộc vào chất lượng nguyên liệu, trình độ công nhân, máy móc thiết bị và các nguyên nhân khác. 4.2. Chính sách về thuế. Người ta dùng công cụ thuế xuất nhập khẩu để quản lý hoạt động gia công, thuế xuất khẩu đối với sản phẩm gia công xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với việc nhập khẩu nguyên, phụ liệu, vật tư và máy móc thiết bị. 4.3. Hạn ngạch. Tháng 12/2000 quy chế mới về hạn ngạch - đấu thuần một phần hạn ngạch đã được áp dụng thử nghiệm ở một số doanh nghiệp may của Hà Nội. Hạn ngạch giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh từng bước hoà nhập vào thị trường thế giới. Hạn ngạch là một công cụ tốt trong quản lý nhưng ngược lại nó cũng có nhiều nhược điểm trong trường hợp phân bổ hạn ngạch không đúng. Thuế và định mức là hai công cụ cơ bản và quản lý hữu hiệu nhất trong hoạt động gia công. 5-/ Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý gia công hàng xuất khẩu. Hiệu quả quản lý được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hiệu quả của hoạt động gia công. Khi quản lý tốt thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của kinh doanh sẽ tăng lên và ngược lại. Các chỉ tiêu này có thể được chia ra làm hai loại chỉ tiêu là: chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng. 5.1. Một số chỉ tiêu định tính. 5.1.1. Chỉ tiêu về giải quyết khó khăn về vốn và thị trường tiêu thụ. Nếu công tác quản lý tốt sẽ giải quyết được khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp thông qua những chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. Những chính sách khuyến khích phát triển về thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường. Như vậy khi thị trường tiêu thụ sản phẩm tăng lên thì cũng đồng nghĩa với công tác quản lý có hiệu quả. 5.1.2. Hiệu quả về mặt xã hội. Thể hiện ở việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, đội ngũ công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn, tay nghề giỏi. 5.2. Chỉ tiêu về định lượng. 5.2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng thể hiện quy mô sản xuất tăng lên. Điều này chứng tỏ Nhà nước có các chính sách phát triển theo hướng mở rộng quy mô. 5.2.2. Thu nhập của các doanh nghiệp. Hiệu quả quản lý thể hiện gián tiếp thông qua hiệu quả về mặt kinh tế như là lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp được phản ánh thông qua hai chỉ tiêu lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. P = D - (Z + Th ± T0) DZ = P/Z DD = P/D DV = P/V P : là lợi nhuận D : là doanh thu Th : các loại thuế T0 : các khoản chênh lệch DZ ; DD ; DV : là tỉ suất lợi nhuận tính trên giá thành, doanh thu, vốn. Z : giá thành sản phẩm V : vốn đầu tư. 6-/ Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Cơ sở pháp lý của hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Ngày 2/8/1996 Tổng cục Hải quan ban hành quy chế tạm thời về chế độ kiểm tra, giám sát và quản lý đối với hàng gia công xuất khẩu, nhập khẩu kèm theo Quyết định số 90/TCHQ-GSQL sau một thời gian triển khai thực hiện ngày 8/4/1997 Tổng cục Hải quan đã ban hành Quy chế về quản lý đối với hàng gia công xuất khẩu kèm theo Quyết định số 126/TCHQ-QĐ. Nhưng từ khi có Luật thương mại được Quốc hội thông qua có quy định về vấn đề gia công hàng xuất khẩu thì Chính phủ ban hành Nghị định 57/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về các vấn đề xuất nhập khẩu hàng hoá, gia công và đại lý mua bán với nước ngoài. Để hướng dẫn thực hiện Nghị định 57/NĐ-CP Bộ Thương mại có Thông tư 18/2000/TT-BTM, Tổng cục Hải quan hướng dẫn thi hành Chương III Nghị định 57 Quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Hiện nay thông tư 18 và thông tư 03 là hai văn bản chính thức điều chỉnh hoạt động gia công. Thông tư 18 quy định các vấn đề: 1. Thương nhân gia công hàng hoá với nước ngoài. a. Thương nhân Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế có hoặc không có đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, được gia công hàng hoá với thương nhân nước ngoài; được trực tiếp nhập khẩu, xuất khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật tư, phế phẩm, phế liệu và sản phẩm gia công theo hợp đồng. b. Đối với doanh nghiệp được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2. Về gia công hàng hoá thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu. a. Thương nhân Việt Nam chỉ được ký hợp đồng gia công hàng hoá thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng xuất nhập khẩu sau khi có sự chấp thuận bằng văn bản của Bộ Thương mại. b. Hồ sơ gửi về Bộ Thương mại gồm: - Văn bản đề nghị của thương nhân, trong đó nêu rõ biện pháp quản lý hàng gia công. - Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 3. Về nguyên liệu, phụ liệu, vật tư để thực hiện hợp đồng gia công. a. Đối với nguyên phụ liệu vật tư mua tại Việt Nam. - Nguyên liệu, phụ liệu, vật tư thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu chỉ được mua tại Việt Nam để thực hiện hợp đồng gia công khi được Bộ Thương mại cho phép. - Nguyên phụ liệu vật tư thuộc danh mục hàng hóa xuất khẩu có điều kiện chỉ được mua tại Việt Nam để thực hiện hợp đồng gia công trong phạm vi số lượng hoặc giá trị ghi tại văn bản phân bổ hạn ngạch hoặc giấy phép của cơ quan có thẩm quyền. b. Đối với nguyên liệu, phụ liệu, vật tư nhập khẩu. Nguyên liệu, phụ liệu, vật tư thuộc danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu chỉ được nhập khẩu để thực hiện hợp đồng gia công khi được Bộ Thương mại cho phép. 4. Thanh toán tiền gia công bằng sản phẩm gia công. Bên nhận gia công được nhận tiền thanh toán của bên đặt gia công bằng sản phẩm gia công nhưng phải đảm bảo các điều kiện sau: a. Sản phẩm không thuộc danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng nhập khẩu. b. Sản phẩm gia công thuộc danh mục hàng hoá nhập khẩu có điều kiện thì bên nhận gia công chỉ được nhận trong phạm vi hoặc giá trị ghi tại văn bản phân bố hạn ngạch hoặc giấy phép của cơ quan có thẩm quyền. c. Phải nộp thuế nhập khẩu đối với sản phẩm gia công thanh toán thay tiền gia công. 5. Thanh lý hợp đồng gia công. Sau khi kết thúc hợp đồng gia công, máy móc, thiết bị, mượn theo hợp đồng; nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa, phế phẩm, phế liệu (gọi chung là vật tư, hàng hóa gia công) được giải quyết như sau: a. Bộ Thương mại: Giải quyết việc mua bán, tặng đối với vật tư hàng hoá gia công thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu và nhập khẩu có điều kiện. b. Cơ quan hải quan: - Giải quyết việc tái xuất, chuyển sang thực hiện hợp đồng gia công khác, tiêu huỷ đối với vật tư hàng hoá. Về thủ tục nhận gia công cho thương nhân nước ngoài thông tư 03 quy định cụ thể như sau: 1. Thủ tục tiếp nhận hợp đồng gia công: Chậm nhất là 3 ngày làm việc trước khi làm thủ tục nhập khẩu, lô hàng đầu tiên cho hợp đồng, doanh nghiệp phải làm thủ tục xuất trình hợp đồng với cơ quan Hải quan. Trách nhiệm của Hải quan khi tiếp hợp đồng gia công trong thời gian không quá 2 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan Hải quan phải làm xong thủ tục tiếp nhận hợp đồng. Sau khi tiếp nhận, Hải quan lưu lại một bản để theo dõi. 2. Thủ tục nhập khẩu. 2.1. Thủ tục nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu, vật tư: Doanh nghiệp phải làm hồ sơ đăng ký làm thủ tục hải quan đối với nguyên phụ liệu, vật tư nhập khẩu để gia công. Tiến hành lấy mẫu nguyên phụ liệu, trừ những trường hợp do tính chất mặt hàng không thể lấy mẫu được như (gia công vàng bạc, đá quý,...), còn các trường hợp khác khi kiểm hoá hải quan phải lấy mẫu nguyên phụ liệu chính để làm cơ sở đối chiếu khi làm xuất khẩu sản phẩm. Mẫu hàng phải được cán bộ hải quan và đại diện doanh nghiệp cùng lấy. Mẫu được niêm phong hải quan và giao cho doanh nghiệp bảo quản để xuất trình khi làm thủ tục xuất khẩu sản phẩm. 2.2. Thủ tục nhập khẩu máy móc, thiết bị tạm nhập. Máy móc thiết bị tạm nhập phục vụ gia công, sau khi kết thúc hợp đồng phải tái xuất tra cho bên gia công, trở các thiết bị, dụng cụ bị tiêu hao hoặc bị hỏng không còn sử dụng được và những trường hợp khác được Bộ Thương mại cho phép. Khi nhập máy móc thiết bị này thì được miễn thuế nhập khẩu. Trong qua trình sử dụng, nếu máy móc thiết bị hư hỏng, doanh nghiệp có nhu cầu đưa ra nước ngoài để sửa chữa, thì được phép làm thủ tục tạm xuất, tái nhập miễn thuế. 3. Thủ tục xuất khẩu đối với sản phẩm gia công. Khi làm thủ tục xuất khẩu sản phẩm, hải quan tiến hành đối chiếu nguyên liệu mẫu nhập khẩu với nguyên liệu cấu thành tên sản phẩm. 4. Thủ tục chuyển nguyên phụ liệu, vật tư từ hợp đồng này sang hợp đồng khác. 4.1. Trường hợp cùng đối tác thuê và nhận gia công, cùng đơn vị hải quan quản lý: bên nhận gia công chỉ cần có văn bản thông báo cho cơ quan hải quan nơi theo dõi hợp đồng gia công về việc chuyển nguyên phụ liệu, vật tư đó kèm theo văn bản thoả thuận giữa hai bên. 4.2. Trường hợp cùng đối tác thuê và nhận gia công, nhưng hợp đồng do đơn vị hải quan thuộc tỉnh, thành phố khác quản lý: làm thủ tục như sản phẩm gia công chuyển tiếp. 4.3. Cùng đối tác thuê gia công nhưng khác đối tác nhận gia công: làm thủ tục như hàng gia công chuyển tiếp. 5. Thủ tục giao nhận gia công chuyển tiếp. Về nguyên tắc, việc chuyển giao sản phẩm gia công chuyển tiếp phải chịu sự quản lý của hải quan, nhưng hải quan không trực tiếp làm thủ tục cho việc giao nhận. Các doanh nghiệp liên quan tự tổ chức giao nhận theo các bước quy định của hải quan. Giám đốc doanh nghiệp giao, nhận chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giao nhận đúng, đủ sản phẩm. Thủ tục giao nhận phải được lập thành 4 phiếu chuyển tiếp có ký tên đóng dấu của hải quan bên giao sau đó giao cho bên nhận một bản, hải quan bên nhận 1 bản, bên giao một bản, hải quan bên giao một bản để theo dõi. Phiếu chuyển tiếp này được coi là chứng từ để thanh toán hợp đồng gia công sau này. 6. Thuê thương nhân khác gia công. Doanh nghiệp nhận gia công với nước ngoài được thuê thương nhân khác gia công. Doanh nghiệp trực tiếp ký kết hợp đồng gia công thương nhân nước ngoài là người trực tiếp làm các thủ tục về xuất, nhập khẩu, thanh khoản hợp đồng, và làm các nghĩa vụ khác. 7. Thủ tục xuất trả nguyên phụ liệu, vật tư gia công. Trong quá trình thực hiện hợp đồng gia công, theo yêu cầu của bên thuê gia công, bên nhận gia công được xuất trả nguyên phụ liệu, vật tư cho bên thuê gia công. Thủ tục xuất trả như thủ tục xuất khẩu một lô hàng. 8. Thủ tục thanh lý, thanh khoản hợp đồng. Doanh nghiệp phải lập hồ sơ thanh khoản. Giám đốc doanh nghiệp ký kết hợp đồng gia công chịu trách nhiệm trước pháp luật về định mức sử dụng, định mức tiêu hao, tỷ lệ hao hụt nguyên liệu, phụ liệu, vật tư đã thoả thuận trong hợp đồng và khai báo hải quan. Trong quá trình thực hiện hợp đồng gia công, hải quan không kiểm tra định mức từng mã hàng. Nhưng khi có căn cứ chứng tỏ định mức ghi trong hợp đồng không chính xác thì hải quan sẽ tiến hành kiểm tra định mức. Nếu phát hiện sai phạm, giám đốc doanh nghiệp sẽ bị xử lý theo pháp luật. Thời gian thanh khoản: chậm nhất 3 tháng kể từ khi chấm dứt hợp đồng gia công, bên nhận gia công phải hoàn tất việc thanh khoản. Quá thời hạn sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính về hải quan theo quy định của pháp luật. 9. Thủ tục giải quyết nguyên phụ liệu, vật tư dư thừa, máy móc thiết bị tạm nhập phục vụ gia công sau khi kết thúc hợp đồng. 9.1. Hải quan giải quyết các vấn đề. - Tái xuất trả cho bên gia công. - Chuyển sang hợp đồng gia công khác. - Tiêu huỷ phế liệu, phế phẩm tại Việt Nam. Các trường hợp trên đều được miễn thuế. - Bán hoặc tặng lại, cho tại Việt Nam những nguyên phụ liệu, vật tư máy móc thiết bị không thuộc danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu và nhập khẩu có điều kiện. 9.2. Các trường hợp phải có ý kiến chấp thuận của Bộ Thương mại: - Bán tại thị trường Việt Nam. - Biếu tặng tại Việt Nam. 10. Thủ tục tiêu huỷ phế liệu, phế phẩm. Các loại phế liệu, phế phẩm của hợp đồng gia công được sự giám sát của hải quan nơi theo dõi hợp đồng gia công, trường hợp việc tiêu huỷ ảnh hưởng đến môi trường, phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý môi trường địa phương. 11. Thủ tục biếu tặng. Bên được tặng làm thủ tục nhập khẩu tại hải quan nơi theo dõi hợp đồng gia công và phải nộp thuế nhập khẩu (nếu có). Hồ sơ gồm: - Tờ khai hải quan. - Văn bản tặng của bên đặt gia công. - Văn bản chấp thuận của Bộ Thương mại (nếu hàng biếu tặng thuộc danh mục hàng cấm xuất nhập khẩu hoặc nhập khẩu có điều kiện). chương 2 Thực trạng công tác quản lý hoạt động gia công hàng xuất khẩu 1-/ Chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thương mại trong điều hành hoạt động thương mại của nền kinh tế quốc dân. 1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thương mại. Bộ Thương mại là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động thương mại (bao gồm các hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh vật tư, hàng tiêu dùng, dịch vụ thương mại,...) thuộc mọi thành phần kinh tế trong phạm vi cả nước, kể cả hoạt động thương mại của các tổ chức và cá nhân người nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Trong một thời gian dài (1945-2000) Bộ Thương mại đã có quá trình hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Theo Nghị định 95CP ngày 14/2/1995 quy định về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thương mại gồm 6 điều nêu rõ phạm vi hoạt động và cơ cấu tổ chức của Bộ Thương mại. Trong Điều 2 của Nghị định quy định rõ các nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Thương mại như sau: 1- Xây dựng, trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các quy chế về quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu: + Quản lý hạn ngạch xuất nhập khẩu, cấp hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các tổ chức kinh tế theo sự phân cấp của Chính phủ. + Cấp giấy phép nhập khẩu cho các tổ chức liên doanh với nước ngoài theo Luật đầu tư. + Quản lý Nhà nước về các hoạt động tư vấn, môi giới, hội chợ và quảng cáo thương mại, giới thiệu hàng hoá và xúc tiến thương mại ở trong và ngoài nước. + Phối hợp với các cơ quan liên quan về việc xét duyệt các chương trình, dự án đầu tư gián tiếp về thương mại. + Xét cho phép các tổ chức kinh tế Việt Nam được cử đại diện, lập công ty chi nhánh ở nước ngoài hoặc gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới. + Xét cho phép các tổ chức kinh tế ở nước ngoài lập văn phòng đại diện hoặc chi nhánh công tác tại Việt Nam. + Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ các cơ quan đại diện kinh tế - thương mại của Việt Nam ở nước ngoài. 2- Soạn thảo, trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền của Bộ các quy chế quản lý các hoạt động thương mại và dịch vụ thương mại trong nước; các kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế, thương mại đối với miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc ít người. 3- Tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong các hoạt động thương mại. 4- Tổ chức tiếp nhận, xử lý, cung cấp các loại thông tin kinh tế thương mại trong nước và thế giới phục vụ cho sự chỉ đạo của Chính phủ và các tổ chức kinh tế. 5- Quản lý Nhà nước về công tác đo lường và chất lượng hàng hoá trong các hoạt động thương mại thuộc mọi lĩnh vực do Bộ Thương mại phụ trách trên thị trường cả nước. 6- Hướng dẫn và chỉ đạo cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại ở địa phương về nghiệp vụ chuyên môn. Như vậy, Bộ Thương mại là cơ quan thực hiện việc thống nhất quản lý Nhà nước về thương mại. 1.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Vụ đầu tư. Vụ đầu tư là một tổ chức thuộc Bộ Thương mại được hình thành và phát triển như một tất yếu khách quan khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường. Vụ đầu tư có đầy đủ chức năng và quyền hạn trong lĩnh vực của mình giúp Bộ trưởng Bộ Thương mại thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thương mại, các hoạt động có liên quan đến thương mại. Vụ đầu tư được thành lập vào năm 2000 có nhiệm vụ chủ yếu là quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, bao gồm hoạt động thẩm định và cấp giấy phép cho các dự án đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam. Khi Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) được thành lập thì Vụ đầu tư không còn chức năng cấp giấy phép chỉ có chức năng thẩm định các dự án đầu tư. Từ khi có Quyết định 91/TTg ngày 13/11/1994 về quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp nên Vụ đầu tư có nhiệm vụ thẩm định và phê duyệt các hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị. Từ năm 1997, Vụ đầu tư có thêm chức năng thẩm định, duyệt các hợp đồng gia công với nước ngoài. Cuối 1999, Vụ đầu tư có nhiệm vụ thẩm định và phê duyệt các kế hoạch xuất nhập khẩu của các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (nhiệm vụ này chuyển từ Vụ xuất nhập khẩu sang). Như vậy, trên cơ sở chức năng, quyền hạn chung của Bộ Thương mại, theo Quyết định số 1646 - TM/TCCB ngày 31/12/1996 của Bộ Thương mại quy định chức năng, nhiệm vụ của Vụ đầu tư như sau: 1. Hướng dẫn các bên (Việt Nam và nước ngoài) chọn đối tác đầu tư, dự án đầu tư. 2. Thẩm định, góp ý kiến với Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và đầu tư) và Hội đồng thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài. 3. Thẩm định và phê duyệt các hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp (theo quy định của Chính phủ). 4. Kiểm tra và tổng hợp các dự án đầu tư trong ngành để báo cáo Bộ trưởng và các cơ quan quản lý Nhà nước. Ngoài ra, Vụ đầu tư còn được bổ xung một số nhiệm vụ sau: A. Theo Quyết định số 499 TM/TCCB ngày 9/6/1997 bổ xung nhiệm vụ là giúp Bộ thẩm định, cho phép các tổ chức kinh tế Việt Nam thực hiện các hoạt động gia công sản phẩm hàng hoá cho nước ngoài. B. Theo Quyết định số 833 TM/TCCB ngày 17/10/1999 của Bộ trưởng Bộ Thương mại về chuyển giao một số nhiệm vụ từ Vụ xuất nhập khẩu sang: 1. Cấp giấy phép xuất nhập khẩu cho các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2. Quản lý hoạt động và tổng hợp tình hình xuất nhập khẩu của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu tổ chức của Vụ đầu tư như sau: Phân công lãnh đạo gồm có: 1 Vụ trưởng 2 Vụ phó. - Vụ trưởng chịu trách nhiệm trước lãnh đạo Bộ về mọi hoạt động của Vụ, do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm. - Các Vụ phó chịu trách nhiệm trước lãnh đạo Bộ và Vụ trưởng về phần việc được giao. Sơ đồ 1: Tổ chức các bộ phận trong Vụ Thẩm định các dự án đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật khuyến khích đầu tư trong nước Theo dõi quản lý duyệt các hợp đồng gia công hàng xuất khẩu Theo dõi quản lý duyệt các hợp đồng nhập khẩu máy móc,thiết bị thuộc vốn ngân sách theo Quyết định 91/TTg Theo dõi quản lý các kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Bộ phận tổng hợp hành chính Bộ phận 1 Bộ phận 2 Bộ phận 3 Bộ phận 4 Bộ phận 5 Vụ trưởng ở mỗi bộ phận bố trí các chuyên viên đảm nhận các công việc được giao. Hàng ngày, tất cả các văn bản gửi đến Vụ đều phải qua văn thư của Bộ. Chuyên viên phụ trách hành chính sau khi tiếp nhận và phân loại trình lãnh đạo phụ trách. Tất cả các khâu trên đều được xử lý trong ngày để chuyển đến chuyên viên phụ trách. Tuỳ theo từng loại văn bản sẽ có quy trình xử lý riêng theo quy định để đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả. Toàn bộ kết cấu tổ chức bộ máy của Vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được phân công và phù hợp với quy mô của một Vụ quản lý trực thuộc Bộ. 2-/ Đánh giá thực trạng hoạt động gia công hàng xuất khẩu trong thời gian qua. 2.1. Thời gian từ 1992 trở về trước. Thời gian này hoạt động gia công cho nước ngoài mới bắt đầu phát triển, mặt hàng chưa phong phú chủ yếu là gia công ở một số ngành như: may mặc, thêu ren, dệt thảm, công nghiệp nhẹ như sản xuất dụng cụ cầm tay,... cho Liên Xô (cũ) và các nước XHCN ở Đông Âu. Quy mô cũng như năng lực sản xuất trong các ngành còn nhỏ bé, trang thiết bị lạc hậu, chắp vá, không đồng bộ vì vậy chỉ gia công những hàng không đòi hỏi kỹ, mỹ thuật cao. Ví dụ như trong ngành may trước năm 1975 trên miền Bắc chỉ có 6 xí nghiệp may Trung ương ngoài phục vụ nhu cầu trong nước, các xí nghiệp này chủ yếu gia công may quần áo bảo hộ lao động cho Liên Xô (cũ), Tiệp Khắc. Sau khi đất nước thống nhất, một số ngành công nghiệp trong nước có điều kiện phát triển mạnh như may mặc, giày dép, chế biến nông sản,... Ngoài nhiệm vụ sản xuất chế biến đáp ứng nhu cầu trong nước các xí nghiệp còn nhận gia công cho nước ngoài. Bên cạnh thị trường truyền thống là các nước khu vực 2, chúng ta đã mở rộng thị trường sang các nước khu vực 1 như Pháp, Tây Đức, Thuỵ Điển, Nhật Bản,... Các hợp đồng gia công may xuất khẩu cho Thuỵ Điển, Canada; hợp đồng dệt thảm len, tẩy bóng cho Tây Đức; hợp đồng thêu ga, gối, khăn trải bàn, làm ren venise cho Pháp, Thuỵ Sỹ,... đã xuất hiện ngày càng nhiều và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong kim ngạch xuất khẩu của các công ty xuất nhập khẩu ở địa phương. Hoạt động gia công xuất khẩu đã thu hút một lực lượng lao động khá lớn, mở mang thêm nhiều ngành mới, tạo khả năng thâm nhập vào một số thị trường mà trước đây ta chưa có điều kiện vào được. Thời kỳ 1986-1992, nước ta đã ký 7 chương trình hợp tác với các nước XHCN (trước đây) trị giá khoảng 2.000 triệu Rúp chuyển nhượng trong đó có chương trình hợp tác gia công công nghiệp nhẹ trị giá 1.020 triệu Rúp chuyển nhượng chiếm 50% về trị giá các chương trình hợp tác. Nhờ có chương trình hợp tác công nghiệp nhẹ (chủ yếu là may mặc, dệt kim, khăn bông, may mũi giày). Nhờ có chương trình này mà nước ta đã có hàng trăm nhà máy tham gia gia công, tạo việc làm cho hàng chục vạn lao động. Song sau 5 năm thực hiện (1986-1992) chương trình chỉ đạt 35%. Đó là do các xí nghiệp tham gia chương trình có máy móc, thiết bị quá cũ, lạc hậu, cơ chế chỉ đạo điều hành lúc bấy giờ còn yếu kém chưa chú trọng nhiều đến hiệu quả kinh doanh. Đến năm 1992 đã có một số nước như Nhật Bản, CHLB Đức đưa vào những dây truyền hiện đại tổ chức sản xuất tốt, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn cao, đáp ứng được yêu cầu thị trường thế giới. Nhưng đến thời điểm này thì Liên Xô và các nước Đông Âu có sự biến động lớn về chính trị, chế độ XHCN của Liên Xô bị sụp đổ, khối các nước XHCN tan dã vì vậy chương trình hợp tác trên không thực hiện được nữa. Ngành gia công công nghiệp nhẹ đứng trước nguy cơ tan vỡ, và nạn thất nghiệp xảy ra. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý và chuyển hướng phát triển nền kinh tế. 2.2. Từ khi Nhà nước thực hiện chính sách “mở cửa” nền kinh tế. Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về khuyến khích phát triển và mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại với chiến lược hướng mạnh và xuất khẩu, hoạt động gia công hàng xuất khẩu đã có bước phát triển mạnh cả về quy mô và tốc độ. Bên cạnh việc đem lại hiệu quả kinh tế góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và mở rộng ngành hàng xuất khẩu; hoạt động gia công hàng xuất khẩu còn đem lại hiệu quả xã hội rất lớn, đặc biệt là vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Tính đến hiện nay hoạt động gia công đã đạt được những kết quả đáng kể, thể hiện ở một số mặt sau: 2.2.1. Về kim ngạch xuất khẩu hàng gia công. Cùng với sự tăng trưởng không ngừng của kim ngạch xuất nhập khẩu qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng gia công cũng tăng lên không ngừng; thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Kim ngạch xuất hàng gia công qua các năm Đơn vị: USD. Năm 1997 1998 1999 2000 2001 Kim ngạch xuất hàng gia công 462.468.598 1.206.044.621 2.309.333.418 2.783.301.167 2.210.106.996 Nguồn: Tổng cục Hải quan Năm 1998, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng gia công đạt khoảng 2,574 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu trong năm. Trong đó một số mặt hàng chính như: may, thêu đạt 817,43 triệu USD chiếm 51,5%, hàng giày dép các loại đạt 500 triệu USD chiếm 27,2% tăng 28% về số lượng và 66% về giá trị so với năm 1997. Kim ngạch xuất khẩu hàng gia công vẫn tăng đều đặn qua các năm 1999, 2000, các mặt hàng chủ yếu trong gia công và chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu vẫn là dệt may, giày dép. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng gia công giảm xuống. Sở dĩ có điều này xảy ra là do các doanh nghiệp cũng như chủ trương của Nhà nước có sự chuyển hướng phương thức kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp đã rất nõ lực trong việc chuyển hướng phương thức kinh doanh như: may 10 hiện nay đã bắt đầu chuyển dần từ phương thức kinh doanh gia công thuê sang sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm của may 10 đã được thị trường thế giới chấp nhận; giầy Thượng Đình cũng là một ví dụ tương tự. Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các nước Đơn vị: triệu USD STT Tên nước 1998 1999 2000 1 Nhật Bản 248,13 325,05 357,87 2 Đài Loan 136,74 197,50 203,09 3 Đức 177,17 164,60 135,80 4 Nga 45,88 41,40 39,80 5 Hàn Quốc 33,85 75,90 80,67 6 Hà Lan 30,89 42,90 45,12 7 Pháp 24,37 55,40 60,23 8 Singapore 18,48 55,80 76,41 9 Hồng Kông 17,45 26,60 32,68 10 Anh 14,27 32,20 30,90 11 Italia 13,99 27,10 34,90 12 Mỹ 8,71 23,04 35,54 13 Canada 8,07 18,20 23,09 Nguồn: Tổng cục Hải quan Mặc dù gia công hàng may mặc hiện nay, đang đứng đầu về số lượng và giá trị hợp đồng gia công xuất khẩu nhưng thực tế tăng về số lượng và giá trị tuyệt đối còn tỷ trọng giảm dần qua các năm. Nguyên nhân dẫn đến việc giảm là do quy mô sản xuất gia công tất cả các mặt hàng đều được mở rộng. Về thị trường hàng may mặc, Việt Nam đã thâm nhập được vào hầu hết các thị trường trên thế giới (minh hoạ qua bảng trên). Điều này chứng tỏ tay nghề lao động ở nước ta đã được thị trường thế giới chấp nhận. 2.2.2. Về thị trường. Những năm trước đây, do mặt hàng nhận gia công còn nghèo nàn, công nghệ sản xuất đơn giản, chúng ta chỉ có một số khách hàng gần như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản,... Nhưng vài năm gần đây thị trường hàng gia công đã mở rộng cả về đối tượng đặt gia công và chủng loại hàng hoá gia công. - Về khách hàng: bên cạnh các khách hàng gần và quen biết kể trên vài năm gần đây đã có nhiều khách hàng mới từ các nước: Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Malaysia, Canada, Hoa Kỳ,... Thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Thị trường khách hàng đặt gia công Khu vực Tổng số nước Tỷ trọng (%) Trị giá phí gia công (USD) Tỉ trọng % Đông Nam á (Lào, Thái Lan, Philippine, Malaysia, Singapore) 5 14,71 40.308.000 5,34 Bắc á và Đông á (Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc 5 14,71 607.368.000 80,52 Bắc Âu (Nauy, Thuỵ Điển) 2 35,29 2.052.000 0,27 Tây Âu và Nam Âu 12 35,29 77.207.000 10,23 Đông Âu (Ba Lan, CH Séc, Nga) 3 8,82 5.960.000 0,79 Bắc Mỹ và Caribê (Canada, Mỹ, Cuba) 3 8,82 16.227.000 2,15 Châu úc (Ôxtraylia, Niudilân) 2 5,88 5.158.000 0,68 Tổng số 32 94,12 754.280.000 99,98% Khu chế xuất (Tân Thuận, Cần Thơ) Tổng số 34 100 754.443.000 100 Nguồn: Bộ Thương mại Qua bảng cơ cấu thị trường khách hàng cho thấy khách hàng từ khá nhiều các nước đặt gia công tại nước ta tại nước ta cụ thể là đã lên tới 32 nước. Nhưng chủ yếu là khách hàng từ các nước khu vực Bắc và Đông á cụ thể là các nước Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc, họ đặt hàng với khối lượng lớn cụ thể là trị giá phí gia công thu về chiếm 80,52% trong tổng thu nhập từ phía gia công. Bảng 4: Số lượng và giá trị hợp đồng gia công theo thị trường các nước từ 1996 đến hết năm 2000 (một số thị trường lớn) Nước Số lượng hợp đồng Giá trị hợp đồng (1.000 USD) Tỷ trọng theo giá trị % Đài Loan 466 186.217 38,624 Hàn Quốc 202 147.063 19,846 Nhật Bản 203 110.255 14,879 Hồng Kông 100 46.151 6,228 Singapore 42 33.979 4,585 Các thị trường khác 437 117.365 15,830 Tổng số 32 nước 1.450 741.031 100,000 Căn cứ vào bảng số liệu cho thấy Đài Loan là nước đặt hàng nhiều nhất ở Việt Nam, trị giá hợp đồng chiếm tới 38,624%. Các mặt hàng mà Đài Loan đặt gia công chủ yếu là dệt may, giầy da. Nhìn chung các khách hàng lớn đều tập trung ở khu vực Bắc và Đông á nhưng khách hàng tiêu thụ những sản phẩm gia công này thì lại là thị trường các nước thuộc EU, Canada, Mỹ, Nhật, Philippin, Hà Lan, Malaysia, Pháp,... Đây là một điểm đáng chú ý mà cả Nhà nước và doanh nghiệp đều phải có sự cố gắng trong việc chuyển hướng kinh doanh từ phương thức gia công sang xu._.át khỏi hình thức gia công đơn thuần. Muốn vậy, phải thu hút tối đa các nguồn vốn trong nước cả nguồn vốn Nhà nước cấp, nguồn vốn vay. 1.4. Đẩy nhanh các hoạt động điều tiết vĩ mô của Nhà nước làm nền tảng cơ bản cho việc phát triển kinh tế một cách năng động. Có thể nói, mặc dù nền kinh tế thị trường phát triển và bị điều tiết bởi các quy luật nội tại của nó, nhưng vai trò điều tiết và quản lý của Nhà nước là rất quan trọng, bảo đảm cho sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế. Kinh nghiệm này đã được Nhà nước ta khẳng định trong đường lối chung để phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển của mình đó là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Với sự khẳng định vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước, mọi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá phải chịu sự quản lý trực tiếp của các cơ quan quản lý Nhà nước và nằm trong cơ chế điều hành chung của Nhà nước đối với hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động gia công cho nước ngoài là một trong những hành vi thương mại được điều chỉnh bởi Luật Thương mại của Việt Nam và các quy định pháp luật khác của Việt Nam đồng thời phải chịu sự quản lý trực tiếp của các cơ quan quản lý chuyên ngành khác như: Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính,... trong đó sự điều hành chung của Chính phủ thông qua các văn bản pháp luật là cơ sở để các ngành chức năng triển khai nhiệm vụ quản lý trực tiếp. Tóm lại, những kinh nghiệm phong phú và mang tính thực tiễn cao của các nước trên thế giới và trong khu vực. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam theo hướng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế chứ không chỉ riêng cho hoạt động gia công quốc tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, do xác định vai trò của gia công quốc tế trong bước đi ban đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá cần tận dụng những lợi thế sẵn có trong nước, phát triển ngành nghề, tạo công ăn việc làm, tăng tích luỹ vốn cho ngân sách, tập dượt khả năng xâm nhập thị trường mới cũng như việc quản lý điều hành nền sản xuất lớn,... Cho nên việc vận dụng có hiệu quả các kinh nghiệm này vào hoạt động gia công quốc tế cũng chính là góp phần phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhanh hơn. 2-/ Phương hướng hoạt động gia công trong những năm tới. Bảng: Cơ cấu xuất nhập khẩu của năm 2002 Xuất khẩu hàng hoá năm 2002 Lương thực, thực phẩm và nguyên liệu thô Nhiên liệu khai khoáng Công nghiệp chế biến Công nghiệp chế tác 21,9% 22% 27,3% 25,8% Nhập khẩu hàng hoá năm 2002 Máy móc, thiết bị Nguyên nhiên liệu Hàng tiêu dùng 44% 46% 10% Nguồn: Bộ Thương mại Hiện nay, hoạt động gia công hàng xuất khẩu là một biện pháp quan trọng trong các chính sách khuyến khích xuất khẩu. Đây là một hoạt động để góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu hàng đã qua chế biến, giảm xuất khẩu hàng thô và sơ chế. Mục tiêu chung của ta là khuyến khích đầu tư sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Để làm được điều này phương hướng phát triển trong những năm tới là: - Đầu tư để chế biến hàng xuất khẩu. - Đầu tư cho sản xuất nguyên phụ liệu, kể cả thiết bị, phụ tùng để phục vụ cho sản xuất hoặc chế biến hàng xuất khẩu. - Khuyến khích mạnh các doanh nghiệp làm hàng gia công. - Huy động mạnh hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy là hoạt động gia công có một vị trí quan trọng trong chiến lược hướng về xuất khẩu. Nhà nước khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp làm hàng gia công không hạn chế số lượng, chủng loại,... hướng các doanh nghiệp mở rộng gia công hàng dệt may, giày dép, lắp ráp đồ điện tử,... Đối với các trường hợp gia công theo phương thức “mua đứt, bán đoạn” được coi như đầu tư chế biến hàng xuất khẩu theo Luật đầu tư trong nước và được hưởng các ưu đãi đối với đầu tư. 3-/ Những biện pháp chung để hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công quốc tế. Trong những năm tới, hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam còn tiếp tục phát triển mạnh, đó là xu thế của thời đại, là một tất yếu trong quá trình phân công lao động thế giới. Ngoài lợi ích kinh tế hoạt động gia công xuất khẩu giải quyết việc làm cho số lượng lớn lực lượng lao động ở các thành phố lớn cũng như vùng sâu, vùng xa. Có thế nói tăng cường hoạt động gia công xuất khẩu là một bước chuẩn bị quan trọng để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để tạo điều kiện cho sự phát triển của loại hình kinh doanh này, ngoài việc các doanh nghiệp tự vươn lên bằng nội lực của mình, các cơ quan có thẩm quyền cần có sự giúp đỡ tích cực hơn nữa cho các doanh nghiệp thông qua các cơ chế chính sách phù hợp. Phương hướng chung hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công quốc tế là không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh chế độ quản lý gia công hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý hàng hoá gia công và tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính theo hướng giảm nhẹ những thủ tục hành chính. 3.1. Tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Tháng 5/1999 Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thương mại, đây là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; mở rộng giao lực thương mại với nước ngoài; góp phần đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân. Luật thương mại đưa ra 14 loại hình vi thương mại nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật, trong đó có hành vi gia công thương mại. Trong phạm vi 11 điều (từ điều 128 đến 138) Luật thương mại đã đề cập đến các vấn đề về khái niệm về gia công trong thương mại, nội dung gia công, hợp đồng gia công, điều kiện gia công với thương nhân nước ngoài, việc chuyển giao công nghệ trong gia công với thương nhân nước ngoài, việc chuyển giao công nghệ trong gia công cũng như việc áp dụng pháp luật thuế trong gia công với thương nhân nước ngoài,... Đó là những vấn đề trọng yếu điều chỉnh hành vi gia công thương mại nói chung trong đó có hành vi gia công với thương nhân nước ngoài. Để hướng dẫn thi hành Luật thương mại với hoạt động gia công, Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/NĐ-CP ngày 31/7/2000 kèm theo Nghị định 57/NĐ-CP có các Thông tư 18/2000/TT-BTM ra ngày 28/8/2000 hướng dẫn thực hiện Nghị định 57 trong đó có hoạt động gia công với nước ngoài. Ngoài ra Tổng cục Hải quan cũng có Thông tư 03 hướng dẫn thực hiện hoạt động gia công,... Tuy đã có một hệ thống các văn bản hướng dẫn hoạt động gia công nhưng vẫn còn có những vướng mắc vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện bằng cách đưa ra những văn bản mới để khắc phục những khó khăn vướng mắc do thực hiện những văn bản trước đó. Cần phải tiến hành rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật trong vấn đề quản lý hàng gia công xuất khẩu. Đối với những văn bản có tính chất chỉ đạo chung trong thời gian dài, nếu qui trình thực hiện đã có nhiều vướng mắc, không đáp ứng được yêu cầu quản lý thực tế thì cần phải thay đổi, huỷ bỏ hoàn toàn hiệu lực của văn bản cũ, tránh tình trạng ra văn bản bổ sung liên tục, cái nọ sửa đổi cái kia gây khó khăn cho người thực hiện trực tiếp. Đối với những văn bản có tính chất tháo gỡ vướng mắc, chỉ dẫn cho cấp dưới thực hiện theo đúng các văn bản đã có cần phải dẫn chiếu rõ số văn bản, ngày tháng, trích yếu,... tránh tình trạng nêu chung chung như: “Việc ... giải quyết theo chế độ hiện hành”, khiến người hướng dẫn gặp nhiều khó khăn. Trước hết các bộ ngành có liên quan như hải quan, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Bộ Tài chính cần thống nhất một số vấn đề có giá trị cơ sở pháp lý về các vấn đề như: - Vấn đề hao hụt đối với nguyên phụ liệu gia công. - Vấn đề thuế đối với tỷ lệ hao hụt trên. - Vấn đề định mức tiêu hao nguyên vật liệu. - Vấn đề xử lý phế liệu, phế phẩm dư thừa. - Vấn đề nhãn mác hàng hoá. - Vấn đề thanh lý, thanh khoản và chế tài trong trường hợp chậm thanh khoản hợp đồng. Trong các vấn đề trên, ngoài nội dung quản lý, cần xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, ngành đối với từng vấn đề để có thể giải quyết một cách triệt để các vướng mắc trong quản lý hàng gia công hiện nay. Để có cơ sở pháp lý trong việc sử lý các vi phạm của doanh nghiệp kinh doanh gia công xuất nhập khẩu, Tổng cục Hải quan cần nghiên cứu trình Chính phủ bổ xung một số điều khoản trong Nghị định 16/CP ngày 20/3/1998 về sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về hải quan, đó là các hành vi vi phạm trong hoạt động gia công hàng xuất, nhập khẩu sau: - Vi phạm thời hạn thanh khoản hợp đồng gia công. - Mở sổ theo dõi hợp đồng gia công nhưng không thực hiện hợp đồng. - Đăng ký nhập nguyên liệu để sản xuất hàng gia công nhưng không xuất khẩu sản phẩm,... 