Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh Nhập khẩu ở Công ty XNK Hàng không AIRIMEX

Lời nói đầu Hđ iện nay, Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong iều kiện đó nhiều loại hình doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng của mỗi doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả

doc103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh Nhập khẩu ở Công ty XNK Hàng không AIRIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cao. Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu cuối cùng của mỗi đơn vị kinh doanh. Điều đó hoàn toàn chính đáng và là lý do cơ bản để các doanh nghiệp cùng tồn tại và phát triển trên thị trường. Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số doanh nghiệp có không ít những doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh thiếu tính khả thi dẫn đến hiệu quả không cao. Về phương diện lý luận, vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay là rất cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn PTS Nguyễn thị Hường, các nhân viên trong công ty xuất nhập khẩu hàng không- AIRIMEX , tôi chọn đề tài:” Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX” làm luận văn tốt nghiệp. Việc nghiên cứu tập trung vào các vấn đề về hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty trong cơ chế mới. Mục đích của luận văn là nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả hoạt động kinh doanh của AIRIMEX. Qua đó rút ra kết luận và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh ở AIRIMEX. Đối tượng nghiên cứu: Công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX. Kết cấu của luận văn được chia làm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Chương II: Phân tích thực trạng hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX. Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu ở công ty AIRIMEX. Chương I Những vấn đề lí luận cơ bản về hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu 1.Sự cần thiết và các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu Khái niệm và các đặc trưng cơ bản của hoạt động nhập khẩu Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Nhập khẩu là việc mua hàng hóa của nước ngoài đưa vào một quốc gia nhất định nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống trong nước.Nhưng hoạt động nhập khẩu ở đây có sự khác biệt so với buôn bán trong nước ở chỗ:Chủ thể thực hiện hành vi mua bán trong hoạt động nhập khẩu có quốc tịch khác nhau,và đối tượng mua bán cũng được di chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác. Thị trường nhập khẩu rộng lớn, phức tạp, khó kiểm soát,mua bán qua trung gian chiếm tỷ lệ lớn, đồng tên thanh toán là ngoại tệ mạnh,hàng hóa phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu... Các quốc gia khác nhau phải tuân theo những tập quán ,thông lệ quốc tế cũng như các quy định ở địa phương nơi đưa hàng hóa đến. Nhập khẩu hàng hóa nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hóa của quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích nối liền sản xuất với tiêu dùng giữa các quốc gia với nhau. Nhờ có nhập khẩu khả năng lựa chọn của người tiêu dùng được tăng lên và có điều kiện để được hưởng mức giá thấp. Việc nhập khẩu tư liệu sản xuất không tạo ra lợi ích trực tiếp mà thông qua ảnh hưởng của nó đến nền sản xuất trong nước. Trên thực tế, việc nhập khẩu này tác động theo hai hướng: -Việc nhập khẩu sản phẩm công nghiệp dẫn đến sự tiết kiệm trong tiêu dùng cho sản xuất tức là tạo khả năng giảm chi phí sản xuất trong nước nhiều hơn nếu người tiêu dùng chỉ mua hàng hóa của người sản xuất trong nước. Hơn nữa việc nhập khẩu sản phẩm công nghiệp còn tạo điều kiện tận dụng được nguồn nguyên liệu trong nước. -Việc nhập khẩu hàng công nghiệp tạo khả năng sản xuất hàng hóa theo những nhu cầu riêng biệt mà điều kiện trong nước không cho phép. Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân ,nhập khẩu làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng theo hướng hợp lý nhất, tạo khả năng áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và thay đổi cơ cấu thu nhập quốc dân.Nó cũng góp phần hình thành nên môi trường cạnh tranh trong nước và buộc các nhà sản xuất trong nước phải xác định cơ cấu sản xuất hợp lý và có hiệu quả nhất. 1.2 Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước hiện nay, để thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, bảo đảm lấy thu bù chi và có lãi trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, là cơ sở để tồn tại và phát triển của mỗi thành phần kinh tế trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần tham gia vào hoạt động kinh tế thế giới nói chung và trong mỗi quốc gia nói riêng. Điều này đòi hỏi mỗi thành phần kinh tế phải hoạt động có hiệu quả. Đó là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các thành phần kinh tế nói chung và của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội chủ nghĩa hiện nay. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo một mục đích nhất định. Với những hình thái xã hội khác nhau với các quan hệ sản xuất khác nhau thì bản chất của phạm trù hiệu quả và các yếu tố hợp thành phạm trù này cũng vận động theo những khuynh hướng khác nhau. Trong xã hội tư bản thì gia cấp tư bản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, do vậy mọi hiệu quả, quyền lợi thu được từ sản xuất kinh doanh, và các quyền lợi khác đều thuộc về các nhà tư bản, mọi hiệu quả, quyền lợi và phúc lợi dành cho người lao động đều là rất nhỏ so với nhà tư bản. Điều này có thể giải thích được việc phấn đấu để có hiệu quả trong kinh doanh của nhà tư bản để đem về nhiều lợi nhuận, quyền lợi cho nhà tư bản chứ không phải đem nhiều lợi ích về cho người lao động và toàn xã hội. Việc tăng chất lượng sản phẩm hàng hoá của nhà tư bản không phải là yếu tố phục vụ cho nhu cầu của toàn xã hội mà là mục đích thu hút được nhiều khách hàng hơn, từ đó có nhiều cơ hội thu hút lợi nhuận cho mình hơn thông qua việc bán được nhiều hàng hoá hơn. ở đây nhà tư bản không cần quan tâm đến các hiệu quả xã hội như việc làm cho người lao động, tình trạng môi trường... Trong XHCN, phạm trù hiệu quả vấn tồn tại nhưng nó được phát triển lên là hiệu quả của toàn xã hội. Nói về mục đích của nền sản xuất XHCN cũng khác so với mục đích của nền sản xuất TBCN. Mục đích của nền sản xuất XHCN là ngày càng đáp ứng đầy đủ, được tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội. Một doanh nghiệp không thể đưa vào sử dụng một công nghệ mới với năng suất cao mà để hàng loạt công nhân trở nên thất nghiệp, một nhà máy không thể chỉ quan tâm kết quả sản xuất mà không quan tâm đến chất thải ô nhiễm môi trường... như vậy đó là một bước phát triển của phạm trù hiệu quả từ xã hội tư bản lên CNXH. Hiệu quả kinh tế có rất nhiều cách hiểu và có rất nhiều định nghĩa khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích kinh doanh của từng doanh nghiệp. Theo nghĩa rộng, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cụ thể, hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí ít nhất. Quan điểm thứ nhất : Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu tiêu thụ hàng hoá. Nhà kinh tế học người Pháp Ogiephri cũng quan niệm như vậy, ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải thích kết quả sản xuất kinh doanh có thể dùng cho chi phí mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất, nếu cùng một mức kết quả với hai mức chi phí khác nhau thì quan điểm này chúng có cùng hiệu quả. Quan điểm thứ hai : Hiệu quả kinh tế là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu hao. Sản xuất kinh doanh là một quá trình trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất thay đổi. ở quan điểm này tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét tới phần kết quả bổ sung và chi phí bổ sung, như vậy là không phù hợp với tính biện chứng thống nhất của hiện tượng theo quan điểm triết học của Mác -Lênin "Sự vật và hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng rẽ ". Như vậy, quan điểm này cũng chưa hợp lý, kết quả sản xuất tăng thêm không chỉ do tăng thêm chi phí mà còn do việc mở rộng sử dụng các nguồn dự trữ. Quan điểm thứ ba: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Ưu điểm của quan điểm này là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó đã gắn được hiệu quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ảnh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, nó vẫn chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối quan hệ này. Để phản ánh được tình hình sử dụng các nguồn nhân lực chúng ta phải cố định một trong hai yếu tố hoặc kết quả đạt được, hoặc chi phí bỏ ra, nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin thì các yếu tố này không ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn biến đổi, vận động. Động lực chủ yếu quyết định sự biến đổi và vận động nằm ngay trong lòng sự vật, hiện tượng. Vì vậy, khi xem xét hiệu quả của một quá trình hoạt động kinh tế nào đó, phải xem xét trong trạng thái động. Quan điểm 4: Do nhà kinh tế học Mác- Lênin cho rằng: Hiệu quả kinh tế là mức độ thoả mãn yêu cầu của qui luật kinh tế cơ bản XHCN cho rằng quĩ tiêu dùng với tính cách là chi tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song khó khăn ở đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Khái niệm quĩ tiêu dùng được đề cập ở đây là một bộ phận của thu nhập quốc dân, bộ phận còn lại là tích luỹ. Chọn quĩ tiêu dùng để phản ánh hiệu quả chưa thấy rõ đầy đủ vai trò của quĩ tích luỹ nhằm phát triển sản xuất để có quĩ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai không thể đưa quĩ tiêu dùng lên tối đa mà laị không tuân theo một tỉ lệ thích hợp giữa quí tích luỹ và quĩ tiêu dùng, phải kết hợp một cách tốt nhất giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Từ các quan điểm trên ta thấy rằng để xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh và chính xác về hiệu quả kinh tế trước hết cần phải xem xét tới tính biện chứng của các yếu tố kết quả đạt được và các chi phí nguồn lực bỏ ra, sau đó là mức độ phản ánh mối liên hệ giữa các hiện tượng của quan niệm được xây dựng. Để làm sáng tỏ bản chất về hiệu quả của kinh tế hoàn chỉnh theo định hướng trên chúng ta phải xuất phát từ những luận điểm của triết học Mác - Lê nin. Bất kỳ một hoạt động nào của con người, cầu một tổ chức, của toàn xã hội nói chung đều đi đến một mục tiêu nhất định. Mọi hoạt động đều hướng tới mục tiêu nhưng không phải lúc nào cũng đạt được mà kết quả có thể là thấp hơn hoặc cao hơn, tuỳ thuộc vào các yếu tố chủ quan và khách quan tác động vào. Từ đó ta thấy rằng hiệu quả không phải tự nhiên mà có được, nó không phải là tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người mà nó phụ thuộc vào con người có chấp nhận nó là có ích hay không và họ sử dụng nó như thế nào. Hiệu quả luôn đi liền với mọi hoạt động của con người, hiệu quả phụ thuộc vào hoạt động của con người, hiệu quả không phải là kết quả cuối cùng.