Lời mở đầu
Đ
ất nước ta đang trên đà hội nhập phát triển cùng thế giới, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, nhu cầu về cuộc sống càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Uống không chỉ đơn thuần là nhu cầu sinh lý giải quyết cơn khát của con người mà nó còn là nhu cầu gắn liền với đời sống tình cảm của con người. Trong các loại đố uống thì Bia hơi là loại đồ uống bình dân được đông đảo mọi người tiêu dùng ưa chuộng.
Hiện nay ngành Bia là một trong những ngành kinh doanh đem lại lợi nhuận tươn
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia Việt Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đối cao, do đó nhiều cơ sở địa phương đã thành lập những nhà máy nhằm đưa sản phẩm ra thị trường phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng. Tuy nhiên, các nhà kinh doanh nói chung và các nhà kinh doanh sản phẩm bia nói riêng đang phải đối mặt với những biến động không ngừng của môi trường kinh doanh. Để đạt được các mục tiêu trong môi trường kinh doanh luôn biến động này các doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực như: nguồn lực về vốn, về con người, không ngừng tổ chức cơ cấu lại bộ máy hoạt động.....Thực chất những việc này là doanh nghiệp thực hiện hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là thước đo tổng hợp, phản ánh năng lực sản xuất và trình độ kinh doanh của một doanh nghiệp, là điều kiện quyết định sự thành bại của tất cả các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất Bia như Công ty Bia Việt Hà nói riêng. Để khai thác triệt để các nguồn lực khan hiếm nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hoá thoả mãn nhu cầu của xã hội, các Công ty, các doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiến hành đánh giá các kết quả đã thực hiện và đưa ra các giải pháp, biện pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả.
Vấn đề hiệu quả kinh doanh luôn được ban lãnh đạo Công ty Bia Việt Hà quan tâm xem đây là thước đo và công cụ thực hiện mục tiêu kinh doanh tại Công ty. Với những kiến thực thu được trong quá trình học tập và xuất phát từ thực tế của Công ty Bia Việt Hà em nhận thấy vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh thực sự giữ vai trò quan trọng. Theo đó: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia Việt Hà” được chọn làm đề tài nghiên cứu trong chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Chuyên đề thực tấp tốt nghiệp gồm ba phần chính sau đây:
Chương 1: Hiệu quả kinh doanh và vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh ở doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia Việt Hà
Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia Việt Hà
Đề tài này được hoàn thành là nhờ vào sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của các thầy cô, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Quang Huy cũng như tập thể cán bộ trong Công ty Bia Việt Hà. Do thời gian thực tập và trình độ có hạn, nên trong bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy, các cô và bạn đọc để em có thể bổ sung, thêm những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô và sự giúp đỡ nhiệt tình của Công ty Bia Việt Hà.
Chương 1
Hiệu quả kinh doanh và vấn đề
nâng cao hiệu quả kinh doanh ở doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh
Hoạt động kinh doanh là một phạm trù kinh tế, nó xuất phát và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội chủ nghĩa, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, các yếu tố cần thiết của doanh nghiệp để tham gia vào hoạt động kinh doanh theo mục đích nhất định.
Do lịch sử phát triển các hình thái xã hội có quan hệ sản xuất khác nhau. Cách nhìn nhận đánh giá hiệu quả kinh doanh trên mỗi góc độ khác nhau mà có ý kiến trái ngược nhau về hiệu quả kinh doanh.
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư bản nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất, do đó quyền lợi về kinh tế chính trị đều ưu tiên cho nhà tư bản. Chính vì thế việc phấn đấu tăng hiệu quả kinh doanh thực chất là đem lại lợi nhuận và nâng cao đời sống của các nhà tư bản (có thể đời sống của người lao động ngày càng thấp đi). Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith cho rằng: “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”, và nhà kinh tế học người Pháp Ogiephri cũng quan niệm như vậy. ở đây hiệu quả đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải thích kết quả kinh doanh có thể tăng do tăng chi phí mở rộng các nguồn sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng cùng có hiệu quả. Quan điểm này phản ánh tư tưởng trọng thương.
Quan niệm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan niệm này đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu hao. Tuy nhiên xét trên quan điểm Mác - Lênin thì sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ. Hơn nữa kinh doanh là một quá trình trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên kết mật thiết với yếu tố sẵn có, chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên quá trình kinh doanh và làm kết quả kinh doanh thay đổi. Theo quan điểm này tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xét đến phần bổ sung và chi phí bổ sung, nó mới chỉ dừng lại ở mức độ xem xét sự bù đáp chi phí bỏ ra cho quá trình kinh doanh tăng thêm.
Quan niệm thứ ba cho rằng: Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh doanh là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong doanh nghiệp. Đây là quan niệm khá phổ biến được rất nhiều người thừa nhận. Quan niệm này gắn kết quả với chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên quan niệm này chưa biểu hiện tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
Quan niệm thứ tư cho rằng: Nếu đứng trên góc độ từng yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất. Quan điểm này ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất cơ giới hoá, nó phân quá trình kinh doanh thành những yếu tố, những công đoạn và hiệu quả được xem xét cho từng yếu tố. Tuy nhiên hiệu quả của từng yếu tố đạt được không có nghĩa là hiệu quả kinh doanh cũng đạt được, nó chỉ đạt được khi có sự thống nhất, có tính hệ thống và đồng bộ giữa các bộ phận, các yếu tố.
Trong xã hội chủ nghĩa phạm trù hiệu quả kinh doanh vẫn tồn tại vì sản phẩm của xã hội chủ nghĩa sản xuất ra vẫn là hàng hoá. Tuy nhiên mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa khác với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong xã hội chủ nghĩa, sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi người trong xã hội một cách tốt nhất. Chính vì đứng trên lập trường tư tưởng đó mà quan niệm về hiệu quả kinh doanh trong xã hội chủ nghĩa cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mẵn yêu cầu của các quy luật kinh tế cơ bản của xã hội chủ nghĩa, tiêu dùng với tư cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp, là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh”. Khó khăn ở đây là đưa ra được phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Nguyên nhân là do đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng và phong phú, có nhiều hình thức phản ánh trong các chỉ tiêu mức độ nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống
Qua các quan niệm trên có thể thấy: Mặc dù chưa có sự hoàn toàn thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh. Nhưng ở các quan niệm khác nhau đó lại có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh. Đó là do các quan điểm đã phản ánh đúng bản chất của hiệu quả kinh doanh - phản ánh mặt chất lượng của hiệu quả kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất để đạt được mục tiêu cuối cùng của hoạt động kinh doanh - mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
“Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất”.
Vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là việc thực hiện hàng loạt các biện pháp có hệ thống, có tổ chức, có tính đồng bộ và có tính liên tục tại doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu cuối cùng đó là hiệu quả cao.
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm rất nhiều khâu với các mối liên hệ, tác động qua lại mang tính chất quyết định và hỗ trợ cùng nhau thực hiện mục tiêu tổng thể của hoạt động kinh doanh. Nâng cao hoạt động của tất cả các khâu trong kinh doanh là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tổ chức điều hành hoạt động của bất cứ một doanh nghiệp nào.
Xét theo nghĩa rộng hơn thì hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả. Chính vì khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Bên cạch đó cần hiểu phạm trù hiệu quả một cách toàn diện trên cả hai mặt định lượng và định tính. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Nếu xét về tổng lượng thì kinh doanh chỉ đạt hiệu quả khi kết quả lớn hơn chi phí, chênh lệch này càng lớn hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
Về mặt định tính, hiệu quả kinh doanh cao phản ánh sự cố gắng, lỗ lực, trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể vừa là một phạm trù trừu tượng, nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các chỉ tiêu, con số để tính toán so sánh; nếu là phạm trù trìu tượng phải được định tính thành các mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì mục tiêu kinh doanh cơ bản của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận là phần giá trị rôi ra mà doanh nghiệp thu được ngoài các chi phí cần thiết (chi phí kinh doanh). Nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là việc cực đại hoá giá trị này thông qua hàng lạt các biện pháp cải tiến sản xuất, tiết kiệm trong thu mua, thúc đẩy tiêu thụ và phát huy tất cả các nguồn lực của doanh nghiệp.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh rất phức tạp vì bản thân kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh nhiều khi không được phản ánh chính xác. Nguyên do là có những chi phí và kết quả không phản ánh được bằng các đơn vị đo lường thông thường (như uy tín, phi phí vô hình...). Có lẽ vì vậy mà một đặc điểm quan trọng nhất của hiệu quả kinh doanh là khái niệm phức tạp và khó đánh giá chính xác. Hiệu quả kinh doanh được xác định từ kết quả thu được và chi phí bỏ ra, trong khi đó kết quả và chi phí lại rất khó đo lường vì vậy đo lường đánh giá hiệu quả kinh doanh là rất khó khăn.
Về kết quả kinh doanh: Hầu như rất ít các doanh nghiệp xác định được chính xác kết quả kinh doanh ở một thời điểm cụ thể. Nguyên nhân là do quá trình kinh doanh không trùng khớp với nhau, vả lại tại các doanh nghiệp sản xuất xác định sản phẩm đã tiêu thụ trong khâu hàng gủi bán tại các điểm tiêu thụ, đại lý hay đơn vị bạn...là rất khó khăn. Bên cạnh đó việc ảnh hưởng của thước đo giá trị cũng là nguyên nhân gây lên khó khăn trong việc đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh (thay đổi của giá trị đồng tiền trên thị trương theo địa điểm và thời gian).
Việc xác định chi phí kinh doanh cũng không dễ dàng. Về nguyên tắc, chi phí kinh doanh của doanh nghiệp được xác định từ chi phí hữu hình và chi phí vô hình. Xác định chi phí vô hình thường mang tính ước đoán, chúng ta không thể xác định chính xác chi phí vô hình trong một thương vụ kinh doanh. Chi phí vô hình là một cản trở lớn cho các không chỉ doanh nghiệp mà còn cả nền kinh tế quốc dân trong xác định được chính xác chi phí bỏ ra.
Cũng chính vì việc xác định kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh khó khăn mà dẫn tới khó xác định hiệu quả kinh doanh. Hơn nữa, điều này cũng dẫn đến tình trạng hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và hiệu quả kinh doanh dài hạn không phù hợp với nhau, đôi khi là mâu thuẫn. Chẳng hạn doanh nghiệp chú trọng vào các mục tiêu trước mắt mà bỏ qua các đoạn thị trường, bạn hàng truyền thống, về ngắn hạn có thể đem lại hiệu quả kinh doanh cao cho các doanh nghiệp. Nhưng về dài hạn có thể đem lại hiệu quả xấu.
Phân loại hiệu quả kinh doanh.
Phân loại hiệu quả kinh doanh là một việc làm hết sức thiết thực, nó là phương cách để các doanh nghiệp xem xét đánh giá những kết quả mà mình đạt được và là cơ sở để thành lập các chính sách, chiến lược, kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp. Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả được biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng và ý nghĩa cụ thể của nó. Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực trong việc điều hành tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp.
Hiệu quả cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp, với biểu hiện trực tiếp là lợi nhuận kinh doanh và chất lượng thực hiện những yêu cầu xã hội đặt ra cho nó. Hiệu quả kinh tế quốc dân được tính cho toàn bộ nền kinh tế, về cơ bản nó là sản phẩm thăng dư, thu nhập quốc dân hay tổng sản phẩm xã hội mà đất nước thu được trong mỗi thời kỳ so với lượng vốn sản xuất, lao động xã hội và tài nguyên đã hao phí.
Trong việc thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, mà còn cần phải đạt được hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; mức hiệu quả kinh tế quốc dân lại phụ thuộc vào mức hiệu quả cá biệt. Nghĩa là phụ thuộc vào sự cố gắng của mỗi người lao động và mỗi doanh nghiệp. Đồng thời xã hội thông qua hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước cũng có tác động trực tiếp đến hiệu quả cá biệt. Một cơ chế quản lý đúng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả cá biệt, ngược lại một chính sách lạc hậu, sai lầm lại trở thành lực cản kìm hãm nâng cao hiệu quả cá biệt.
Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Hiệu quả chi phí tổng hợp thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động kinh doanh.
Hiệu quả chi phí bộ phận lại thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với lượng chi phí từng yếu tố cần thiết để thực hiện nhiệm vụ ấy (lao động, thiết bị nguyên vật liệu ....)
Việc tính toán chỉ tiêu chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp. Việc tính toán chỉ tiêu chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của những yếu tố nội bộ hoạt động kinh doanh đến hiệu quả kinh tế chung. Về nguyên tắc, hiệu quả chi phí tổng hợp phụ thuộc vào hiệu quả của chi phí bộ phận.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Trong hoạt động kinh doanh, việc xác định và phân tích hiệu quả nhằm hai mục đích:
Một là, phân tích đánh giá trình độ quản lý và sử dụng các loại chi phí trong kinh doanh.
Hai là, phân tích luận chứng về kinh tế - xã hội các phương án khác nhau, trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó để.
Hiệu quả tuyệt đối được tính toán cho từng phương án bằng các xác định mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra, khi thực hiện mục tiêu.
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối, hoặc so sánh tương quan các đại lượng thể hiện chi phí hoặc kết quả của các phương án với nhau.
Cách phân loại này được sử dụng khá phổ biến và rộng rãi trong việc thực hiện thẩm định các dự án mới đầu tư, với các doanh nghiệp đi vào hoạt động thì chỉ tiêu hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối trong hai mốc thời gian khác nhau.
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị trường nhất là trong một nền kinh tế mở. Do vậy mà để thấy được vai trò của nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế trước hết chúng ta xem xét cơ chế thị trường và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi, điều tiết và lưu thông hàng hoá. Nó tồn tại một cách khách quan và gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Thông qua thị trường các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả trên thị trường. Trên thị trường luôn tồn tại các quy luật vận độngcủa hàng hoá giá cả và tiền tệ.... như các quy luật giá trị, quy luật giá cả, quy luật lưu thông, quy luật cạnh tranh.... Các quy luật này tạo thành một hệ thống thống nhất và hệ thống này chính là linh hồn của cơ chế thị trường. Dưới hình thức các quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường cơ chế thị trường tác động đến việc điều tiết sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và từ đó làm thay đổi cơ cấu sản phẩm cơ cấu ngành....Nói cách khác, cơ chế thị trường điều tiết quá trình phân phối, phân phối lại các nguồn lực của nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một cách tối ưu.
Sự vận động đa dạng, linh hoạt của cơ chế thị trường dẫn đến sự biểu hiện gần đúng nhu cầu và sự đáp ứng nhu cầu đó của thị trường, hay thị trường là nơi phát ra các tín hiệu về cung, cầu, giá cả điều tiết các thành viên của nó hoạt động theo các quy luật vốn có. Tuy nhiên điều này không phải là tuyệt đối, thị trường cũng biểu hiện rất nhiều các khuyết tật mà nó không tự khắc phục được như: cạnh tranh không hoàn hảo, phá huỷ môi trường, làm ăn phi pháp, lừa lọc....Để tránh những tác động tiêu cực này của thị trường, thì doanh nghiệp phải xác định cho mình mội cơ chế hoạt động trên hai thị trường đầu vào và thị trường đầu ra để đạt được kết quả cao nhất.
Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh với động cơ là kiếm lợi nhuận. Trong cơ chế thị trường, thì lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là động lực kinh tế để doanh nghiệp cũng như mỗi người lao động không ngừng sử dụng hợp lý tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh. Thật vậy, để cung cấp hàng hoá dịch vụ cho nhu cầu thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Họ phải thuê đất đai, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. Họ muốn hàng hoá và dịch vụ của mình được bán với giá cao để bù đắp lại những chi phí đã bỏ ra. Nếu xét về mặt định lượng hiệu quả kinh doanh chính là khoản chênh lệch giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra, và nâng cao hiệu quả kinh doanh nghĩa là tăng khoản chênh lệch này lên tối đa trong điều kiện cho phép. Vậy có thể thấy được hiệu quả kinh doanh chính là chỉ tiêu biểu hiện mục tiêu thực hiện và nâng cao hiệu quả kinh doanh là công cụ để thực hiện mục tiêu.
Nếu xét về mặt định tính thì hiệu quả kinh doanh biểu hiện chất lượng đạt được của mục tiêu, nó phản ánh trình độ của lực lượng sản xuất bao gồm tất cả các khâu, các bộ phận và từng các nhân riêng lẻ của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh về mặt định tính tức nâng cao trình độ khai thác, quản lý và sử dụng các nguồn lực trong sản xuất, đảm bảo sự tăng trưởng về mặt lượng gắn liền với sự phát triển về chất. Đây chính là lý do buộc doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhằm thực hiện phát triển bền vững trong xu hướng chung.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là nhân tố thúc đẩy khả năng cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận cạnh trạnh. Thị trường càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp lại càng khốc liệt hơn, đó là sự cạnh trạnh về chất lượng, gía cả, các dịch vụ hậu mãi....Với mục tiêu là phát triển, thì cạnh tranh là một nhân tố làm doanh nghiệp mạnh lên và cũng là nhân tố làm doanh nghiệp thất bại. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp đều phải chiến thắng trong cạnh tranh. Để thực hiện điều này thì tất yếu doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ với giá cả hợp lý. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng khối lượng, chất lượng hàng bán....và là hạt nhân cơ bản của sự thắng lợi trong cạnh tranh. Và các doanh nghiệp cạnh tranh nhau tức là không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó liên quan tới tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau.
Muốn đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết doanh nghiệp phải xác định được nhân tố nào tác động đến kinh doanh và tác động đến hiệu quả kinh doanh, nếu không làm được điều này thì doanh nghiệp không thể biết được hiệu quả hình thành từ đâu và cái gì sẽ quyết định nó. Xác định nhân tố ảnh hưởng, ảnh hưởng như thế nào và mức độ, xu hướng tác động là nhiệm vụ của bất cứ nhà kinh doanh nào.