3.2. Nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý hàng gia công. Thực tế trong công tác quản lý hàng gia công xuất nhập khẩu thì đối tượng kiểm tra giám sát là hàng hoá, vật tư, nguyên liệu xuất nhập khẩu giống như các loại hình kinh doanh khác. Nhưng do đặc thù của kinh doanh gia công nên chế độ quản lý cũng đặt ra những yêu cầu khác về nội dung quản lý. Nhưng vấn đề đặt ra là phải đồng thời quản lý chặt chẽ đối tượng hàng hoá xuất nhập khẩu vừa tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu ngày càng phát triển mạnh. Vì thế mà cần phải coi trọng việc xây dựng và kiện toàn một đội ngũ cán bộ nhân viên quản lý vừa giỏi về kiến thức kinh tế, kỹ thuật, pháp luật, ngoại ngữ,... tận tuỵ với công việc được giao, và phải có phẩm chất trong sáng. Về mặt nhận thức phải làm cho người cán bộ quản lý thấy rõ vai trò của mình là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, vận dụng vào công tác quản lý hàng gia công xuất nhập khẩu. Người quản lý phải biết những khó khăn, thiệt thòi của người gia công “làm thuê” cho nước ngoài để trong phạm vi cho phép tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, tránh lối làm việc quan liêu “sống chết mặc bay” khiến cho doanh nghiệp không những gánh chịu thiệt thòi về vật chất mà còn kéo theo những hậu quả nghiêm trọng do mất bạn hàng dẫn đến công nhân mất việc làm, hậu quả xấu xảy ra đối với xã hội. Đặc biệt là đối với ngành hải quan, cán bộ nhân viên quản lý hải quan phải thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với tiền hàng. Trong thời điểm này đời sống vật chất của cán bộ nhân viên chưa được nâng cao, trong số các đơn vị quản lý có những thành viên vì mục tiêu lợi nhuận mà bị lôi kéo vào những hoạt động vi phạm pháp luật. Vì vậy mà cần phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đào tạo nâng cao kiến thức nghiệp vụ, luật pháp, tăng cường kỷ cương nội bộ; có chế độ thưởng phạt nghiêm minh cũng như chú trọng chăm lo đời sống cho cán bộ nhân viên. Những công việc trước mắt cần được chú trọng là: Thứ nhất: phải tuyển dụng đội ngũ cán bộ nhân viên có kiến thức chắc về luật để nghiên cứu, đưa ra các văn bản pháp quy phù hợp với yêu cầu quản lý cụ thể của ngành. Thứ hai: cần rà soát phân loại và tiêu chuẩn hoá lực lượng cán bộ nhân viên quản lý, chú trọng ngay từ khâu tuyển chọn đội ngũ cán bộ nhân viên theo hướng lựa chọn những người có phẩm chất, đạo đức tốt; đã được đào tạo. Chú trọng tăng cường các khâu công tác nghiệp vụ bằng các cán bộ có chuyên môn, năng lực thích hợp, kiên quyết xử lý hoặc đưa ra khỏi ngành những người không đủ phẩm chất và năng lực công tác. Thứ ba: coi trọng việc tập huấn và huấn luyện nghiệp vụ ở các khâu công tác. Đặc biệt là đối với cán bộ hải quan phải có kiến thức chuyên sâu về thương phẩm, có trách nhiệm đối với nghề nghiệp. Thứ tư: có chế độ thưởng phạt để khuyến khích, động viên những cán bộ quản lý công tác tốt đồng thời đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, gây phiền hà,... với khách hàng, xoá đi mặc cảm, thành kiến của khách hàng đối với cán bộ quản lý. Cán bộ quản lý phải có thái độ văn minh, lịch sự, có trình độ nghiệp vụ cao, xử lý công việc linh hoạt, đảm bảo đúng chính sách chế độ, không gây khó khăn, ách tắc cho hàng hoá xuất khẩu. Những vấn đề trên đây nói thì dễ, làm thì khó bởi trên thực tế có muôn vàn điều không được nói đến nhưng lại chi phối rất nhiều đối với công tác tổ chức, lãnh đạo, nhưng nếu thực sự kiên quyết và vì lợi ích chung của toàn xã hội thì vẫn có thể làm được. 3.3. Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý. Những mục tiêu chính của công tác cải cách thủ tục hành chính là giải phóng nhanh chóng người và hàng hoá, phương tiện xuất nhập cảnh; tạo sự thống thoáng thuận tiện, văn minh lịch sự đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch,... Đồng thời đảm bảo quản lý chặt chẽ theo pháp luật; giữ vững kỷ cương, phép nước về quản lý; chống quan liêu cửa quyền, tiêu cực trong lĩnh vực quản lý. Để đáp ứng các yêu cầu trên, các cơ quan, ban ngành chức năng có liên quan đến hoạt động gia công hàng xuất khẩu đã triển khai nghiêm túc việc cải cách thủ tục hành chính và đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Trước đây Bộ Thương mại tiến hành cấp giấy phép chuyến cho từng chuyến hàng kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng từ khi có Nghị định 89/CP Bộ Thương mại tiến hành bỏ việc cấp giấy phép chuyến nên đã làm giảm bớt được một phần thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh. Đặc biệt là gầy đây (đầu năm 2001) Bộ Thương mại đã bỏ chế độ phê duyệt hợp đồng gia công cũng đã làm giảm bớt thủ tục hành chính cho hoạt động gia công giúp doanh nghiệp thực hiện hợp đồng được nhanh hơn,... Ngành hải quan cũng đã có chỉ thị 1121/TCHQ-VP ngày 16/9/1996 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về cải cách thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình. Ngoài việc trực tiếp thực hiện cải cách thủ tục hành chính ra các ban ngành có liên quan đến hoạt động gia công hàng xuất khẩu (Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan,...) còn tiến hành: + Phối hợp với các ngành chức năng đề xuất với Chính phủ sửa đổi, bổ sung những điểm còn sơ hở, bất hợp lý trong chính sách, chế độ, cơ chế điều hành hoạt động xuất nhập khẩu,... + Cải tiến thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá, thống nhất hoá, tiêu chuẩn hoá cho phù hợp với yêu cầu phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch,... hiện tại cũng như trong thời gian tới nhằm đem lại hiệu quả thiết thực về mặt kinh tế, xã hội. + Gắn cải cách thủ tục hành chính với công tác thanh tra, kiểm tra chống buôn lậu và chống thất thu thuế,... + Gắn công tác cải cách thủ tục hành chính với công tác thanh tra sử lý tiêu cực nội bộ, giảm phiền hà,... Gần đây công tác cải cách thủ tục hành chính về lĩnh vực quản lý hàng gia công tuy vẫn được chú trọng nhưng từng lúc, từng nơi, từng khâu công tác chưa có phương hướng, mục tiêu cụ thể gắn với yêu cầu, nhiệm vụ trực tiếp của đơn vị. Mặt khác do hoạt động đối ngoại và các hoạt động kinh tế khác của đất nước như: đầu tư quốc tế, liên doanh, gia công xuất khẩu,... cũng có những bước phát triển mới phong phú, đa dạng, đòi hỏi ngành quản lý phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách thủ tục hành chính nhằm chống phiền hà, tạo thông thoáng nhưng đồng thời tránh sơ hở dễ bị lợi dụng tiêu cực. Trong công tác kiểm tra, giám sát, quản lý hàng hoá gia công xuất nhập khẩu, cải cách thủ tục hành chính cần làm các việc sau: Thứ nhất: xây dựng, ban hành các văn bản mới cũng như quy trình đối với hàng gia công về quy trình kiểm tra, đối chiếu định mức tiêu hao nguyên phụ liệu, quy trình thanh khoản hợp đồng gia công,... Công khai hoá các quy trình tại nơi làm thủ tục,... Thứ hai: tích cực đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại để đẩy nhanh tiến độ làm thủ tục. Việc đưa vào sử dụng hệ thống máy vi