Để so sánh hiệu quả của các hoạt động với nhau phải so sánh các yếu tố đầu vào để tạo ra kết quả cuối cùng, từ đó có thể nhận xét, một cách chính xác hiệu quả hoạt động kinh doanh. Bản chất của hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả của lao động xã hội, được xác định bằng cách so sánh giữa chất lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Do vậy thước đo hiệu quả là sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội ( lao động sống và lao động vật hoá ) và tiêu chuẩn của hiệu quả là việc tối đa hóa kết quả và tối thiểu hoá chi phí dựa trên những điều kiện sẵn có. 1.3 Phân loại hiệu quả kinh tế. Có nhiều cách phân loại hiệu quả khác nhau tùy vào từng chỉ tiêu khác nhau: Hiệu quả kinh tế tuyệt đối và hiệu quả kinh tế tương đối. Hiệu quả kinh tế tổng hợp và hiệu quả kinh tế bộ phận. Hiệu quả kinh tế doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế ngành. Hiệu quả kinh tế của một vùng và hiệu quả kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội . Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này ta chỉ quan tâm đến cách phân loại cuối cùng:Hiệu quả có thể được chia thành hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội . Hiệu quả về mặt tài chính là những lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt được sau khi đã bù đắp các khoản hao phí lao động xã hội. Hiệu quả về mặt xã hội là những lợi ích mà doanh nghiệp tạo ra, đem lại cho xã hội, bản thân doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình. Tất cả mọi thành phần kinh tế khi tham gia vào nền sản xuất đều phải quan tâm đến cả hai tiêu thức trên, tuỳ thuộc vào vào từng thành phần kinh tế mà tỷ trọng hai tiêu thức này khác nhau. Với các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH, các công ty nước ngoài thì tiêu thức hiệu quả kinh tế được quan tâm hơn so với tiêu thức hiệu quả xã hội. Với các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có sự chỉ đạo góp vốn liên doanh của nhà nứơc thì tiêu thức hiệu quả xã hội được đề cao hơn. Điều này phù hợp với các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng ngày càng nâng cao nhu cầu vật chất, tinh thần của toàn xã hội, không có sự mất bình đẳng, phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giữa nội bộ nhân dân trong toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Có thể diễn đạt khái niệm hiệu quả kinh tế như sau : Biểu hiện bằng số tương đối. Hiệu quả kinh tế : K H = F Trong đó : H là hiệu quả kinh tế K là kết quả của hoạt động kinh doanh F là chi phí cần thiết để thực hiện hoạt động kinh doanh Đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu : K là tổng doanh thu bán hàng hoá, là tổng lợi nhuận, là tổng giá trị gia tăng sau một thương vụ xuất nhập khẩu hoặc một khoảng thời gian nhất định như tháng, quí, năm. F là toàn bộ chi phí có được hàng hoá bán cho người mua. Bao gồm : Giá mua vào sản phẩm + chi phí cần thiết khác như chi phí hoàn thiện chế biến sản phẩm, chi phí hành chính khác,... Biểu hiện bằng số tuyệt đối H=K-F Qua hai cách trên ta có thể tính toán được hiệu quả kinh tế. Đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu do đặc điểm của tiền tệ thanh toán là đồng tiền mạnh, chứ không phải là đồng tiền bản tệ do đó để tính đúng được hiệu quả kinh tế ta cần phải qui đổi về cùng một đơn vị tiền tệ, lấy tỷ giá hối đoái tại thời điểm thực hiện hợp đồng và tỷ giá hối đoái khi tính hiệu quả, nếu có chênh lệch phải cộng hoặc trừ vào kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Một khó khăn cho việc xác định kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là để tạo ra được một kết quả chúng ta phải cần nhiều chi phí, có những chi phí có thể xác định được nhưng cũng có những chi phí không thể xác định được (chi phí vô hình ) như bằng phát minh sáng chế, uy tín kinh doanh của công ty ... Điều này chứng tỏ việc xác định chi phí chưa hẳn lúc nào cũng chính xác. Mặt khác một số chi phí bỏ ra không phải chỉ tạo ra một kết quả mà có khi có nhiều kết quả khác nhau. Tuy nhiên, nếu sử dụng thống nhất đơn vị tính thì kết quả vẫn cho biết tình hình khái quát hoạt động của công ty trong thừi gian tới. Tính toán , xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là biện pháp so sánh giữa chi phí và kết quả. Chi phí và kết quả có quan hệ biện chứng lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau đây là mối quan hệ "nhân quả ". Muốn có kết quả thì phải có chi phí, nếu không có nhân tố khách quan tác động thì sẽ thu được một kết quả có thể tính toán được đó là hiệu quả tài chính. Để hiệu quả kinh tế là một số dương, chi phí bỏ ra phải nhỏ hơn kết quả thu được. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là một hình thức kinh doanh quốc tế, phạm vi buôn bán vược ra khỏi biên giới quốc gia do đó nó chứa đựng rất nhiều rủi ro, do đó để đạt được hiệu quả kinh tế trong xuất nhập khẩu là rất khó khăn... Đối với các doanh nghiệp nhà nước, nói đến hiệu quả hoạt động kinh doanh là phải nói đến hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội. Dựa vào những mục tiêu, những chiến lược của nghành đó, của đất nước trong thời kỳ đó, mặc dù có ít, không có hoặc thua thiệt về hiệu quả kinh tế nhưng bù lại là hiệu quả xã hội đạt được thì vẫn được coi là có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Như vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng được xem xét trên tổng thể hai mặt kinh tế và xã hội và được tính theo công thức: Hq = Hkt + Hxh Trong đó : Hq:là hiệu quả hoạt động kinh doanh Hkt:là hiệu quả kinh tế Hxh:là hiệu quả xã hội Đây chính là công thức cuối cùng để xác định được, so sánh được hiệu quả giữa các doanh nghiệp kinh doanh và giữa các thời kỳ khác nhau. Nó phản ánh lợi ích cuối cùng đem lại, phục vụ cho toàn xã hội. Việc xác định hiệu quả kinh tế một cách chính xác đòi hỏi tốn nhiều công sức thống kê kết quả của toàn bộ nền kinh tế liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thông thường người ta có thể tính toán được hiệu quả xã hội trong nội bộ doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh của hoạt động xuất nhập khẩu được đánh giá thông qua việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước trong thời kỳ nhất định. Kết quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được xác định bằng các chỉ tiêu thể hiện mục tiêu kinh doanh cần đạt được như doanh số bán ra, lợi nhuận thu về ... Các chỉ tiêu chi phí được xác định bằng các chỉ tiêu khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của đối tượng phân tích bao gồm chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu đặc thù. Để đánh giá được hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cần phải xem xét một cách toàn diện cả về thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là trong giai đoạn hiện nay với đường lối chính sách mở cửa của nước ta, tạo đà cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng đất nước, hoạt động nhập khẩu thực sự là vấn đề cần thiết, đáng quan tâm vì đây là điều kiện cần, điều kiện số một, để thực hiện nhiệm vụ, chủ trương xây dựng đất nước mà Đảng đã đề ra. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn, từng thời kì không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kì, các kì kinh doanh tiếp theo. Tức là doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích lâu dài, không vì lợi ích trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài. Trong thực tế điều này rất dễ xảy ra vì con người thường khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và cả nguồn lao động không có kế hoạch. Không thể coi việc giảm chi tăng thu là có hiệu quả được khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc như: giảm chi phí đào tạo nhân lực, đổi mới kỹ thuật... cũng không thể coi là có hiệu quả lâu dài được nếu như xoá bỏ hợp đồng với một bạn hàng truyền thống, lâu dài, tín nhiệm để chạy theo một khách hàng khác mang lại nhiều lợi nhuận trong thời gian ngắn nhưng không ổn định, chắc chắn. Về mặt không gian, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu được coi là có hiệu quả khi nó không làm ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh khác trong nội bộ ngành và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả của hoạt động nhập khẩu phải phù hợp với chủ trương của đất nước, với kim chỉ nam XHCN mà Đảng ta đã lựa trọn. Tóm lại, đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội. Đạt được hiệu quả cao là chưa đủ mà còn phải mang lại hiệu quả cho xã hội về cả hai mặt kinh tế và xã hội. Trong điều kiện kinh tế hiện nay của nước ta, hiệu quả của hoạt động nhập khẩu là vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế đất nước, nhập khẩu tạo đà quan trọng cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với điều kiện công nghệ máy móc trong nước nghèo nàn, lạc hậu. Đánh giá, xem xét hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp để thấy được trình độ, năng lực và chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra những tồn tại, những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh để đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục nhằm ngày càng đưa ra nhiều phương án kinh doanh có hiệu quả nhất cho doanh nghiệp. 1.4. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh . Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của bất kì xã hội nào mà còn là mối quan tâm của tất cả người nào khi làm một công việc nào đó. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu nói chung và bối cảnh nền kinh tế nước ta nói riêng hiện nay, không chỉ tồn tại một doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả. Đây là vấn đề thể hiện về mặt chất lượng của toàn bộ công tác quản lý và đảm bảo tạo ra kết quả cao nhất của hoạt động kinh doanh. Tất cả những công cuộc đổi mới, cải tiến về nội dung, phương pháp ứng dụng trong hoạt động quản lý, kinh doanh chỉ thực sự mang lại ý nghĩa khi và chỉ khi làm tăng được kết quả kinh doanh mà qua đó làm tăng được hiêụ quả kinh doanh. Đối với doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nói chung, hiệu quả không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Hàng hoá nhập khẩu thường là có giá trị lớn, đối tượng quản lý vượt ra ngoài biên giới quốc gia, do vậy chỉ cần một sai sót nhỏ trong hoạt động nhập khẩu có thể ảnh hưởng đến sự sống còn của doanh nghiệp, đến đất nước. Hiệu quả còn có vai trò quan trọng trong việc mở mang, phát triển nền kinh tế, tái đầu tư mua máy móc thiết bị, phương tiện kinh doanh, áp dụng các tiến bộ kĩ thuật, qui trình công nghệ mới... Đối với nền kinh tế quốc dân, đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh nhập khẩu chính là tiết kiệm các nguồn lực, nguồn nguyên nhiên vật liệu cho xã hội. Tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước nắm bắt được những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến trên thế giới, từ đó nâng cao đời sông nhân dân và sự phồn vinh cho đất nước. Đối với bản thân doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế xem xét về mặt tuyệt đối chính là lợi nhuận thu được, nó là cơ sở của tái sản xuất mở rộng, làm tăng tích luỹ cho nhà nước, tăng uy tín và thế lực cho doanh nghiệp trên thương trường Quốc tế. Đối với cá nhân người lao động thì hiệu quả lao động (lương và phúc lợi xã hội ) là động cơ thúc đẩy, kích thích người lao động, làm cho người lao động hăng hái, yên tâm làm việc và quan tâm ngày càng nhiều hơn đến hiệu quả, trách nhiệm của mình đối với công ty và có thể ngày càng đóng góp những công sức đáng kể cho sự phát triển của công ty. Như vậy, hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty có vai trò vô cùng quan trọng đối với công ty và đối với đất nước. Để đạt được hiệu quả cao, công ty phải hoàn thành mục tiêu đề ra trong từng thời kì phù hợp với công ty và phù hợp với bối cảnh của đất nước. 2. hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. 