Nói đến nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có rất nhiều, nhưng chúng ta có thể chia làm hai nhóm chính: nhân tố thuộc về doanh nghiệp và nhân tố ngoài doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải có biện pháp tác động lên các yếu tố một cách hợp lý, có hiệu quả, làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển tốt hơn, phát huy tốt hơn các nhân tố tích cực và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nhân tố thuộc về doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì nó phải có một hệ thống cơ sở vật chất, con người, đây chính là nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp. Trong guồng máy hoạt động chung của doanh nghiệp, mỗi nhân tố đóng một vai trò nhất định, mà thiếu nó thì toàn bộ hệ thống sẽ hoạt động kém hiệu quả hay ngừng hoạt động. Dưới đây xin đưa ra một số nhân tố ảnh hưởng chính đến hiệu quả kinh doanh.
Vốn kinh doanh
Ngày nay, nói đến kinh doanh thì nhân tố đầu tiên được quan tâm chính là vốn, đây là yếu tố nền tảng cho một hoạt động kinh doanh bắt đầu. Ngay trong luật pháp của Việt Nam cũng có quy định điều luật một doanh nghiệp được xã hội thừa nhận thì phải có số vốn tối thiếu là bao nhiêu. Vì vậy có thể khẳng định tầm quan trọng của vốn trong kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp dùng trong kinh doanh, bao gồm:
Tài sản cố định hữu hình: Nhà của, kho tàng, của hàng, quày hàng, các thiết bị máy móc....
Tài sản cố định vô hình: Bằng phát minh sáng chế, bản quyền sở hữu công nghiệp, uy tín của công ty trên thị trường, vị trí địa lý, nhãn hiệu các hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh....
Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc đá quý....
Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc thành lập loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là điều kiện quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh là một trong những tiềm năng quan trọng nhất của doanh nghiệp. Vốn lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện quan trọng để xếp doanh nghiệp vào loại có quy mô lớn, trung bình, nhỏ.
Vốn kinh doanh bao giờ cũng là cơ sở để hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Nó là một chất keo để chắp nối, dính kết các quá trình và các quan hệ kinh tế.
Vốn kinh doanh là điều kiện, khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là việc tối đa hoá lợi ích dựa trên cơ sở chi phí bỏ ra hay là tối thiếu hoá chi phí cho một mục tiêu nhất định nào đó. Trong kinh doanh không thể thiếu khái niệm chi phí khi muốn có hiệu quả. Vì vậy mà vốn chính là cơ sở để tạo ra lợi nhuận, đạt được mục đích cuối cùng của nhà kinh doanh.
Thiếu vốn cho kinh doanh sẽ làm giảm hiệu quả do không tận dụng được lợi thế quy mô, không tận dụng được các thời cơ, cơ hội. Tuy nhiên, thiếu vốn là vấn đề mà các doanh nghiệp luôn luôn gặp phải. Đứng trên góc độ của nhà kinh doanh thì cách thức giải quyết sẽ là tối đa hoá lợi ích trên cơ sở số vốn hiện có.
Bộ máy tổ chức, quản lý và lao động
Con người là khởi nguồn của mọi hoạt động có ý thức. Hoạt động kinh doanh được bắt đầu là do con người, tổ chức thực hiện nó cũng chính do con người. Một đội ngũ công nhân viên tốt là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện kinh doanh có hiệu quả. Với khả năng lao động và sáng tạo thì nhân tố con người được đánh giá là nhân tố nòng cốt cho sự phát triển. Kết hợp với hệ thống tư liệu sản xuất con người đã hình thành lên quá trình sản xuất. Sự hoàn thiện của nhân tố con người sẽ từng bước hoàn thiện quá trình sản xuất và xác lập hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp. Tuy vậy mỗi cá nhân đặt ngoài sự phân công lao động sẽ lại là một nhân tố làm giảm hiệu quả kinh doanh, khắc phục điều này chính là nguyên nhân ra đời của bộ máy tổ chức, quản lý
Bộ máy tổ chức, quản lý là sự tác động trực tiếp của của các cấp lãnh đạo xuống các cá nhân, công nhân viên nhằm mục đích buộc phải thực hiện một hành động hay một công việc nào đó. Bộ máy tổ chức, quản lý có hiệu quả là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Sự kết hợp yếu tố sản xuất không phải là tự phát như quá trình tự nhiên mà là kết quả của hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, có điều khiển của con người, vì vậy hình thành bộ máy tổ chức có hiệu quả là một đòi hỏi để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo ra một cơ cấu sản xuất phù hợp và thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Một cơ cấu hợp hợp lý còn góp phần xác định chiến lược kinh doanh thông qua cơ chế ra quyết định và ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu và chiến lược đó.
Cơ cấu tổ chức phù hợp góp phần phát triển nguồn nhân lực. Xác định rõ thực lực của từng cá nhân cụ thể, đặt họ đúng vị trí trong doanh nghiệp sẽ là cách thúc đẩy hiệu quả và phát huy nhân tố con người. Đồng thời nó tạo động lực cho các cá nhân phát triển, nâng cao trình độ khả năng của mình.
Nghệ thuật kinh doanh
Nghệ thuật kinh doanh là việc sử dụng có hiệu quả nhất các phương pháp, các tiềm năng, các cơ hội và các kinh nghiệm được tích luỹ trong quá trình kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu đề ra của doanh nghiệp.
Nghệ thuật kinh doanh là đảm bảo cho doanh nghiệp luôn tồn tại và phát triển. Đó là việc sử dụng các tiềm năng của bản thân doanh nghiệp cũng như của người khác, các cơ hội các phương pháp thủ đoạn kinh doanh có thể để: bỏ ra chi phí ít, thụ lại được nhiều, che dấu những nhược điểm của doanh nghiệp, giữ bí mật kinh doanh và khai thác được những điểm mạnh, điểm yếu của người khác, giải quyết nhanh ý đồ của doanh nghiệp mà không lôi kéo các đối thủ mới vào cuộc. Bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển lâu dài.
Mạng lưới kinh doanh
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay mỗi doanh nghiệp cần phải mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình, vì mạng lưới kinh doanh là cách thức để doanh nghiệp có thể tiêu thụ được sản phẩm của mình. Có tiêu thụ được sản phẩm thì mới thực hiện được kết quả kinh doanh và thực hiện lợi nhuận. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ cho phép doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, tăng doanh số bán và lợi nhuận. Mạng lưới kinh doanh phù hợp sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hiện nay tình hình thị trường rất biến động và cạnh tranh ngày càng gay gắt, mỗi doanh nghiệp cần phải năng động sáng tạo tìm ra cái mới, cái cần và ngày càng hoàn thiện mạng lưới kinh doanh để thích nghi trong cơ chế thị trường và đưa doanh nghiệp ngày càng đi lên.
Đòn bẩy kinh tế trong doanh nghiệp
Việc doanh nghiệp sử dụng các hình thức trách nhiệm vật chất, thưởng phạt nghiêm minh sẽ tạo ra động lực cho người lao động nỗ lực hơn trong phần trách nhiệm của mình, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tối đa tiềm năng lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi bộ phận phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh.
Những nhân tố ngoài doanh nghiệp.
Ngoài các nhân tố thuộc doanh nghiệp thì hệ thống nhân tố ngoài doanh nghiệp cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường
Thị trường là tổng hợp các thoả thuận thông qua đó người mua và người bán trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Chức năng cơ bản của thị trường là ấn định giá cả đảm bảo sao cho số lượng mà những người muốn mua bằng số lượng của những người muốn bán. Thị trường được cấu thành bởi người bán, người mua, hàng hoá và hệ thống quy luật thị trường.
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì tất yếu phải chịu sự tác động và tuân theo các quy luật của thị trường, việc thực hiện ngược lại các quy luật tất yếu sẽ bị đào thải. Thị trường tác động đến kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các nhân tố sau:
Cầu về hàng hoá
Cầu về hàng hoá là số lượng hàng hoá dịch vụ mà người mua muốn mua và sẵn sàng mua tại những mức giá cụ thể. Cầu là một bộ phận cấu thành lên thị trường, nó là lượng hàng hoá tối đa mà doanh nghiệp có thể tiêu thụ tại một thời điểm tại một mức giá nhất định. Khi cầu thị trường về hàng hoá của doanh nghiệp tăng thì lượng tiêu thụ tăng lên, giá trị được thực hiện nhiều hơn, quy mô sản xuất mở rộng và doanh nghiệp đạt được lợi nhuận ngày một tăng. Chỉ có cầu thị trường thì hiệu quả kinh doanh mới được thực hiện, thiếu cầu thị trường thì sản xuất sẽ luôn trong tình trạng trì trệ, sản phẩm luôn tồn trong kho, giá trị không được thực hiện điều này tất yếu là không có hiệu quả.
Vấn đề cầu thị trường luôn được các doanh nghiệp quan tâm. Trước khi ra quyết định thực hiện một hoạt động kinh doanh cụ thể nào thì công việc đầu tiên được các doanh nghiệp xem xét đó là cầu thị trường và khả năng đưa sản phẩm của mình vào thị trường. Ngày nay cầu thị trường đang trong tình trạng trì trệ, vấn đề kích cầu đang được Nhà nước và chính phủ đạt lên hàng đầu để thúc đẩy phát triển kinh tế, đây cũng là vấn đề gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Nghiên cứu cầu thị trường đầy đủ sẽ là nhân tố góp phần thành công của doanh nghiệp.
Cung về hàng hoá
Cung thị trường về hàng hoá là lượng hàng hoá mà người bán muốn bán và sẵn sàng bán tại những mức giá cụ thể.
Nhìn chung cung thị trường về hàng hoá tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên hai phương diện sau:
Cung thị trường về tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua hệ thống các yếu tố đầu vào mà doanh nghiệp cần. Việc thị trường có đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu của doanh nghiệp sẽ đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra đều đặn và liên tục, nếu không thì dẫn đến tình trạng cạnh tranh trong việc thu mua yếu tố đầu vào.
Cung thị trường tác động đến hiệu quả kinh doanh của ._.doanh nghiệp thông qua việc tiêu thụ. Nếu trên thị trường có quá nhiều đối thủ cũng cung cấp mặt hàng mà doanh nghiệp sản xuất hay những mặt hàng thay thế, thì tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, làm giảm mức tiêu thụ của doanh nghiệp. Sản phẩm không tiêu thụ được thì sản xuất sẽ ngừng trệ....
Giá cả
Giá cả trên trong cơ chế thị trường biến động phức tạp trên cơ sở quan hệ cung cầu, ở các thị trường khác nhau thì giá cả khác nhau. Do vậy doanh nghiệp cần phải nắm vững thị trường, dự đoán thị trường, để xác định mức giá mua vào bán ra cho phù hợp
Giá mua vào: có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Nó cần được xác định trên cơ sở của dự đoán thị trường và giá bán có thể. Giá mua vào càng thấp càng tốt và để đạt được giá mua vào thấp, doanh nghiệp cần phải tìm kiếm thị trường, lựa chọn mua ở thị trường nào và mua của ai. Doanh nghiệp càng có mối quan hệ rộng, có nhiều người cung cấp sẽ cho phép khảo giá được ở nhiều nơi và lựa chọn mức giá thấp nhất.
Giá bán ra: ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, nó được xác định bằng sự thoả thuận của người mua và người bán thông qua quan hệ cung cầu. Để đạt được hiệu quả kinh doanh thì giá bán phải đảm bảo lớn hơn giá thành sản xuất cộng với chi phí lưu thông. Do vậy để đạt hiệu quả kinh doanh phải dự báo giá cả và thị trường.
Cạnh tranh
Tình hình cạnh tranh trên thị trường có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh càng gay gắt có nghĩa là doanh nghiệp càng phải khó khăn và vất vả để tồn tại và phát triển. Ngoài ra cạnh tranh còn dẫn đến giảm giá bán, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trở lên khó khăn. Vì giờ đây doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm giảm giá thành, tổ chức lại bộ máy kinh doanh phù hợp.... để bù đằp những mất mát cho công ty về giá cả, chiến lược, mẫu mã.