tính nối mạng trên toàn quốc giúp cho việc quản lý, giám sát chặt chẽ hơn, chính xác hơn. Thứ ba: tiếp tục phát hiện kiến nghị, sửa đổi, bổ sung những vấn đề về chính sách chế độ quản lý đối với hàng hoá gia công xuất khẩu, nhập khẩu. Một số văn bản chỉ đạo của ngành khi xây dựng cần có sự tham khảo của các ngành chức năng có liên quan, đảm bảo cho văn bản được ban hành đúng thẩm quyền và nội dung phù hợp với yêu cầu thực tế. Vấn đề cỉa cách thủ tục hành chính luôn gắn với yếu tố con người vì vậy luôn phải chú trọng xây dựng lực lượng đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ có phẩm chất đạo đức trong sáng đảm bảo hoàn thành tốt công việc. 4-/ Những biện pháp quản lý cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đối với vấn đề quản lý hoạt động gia công quốc tế. Để khắc phục những hạn chế vướng mắc phát sinh trong quá trình quản lý hoạt động gia công hàng xuất khẩu như đã nói ở trên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động này theo em cần có những biện pháp khắc phục cụ thể sau: 4.1. Về vấn đề đăng ký thủ tục hải quan. Đây là khâu nghiệp vụ quan trọng nhằm đảm bảo cho bộ hồ sơ được tiếp nhận đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật về hình thức, đồng thời phải chính xác về nội dung tên hàng, mã số hàng hoá, số lượng, đơn giá, trị giá gia công,... Tóm lại nội bộ hồ sơ đầy đủ, chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho công tác kiểm hoá, kiểm tra định mức và thanh khoản hợp đồng sau này được thuận tiện. Đồng thời nó cũng là bằng chứng về lời khai ban đầu của chủ hàng nếu có những sai phạm. Để việc đăng ký thủ tục hải quan được tốt thì cần chú trọng những nội dung sau: - Bố trí cán bộ nắm vững nghiệp vụ, ngoại ngữ, tiếp nhận hồ sơ và đăng ký tờ khai nhanh chóng để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhanh đi vào kinh doanh. - Kiểm tra kỹ tính pháp lý của hợp đồng nhất là những điều khoản liên quan đến chức năng quản lý như điều kiện nhận gia công chuyển tiếp, điều khoản về nhãn mác hàng hoá,... - Cán bộ đăng ký tờ khai chịu trách nhiệm và trực tiếp ghi trừ lui vào sổ theo dõi hợp đồng gia công vào đúng các cột mục quy định và ký tên. - Quản lý theo dõi hợp đồng gia công chặt chẽ, đóng dấu lưu giữ những tài liệu cần thiết. Quản lý sổ chặt chẽ. Về lâu dài cần bỏ việc quản lý theo sổ sách, vì cách vào sổ thủ công như hiện nay chỉ phù hợp với những trường hợp mà hợp đồng gia công sản phẩm có chi tiết nguyên phụ liệu ít. Đối với những sản phẩm gồm nhiều chi tiết nguyên phụ liệu thì việc vào sổ mất rất nhiều thời gian, công sức ảnh hưởng đến thời gian làm thủ tục cho các doanh nghiệp từ đó làm trì trệ hoạt động sản xuất. Cần đưa vào quản lý bằng hệ thống vi tính hoặc cho phép doanh nghiệp áp dụng chế độ khai báo một lần cho một lượng hàng trong một thời gian nhất định. - Với những nguyên phụ liệu nhập theo phụ kiện bổ sung của hợp đồng gia công đang được thực hiện, cần phải thực hiện nhanh chóng trong cân duyệt phụ lục hợp đồng nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp,... 4.2. Kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu. Đây cũng là một khâu quan trọng trong khâu giám sát, quản lý, công tác kiểm tra phải đảm bảo đúng tên hàng, số lượng, trọng lượng, chất lượng, xuất xứ hàng hoá xuất nhập khẩu. Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có kiến thức về thương phẩm, về pháp luật, ngoại ngữ,... đồng thời phải có thái độ trung thực, khách quan, khẩn trương, lịch sự văn minh trong khi kiểm hoá và khi quan hệ với chủ hàng. Thực tế các vụ buôn lậu, gian lận thương mại về mặt hàng, số lượng, nguồn gốc xuất xứ,... có bị phát hiện hay không là tuỳ thuộc vào trình độ nghiệp vụ và phẩm chất của cán bộ kiểm hoá. + Kiểm hoá đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu: - Kiểm hoá để xác định đúng tên, số lượng, trọng lượng, xuất xứ của loại nguyên vật liệu nhập về gia công; phát hiện kịp thời những sai lệch về chủng loại, số lượng nguyên liệu hoặc các trường hợp lợi dụng nhập hàng cấm, hàng không khai báo. - Tiến hành lấy mẫu và lưu mẫu nguyên liệu để làm cơ sở đối chiếu sản phẩm thực xuất sau này. Công việc này rất quan trọng, do yêu cầu của quản lý sản phẩm gia công nên phải tiến hành lấy mẫu và có chế độ niêm phong quản lý mẫu tránh tình trạng trao đổi mẫu như đã sảy ra ở một số nơi trước đây. + Kiểm hoá đối với hàng hoá gia công xuất khẩu. - Phải đối chiếu thành phẩm xuất khẩu với mẫu lưu để xác định hàng hoá xuất khẩu đúng là sản phẩm của doanh nghiệp đã gia công, tránh trường hợp lợi dụng, tráo đổi nguyên phụ liệu để tiêu thụ nội địa và trốn thuế nhập khẩu. - Nếu hàng hoá xuất thiếu so với khai báo thì trong các lần xuất sau phải xuất tiếp số sản phẩm thiếu đó. Cán bộ quản lý phải phân biệt được xuất thiếu hàng hoá với xuất khống hàng. Nếu hàng khai nhiều xuất ít, thậm chí không xuất mà cán bộ kiểm hoá vẫn xác nhận thực xuất theo khai báo là vi phạm pháp luật, phải bị sử lý. Còn nếu xuất thiếu mà vẫn xác nhận xuất như khai báo là xuất khống, muốn tránh được tình trạng này đòi hỏi cán bộ kiểm hoá phải trung thực, đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra của cấp trên đối với hoạt động kiểm hoá. 4.3. Kiểm tra đối chiếu định mức tiêu hao nguyên phụ liệu. Định mức tiêu hao nguyên phụ liệu được quy định trong hợp đồng gia công hoặc do doanh nghiệp nhận gia công tự xây dựng nên nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan hải quan khi đã kiểm tra, xác nhận. Đây là khâu then chốt để quản lý chặt chẽ nguyên phụ liệu nhập khẩu, tránh các trường hợp khai tăng trốn thuế. Để tránh trường hợp này cần làm các công việc sau. - Xây dựng quy trình kiểm tra đối chiếu định mức tiêu hao nguyên phụ liệu để thống nhất thực hiện trong quản lý hàng gia công. - Đối với những sản phẩm gia công phải qua nhiều công đoạn phức tạp yêu cầu doanh nghiệp khi nộp bản định mức tiêu hao nguyên phụ liệu phải có xác nhận của cơ quan quản lý chuyên ngành. - Đối với những mặt hàng gia công thường xuyên, mẫu mã chủng loại nhiều, phức tạp có thể căn cứ vào định mức kỹ thuật chi tiết (thường gọi là chỉ lệnh sản xuất) do giám đốc doanh nghiệp quyết định giao xuống cho các phân xưởng sản xuất đã làm cơ sở cho việc theo dõi thanh khoản hợp đồng sau này. 4.4. Thanh khoản hợp đồng gia công. Để đảm bảo việc thanh khoản các hợp đồng gia công đúng mức và kịp thời cần phải. + Mở sổ theo dõi tình hình thực hiện hợp đồng của các đơn vị thuộc địa bàn quản lý của cơ quan hải quan. Sổ theo dõi, phân loại theo các tiêu thức: thời hạn hiệu lực của hợp đồng gia công đã đăng ký với Bộ Thương mại, theo loại hình gia công, theo chủng loại mặt hàng. Qua theo dõi số nắm được những hợp đồng nào đã hết hiệu lực để đôn đốc các doanh nghiệp tiến hành thanh khoản, không để tồn đọng. + Cùng với doanh nghiệp lập kế hoạch về thời gian tiến hành thanh khoản, tập hợp hồ sơ, chứng từ đầy đủ để thanh khoản dứt điểm, nhanh chóng những hợp đồng đã hết hạn. + Bố trí cán bộ có năng lực, am hiểu chuyên môn, nghiệp vụ đảm bảo thanh khoản hợp đồng gia công nhanh chóng, chính xác, đề xuất xử lý linh hoạt các trường hợp nguyên phụ liệu thừa, thiếu, hỏng,... + Sau khi thanh khoản hợp đồng, cần có những quy định pháp lý ràng buộc đối với các doanh nghiệp gia công như: thời gian buộc phải tái xuất nguyên vật liệu, thời gian nộp thuế nhập khẩu hoặc thuế tiêu thụ nội địa,... 