2.1 Cách xác định hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Để hoạt động kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả thì mỗi một thương vụ nhập khẩu đều phải thành công, lập phương án nhập khẩu là một bước quan trọng trong kinh doanh nhập khẩu. Về mặt hàng nhập khẩu: Đó phải là một mặt hàng( có thể là hàng tư liệu sản xuất, có thể là hàng tư liệu tiêu dùng ) phù hợp với nhu cầu trong nước mà nền sản xuất trong nước chưa sản xuất ra được hoặc sản xuất chưa đủ về chất lượng và số lượng... nếu là hàng đã sản xuất được trong nước thì phải nhập loại có ưu thế hơn so với sản xuất trong nước. Tuy nhiên cần nghiên cứu, phân tích xem có nên nhập những hàng này không, sự xuất hiện của mặt hàng này tạo nên môi trường cạnh tranh có lựi hay không có lựi đối với nhà sản xuất trong nước. 2.1.1 Hiệu quả phương án nhập khẩu trực tiếp * Hàng nhập khẩu trả tiền ngay. - Dự kiến doanh thu bán hàng nhập khẩu Dnk = khối lượng hàng nhập khẩu * đơn giá bán buôn. ở bước dự kiến doanh thu bán hàng nhập khẩu này cũng chính là các định loại hàng nào nên nhập khẩu, khối lượng bao nhiêu và giá mua nào là có thể chấp nhận được. Do vậy, bước dự kiến doanh thu bán hàng nhập khẩu cần phải được nghiên cứu, xem xét ở một thị trường rộng lớn từ đó có thể đánh giá được nhu cầu của người tiêu dùng và xem xét khả năng bán hàng của các cửa hàng, đại lí. Điều quan trọng là phải xem xét mặt hàng này hiện có trên thị trường, xác định xem hàng hoá đang ở giai đoạn nào trong vòng đời sống của nó, với hàng hoá là máy móc công nghệ thì đòi hỏi phải có chuyên gia am hiểu về kĩ thuật để giám định đúng chất lượng từ đó đưa ra được quyết định đúng đắn giá mua và có lợi cho ta nhất trong các cuộc hỏi giá với bên bán. Tuy khối lượng thu thập thông tin của bước này là rất rộng lớn và tốn nhiều thời gian, nhưng với yêu cầu đòi hỏi cạnh tranh, do đó phải cố gắng tiến hành càng nhanh càng tốt để thực hiện các bước tiếp theo của hợp đồng. - Dự kiến doanh thu thuần: Căn cứ vào biểu thuế của nhà nước đối với hàng nhập khẩu để tính doanh thu thuần theo công thức: Doanh thu thuần = DNN - T dt T dt : Thuế doanh thu -Dự kiến cho chi phí thương vụ nhập khẩu, bao gồm các khoản chi phí sau : +Trị giá mua hàng nhập khẩu và thuê tàu : Nếu mua hàng theo giá FCA, FOB và EXW (thuê máy bay ). Tùy theo từng điều kiện giá cả mà ta có thể ước tính giá trị hàng nhập khẩu và thuê tàu. + Giá thuê tàu nhập khẩu : Đòi hỏi tra cứu chính xác, tránh nhầm lẫn nhóm hàng, mã thuế ... +Dự kiến chi phí lưu thông: Chi phí vận chuyển, chi phí bốc xếp, chi phí giao nhận, chi phí kho bãi hoặc các khoản lệ phí. -Tiền lãi trả ngân hàng : Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ và từng ngân hàng cho vay để biết được tỷ lệ phần trăm tiền lãi phải trả cho từng tháng. Tiền lãi phải trả ở đây được tính kể từ khi vay tiền để thực hiện thượng vụ nhập khẩu cho đến khi giao hàng cho bạn hàng hoặc bán được hàng nhập về và nhận được tiền thanh toán. Chi phí mở L/C: Thường là 1% trị giá của L/C Phí thanh toán L/C: Khoảng 0,25% giá ttrị L/C Phí khác ( công tác phí ) Phí quản lý ( 1% L/C ) Phí tu chỉnh L/C: 2USD/mỗi lần tu chỉnh 0,1% trị giá tu chỉnh tăng Điện phí : Khoảng 16USD đến 21USD/lần tu chỉnh Phí thanh toán L/C: Không quá 200USD/lần chuyển tiền. Một thương vụ nhập khẩu thường mất rất nhiều chi phí hơn thương vụ xuất khẩu do vậy để nâng cao hiệu quả của thương vụ này cần phải tiết kiệm tối đa các chi phí cẩn thiết bằng cách thực hiện các điều khoản một cách chính xác và cần được ghi rõ, chi tiết cụ thể trong hợp đồng , tránh hiểu lầm gây tổn thất cho cả hai bên. -Đánh giá hiệu quả thương vụ : ồ Lợi nhuận = ồ doanh thu thuần - ồ chi phí hàng nhập. Để tăng lợi nhuận phải tăng doanh thu, giảm chi phí trong điều kiện cho phép. *Với hàng nhập khẩu trả chậm. - Dự tính doanh thu bán hàng nhập khẩu. Theo công thức: DTT = giá bán hàng nhập khẩu * khối lượng hàng nhập khẩu - thuế doanh thu. Trường hợp này tính được thuế doanh thu tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trước thời hạn thanh toán L/C. - Dự kiến chi phí : chi phí dự kiến giống như chi phí đó với việc bán hàng nhập khẩu trả ngay ở trên. - Đánh giá kết quả thương vụ: 2.1.2 Phương án hiệu quả hàng đổi hàng. Phương án nhập khẩu hàng đổi hàng là phương án nhập khẩu trong đó tiền tệ thanh toán là hàng hoá. Trong nghiệp vụ này bao hàm cả nhập khẩu và xuất khẩu, tỷ giá ngoại tệ ở đây nhằm mục đích là cơ sở để tính toán các khoản chi phí và qui đổi giá trị hàng xuất, hàng nhập về cùng một đơn vị tiền tệ. Để một nghiệp vụ nhập khẩu hàng đổi hàng có hiệu quả cao thì đòi phải có hiệu quả cả về thương vụ xuất khẩu và thương vụ nhập khẩu. Hiệu quả thương vụ nhập khẩu tính như trường hợp trên. Hiệu quả thương vụ xuất khẩu : Về số lượng và giá cả hàng xuất khẩu : xem xét về số hượng hàng hoá có thể thu gom cung ứng hàng hoá mà phía người mua chấp nhập về số lượng về giá cả qua thoả thuận hợp đồng. Từ tính doanh thu hàng xuất khẩu theo công thức: DTxk=Q c*Pc*Kn Trong đó DTxk : Doanh thu ước tính hàng xuất khẩu Qc : Khối lượng hàng hoá được người mua chấp nhận Pc : Giá cả đơn vị hàng hoá được người mua chấp nhận Kn : Tỷ giá ngoại tệ tại thời điểm thanh toán Dự trù chi phí hàng xuất khẩu. Chi phí hàng xuất khẩu là toàn bộ chi phí giá thành hàng hoá để xuất khẩu chưa tính tiền lãi của thương vụ kinh doanh chi phí hàng xuất khẩu phải nhỏ hơn giá người mua chấp nhận được : Chi phí này bao gồm : -Chi phí thu mua hàng xuất khẩu -Chi phí đóng gói bao bì -Chi phí lưu thông nội địa : Chi phí thuê mướn kho bãi, vận tải, hàng hoá cảng... -Chi phí thủ tục, giấy tờ giao nhận hàng, lệ phí xin giấy phép kiểm nghiệm, kiểm hoá -Lãi xuất tiền vay -Thuế xuất khẩu *Dự kiến hiệu quả kinh doanh thương vụ xuất khẩu : -Lợi nhuận của thương vụ xuất khẩu : P= ồDT xk-ồC xk Nếu P>0 thì thương vụ xuất khẩu này có hiệu quả 2.1.3 Hiệu quả phương án nhập khẩu uỷ thác Một thương vụ xuất khẩu uỷ thác khi nó mang lại hiệu quả cho cả bên nhận uỷ thác và bên uỷ thác. Quyền lợi và nghĩa vụ của bên nhận uỷ thác và bên uỷ t._.hác có liên quan chặt chẽ với nhau và được qui định cụ thể trong hợp đồng uỷ thác. 2.2 Hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh nhập khẩu . 2.2.1 Tỷ suất lợi nhuận của vốn sản xuất : Lợi nhuận P1= Vốn sản xuất kinh doanh Công thức này cho thấy một đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đòng lợi nhuận. Nếu tỷ suất lợi nhuận của vốn sản xuất càng cao thì hiệu quả kinh tế của công ty càng cao và ngược lại. Để đạt đuợc điều này doanh nghiệp phải làm sao để tăng được lợi nhuận và giảm được vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng không có nghĩa là giảm vốn sản xuất kinh doanh thì có hiệu quả mà phải chọn một mức vốn phù hợp để có thể có lợi nhuận cao nhất. 2.2.2 Tỷ trọng lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh Lợi nhuận P2= Doanh thu Trong đó tổng giá trị kinh doanh chính là tổng doanh thu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ Tuỳ từng mặt hàng kinh doanh mà tỷ trọng lợi nhuận khác nhau. Trong công thức này nếu tỷ trọng lợi nhuận càng cao thì doanh nghiệp kinh doanh càng có hiệu quả. Nhưng ở đây chỉ so sánh trên mức độ tỷ trọng tưong đối, nếu để so sánh với các đơn vị khác, mặt hàng kinh doanh khác thì chưa hẳn đã nói lên được kết qủa giữa hai công ty, hai mặt hàng kinh doanh khác nhau. Bởi vì đôi với một số ngành, một số mặt hàng kinh doanh có tỷ trọng lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh là rất nhỏ nhưng giá trị tuyệt đối của nó rất lớn vì mặt hàng của công ty có giá trị cao và doanh thu tương đối lớn. Muốn so sánh ta phải so sánh giá trị tuyệt đối giữa hai công ty, giữa hai mặt hàng để có thể xác định kết quả so sánh một cách chính xác. 2.2.3 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí sản xuất kinh doanh . Lợi nhuận P3= Tổng chi phí Công thức này cho thấy doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí thì có thể thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để tăng hiệu quả cho Công ty thì phải hạn hạn chế tối đa chi phí để thu về hiệu quả cao nhất. 2.2.4 Tỷ suất giá trị gia tăng trên vốn sản xuất kinh doanh: Giá trị gia tăng H1 = Tổng vốn kinh doanh Giá trị gia tăng của doanh nghiệp trong từng thời kỳ (tính theo năm) là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở tầm hiệu quả kinh tế xã hội. Nó phản ánh tổng hợp không chỉ ở khả năng hoàn vốn và sinh lợi cho chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn góp phần cho ngân sách nhà nước dưới dạng thuế, tiền lương, tiền thưởng của người lao động và cả khấu hao dùng để khôi phục, đổi mới và hoàn thiện hoá tài sản cố định để tiếp tục phát triển kinh doanh. Giá trị gia tăng được tính như sau; GTGT= Tiền công,tiền lương, tiền thưởng của người lao động + thu nhập hỗn hợp + thuế sản xuất kinh doanh các loại + khấu hao tài sản cố định +lợi nhuận sau thuế: ở công thức tính (H1 ) để không ngừng tăng hiệu quả tức là phải tăng giá trị gia tăng tức là phải tăng qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Chỉ tiêu này cho phép ta biết hiệu qủa một cách tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.2.5 Tỷ suất giá trị gia tăng trên tổng doanh thu. GTGT H2 = TDT Trong đó: GTGT: giá trị gia tăng. TDT: Tổng doanh thu. Công thức này cho ta thấy cứ một đồng giá trị kinh doanh của doanh nghiệp sẽ đóng góp cho xã hội bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng này là cơ sở để tổng hợp lại thành tổng sản phẩm quốc nội(GDP) của quốc gia. Qua công thức trên ta thấy khi giá trị gia tăng càng cao thì hiệu quả kinh tế càng, xã hội của công ty trong hoạt động kinh doanh càng cao. Hiệu quả hoạt động kinh doanh này được xem trên góc độ tổng thể của doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. 2.2.6 Tỷ suất giá trị gia tăng trên tổng chi phí sản xuất. GTGT H3 = CF Công thức này cho biết doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí trong hoạt động kinh doanh thì sẽ thu về (hay đóng góp cho xã hội ) bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. Hệ số này càng cao cho phép ta đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng càng có hiệu quả. 2.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp . 2.3.1 Hiệu quả sử dụng lao động. Số lượng và chất lượng lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất, góp phần quan trọng trong năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động hoặc hiệu suất tiền lương. Năng suất lao động được xác định bằng cách chia kết quả kinh doanh trong kỳ cho số lượng lao động bình quân trong kỳ. Do kết quả sản xuất kinh doanh được phản ánh bằng 3 chỉ tiêu: Tổng giá trị kinh doanh; Giá trị gia tăng và lợi nhuận do đó có 3 cách biểu hiện của năng suất lao động bình quân cho một người lao động bình quân trong kỳ (thường tính theo năm) Ta có : Kết quả kinh doanh Năng suất lao động = Lao động Cụ thể : DT Năng suất lao động tính theo doanh thu : NSLĐ = LĐ Năng suất lao động tính theo giá trị gia tăng : GTGT NSLĐ= LĐ LN Năng suất lao động tính theo lợi nhuận : NSLĐ= LĐ Trong đó: DT: Doanh thu LĐ: Số lao động GTGT :Giá trị gia tăng LN: Lợi nhuận Năng suất lao động tính theo năm chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sử dụng thời gian. Cụ thể vào ngày tính bình quân làm việc trong năm, số giờ bình quân làm việc mỗi ngày của lao động trong doanh nghiệp và năng suất lao động bình quân mỗi giờ. Điều này thể hiện trong công thức: NSLĐ = n*g*NS g Trong đó: n : Số ngày bình quân làm việc trong năm g : Số giờ bình quân làm việc mỗi ngày. NSg: Năng suất lao động bình quân mỗi giờ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh NSLĐ = n*g*lao động Trong đó kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tính theo 3 tiêu thức : Doanh thu, giá trị gia tăng hoặc lợi nhuận. Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương được xác định bằng cách so sánh kết quả kinh doanh với tổng tiền lương và các khoản tiền thưởng có tính chất trong kỳ ( ký hiệu là tiền lương). Ta có : Kết quả hoạt động kinh doanh Hiệu suất tiền lương Hn= Tiền lương Điều này có nghĩa là hiệu suất tiền lương trong kỳ cho biết một đồng tiền lương tương ứng với bao nhiêu đồng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng nên khi năng suất lao động tăng với nhịp độ tăng cao hơn với nhịp độ tăng tiền lương. Chẳng hạn, trong kỳ nghiên cứu năng suất lao động tăng 10%, tiền lương tăng khoảng 6%. 2.3.2 Hiệu quả sử dụng tài sản cố định - Tài sản cố định là bộ phận lớn nhất, chủ yếu nhất trong tư liệu lao động và quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định bình quân, tính theo nguyên giá hoặc theo giá trị khôi phục trong kỳ được xét thường gọi là hiệu suất tài sẩn cố định. Kết quả Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định HTSCĐ= Tài sản cố định Chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định biểu hiện một đồng tài sẩn cố định trong kỳ sản xuất ra bình quân bao nhiêu đồng của chỉ tiêu kết quả kinh doanh tương ứng( lợi nhuận, giá trị tăng gia hoặc tổng giá trị kinh doanh ). Hiệu quả sử dụng tài sản cố định có thể hiểu theo cách ngược lại, tức là lấy nghịch đảo của công thức trên, gọi là suất tài sản cố định. TSCĐ S TSCĐ = Kết quả Nó cho biết một đồng kết quả kinh doanh cần phải có bao nhiêu đồng tài sản cố định. 2.3.3 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Vốn lưu động là vốn đầu tư vào tài sản lưu động của xí nghiệp. Nó là số tiền ứng trước nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm của loại vốn này là luân chuyển không ngừng, luôn thay đổi hình thái biểu hiện, luân chuyển giá trị toàn bộ ngay một lần và hoàn thành một vòng tuần hoàn trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động thường bao gồm vốn dự trữ sản xuất (Nguyên vật liệu chính, bán thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ lao động thuộc tài sản lưu động ) vốn trong quá trình lưu động(vốn thành phẩm, vốn thanh toán ). hiệu quả sử dụng vốn lưu động(HVLĐ) cũng được xác định bằng cách lấy kết quả kinh doanh (KQ) chia cho vốn lưu động bình quân trong năm (VLĐ). KQ HVLĐ= VLĐ Nếu kết quả kinh doanh tính bằng lợi nhuận. LN HVLĐ= VLĐ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động làm ra mấy đồng lợi nhuận trong kỳ. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được phản ánh gián tiếp thông qua chỉ tiêu số vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm, số ngày bình quân một vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm . TGT Vl/c = VLĐ Vl/c :Số vòng luân chuyển TGT: Là tổng giá trị kinh doanh trong năm. 365 365*VLĐ Nl/c = = Vl/c TGT Nl/c:Số ngày luân chuyển Điều này có thể thấy rằng, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động(HVLĐ) tính theo lợi nhuận sẽ bằng tích của tỷ suất lợi nhuận của tổng giá trị kinh doanh nhân với số vòng luân chuyển vốn lưu động. HVLĐ = PLN* Vl/c LN TGT Trong đó: PLN= và Vl/c = TGT VLĐ LN TGT ị HVLĐ= * TGT VLĐ Như vậy nếu cố định chỉ tiêu tỷ trọng lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động tỷ lệ thuận với số vòng quay vốn lưu động. Vốn lưu động bình quân trong năm được tính bằng cách cộng mức vốn lưu động của 365 ngày trong năm rồi chia cho 365. Để đơn giản, trong thực tế thường tính như sau: VLĐ đầu tháng + VLĐ cuối tháng Vốn lưu động bình quân tháng = 2 VLĐ bình quân 1+VLĐ bình quân 2+... Vốn lưu động bình quân năm= 12 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty AIRIMEX trong thời gian qua Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mọi hoạt động là do doanh nghiệp tự quyết định về mặt hàng, thời điểm kinh doanh, giá cả, khối lượng, chất lượng và địa điểm kinh doanh. Như vậy trong các yếu tố tác động tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gồm các yếu tố chủ quan và khách quan. 3.1 Các nhân tố khách quan. Các nhân tố khách quan là các nhân tố tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố này có ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có tính định hướng cho doanh nghiệp. 3.1.1 Nhân tố về tính thời vụ của sản xuất kinh doanh . Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh là thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường với lợi nhuận cao nhất có thể. Mà nhu cầu thị trường thì chịu ảnh hưởng tương đối lớn của yếu tố thời vụ. Tính thời vụ này ảnh hưởng trực tiếp tới mặt hàng kinh doanh, khối lượng kinh doanh và do vậy nó ảnh hưởng tới doanh thu và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với đặc điểm kinh doanh của công ty AIRIMEX, đây là những loại mặt hàng khai thác sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao, do vậy nó có chu kỳ bảo dưỡng thay thế sản phẩm. Đây chính là nhân tố thời vụ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Ngoài ra mặt hàng này có đặc điểm đồng bộ thường xuyên, liên tục một hợp đồng được ký kết là hợp đồng lớn thường là quá dài hạn, mỗi năm thực hiện một lần thực hiện hợp đồng kéo dài nhiều năm do vậy ảnh hưởng rất lớn tới tính thời vụ kinh doanh của công ty. 3.1.2 Phân bổ và phát triển nguồn lực sản xuất xã hội. Nhân tố này thuộc môi trường bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp ở gần các nguồn hàng thì sẽ thuận lợi cho việc lưu chuyển hàng hoá. Đối với công ty xuất nhập khẩu hàng không, do cơ chế chính sách có nhiều thay đổi, do vậy nhiều loại trang thiết bị, máy móc khác nhau trang bị trong nhiều thời kỳ khác nhau. Hiện nay nghành hàng không Việt Nam sử dụng nhiều loại máy bay của các hãng khác nhau như ATR(Pháp), Boeing(Mỹ), AIRBUS( pháp), FOKKER(Hà Lan),và các máy bay của Liên Xô(cũ ). Do vậy nguồn hàng kinh doanh của công ty là rất rộng lớn , tuỳ từng đợt mà nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của công ty trong từng thời điểm khác nhau. 3.1.3 Các ngành khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh của công ty như giao thông vật tải, thông tin liên lạc, Ngân hàng ... có ảnh hưởng thuận chiều tới hoạt động kinh doanh của công ty. Điều này có nghĩa là các ngành này phát triển làm cho hiệu quả kinh doanh của công ty phát triển hơn . Nó là "chất dầu bôi trơn " cho" bánh xe hoạt động kinh doanh " của công ty làm rút ngắn thời gian kinh doanh, tăng vòng quay của vốn, tạo cơ hội làm tăng lợi nhuận của công ty. 3.1.4 Sức mua và chi phí Nhân tố này sẽ ảnh hưởng đến từng mức lưu chuyển do đó ảnh hưởng tới tổng doanh thu và kết quả kinh doanh của công ty. Trong những năm qua do nhu cầu về giao thông vận tải nói chung và về ngành hàng không nói riêng có sự tăng lên đáng kể cả về chất lượng về số lượng, do đó nhu cầu về trang thiết bị, vận tải hàng không cũng tăng lên. Đây là điều kiện thuận lợi lớn để ngành hàng không phát triển. Chi phí lưu thông ảnh hưởng trực tiếp tời lợi nhuận, mọi kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh đều do nhiều yếu tố chi phí tạo ra. Ngược lại, mỗi chi phí được sử dụng không phải chỉ để tạo ra một kết quả. Như vậy làm giảm thấp chi phí lưu thông tới mức có thể tức là góp phần làm tăng hiệu quả. 3.1.5 Các chính sách về tài chính, tiền tệ của nhà nước. Đây thực chất là một hệ thống các nhân tố thể hiện các chính sách tài chính, tiền tệ của nhà nước, nó có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sách tạo vốn nhằm đảm bảo nhu cầu về vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp. Đây là vấn đề rất quan trọng vì còn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhu cầu về vốn kinh doanh lớn hơn nhiều so với vốn tự có của doanh nghiệp. Do sự hỗ trợ của nhà nước, của ngân hàng có vai trò lớn đối với hoạt động của công ty. Công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX làm nhiệm vụ nhập khẩu uỷ thác trang thiết bị hàng không cho các đơn vị trong ngành và được hưởng phần trăm uỷ thác. Thường thì tiền thanh toán người mua sẽ chịu trách nhiệm thanh toán trực tiếp với người bán với người bán hoặc thông qua công ty AIRIMEX. Do vậy giảm được số lượng lớn đồng vốn lưu thông, nhu cầu đi vay ít, đây là điểm thuận lợi cho việc hoạt động kinh doanh của công ty. +Chính sách thuế ( thuế doanh thu, thuế xuất nhập khẩu, thuế lợi tức, thuế tiêu thụ đặc biệt ...) một mặt tạo ra các nguồn thu ngân sách cho nhà nước, mặt khác hạn chế động lực kinh doanh cho doanh nghiệp. Chính sách thuế có tác động trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp biểu hiện bằng tiền về các khoản thuế phải nộp của doanh nghiệp đối với nhà nước. + Chính sách về khấu hao cơ bản : Trước kia theo chế độ của nhà nước qui định các doanh nghiệp phải nộp 100% mức khấu hao cơ bản cho ngân sách nhà nước, khi có nhu cầu về xây dựng, mua sắm tài sản cố định doanh nghiệp phải lập kế hoạch xin cấp phát vốn để mua sắm trang thiết bị và xây dựng . Điều này không hợp lý vì khấu hao cơ bản nộp cho ngân sách nhà nước để tái đầu tư cho các doanh nghiệp,nhưng thực tế số vốn khấu hao cơ bản lại dùng vào những mục đích nhằm đổi mới trang thiêt bị của doanh nghiệp trong quá trình xin cấp phát vốn thường sinh ra hiện tượng quan liêu cửa quyền, tiêu cực. Trước tình hình đó, trong điều kiện nhà nước giao vốn cho các doanh nghiệp qui định các doanh nghiệp phải bảo toàn vốn, tự trang trải, tự tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh nên toàn bộ khấu hao cơ bản là do doanh nghiệp quản lý, đó cũng là nguồn vốn quan trọng để tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh. + Chính sách về lãi suất tín dụng. Lãi suất tín dụng phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp vào cung cầu tiền tệ , do vậy Nhà nướcquản lý được lãi suất tín dụng thông qua các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Mục tiêu chính của chính sách tín dụnglà lao động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. + Chính sách trợ giá, bù giá cho xuất nhập khẩu của nhà nước. Chính sách này nhằm mục đích tạo ra những sự trợ giúp, khuyến khích cần thiết để xuất khẩu nhằm bảo hộ chính sách sản xuất trong nước hoặc để khuyến khích nhập những mặt hàng không sản xuất được ở trong nước mà nó cần thiết, phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế đất nước. Đối với các mặt hàng kinh doanh của công ty AIRIMEX, do đặc điểm, tính chất của hàng hoá, sản phẩm của ngành công nghệ cao, không sản xuất ở trong nước được, do vậy một biểu thuế thấp cho mặt hàng này là rất cần thiết. + Chính sách về tỷ giá ngoại tệ. Tỷ giá ngoại tệ phản ánh mối tương quan về sức mua của đồng tiền quốc gia và đồng tiền các nước khác. Tuỳ từng thời điểm khác nhau, tỷ giá ngoại tệ lên xuống gây ra có lợi hoặc có hại cho hoạt động xuất khẩu. Nhà nước quản lý tỷ giá ngoại tệ thông qua các ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Ngoài sự quản lý của nhà nước, tỷ giá còn chịu sự biến động về tiền tệ của các nước trên thế giới và trong khu vực. Để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao điều quan trọng là phải dự đoán được sự biến động của tỷ giá. Dự đoán mức độ biến động của tỷ giá chính là dự đoán mức độ rủi do về tiền tệ thu mua và thanh toán, từ đó có thể thấy được khả năng hiệu quả của thương vụ.Bao gồm dự đoán trên hai khía cạnh: -Dự đoán biến động về giá thu mua hàng trong nước :được dự đoán xem xét trên toàn bộ thị trường trong nước và các đơn vị khác cùng kinh doanh nhập khẩu. Dự đoán biến động về giá thu mua trong nước này rất quan trọng bởi vì nếu dự đoán không chính xác thì khi ký hợp đồng ngoại ( với đối tác nước ngoài ) mức xác định là thương vụ nhập khẩu này lỗ ( không hiệu quả ) nhưng vẫn thực hiện. Điều này cho thấy phải dự đoán đúng vùng biến động giá có thể chấp nhận được và phải nhanh chong thực hiện hợp đồng để tránh những rủi ro bất lợi cho doanh nghiệp. -Dự đoán biến động của tỷ giá ngoại tệ hàng nhập khẩu phải dự đoán tỷ giá taị thời điểm thanh toán bởi vì người mua sẽ không thanh toán ngay khi dự đoán hay khi ký hợp đồng. Để tránh được rủi ro phải dự đoán được vùng biến động của tỷ giá để quyết định thực hiện thương vụ, tránh ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Ước tính tỷ giá ngoại tệ vào thời điểm thanh toán theo công thức : Kn=K1(1-h )n-1 Kn:Tỷ giá ngoại tệ vào thời điểm thanh toán K1: Tỷ giá ngoại tệ vào thời điểm lên phương án và ký kết hợp đồng h:Lãi suất ngoại tệ tại ngân hàng n:Thời gian tính lãi suất Hoặc có thể tính theo phương pháp thống kê dựa vào tỷ giá ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ chính của đất nứơc. 3.2 Các nhân tố chủ quan Nhân tố chủ quan trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu là nhân tố mà bản thân doanh nghiệp tác động vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình như nhân tố tổ chức lao động, nhân tố nhiên liệu hàng hoá mua sắm, trình độ tổ chức... 3.2.1 Tốc độ đổi mới và mở rộng qui trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đòi hỏi ngày càng được đổi mới và mở rộng qui trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp làm cho chu kỳ sản xuất kinh doanh càng ngắn, vòng quay của vốn càng nhanh và ngược lại. Do vậy các yêu cầu cần thiết cho quá trình đổi mới ngày càng được nâng cao làm tăng vòng quay cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu làm tăng lợi nhuận và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Đối với công ty AIRIMEX, do yêu cầu đổi mới trang thiết bị hàng không nhằm đáp ứng nhu cấu trong nước và quốc tế và giao thông vận tải bằng đường hàng không, là một công ty kinh doanh các mặt hàng về trang thiết bị phu tùng phục vụ nghành hàng không. Do đó mở rộng quy mô hàng nhập khẩu là mục tiêu phát triển của công ty trong những năm tiếp theo để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. 3.2.2 Nhân tố tổ chức lao động: + Trình độ tay nghề của người lao động: Nhân tố này tác động trực tiếp tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình độ chuyên môn của người lao động cao, tiết kiệm được tiêu hao nguyên vật liệu, từ đó nâng cao được hiệu quả kinh doanh. ở một công ty thường làm nhiệm vụ nhập khẩu như công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX, để hiệu quả của sản xuất kinh doanh cao đòi hỏi mỗi một cán bộ phải có trình độ nghiệp vụ ngoại thương, phải có kinh nghiệm về đàm phán, ký kết hợp đồng ... + Trình độ tổ chức quản lý của người lãnh đạo. Người lãnh đạo phải có kiến thức, năng lực, năng động. Tổ chức phân công và hiệp tác hiệp đồng hợp lý giữa các bộ phận, các cá nhân; hoạch định nhu cầu vốn kinh doanh làm cơ sở cho việc lựa chọn, huy động các nguồn vốn hợp lý trên cơ sở khai thác tối đa mọi nguồn lực sẵn có của mình, tổ chức chu chuyển vốn, tái tạo vốn, bảo toàn và phát triển vốn... Doanh nghiệp cần sử dụng các hình thức trách nhiệm vật chất, sử dụng các đòn bẩy kinh tế thưởng phạt nghiêm minh sẽ tạo ra động lực thúc đẩy người lao động nỗ lực hơn nữa trong nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện một cách tốt nhất kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.2.3 Nhân tố nguyên liệu hàng hoá Là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của nó là công cụ đầu vào của quá trình kinh doanh. Đối với doanh nghiệp không sản xuất vật chất, nó chính là những hao mòn tài sản vật chất như thiết bị quản lý... nhân tố này là điều kiện kinh doanh. Tiết kiệm đầu vào cũng là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2.4 Trình độ quản lý và sử dụng vốn của đơn vị: Đây là nhân tố quan trọng tác động thường xuyên, trực tiếp tới quá trình kinh doanh. Do vậy, đơn vị phải chú trọng hoạch định nhu cầu vốn kinh doanh, làm cơ sở cho việc lựa chọn, huy động các nguồn vốn hợp lý trên cơ sở khai thác tối đa mọi nguồn vốn sẵn có của mình để tổ chức chu chuyển vốn, tái tạo lại vốn ban đầu, bảo toàn và phát triển vốn. Đối với doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải nghiên cứu tình hình biến động của tỷ giá để từ đó chọn được hình thức thanh toán có lợi nhất cho công ty và giảm được các chi phí không cần thiết khác để nâng cao hiệu quả kinh doanh. +Cơ sở vật chất kỹ thuật là toàn bộ trang thiết bị, máy móc, nhà xưởng của doanh nghiệp. Nó là yếu tố thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp không ngừng nâng cao văn minh phục vụ khách hàng: Đây là nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, được thể hiện là việc hướng tới thoả mãn nhu cầu tối đa nhu cầu khách hàng với những phương tiện văn minh hiện đại, thái độ nhiệt tình lịch sự. Nâng cao văn minh lịch sự góp phần thu hút khách hàng, tăng doanh thu, tăng hiệu quả. Chương II. Phân tích thực trạng về hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu ở công ty xuất nhậpkhẩu hàng không AIRIMEX. 1. Giới thiệu về công ty Công ty xuất nhập khẩu hàng không - AIRIMEX (tên giao dịch quốc tế là General Aviation Import Export Company ) là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty hàng không Việt Nam uỷ quyền trong việc xuất nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho ngành hàng không Việt Nam. 1.1. Sự cần thiết thành lập công ty. Ngành hàng không dân dụng Việt Nam có một lịch sử phát triển đáng tự hào. Tiền thân của nó là lực lượng không quân vận tải có nhiều chiến công và thành tích lớn lao trong chiến tranh chống Mỹ, bảo vệ và xây dựng đất nước theo đường lối của Đảng và nhà nước. Ngành hàng không dân dụng Việt Nam là một ngành kinh tế có tính đặc thù. Chở khách và các hình thức vận tải khác phục vụ nhiệm vụ chính trị đặc biệt, phục vụ bay kinh tế quốc dân, thăm dò địa chất, bay chụp ảnh ... Ngành hàng không là một ngành có kỹ thuật công nghệ cao, yếu tố đồng bộ khép kín cho một chuyến bay là hết sức nghiêm ngặt, mục tiêu an toàn tuyệt đối là mục tiêu cao nhất của ngành hàng không Việt Nam. Ngoài yếu tố tinh thần trách nhiệm còn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho đại tu, sửa chữa, bảo dưỡng máy bay, sân bay... Cho đến nay, trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành hàng không, do đó toàn bộ công cụ bay, thiết bị đảm bảo bay đều phải nhập ngoại. Trước năm 1986, Ngành hàng không Việt Nam nhập máy bay, động cơ, thiết bị phụ tùng mặt đất, sân bay, quản lý thông qua MACHINO - IMPORT. Công ty này thuộc được Cục Hàng không dân dụng Việt Nam uỷ thác nhập hoàn toàn các bộ phận nêu trên. Việc uỷ thác nhập khẩu này đã phát sinh ra nhiều vấn đề trình độ kỹ thuật chuyên ngành của cơ quan được uỷ thác kém, nhiều trường hợp hàng hoá cung cấp không đúng chủng loại yêu cầu. Mặt khác, mọi sự thay đổi đều không thể liên hệ trực tiếp với bên nước ngoài mà phải thông qua MACHINO - IMPORT, gây ra nhiều bất lợi cản trở tiến trình hoạt động của ngành, việc uỷ thác xuất nhập cho công ty không có nhiều kinh nghiệm dẫn đến hàng hoá cung cấp thường là với giá đắt, dịch vụ kèm theo thường là không có hoặc không hợp lệ. Từ năm 1986 trở đi, Ngành dần dần đi vào thực hiện cơ chế tự nhập. Công việc nhập khẩu này được giao cho công ty AIRIMEX thực hiện trên cơ sở chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam ( nay là Tổng công ty hàng không Việt Nam ). Thông qua việc tự nhập, Công ty đã khẳng định khả năng xuất nhập khẩu của mình. Bên cạnh đó Công ty đã đưa ra các giải pháp, phương án hợp lý có lợi cho công ty và cho người uỷ thác nhập khẩu nhờ có đội ngũ cán bộ am hiểu về kỹ thuật hàng không và nghiệp vụ ngoại thương. Do đó, hoạt động nhập khẩu trang thiết bị hàng không thông qua công ty AIRIMEX thường có chất lượng cao, chất lượng hàng nhập đảm bảo đúng quy cách yêu cầu, tạo điều kiện thực hiện nhanh chóng của các thủ tục đăng ký, đăng kiểm theo đúng yêu cầu kỹ thuật của tổ chức Hàng không Thế Giới ICAO ( International Civil Avation Organization) và loại trừ được những khuyết điểm do nhập qua MACHINO - IMPORT. Thông qua kết quả và kinh nghiệm nhập khẩu của công ty chứng tỏ công ty có thể đảm bảo đầy đủ khả năng nhập khẩu và thực hiện đầy đủ các luật định, các văn bản dưới luật về xuất nhập khẩu. Qua đó tạo điều kiện tốt cho việc qui tụ đầu mối xuất nhập khẩu nó chung và hoạt động nhập khẩu các trang thiết bị hàng không nói riêng. 1.2. Lịch sử hình thành và chức năng, nhiệm vụ của công ty. Nhận rõ nhu của việc cần có một bộ phận chuyên đảm nhận công tác xuất nhập khẩu thiết bị hàng không và căn cứ vào yêu cầu phát triển của ngành hàng không dân dụng Việt Nam. Cục trưởng Cục hàng không dân dụng Việt Nam đã ký quyết định thành lập công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành hàng không AIRIMEX số 197 TCHK ngày 1/6/1989 với tiền thân là phòng vật tư kỹ thuật của Tổng Cục Hàng không dân dụng Việt Nam trực thuộc Bộ quốc phòng. Nhiệm vụ của công ty trong thời gian này là: + Xuất nhập khẩu máy bay, phụ tùng máy bay do ngành hàng không dân dụng Việt Nam ký kết, thực hiện thanh lý các hợp đồng đại lý máy bay, động cơ, trang thiết bị phụ tùng của máy bay và các thiết bị chuyên dùng cho ngành hàng không. + Xuất nhập khẩu nhà xưởng, thiết bị mặt đất cho các sân bay, nhà ga và ngành quản lý không lưu. + Xuất nhập khẩu xăng, dầu, mỡ phục vụ cho ngành hàng không Việt Nam và các ngành khác có nhu cầu. + Tổ chức mở rộng hình thức xuất nhập khẩu cho các mặt hàng khác được nhà nước cho phép. + Được phép nhập một số mặt hàng phi mậu dịch để bán tái xuất tại các nhà ga quốc tế. Tận dụng trọng tải thừa của hãng hàng không Việt Namvà của các ngành hàng không nước ngoài xuất khẩu những mặt hàng do Bộ kinh tế đối ngoại uỷ thác. Tuy nhiên, trong thời gian này công ty vẫn là một đơn vị hạch toán nội bộ, phụ thuộc vào cấp trên. Khi nhập một lô hàng, công ty phải phụ thuộc vào các cơ quan khác như cơ quan tài chính, kế hoạch...dẫn tới việc bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và không đáp ứng được nhu cấu cấp thiết của bạn hàng, thụ động đối với những thay đổi của thị trường do vậy đã không phát huy tính