Tập quán dân cư và mức độ thu nhập bình quân
Đây là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nó quyết định mức độ chất lượng, số lượng, chủng loại, gam hàng.... Doanh nghiệp cần phải nắm bắt và nghiên cứu để làm sao phù hợp với sức mua, thói quen tiêu dùng ở mức giá cả chấp nhận được. Bởi những yếu tố này tác động một cách gián tiếp lên quá trình sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Mối quan hệ và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường
Đây là giá trị vô hình của doanh nghiệp, nó tác động đến sự thành bại trong nâng cao hiệu quả kinh doanh. sự tác động đó là phi lượng hoá mà chúng ta không thể tính toán hay đo đạc bằng các phương pháp định lượng. Quan hệ, uy tín của doanh nghiệp sẽ cho phép mở rộng các cơ hội kinh doanh, mở rộng những đầu mối làm ăn và từ đó doanh nghiệp sẽ có quyền lựa chọn những gì có lợi cho mình. Hơn thế nữa quan hệ và uy tín sẽ cho phép doanh nghiệp có ưu thế trong việc tiêu thụ, vay vốn hay mua chịu hàng hoá....
Kỹ thuật công nghệ
Yếu tố kỹ thuật công nghệ làm cơ sở cho yếu tố kinh tế, là phương cách để dẫn đến sự ra đời của sản phẩm mới, tác động vào mô hình tiêu thụ và hệ thống bán hàng. Những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đã làm thay đổi tận gốc hàng hoá và quy trình sản xuất, tác động sâu sắc đến hai yếu tố cơ bản tạo lên khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán sản phẩm.
Doanh nghiệp cần phải hiểu rõ những biến đổi đang diễn ra của yếu tố khoa học kỹ thuật. Phân tích yếu tố khoa học kỹ thuật giúp doanh nghiệp nhận thức được các thay đổi về mặt công nghệ và khả năng ứng dụng của nó vào doanh nghiệp. Hướng nghiên cứu có thể bao gồm những yếu tố sau:
Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Tiến bộ kỹ thuật và khả năng ứng dụng trong hoạt động kinh doanh.
Chiến lược phát triển kỹ thuật và công nghệ của đất nước.
Chính trị và pháp luật
Hoạt động kinh doanh phải tuân theo các quy định của pháp luật. Luật pháp là quy tắc của cuộc chơi kinh doanh mà ai vi phạm sẽ bị xử lý. Luật pháp ngăn cấm mọi người kinh doanh bất hợp pháp, trốn thuế, buôn lậu....xong nó cũng bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia kinh doanh. Yếu tố chính trị là thể hiện sự điều tiết bằng pháp luật của Nhà nước đến các hoạt động kinh doanh.
Để thành công trong kinh doanh các doanh nghiệp phải phân tích, dự đoán về chính trị và luật pháp cùng xu hướng vận động của nó, bao gồm:
Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao.
Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của chính phủ.
Sự phát triển và quyết định bảo vệ người tiêu dùng.
Hệ thống luật, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành.
Điều kiện tự nhiên
Môi trường tự nhiên gồm các nhân tố:
Nhân tố thời tiết khí hậu, mùa vụ: nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến quy trình, tiến độ kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng đố uống giải khát, hàng nông sản, thuỷ hải sản....Với những điều kiện thời tiết, khí hậu và mùa vụ nhất định thì các doanh nghiệp phải có chính sách cụ thể phụ hợp với điều kiện đó. Và khi yếu tố này không ổn định sẽ làm mất ổn định hoạt động kinh doanh và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.
Nhân tố tài nguyên thiên nhiên: nhân tố này chủ yếu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một khu vực có nhiều tài nguyên với trữ lượng lớn và có chất lượng tốt sẽ ảnh hưởng và tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp khai thác. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất nằm trong khu vực này mà có nhu cầu đến tài nguyên, nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nhân tố vị trí địa lý: đây là nhân tố không chỉ tác động đến lợi thế của doanh nghiệp mà còn tác động đến các mặt khác trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: Giao dịch vận chuyển, sản xuất....các mặt này cũng tác động đến hiệu quả kinh doanh bởi sự tác động lên các chi phí tương ứng.
Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp
Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cần phải dựa vào một hệ thống tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn làm mục tiêu phấn đấu. Cũng có thể nói rằng, doanh nghiệp có đạt được các tiêu chuẩn này mới có thể đạt được các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Hệ thống tiêu chuẩn đó bao gồm:
Doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường nhưng phải tuân thủ sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo hệ thống pháp luật hiện hành
Phải kết hợp hài hoà giữa ba loại lợi ích: cá nhân, tập thể và Nhà nước. Tuyệt đối không vì lợi ích cá nhân mà làm tổn hại tới lợi ích tập thể và xã hội.
Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, tức là việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát và đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội của ngành, địa phương và của bản thân doanh nghiệp.
Bảo đảm tính thực tiễn cho vệc nâng cao hiệu quả kinh doanh, khi đánh giá và xác định biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, địa phương, và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Lợi nhuận mà doanh nghiệp kiếm được phải dựa trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy luật của nền sản xuất hàng hoá.