4.5. Về vấn đề giá cả gia công. Để giữ được mức giá gia công ổn định, không bị ép giá Nhà nước cần cho phép thành lập và phát huy vai trò của các hiệp hội ngành nghề để đảm bảo lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, giữ thế cân bừng về giá cả, chất lượng hàng hoá. Đồng thời phát huy vai trò của các cơ quan thương mại ở nước ngoài và các cơ quan quản lý có liên quan để trao đổi, thông tin về khách hàng và thị trường để đảm bảo ổn định các điều kiện gia công, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh tạo cơ hội cho khách hàng ép giá. Cũng trên cơ sở đó nâng cao uy tín thương mại, chất lượng hàng gia công và tay nghề cho người lao động. Trên cơ sở những kinh nghiệm và xuất phát từ yêu cầu tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong khi thực hiện chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Những phương hướng chung và những biện pháp cụ thể trên nhằm từng bước hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động gia công, cải tiến quy trình nghiệp vụ theo các mục tiêu của công cuộc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý. Để thực hiện được những giải pháp đòi hỏi phải có sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp khác nhau để tạo điều kiện cho hoạt động gia công xuất khẩu phát triển mạnh mẽ và đúng hướng. 5-/ Các biện pháp nhằm tăng nhanh tốc độ sản xuất hàng gia công. 5.1. Biện pháp đầu tư. Tích cực khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia gia công. Thu hút sự trợ giúp về vốn cho các doanh nghiệp của các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thế giới để tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp. Có chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ưu tiên các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng gia công xuất khẩu đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất các loại nguyên phụ liệu thay thế nguyên phụ liệu nhập khẩu. Huy động vốn trong nước bằng cách cổ phần hoá các doanh nghiệp để tăng quy mô và năng lực sản xuất. 5.2. Tổ chức sản xuất kinh doanh. Để giúp các doanh nghiệp tăng quy mô sản xuất, tìm thị trường tiêu thụ thì có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu: công ty mẹ với nhiều công ty con cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ chịu trách nhiệm tìm kiếm khách hàng và cung cấp nguyên vật liệu, sau đó thu gom và xuất khẩu. Hình thức tổ chức này vừa tạo được uy tín về sản phẩm, tránh ép giá trong hợp đồng, tăng quy mô sản xuất mà lại hạn chế được chế độ đấu thầu hạn ngạch không đồng đều. Công ty mẹ sẽ đứng ra đấu thầu và phân bổ hạn ngạch cho các công ty con của mình. 5.3. Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu. Cần đơn giản hoá các thủ tục nhập nguyên phụ liệu, nhập hàng mẫu, bản vẽ cho hợp đồng gia công hiện vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian gây khó khăn cho các doanh nghiệp đặc biệt là các hợp đồng gia công xuất khẩu có thời hạn ngắn. Đơn giản thủ tục hoàn thuế và xây dựng mức thuế chi tiết cho từng loại nguyên vật liệu,... Đó là những biện pháp cơ bản nhằm tăng quy mô sản xuất hàng gia công nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu của nền kinh tế. Nhưng cũng cần phải có những biện pháp chuyển dần từng bước từ hoạt động gia công sang xuất khẩu trực tiếp trong những năm tới. kết luận Nền kinh tế nước ta đang có sự chuyển biến mạnh mẽ và tích cực nhờ chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước. Có thể nói, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại trong đó có hoạt động gia công hàng xuất khẩu đã giúp chúng ta tham gia một cách chủ động và tích cực vào quá trình phân công lao động và trao đổi buôn bán quốc tế, tạo được cầu nối giữa nền kinh tế trong nước và nền kinh tế các nước trên thế giới. Mỗi phương thức kinh doanh buôn bán quốc tế đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, điều quan trọng là mỗi nước khi tham gia vào mậu dịch quốc tế phải biết phát huy những mặt tích cực và có những biện pháp khắc phục những mặt tiêu cực của mỗi phương thức nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao. Những năm gần đây, hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở nước ta được chú trọng phát triển một cách nhanh chóng và đa dạng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong thời gian tới, với chiến lược coi gia công hàng xuất khẩu là mũi nhọn trong hoạt động kinh tế đối ngoại, một mắt xích quan trọng để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu. Thông qua đề tài em đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về phương thức kinh doanh gia công quốc tế để làm cơ sở lý luận cho việc tiếp tục phát triển phương thức kinh doanh này ở Việt Nam, phát huy được những lợi thế sẵn có của đất nước. Đề tài tập hợp được một vài kinh nghiệm hoạt động gia công quốc tế ở nước ngoài vận dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam để có thể chọn bước đi và quy mô hợp lý cho hoạt động này. Thông qua việc phân tích, đánh giá tình hình gia công ở Việt Nam, đề tài đã nêu lên được những mặt hạn chế, những tồn tại và đưa ra một số giải pháp để khắc phục tình trạng yếu kém của hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở nước ta nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của phương thức kinh doanh gia công, góp phần thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu. Đề tài cũng đã góp phần nhỏ trong việc đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu trên cơ sở yêu cầu tháo gỡ những khó khăn vương mắc trong công tác quản lý nhằm góp phần cải cách thủ tục hành chính trong quản lý,... Những vấn đề được đề cập đến trong đề tài còn ở trong phạm vi hẹp, tính khái quát chưa cao. Để có thể giải quyết một cách toàn diện, triệt để những vấn đề đã nêu trong đề tài còn cần phải được nghiên cứu sâu rộng hơn nữa cả về lý luận và thực tiễn, chắc chắn sẽ đóng góp được nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế nói chung và hoạt động gia công nói riêng. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tình hình 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực thương mại - Bộ Thương mại 12-1999. 2. Báo cáo tổng kết công tác gia công 1998-1999 tại thành phố Hải Phòng của Bộ Thương mại. 3. Báo cáo công tác điều hành xuất nhập khẩu và quản lý thị trường năm 1999 - Bộ Thương mại. 4. Cơ hội đầu tư Việt Nam 2000, 2001 - Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại (ICTC) - Bộ Thương mại 2000. 5. Dự thảo quy chế gia công - Bộ Thương mại 1999. 6. Giáo trình kinh tế thương mại - PGS-PTS - Nguyễn Duy Bột - PGS-PTS - Đặng Đình Đào - NXB Thống kê 2000. 7. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại - PGS-PTS Hoàng Minh Đường - PTS Nguyễn Thừa Lộc - NXB Giáo dục 2000. 8. Giáo trình thương mại quốc tế - PGS-PTS Nguyễn Duy Bột - NXB Thống kê 1999. 9. Luật Thương mại - NXB Chính trị quốc gia năm 2000. 10. 50 năm ngành thương mại Việt Nam. 11. Nghị quyết nhiệm vụ năm 2001 - NXB Chính trị quốc gia năm 2001. 12. Tạp chí thương mại số 8,9,21 năm 2000. 13. Tạp chí Thời báo kinh tế Sài gòn số 12,18,21,24,36,37 năm 2000; số 17,19,20 năm 2001. 14. Văn bản pháp luật về gia công xuất khẩu - NXB Chính trị quốc gia 1999. 15. Tạp chí Hải quan số 100,101,133,139 năm 2000. 16. Báo cáo công tác tình hình xuất nhập khẩu và quản lý thị trường năm 1999 của Bộ Thương mại. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0382.doc
Tài liệu liên quan