năng động, sáng tạo của lãnh đạo và cán bộ công nhân viên của công ty. Ngày 8/1/1997 Cục trưởng cục hàng không dân dụng Việt Nam đã ra quyết định số 10/ HKVN cho phếp công ty được hạch toán độc lập. Công ty có những chức năng nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau: - Nhập uỷ thác máy bay, động cơ, thiết bị, phụ tùng, linh kiện lẻ cho ngành hàng không Việt Nam. - Ký kết thực hiện thanh lý hợp đồngđại tu máy bay, động cơ, trang thiết bị, phụ tùng máy bay và thiết bị chuyên dùng cho ngành hàng không. - Nhận uỷ thác trang thiết bị mặt đất, trạm xưởng cho các sân bay, nhà ga và ngành quản lý không lưu. - Nhập khẩu uỷ thác cho các dơn vị có tư cách pháp nhân xăng dầu mỡ phục vụ cho các máy bay, trang thiết bị mặt đất và các phương tiện khác. - Mở rộng quy mô nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị không có chức năng nhập khẩu theo các quyết định cho phép của nhà nước, tạo điều kiện cho các đơn vị hoạt động và phát triển. - Tổ chức mở rộng các hình thức nhập khẩu các mặt hàng khác được nhà nước cho phép. - Bảo toàn và phát triển vốn được giao. - Thực hiện đầy đử nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ khác với nhà nước và với Cục hàng không dân dụng Việt Nam. - Thực hiện tốt chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài chính, tài sản. - Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ công nhân viên của công ty. Công ty AIRIMEX và các thành viên trong Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, chịu sự quản lý trực tiếp của ban lãnh đạo Tổng Công ty. Các Công ty này có mối quan hệ trực tiếp với nhau nhu những bạn hàng truyền thống của nhau về các loaị hàng hoá, dịch vụ cho nhành hàng không và các ngành có liên quan. Một điều đáng lưu ý trong cơ cấu tổ chức này là mặc dù các bộ phận trên đều chịu sự quản lý chung của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam nhưng đó chỉ là về mặt quản lý hành chính( quản lý nhà nước) chứ không phải là quản lý về mặt kinh tế. Điều này có nghĩa là các bộ phận kinh doanh tự chịu trách nhiệm trong kết quả kinh doanh của mình. Các Công ty kinh doanh một cách độc lập và được tự do trong công công việc kinh doanh, tìm kiếm nguồn hàng và các hoạt động khác. Tuy nhiên, ở một trừng mực nào đó Công ty AIRIMEX cũng phải hoàn thành mục tiêu chung của toàn ngành(Tổng Công ty Hàng không Việt Nam) nhưng một mặt lại được tự quyết định hoạt động kinh doanh của công ty. 1.3.Tổ chức bộ máy công ty. Sơ đồ 2 : Tổ chức bộ máy của công ty AIRIMEX tổng công ty hàng không việt nam giám đốc công ty XNKHK AIRIMEX phòng kế hoạch các đại diện khác phòng tài chính phòng kinh doanh phòng nghiệp vụ ii phòng nghiệp vụ I Đứng đầu công ty là giám đốc, người tiến hành giám sát và quản lý mọi hoạt động của công ty và cũng là người chịu trách nhiệm trước tổng công ty hàng không Việt Nam và tập thể công ty. Trợ lý giúp việc cho giám đốc quản lý chung các công việc của công ty là các phó giám đốc về nhân sự, tài chính kinh doanh. Phòng kế hoạch : Lo nhiệm vụ căn cứ vào tình trạng hoạt động của công ty qua các năm, các thời kỳ để phân tích, đánh giá v._.ả giai đoạn công ty phải đề ra kế hoạch cho từng kỳ hạn một năm và phải cố gắng hoàn thành kế hoạch đặt ra cho từng năm. Bảng 18 : kế hoạch năm 2002 Đơn vị : 1.000USD STT Chỉ tiêu Năm2002 Tỷ lệ so với năm2001(%) Doanh thu 1.008 1022,05% -Phí uỷ thác 192 102% -Hoa hồng bán vé 517 101% -Bán hàng nhập khẩu 29 88% -Chi phí 760 98,23% -Tiền lương 125 120% -BHYT,BHXH,CPCĐ 7 122% -Nguyênvật liệu,vốn hàng 420 92% -Khấu hao cơ bản 22 106% -Khấu hao SCL 8 102% -Chi phí khác 177 80% Lợi nhuận chưa tính thuế 248 160% -Thu khác 270 106% 2. Phương hướng nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu trong công ty. Trên cơ sở những thành công trong kinh doanh, công ty đã khẳng định quyết tâm giữ vững uy tín của mình trong kĩnh vực nhập khẩu trang thiết bị phục vụ ngành hàng không, nỗ lực hơn nữa để giành lại thị phần đã mất trong những năm qua. Phấn đấu cho đến năm 2005 công ty sẽ chiếm 80% tổng giá trị hợp đồng trong lĩnh vực này. Đây là một việc làm không đưon giản vì đối thủ cạnh tranh cũng ngày càng có kinh nghiệm hơn. Nhưng dựa vào những tiềm lực và ưu điểm sẵn có ban lãnh đạo công ty quyết định hoàn thiện bộ máy tổ chức và nâng cao trình độ công nhân viên để đạt được mực tiêu trên. Sự đa dạng hoá mặt hàng cũng được đề cập đến nhưng chưa được chú trọng vì theo ban lãnh đạo của công ty thì thị trường quan trọng nhất vẫn là thị trường hàng không và phải khẳng định được uy tín của công ty trên lĩnh vực này.Để tiến hành việc thực hiện mục tiêu này một cách có hiệu quả, công ty quyết định chú trọng vào những vấn đề sau: - Tăng cường công tác chính trị tư tưởng cho các cán bộ công nhân viên, làm cho họ có trách nhiệm hơn trong sự phát triển chung của công ty. áp dụng chế độ thưởng phạt nghiêm minh đối với những thành tích và những vi phạm trong công việc. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần để họ có thể nâng cao hiệu quả làm việc. - Sắp xếp lại bộ máy tổ chức cho phù hợp hơn. Chú ý nâng cao nghiệp vụ cho các nhân viên từng phòng ban. Trong trường hợp cần thiết sẽ cử nhân viên đi học, nghiên cứu ở nước ngoài. Bố trí các cán bộ có kinh nghiệm hỗ trợ cho các chi nhánh ở phía Nam để chi nhánh này có khả năng nghiên cứu thị trường phía Nam và các nước thuộc vùng Nam á. - Chú trọng đến việc phát triển marketing của công ty, nâng cao hiệu quả việc nghiên cứu thăm dò khả năng và xu hướng của các bạn hàng để phục vụ tốt hơn nhu cầu của bạn hàng. - Tăng cường việc mở rộng mói quan hệ cả trong và ngoài nước. Mở rộng hiểu biết về các nhà cung ứng nước ngoài để tăng khả năng lựa chọn nguồn hàng nhập khẩu. - Bước đầu mở rộng lĩnh vực kinh doanh sang những mặt hàng dân dụng hàng ngày như dệt, may, thực phẩm. ..Việc này được phân cho phòng kinh doanh làm. - Tăng cường công tác tổ chức quản lý tài chính, tiết kiệm trong chi tiêu và quản lý vốn có hiệu quả, mở rộng lĩnh vực đầu tư bằng cách liên doanh nếu thấy cần thiết. 3. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của công ty Nâng cao hiệu quả kinh doanh hoạt động kinh doanh của công ty tức là nâng cao chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội của công ty. Bao gồm những vấn đê sau : Về lợi nhuận, về vốn và phúc lợi xã hội, tiền lương, tiền thưởng,về lao động, năng suất lao động ... 3.1 Nghiên cứu thị trừơng trong nước Nghiên cứu thị trường trong nước nhằm tăng kết quả về mặt tương đối để nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khấu đối với bạn hàng trong nước. Thực chất của giải pháp này là Maketing để phát hiện nhu cầu về sản phẩm nhập (đầu ra ). Đề cập đến yếu tố Maketing là nói đến các chính sách về sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân phối và xúc tiến bán. Công ty xuất nhập khẩu hàng không AIRIMEX không phải là công ty trực tiếp sản xuất ra hàng hoá hữu hình cụ thể phục vụ khách hàng mà chỉ là công ty xuất nhập khẩu trực tiếp, nhận uỷ thác trong việc xuất nhập khẩu. Do vậy, nghiệp vụ chính của công ty là tiến hành các nghiệp vụ giao dịch để nhận được hợp đồng uỷ thác. Để thực hiện tốt công việc này, công ty chú trọng đến vai trò chính sách xúc tiến bán, chính sách có tính chất quyết định trong các hoạt động Marketing áp dụng đối với khách hành của công ty. Bên cạnh đó công ty đã lưu tâm đến các chính sách khác như chính sách phân phối, chính sách nâng cao chất lượng sản phẩm để làm tăng hiệu quả của việc kinh doanh và tạo nên sự đồng bộ trong việc áp dụng chiến lược. 3.1.1 Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến. Một hoạt động xúc tiến đầy đủ bao gồm 3 bộ phận cấu thành, đợc gọi là các biện pháp xúc tiến hỗn hợp, đó là: + Bán hàng cá nhân. +Quảng cáo. + Xúc tiến bán. Công ty AIRIMEX đã thực hiện một chiến lược xúc tiến kết hợp đầy đủ 3 yếu tố trên. Các bước thực hiện diễn ra theo sơ đồ sau: Kết thúc đơn hàng đưa ra các dự thảo cụ thể thực hiện xúc tiến Sơ đồ 4: Các bước thực hiện một chiến lược xúc tiến hiện có ở Công ty AIRIMEX. Mục đích cuối cùng của xúc tiến bán hàng là thực hiện tốt đơn hàng, song các bước thực hiện chiến lược như trên của công ty là chưa đủ. Công ty áp dụng các bước thực hiện này chỉ đúng trong trường hợp khách hàng là bạn hàng lâu năm của công ty. Còn đối với các bạn hàng mới các bước trên là chưa phù hợp lắm. Để tạo ra sự tin cậy cho các doanh nghiệp bạn hàng. Công ty AIRIMEX nên thực hiện xúc tiến bán theo sơ đồ sau: đưa ra các dự thảo cụ thể gợi sự quan tâm tạo nên sự ưa thích thực hiện xúc tiến giữ được khách hàng và gây uy tín cho các đơn hang tiếp theo kết thúc đơn hàng Sơ đồ 5 : Các bước thực hiện một chiến lược xúc tiến bán cần có ở công ty AIRIMEX 3.1.2 Hoàn thiện hoạt động quảng cáo Một chính sách quảng cáo tốt sẽ làm cho khách hàng tin tưởng về khả năng kinh doanh của công ty và như vậy sẽ làm tăng sự lựa chon của khách hàng tin tưởng uỷ thác cho AIRIMEX nhập các thiết bị cho họ. Trong thời gian qua, đặc biệt là 2 năm 1998-1999 công ty đã chú trọng hơn đến vấn đề quảng cáo, chi phí cho quảng cáo năm 1998 là 35 triệu đồng và năm 1999 là 50 triệu đồng. Vấn đề đặt ra là phương tiện quảng cáo, hiện nay quảng cáo của công ty chỉ giới hạn trong các tạp chí chuyên ngành hàng không, như thế là chưa đủ bởi vì công ty còn một bộ phận khách hàng không nhỏ năm ngoài lĩnh vực hàng không. Vì vậy quảng cáo của công ty vừa phải đảm bảo tính rộng rãi( đối tượng nhận tin rộng rãi ) vừa phải đảm bảo tính chuyên sâu (thông tin chi tiết cho các khách hàng ). Để đảm bảo được điều đó thì phải tiến hành quảng cáo trực tiếp tức là quảng cáo qua catalogue, các ấn phẩm, qua quảng cáo của các hãng nước ngoài...Cho các khách hàng của mình, chỉ có như vậy thì thông tin nhận được mới đảm bảo tính cụ thể và chi tiết. Các phương tiện quảng cáo có thể là: Các xuất bản phẩm kinh doanh chuyên ngành và các xuất bản phẩm kỹ thuật chuyên ngành . Thư gửi trực tiếp Qua danh bạ công nghiệp. Các tạp chí chuyên ngành như : Hàng không Việt Nam, hải quan Việt Nam, thông tin hàng không, HERITAGE (song ngữ Anh -Việt ). Các tạp chí chuyên ngành là các tờ báo có uy tín lớn, có nội dung hay và phong phú được nhiều người đón đọc nhất là những người làm việc trong ngành hàng không. Hầu hết các phòng ban, các công ty thuộc tổng công ty Việt Nam đều đặt mua tạp chí này. Vì vậy việc quảng cáo trên các tạp chí chuyên ngành đảm bảo cho công ty có thể truyền thông tin của mình đến những đối tượng mục tiêu, những khách hàng tiềm năng và các đối tượng khác có liên quan. Bên cạnh đó công ty cũng phải quảng cáo trên các tạp chí chuyên ngành xuất nhập khẩu, các tạp chí thương mại khác, việc quảng cáo này tác động đến khách hàng cả trong và ngoài ngành hàng không đang cần uỷ thác nhập khẩu một mặt hàng nào đó. Quảng cáo trên tạp chí là một dạng quảng cáo có chi phí tương đối thấp nhưng hiệu quả lại rất cao nhât là đối với khách hàng mới mua lần đầu. Hình thức quảng cáo này thường chỉ quảng cáo những hình ảnh chung của công ty như : Lịch sử truyền thống, phạm vi kinh doanh ... Chứ không đi sâu vào chi tiết. Do vậy để quảng cáo sâu vào chi tiết có thể sử dụng một số hình thức khác. AIRIMEX có thể gửi thư trực tiếp đến khách hàng của mình với tên gọi và chức vụ rõ ràng, tuỳ theo cơ cấu mua bán và ảnh hưởng mua của khách hàng mà nội dung của nó có phải giữ bí mật hay không. Nội dung thư phải phù hợp với đối tượng nhận tin có thể là những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ máy móc mới được áp dụng trong lĩnh vực chuyên ngành của hãng, các chi nhánh khác nhau trên thế giới đó là những giới thiệu quảng cáo mà họ gửi đến cho AIRIMEX. Quảng cáo qua danh bạ công nghiệp là sự liệt kê các nguồn hàng cung cấp, hình thức có thời gian hiệu lực của thông điệp dài nhưng chi phí lại rất cao. Do vậy AIRIMEX cần cân nhắc khi áp dụng hình thức này để đem lại lợi nhuận cao với chi phí thấp nhất . 