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
Một số ký hiệu:
TR : tổng doanh thu
M : tổng vốn K.D
MF : vốn cố định
TC : tổng chi phí
L : tổng lao động
D : khấu hao
P : lợi nhuận
WL : tổng tiền lương
V : nguyên giá
MV : vốn lưu động B.Q
N : số vòng quay VLĐ
B : tổng nợ phải trả
BS : tổng nợ ngắn hạn
MM :vốn bằng tiền
SG : tồn kho
Q : sản lượng
Z : giá thành
Qu : sản lượng hỏng
Zu : chi phí S.P hỏng
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
Chỉ tiêu
Công thức xác định
í nghĩa
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp
- Lợi nhuận
TR – TC
Phản ánh số tiền lãi của Công ty
- Doanh thu trên một đồng chi phí sản xuất
TR
----------
TC
Bỏ ra một đồng chi phí chúng ta thu mấy đồng được mấy đồng doanh thu
- Doanh thu trên một đồng vốn sản xuất
TR
----------
M
Bỏ ra một đồng vốn đầu tư vào sản xuất ta thu được mấy đồng doanh thu
- Doanh lợi theo chi phí
P
----------
TC
Doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí thì lãi mấy đồng
- Doanh lợi theo vốn sản xuất
P
----------
M
Đầu tư một đồng vốn thì ta thu được mấy đồng lãi
- Doanh lợi doanh thu thuần
P
----------
TR
Khi thu được một đồng doanh thu chứng ta sẽ lã được mấy đồng
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hoạt động sử dụng lao động
- Năng suất lao động
TR
----------
L
Một lao động tạo ra mấy đồng doanh thu
- Kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương
TR
----------
WL
Bỏ ra một đồng tiền lương thì thu được mấy đồng doanh thu
- Khả năng sáng tạo giá trị của lao động
P
----------
L
Số khoản tiền lãi mà một công nhân đem lại cho doanh nghiệp
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
- Sức sản xuất của vốn cố định
TR
----------
MF
Bỏ ra một đồng vốn cố định thì thu được mấy đồng doanh thu
- Sức sinh lợi của vốn cố định
P
----------
MF
Đầu tư một đồng vốn cố định cho ta khoản lãi là bao nhiêu
- Hệ số hao mòn TSCĐ
D
----------
V
Khả năng thu hồi giá trị áy móc thiết bị đã đầu tư
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
- Sức sinh lợi của vốn lưu động
P
----------
MV
Đầu tư một đồng vốn lưu động thu được mấy đồng lãi
- Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay
365
----------
N
Cho biết thời gian để luân chuyển hết một vòng vốn lưu động là bao nhiêu ngày
- Số vòng quay vốn lưu động
TR
----------
MV
Số lần quay vòng của vốn lưu động trong thời kỳ nghiên cứu
- Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động
MV
----------
TR
Để có một đồng doanh thu thì vốn lưu động cần là bao nhiêu
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính
- Chỉ số mắc nợ
B
----------
M
Phản ánh phần trăm vốn Công ty đi chiếm dụng và sử dụng cốn của người khác
- Khả năng thanh toán ngắn hạn
MV
----------
BS
Khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn của Công ty bằng tài sản lưu động
- Khả năng thanh toán nhanh
MV – SQ
----------
BS
Khả năng chi trả nhanh của Công ty với các khoản nợ ngắn hạn
- Khả năng thanh toán tức thời
MM
----------
BS
Khả năng tra ngay tức thì các khoản nợ ngắn hạn của Công ty
- Hệ số quay kho
TR
----------
SQ
- Vốn lưu động bình quân tháng
MV1 + MV2
----------
2
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm
- Tỷ lệ sai hỏng
Cách 1: Thước đo hiện vật
Qu *100
----------
Q
Cách 2: Thước đo giá trị
Zu * 100
----------
Z
Phản ánh khả năng sản xuất của Công ty về độ chính xác, trình độ tay nghề của công nhân sản xuất, và hiệu quả sản xuất.
- Tỷ lệ đạt chất lượng
Q – Qu
----------*100
Q
Phản ánh sản phẩm đạt chất lượng của công ty
- Hệ số phân cấp bình quân
S Qi*Pi
----------
S Qi*P1
Phản ánh mức độ phẩm chất bình quân của các sản phẩm mà Công ty cung cấp
- Chỉ tiêu thẩm mỹ
Đặc trưng cho sự truyền cảm hấp dẫn của sản phẩm
- Chỉ tiêu công nghệ
Đặc trưng cho quá trình chế tạo đảm bảo tiết kiệm lớn nhất chi phí
- Chỉ tiêu về sinh thái
Đặc trưng cho độ độc hại của sản phẩm khi tác động lên môi trường
Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh doanh và chính những điều này làm triệt tiêu những cố gắng, nỗ lực của họ mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả. Như vậy khi dề cập đến hiệu quả kinh doanh chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Về mặt thời gian
Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xét trong dài hạn, hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả của chu kỳ sau. Trong thực tế không ít trường hợp chỉ thấy lợi ích trước mắt, thiếu xem xét toàn diện lâu dài. Vấn đề này đang tồn tại ở khá nhiều doanh nghiệp và trong đội ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Nghiên cứu và xem xét hiệu quả và nâng cao hiệu quả kinh doanh về mặt thời gian là việc không thể thiếu nhằm để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Về mặt không gian
Có hiệu quả kinh doanh hay không còn tuỳ thuộc vào chỗ hiệu quả của hoạt động cụ thể nào đó, có ảnh hưởng tăng giảm như thế nào đối với cả hệ thống mà nó liên quan túc là giữa các ngành kinh tế này với các ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, và đặc biệt là đối với doanh nghiệp Nhà nước thì có mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh với việc thực hiện các nhiệm vụ khác ngoài kinh tế
Như vậy, với nỗ lực được tính từ giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật nào đó dự định áp dụng vào thực tiễn đều phải được đặt vào xem xét toàn diện. Khi hiệu quả ấy không làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả chung thì nó mới được coi là thực sự có hiệu quả.
Về mặt định lượng
Hiệu quả kinh doanh phải được thể hiện trong mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh mà thực chất là hao phí lao động (lao động sống và lao động vật hoá) để tạo ra một đơn vị sản phẩm có ích nhất.
Về mặt định tính
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, khi đánh giá hiệu quả của hoạt động ấy không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được mà còn đánh giá chất lượng của kết quả ấy. Có như vậy thì hiệu quả hoạt động kinh doanh mới được đánh giá một cách toàn diện.
Kết quả đạt được trong sản xuất mới đảm bảo được yêu cầu tiêu dùng của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nhưng kết quả tạo ra ở mức nào, với giá trị nào, đó chính là vấn đề cần xem xét, vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Vì thế đánh giá hoạt động kinh doanh không chỉ đánh giá kết quả mà còn đánh giá chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả đó, tức là đánh giá người sản xuất tạo ra kết quả bằng phương tiện gì, bằng cách nào và chi phí bao nhiêu. Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ , do đó vấn đề mà con người quan tâm là làm sao với khả năng hiện có tạo ra được nhiều sản phẩm nhất. Đây là một nguyên nhân mà chúng ta phải xem xét lựa chọn phương cách để đạt được kết quả lớn nhất. Điều này cũng minh hoạ cho sự khác biệt giữ hai khái niệm hiệu quả và kết quả
Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật và mặt giá trị của hàng hoá
Mặt hiện vật của hàng hoá thể hiện ở số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm, mặt giá trị là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá sản phẩm, của kết quả và chi phí bỏ ra. Xem xét đánh giá hiệu quả kinh doanh trên cả hai mặt là một tất yếu. Đứng trên giác độ mặt hiện vật nó cho biết khả năng cung cấp và thoả mãn nhu cầu thị trường của doanh nghiệp, đứng trên giác độ mặt giá trị nó cho biết hiệu quả đích thực của kinh doanh.