3.1.3 Nâng cao chât lưọng sản phẩm Việc nâng cao chất lượng "sản phẩm " của công ty AIRIMEX chính là đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng. Đối với sản phẩm hữu hình AIRIMEX cần phải cung cấp hàng hoá với chất lượng cao nhất, đúng thông số kỹ thuật, đảm bảo cho sự vận hành sau này. Do vậy công ty cần có sự lựa chọn, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các loại hàng hoá khác nhau, các nhà cung ứng khác nhau để có sự lựa chọn tốt nhất. Đối với sản phẩm dịch vụ mà công ty cung ứng thì chất lượng của nó không ngừng được nâng cao bằng các biện pháp như : Đáp ứng đúng yêu cầu của khách hàng, đảm bảo đúng thời hạn giao hàng, thời hạn thanh toán, cố gắng giải quyết các mâu thuẫn phát sinh bằng các biện pháp hợp lý nhất. Tất cả những điều này sẽ tạo nên hình ảnh tốt đẹp về công ty đối với người cung ứng và khách hàng trong nước tạo sự thuận lợi cho hoạt động của công ty trong tương lai. Một trong những hoạt động nữa nhằm nâng cao chất lương của công ty là việc tăng cường các hoạt động theo dõi và có trách nhiệm đối với hàng hoá trong quá trình sử dụng và trong khi bán làm uy tín của công ty không ngừng được tăng lên. 3.1.4 Hoàn thiện chính sách phân phối. Với chức năng hoạt hoạt động trong phạm vi cả nước, công ty AIRIMEX có nhiệm vụ nhập khẩu máy móc thiết bị phụ tùng ngành hàng không Việt Nam. Với chức năng nhiệm vụ đó công ty cần mở một số các chi nhánh khác trên cả nước. Hiện nay công ty đã có một chi nhánh tại 11 đường Trường Sơn, Quận Tân Bình thành phố Hồ chí Minh cạnh sân bay Tân Sơn Nhất. Song chi nhánh này vẫn chưa có quyền tiến hành các thủ tục hải qua với tư cách là một pháp nhân độc lập mà mọi giấy tờ, văn bản chính phải được sự uỷ quyền của AIRIMEX Hà Nội. Hiện nay công ty đang cố gắng để hoàn thành nốt thủ tục khắc phục vấn đề này. Ngoài ra, công ty có thể áp dụng chính sách phân phối đối với các sản phẩm mua rồi bán lại. Một chiến lược phù hợp nhất với công ty hiện nay là áp dụng kênh ngắn( kênh trực tiếp) tức là hàng hoá được bán thẳng cho khách hàng không thông qua bất kỳ khâu trung gian nào. Một kênh phân phối như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí đồng thời tiếp cận trực tiếp với khách hàng. Điều đó giúp cho công ty tranh thủ được ý kiến thái độ của khách hàng về hàng hoá cung ứng để dần hoàn thiện chính sách phân phối, nâng cao hiệu quả. 3.2 Nghiên cứu thị trường nước ngoài. Nghiên cứu thị trường nước ngoài là thu thập, nghiên cứu các dữ liệu, thông tin với mục đích cuối cùng là lựa chọn nguồn cung ứng tốt nhất đem lại hiệu quả tối đa cho AIRIMEX và khách hàng trong nước. Công việc này có một tầm quan trọng đặc biệt, trong hoạt động của mình, công ty cũng đẫ chú ý tới khâu này song kết quả vẫn còn chưa cao. Vẫn có trường hợp hàng hoá nhập khẩu với giá cao hơn đáng nhẽ mà công ty có tthể mua với giá thấp hơn của nhà cung ứng khác với cùng một mặt hàng, cùng một chất lượng. Vì vậy để tìm nguồn nhập khẩu, công ty AIRIMEX cần phải có một hệ thống thông tin hoàn hảo về các nhà cung ứng có tiềm năng trên thế giới, ưu nhược điểm của các nhà cung ứng, và các thông tin quan trọng khác để giúp công ty có thể mua hàng hoá với những yêu cầu: + Đúng số lượng. + Các tiêu chuẩn chất lượng phù hợp yêu cầu. + Đúng thời cơ. + Giá cả sức mua cạnh tranh. + Trong những điều kiện cung ứng tốt nhất có thể được. Để có thể được một người cung ứng tối ưu thì AIRIMEX cần phải tiến hành theo các bước sau: Xác định các nguồn cung ứng Thông báo cho các nhà cung ứng tiềm năng Đánh giá, phân tích người cung ứng theo nhiều tiêu thức Không mua Quyết định mua Ký kết hợp đồng thực hiện hợp đồng Sơ đồ 6: Quy trình lựa chọn cung ứng và ký kết hợp đồng. Công ty AIRIMEX sẽ căn cứ vào hợp đồng uỷ thác, hợp đồng nội để đánh giá chi tiết cụ thể về tình hình chất lượng hàng hoá cần nhập khẩu, căn cứ vào thông tin để có được của các nhà cung ứng, các nhà sản xuất khác trên thế giới về tài chính, sản phẩm ,dịch vụ... để lập ra một bản danh sách các nhà cung ứng có khả năng cung cấp loại hàng đó. Các thông tin đó phải thường xuyên tránh trường hợp thông tin đó lạc hậu, không phản ánh thực tế. AIRIMEX thường tham khảo thông tin về nhà cung cấp qua các nguồn tài liệu. + Quảng cáo trực tiếp của các hãng gửi cho công ty qua các catalogue, đơn chào hàng.... + Quảng cáo của các hãng trên các tạp chí chuyên ngành, tiêu thụ , trên các phương tiện thông tin đại chúng. + Các khách hàng đã tiêu dùng sản phẩm của hãng mà AIRIMEX đang quan tâm. + Văn bản tài liệu của hội chợ thương mại vầ các triển lãm chuyên đề. + Các phòng thương mại. + Các tổ chức thương mại. + Các tổ chức chuyên ngành quốc tế và khu vực, các ấn phẩm của họ (AIRIMEX ,INTER-CIVILAVIATION). + Các nguồn thông tin tin cậy khác. Sau khi đã chọn được người cung ứng tối ưu, công việc trực tiếp theo là ký kết hợp đồng. Đây là khâu quan trọng dễ phát sinh các vấn đề phức tạp nếu không nắm vững nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong việc ký kết hợp đồng nhập khẩu. 3.3 Đa dạng hoá hình thức kinh doanh Đa dạng hoá kinh doanh để tăng nhanh số vòng quay của vốn nhằm tăng kết qủa của hoạt động kinh doanh là cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Hiện nay, công ty hầu như là chỉ áp dụng hình thức xuất nhập khẩu uỷ thác hộ các công ty khác trong ngành hàng không. Thực tế, có rất nhiều hình thức nhập khẩu khác sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Với cương vị của mình công ty nên áp dụng phương pháp nhập khẩu hàng đổi hàng để thu phí uỷ thác uỷ thác của cả người xuất khẩu và người nhập khẩu. Ngoài ra. Công ty cần liên doanh, liên kết với các hãng sản xuất máy bay, phụ tùng bảo dưỡng, sửa chữa máy bay, phụ tùng bảo dưỡng, sửa chữa máy bay, động cơ để tăng thêm lợi nhuận và mở rộng với mối quan hệ với các bạn hàng trong kinh doanh. Điều này đã đạt được hiệu quả trong góp vốn cổ phần với hãng hàng không cổ phần PACIFICA AIRLINES tạo một khoản thu về tài chính trong năm 1999. trong những năm tới công ty cần tìm kiếm đối tác liên doanh., liên kết nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 3.4. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. Công ty cần đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh trên cơ sở mặt hàng chuyên ngành. Đây là cách thức kinh doanh an toàn và phổ biến nhất để nâng cao doanh thu, lợi nhuận tức là hiệu quả hoạt động kinh doanh. Hơn nữa uy tín, kinh nghiệm của mình, là đơn vị trong ngành kinh tế mũi nhọn công ty có trách nhiệm thúc đẩy các nghành kinh tế phát triển thông qua nhập khẩu trực tiếp hoặc nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị kinh tế khác có nhu cầu. Qua thực tế năm 1999 cho thấy việc kinh doanh đạt hiệu quả một phần từ việc kinh doanh các mặt hàng khác ngoài trang thiết bị phục vụ ngành hàng không. Việc kinh doanh các mặt hàng khác vừa tạo điều kiện tăng doanh thu cho doanh nghiệp vừa tạo thế chủ động trong kinh doanh, tránh được sự phụ vào các bạn hàng truyền thống tức là sự phụ thuộc vào đầu tư mua sắm trang thiết bị, máy móc của các đơn vị bạn và của ngành. Việc đầu tư mua sắm này có tính chất chu kỳ do vậy nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty. Trong điều lệ thành lập công ty có qui định của công ty được phép kinh doanh tổng hợp các mặt hàng nên cần phải tận dụng qui chế này cùng với các chính sách của nhà nước ở từng thời kỳ mà mở rộng cơ hội, thời cơ mở rộng mặt hàng nhập khẩu ô tô, xe máy, ti vi.... Việc nhập những mặt hàng mới có công việc hết sức khó khăn vừa phải nắm bắt thời cơ, vừa phải cân nhắc cẩn thận. Những vấn đề mà cán bộ kinh doanh không thể bỏ qua khi nhập khẩu một mặt hàng mới lạ: * Đặc điểm của hàng hoá đó : Về chủng loại mẫu mã, chất lượng, kỹ thuật, đặc điểm tiêu thụ, tính thời vụ, tính công nghệ. * Những doanh nghiệp đã và đang kinh doanh mặt hàng này. * Chính sách của nhà nước đối với mặt hàng đó như thế nào. * Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó ở trong nước như thế nào, nó đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống. Việc mở rộng mặt hàng kinh doanh nâng cao được sử dụng vốn, quay vòng vốn, từ đó tạo cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Ngoài ra thu hút được nhiều lao động cho xã hội, tức là nâng cao hiệu quả xã hội. 3.5 Hoàn thiện phương thức định giá. Có rất nhiều phương thức định giá và mỗi loại đều có ưu nhược điểm khác nhau. Việc sử dụng một mức giá nào đó vào thực tế kinh doanh là tuỳ thuộc vào vị trí của công ty, của từng hãng, vào đặc của hàng hoá và điều kiện vận tải từng quốc gia. Đối với AIRIMEX và nhiều công ty khác trong thời gian qua là chủ yếu là chủ yếu sử dụng hai loại giá CIF và FOB. Thông thờng trong công việc nhập khẩu AIRIMEX thường căn cứ vào số lượng, chất lượng ... của hàng hoá để lựa chọn một trong hai loại giá trên làm giá nhập khẩu. Tuy nhiên việc áp dụng hai loại giá này vào từng mặt hàng cụ thể của công ty còn có trường hợp chưa hợp lý lắm. Đây cũng là khâu mà AIRIMEX cần chú ý hoàn thiện. Đối với các loại hàng hoá có số lượng nhỏ , trọng tải nhẹ nhưng phức tạp, phải dùng các phương tiện tàu biển đặc biệt thì công ty mới áp dụng giá CIF Hải Phòng hoặc giá CIF Sài gòn do các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Lực lượng của công ty còn mỏng, chưa có hệ thống đại lý chi nhánh ở các nước nhập khẩu nên việc thuê tàu, mua bảo hiểm gặp nhiều trở ngại. Do không có sự liên hệ trực tiếp nên mọi giao dịch phải thông qua Telex, Fax.. làm mất nhiều thời gian và không có hiệu quả cao vì vậy khó có thể áp dụng cho giá FOB. Thứ hai: Việc giành nhiều thời gian và các chi phí tìm kiếm nhà cung ứng tối ưu, do vậy nếu phải tìm kiếm đại lý vận tải, ngoài bảo hiểm sẽ làm tăng chi phí giao dịch nên rất nhiễu mà hiệu quả chưa chắc đã tốt hơn là khi áp dụng giá CIF. Vì vậy mà trong hoạt động của công ty AIRIMEX giá FOB chỉ nên áp dụng với các lô hàng lớn, tỷ lệ cước phí bảo hiểm cao các lô hàng có thể chuyên trở bằng máy bay và khi đó tuỳ theo khách hàng mà công ty sẽ áp dụng giá FOB Nội Bài hay FOB Tân Sơn Nhất. 3.6 Hoàn thiện phương thức thanh toán. Hoàn thiện phương thức thanh toán để giảm bớt những chi phí không cần thiết trong từng loại phương thức thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Lựa chọn một phương thức thanh toán đúng để đảm bảo cho sự an toàn của đồng tiền và tạo ra sự thuận lợi cho các bên cho việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán với nhau. Trong thanh toán ngoại thương có nhiều phương thức thanh toán như phương pháp nhờ thu, thư tín dụng hoặc điện tính, dùng sec, hối phiếu... Các phương pháp này đều có ưu nhược điểm riêng,.tuỳ thuộc mối quan hệ giữa hai bên, độ tin cậy, uy tín, sự phát triển của hệ thống ngân hàng và dịch vụ mà hai bên sẽ lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp và có lợi nhất. 3.7 Về công tác quản lý nhân sự. Con người là chủ thể mọi hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng. Chính vì công tác quản lý nhân sự trong công ty có vai trò quan trọng` việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.7.1 Công ty phải xây dựng qui chế phù hợp trong kinh doanh, tổ chức lao động hợp lý. Xây dựng qui chế phù hợp trong kinh doanh làm sao gắn trách nhiệm, nghĩa vụ quyền hạn, lợi ích của cán bộ kinh doanh là mấu chốt để xây dựng tinh thần sáng tạo,tích cực trong kinh doanh của mỗi cá nhân cụ thể. Công ty thực hiện cơ chế khoán một cách triệt để, các phòng ban phải có mục tiêu phấn đấu rõ ràng làm cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của từng phòng cũng như làm căn cứ thưởng phạt nghiêm minh. Công ty nên thực hiện khoán các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm của toàn công ty. Công ty phải có qui chế thưởng phạt thiết thực hơn. Cán bộ kinh doanh đã quen với việc kinh doanh theo Nghị định thư của Nhà nước và hưởng lương hành chính. Bởi vậy, khi áp dụng trách nhiệm cá nhân vào hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải có chế độ khen thưởng, khuyến khích bằng lợi ích vật chất đúng mức, kịp thời, cũng phải phạt đích đáng với những người vi phạm để nêu cao tinh thần trách nhiệm trong kinh doanh. 3.7.2 Không ngừng đào tạo bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ , tư tưởng chính trị cho cán bộ công nhân viên của công ty. Để có thể tồn tại được trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường, công ty thường xuyên trau dồi, bổ sung cho cán bộ nghiệp vụ, kiện toàn bộ máy quản lý điều hành từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty đồng thời giảm bớt những cá nhân làm việc không có hiệu quả để hình thành đội ngũ cán bộ có trách nhiệm, năng động sáng tạo phù hợp với cơ chế mới. 3.8 Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho công ty. Hiện nay, công ty không chỉ làm nhiệm vụ nhận uỷ thác đơn đặt hàng nhập khẩu mà công ty mà công ty còn kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu qua đại lý bán hàng. Vì vậy, hệ thống kho hàng bến bãi, hệ thống giao thông vận tải là rất quan trọng cho việc bảo đảm an toàn hàng hoá. Để có thể kinh doanh qua đại lý bán hàng có hiệu quả ngoài việc theo sát nhu cầu, nắm chắc khách hàng đổi mới phong cách bán hàng khẩn trương thiết lập một hệ thống đại lý tiêu thụ trên cơ sở phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu với độ hấp dẫn cao hơn. Phải coi hệ thống đại lý bán hàng là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, từ đó dẫn đến cải tạo và xây dựng những cửa hàng có qui mô lớn, vừa là kho chứa khối lượng đảm bảo cho lượng hàng hoá bán ra ở cửa hàng đó vừa cung cấp cho các cửa hàng nhỏ hơn ở các khu vực lân cận. Hoàn thiện hệ thống kho tàng , bến bãi phục vụ cho hoạt động nhập khẩu là rất quan trọng, khi hàng về có thể chuyển thẳng vào kho cất giữ giảm được chi phí tồn kho, lưu bãi.... Cùng với việc hoàn thiện hệ thống cửa hàng, kho tàng, bến bãi là việc hoàn thiện hệ thống vận tải. Chi phí cho việc vận tải hàng hoá nhập khẩu là rất lớn . việc phân bổ luồng lạch, bố trí các tuyến nhập khẩu hợp lý sẽ góp phần làm giảm chi phí vận tải xuống. Sử dụng kết hợp các phương tiện vận tải một cách linh hoạt, thực hiện khoán theo chiều sâu để trách tình trạng làm việc có tính thời vụ. Khai thác tối đa khả năng vận tải trong nghành, tăng cường vận tải chuyển thẳng nhằm hạn chế sự nhàn rỗi hoặc phải thuê vận tải bên ngoài. Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng phục vụ, đảm bảo vận tải an toàn, đúng số lượng, hạn chế hao hụt ở mức thấp nhất. 4. Kiến nghị với nhà nước và Tổng công ty Hàng không Việt Nam Là một đơn vị thành viên của Tổng công ty Hàng không Việt Nam, hoạt động kinh doanh sản xuất nhập khẩu chủ yếu là trang thiết bị máy móc phục vụ ngành hàng không. Do vậy, sự sự tác động của Tổng công ty có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty. Mặt khác, các khách hàng chính của công ty là các thành viên của Tổng công ty. Do vậy, mối quan hệ giữa các đơn vị trong ngành hàng không Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh công ty. 4.1 Đối với Tổng công ty Hàng không: Tổng công ty Hàng không Việt Nam mới đi vào hoạt động, do vậy các qui chế về xuất nhập khẩu chưa được đầy đủ và rõ ràng. trong những năm tới công ty mong muốn được sự quan tâm hơn nữa của Tổng công ty Hàng không Việt Nam và ban hành một qui chế rõ ràng về xuất nhập khẩu các trang thiết bị máy móc thiết bị phục vụ ngành hàng không, từ đó công ty có thể hiểu và thực hiện được rõ ràng hơn nhiệm vụ và kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Được sự quan tâm hơn nữa trong việc mở rộng mặt hàng, ngành hàng kinh doanh, không chỉ mặt hàng phục vụ ngành hàng không, mà cả những mặt hàng ngoài ngành như việc nhập ôtô, xe máy, ti vi. . . Với uy tín và năng lực hoạt động của Tổng công ty hàng không Việt nam, Tổng công ty có thể tạo điều kiện thuận lợi cho công ty xuất nhập khẩu hàng không Việt nam trong các vấn đề: tìm kiếm nguồn hàng, bạn hàng mới. Công ty mong muốn được sự quan tâm, đầu tư hơn nữa trong việc mở rộng vốn kinh doanh, pham vi hoạt động kinh doanh của công ty tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Đối với Nhà nước. Để chủ động trong việc cung cấp máy móc thiết bị phục vụ ngành hàng không và nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện cho công ty phát huy hết khả năng của mình nhà nước cần đưa ra một chính sách biện pháp như sau . * Máy móc thiết bị là một mặt hàng đặc biệt, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế. Vì vậy, Nhà nước nên có nhiều chính sách ưu tiên hơn nữa trong nhập khẩu máy móc thiết bị. * Hiện nay trong nhập khẩu máy móc thiết bị một khó khăn thưòng mắc phải là không xem xét được chính xác tình trạng máy móc thiết bị do đội ngũ chuyên gia còn hạn chế trong việc tiếp thu thành tựu khoa học thế giới, làm cho hiệu quả kinh tế thấp, tốn kém hàng tỷ đồng ngân sách. Vì vậy, Nhà nước nên có chính sách cụ thể đào tạo, nâng cao trình độ chuyên gia , tạo môi trường thuận lợi, sử dụng và đãi ngộ đối với họ để thông qua đó tạo nên đội ngũ chuyên gia có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Đây là đội ngũ tích cực giúp ta đánh giá được chính xác tình trạng máy móc thiết bị phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội. *Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu. Một trong những chức năng của bộ Thương Mại là theo dõi nắm tình hình hoạt động xuất nhập khẩu theo nhiều chỉ tiêu khác nhau qua đó thường xuyên đánh giá, phân tích và đề các biện pháp hoạt động và nghiên cứu đề xuất các chính sách mới với chính phủ. Hiện nay, có thể nói rằng quan hệ trao đổi thông tin giữa Bộ Thương mại với Tổng cục Hải quan chưa được toàn kiện. Hải quan mới chỉ báo đợc một số mặt hàng chính thức nhập khẩu, hệ thống số liệu của hải quan chưa thiết lập song nên hải quan cũng không đủ số liệu. Do đó, nên thiết kế thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu từng lô hàng và hệ thống theo dõi như sau: * Khi cần nhập khẩu máy móc thiết bị Công ty làm tờ đăng ký trình Bộ Thương mại. Phòng giấy phép thuộc Bộ Thương mại chỉ đóng dấu "Đã dăng ký tại Bộ Thương mại " và giữ một bản, công ty mang tờ có đăng ký ra hải quan để được xem xét cho thủ tục nhập khẩu, thay thế cho chế độ cấp giấy phép cho từng lô hàng, phải chờ đợi ba ngày như hiện nay. * Định kỳ một tháng một lần hải quan có trách nhiệm thông báo cho bộ thương mại số liệu về hàng thực tế đã nhập vào. Bộ Thương mại sử dụng số liệu của hải quan làm cơ sở xem xét số liệu thực tế nhập vào đồng thời kiểm tra, đối chiếu với sổ đăng ký. * Một phần lớn giấy phép chuyển cho hải quan xem xét để nhập khẩu. Bộ Thương mại chỉ đóng dấu đã đăng ký, và công việc chính của Bộ Thương mại về mặt quản lý nhập khẩu máy móc thiết bị thống kê, phân tích và đề ra biện pháp. *Để Bộ Thương mại làm được đúng chức năng này cần qui định rõ ràng về tổ chức và trách nhiệm của Hải quan trong việc cung cấp thông tin đúng định kỳ tình hình thực hiện nhập khẩu của các doanh nghiệp cho Bộ Tthương mại. Công tác nghiệp vụ của công ty trong mối quan hệ với nhà nước thực tế cũng bộc lộ một số vấn đề cần quan tâm. Cụ thể hoá của việc này đó là trong biểu thuế xuất nhập khẩu của nhà nước mặc dù rất chi tiết song vẫn chưa thật là cụ thể cho một số thiết bị chuyên dùng khi nhập về cửa khẩu thì Hải quan cửa khẩu sẽ áp dụng bỉêu thuế xuất nhập khẩu của một một thiết bị tương ứng gây tranh cãi giữa các cơ quan hữu quan. Mâu thuẫn này thực ra nếu có sự chú ý thì cũng có thể giải quyết được một cách ổn thoả, đó là công ty trực tiếp nhập khẩu thiết bị rõ ràng hơn ai hết là người lắm chắc nhất danh mục các thiết bị mà mình nhập khẩu, thế thì đã có những danh mục rồi tại sao không có sự tiếp xúc, bàn bạc và đệ trình với Bộ Tài chính để có sự thống nhất và phê chuẩn thuế suất cụ thể từng loại thiết bị áp dụng cho cả thời gian hiệu lực, của biểu thuế để các bên hữu quan có thể thực thi. * Thanh toán là một trong những nội dung quan trọng của công tác xuất nhập khẩu. Nhà nước nên có một cơ chế quản lý ngoại tệ và áp dụng tỷ giá hối đoái theo cơ chế thị trường. Vấn đề này thuộc phạm vi trách nhiệm của Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các ngân hàng thương mại. Việc đồng tiền Việt Nam (VNĐ) bị mất giá liên tục đã làm giảm Hải quan hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty. * Một trợ giúp nữa cũng rất quan trọng là việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường thế giới cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này được thể hiện qua môi trường kinh doanh quốc tế thuận lợi và những mối quan hệ buôn bán trao đổi của các nước trên thị trường thế giới. Cùng với việc mở rộng mối quan hệ song biên , nước ta từng bước tham gia vào các quan hệ đa phương của khu vực và thế giới theo phơng thức đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hoạt động nhập khẩu có những thị trường rộng lớn hơn. Kết luận Đ ạt và nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt đông sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế vừa là mục tiêu , vừa là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp này trên thị trường. Hiệu quả kinh doanh chỉ xuất hiện và tồn tại lâu dài ở những tổ chức kinh tế nào mà ở đó có quyền độc lập tự chủ, năng động sáng tạo trong quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh hay nói cách khác là những đơn vị tìm được và ứng dụng tổng hợp những giải pháp hữu hiệu trong quản lý. Ngành hàng không là một ngành công nghiệp kỹ thuật cao do đó chúng ta chưa thể chế tạo ra được các loại máy móc thiết bị. Việc tăng cường nhập khẩu các loại máy móc là vô cùng cần thiết. AIRIMEX được Tổng công ty hàng không Việt Nam giao Nhiệm vụ nhập khẩu các thiết bị chuyên ngành hàng không là nhiệm vụ quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu chung của toàn ngành. Trong thời gian thực tập với sự cố gắng của mình, sự hướng dẫn tận tình của cô giáo PTS Nguyễn Thị Hường tôi đã viết luận văn: “ Một số biện pháp nâng nhập khẩu hàng không AIRIMEX”. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0364.doc