Chương 2
Phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh
ở Công ty Bia Việt Hà
Vài nét về Công ty Bia Việt Hà
Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bia Việt Hà
Công ty Bia Việt Hà là một doanh nghiệp Nhà nước, được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trụ sở của Công ty bia Việt Hà hiện nay là 254 phố Minh Khai, quận hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Những ngày đầu tiên thành lập (9/1966) Công ty Bia Việt Hà trước kia có tên gọi là Xí Nghiệp Nước chấm, bởi mặt hàng kinh doanh chủ yếu là : nước chấm, dấm, tương....phương tiện lao động thủ công là chủ yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu, trình độ người lao động cũng rất thấp. Sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, giao nộp để phân phối theo chế độ tem phiếu (1966).
Đến đầu năm 1981 theo quyết định 25/HĐBT, 26/HĐBT của hội đồng bộ trưởng cho phép xí nghiệp tự lập kế hoạch, một phần do nhà nước bao cung, bao tiêu bù lỗ, còn một phần xí nghiệp tự khai thác vật tư, nguyên liệu, tự tiêu thụ ..... Do vậy, xí nghiệp bung ra các sản phẩm khác như rượu chanh, mì sợi, dầu ăn, dấm, bánh phồng tôm, gia vị, kẹo các loại....vì có nhiều loại sản phẩm như vậy nên ngày 14/05/1982 theo quyết định số 1652 QĐUB xí nghiệp đổi tên thành “Nhà máy Thực Phẩm Hà Nội”. Tuy nhiên thực chất của sản xuất vẫn mang tính thủ công với cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu là tự chế, chỉ có bốn máy ép nhập của Đức và 8 nồi quay lạc bọc đường.
Ngày 14/07/1987 quyết định 217 HĐBT đã xác lập quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nên nhà máy đã mạnh dạn vay 2 tỷ đồng của quỹ Sida Thuỵ Điển để lắp đặt dây chuyền sản xuất chai nhựa, tổ chức sản xuất nước chấm cao cấp, lạc bọc đường xuất khẩu sang Đông Âu và Liên Xô. Lúc này nhà máy đã tạo được công ăn việc làm liên tục cho 600 công nhân, nhiều khi phải làm thêm ca, thêm giờ. Song đến năm 1990, Đông Âu và Liên Xô biến động, nhà máy mất nguồn tiêu thụ đã không thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Trước tình hình vô cùng khó khăn như vậy nhà máy đã cùng ban lãnh đạo xác định lại mục tiêu của mình, là đổi mới lại nhà xưởng, tìm phương án sản xuất các sản phẩm có giá trị tiêu thụ cao, liên doanh, liên kết trong, ngoài nước, và đầu tư có chiều sâu....Đi theo mục tiêu này, nhà máy đã huy động được nhiều nguồn vốn để tu bổ cơ sở vật chất và đã liên kết với Công ty dịch vụ sản xuất tiểu thủ công Quận 10 TP Hồ Chí Minh để sản xuất mì ăn liền MISAGO được gần 3 năm. Trong thời gian này thành phố có chủ trương xây dựng hai ngành mũi nhọn là điện tử và vi sinh, được thành phố và nhà nước cổ vũ, Nhà máy đã nghiên cứu và mạnh dạn vay vốn đầu tư một dây chuyền bia công nghệ Đan Mạch nổi tiếng là bia Carlsberg với trên 150 năm và tiêu thụ ở 150 nước trên thế giới. Sản phẩm mới bia Halida của công ty ra đời, vừa xuất hiện trên thị trường, Halida đã được khách hàng biết đến và thị trường chấp nhận bởi chất lượng cao của nó. Sau một thời gian tính toán, cân nhắc, nhà máy đã đồng ý liên doanh với hãng bia Carlsberg của Đanh Mạch, bên Việt Nam góp 40% vốn. Tháng 10/1993 liên doanh chính thức đi vào hoạt động với sản lượng 3 triệu lít/năm, cải tiến thành 6 tiệu lít/năm và sau khi mở rộng đợt I là 14 tiệu lít/năm, mở rộng đợt II là 30 triệu lít/năm. Từ chỗ chỉ có sản phẩm bia lon Halida bây giờ nhà máy đã có sản phẩm bia lon Carlsberg và hai loại bia chai Halida, Carlsberg.
Song song với việc mở rộng sản xuất ở liên doanh, nhà máy đã tự nghiên cứu và lắp đặt một dây chuyền sản xuất bia hơi mang tên bia Việt Hà. Vì sản phẩm chính giờ đây là các loại bia lon, bia chai, bia hơi. Nên ngày 2/1/1994 theo quyết định số 2817 QĐUB của UBNDTP Hà Nội về việc đổi tên và điều chỉnh nhiệm vụ chức năng của nhà máy Bia Việt Hà, tách bộ phận liên doanh ra hạch toán độc lập. Nhà máy có tên gọi mới là: Công ty Bia Việt Hà, địa chỉ 254 Minh Khai Hà Nội
Tiếp tục thực hiện chủ trương đường lối đổi mới của đảng và nhà nước, ngay từ giữa năm 1998 Công ty Bia Việt Hà đã thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp. Để rồi vào đầu năm 1999 Công ty cổ phần Việt Hà ra đời, một công ty đầu tiên của nhà nước sản xuất bia thực hiện cổ phần hoá. Lúc này công ty chính thức tách xưởng bia 57 Quỳnh Lôi thành công ty cổ phần, đơn vị này tiến hành hạch toán độc lập. Công ty Nhà nước Bia Việt Hà hiện nay còn lại là xưởng bia 254 Minh Khai Hà Nội.
Chức năng nhiệm vụ của Công ty.
Công ty Bia Việt Hà được thành lập theo quyết định 2817 QĐUB của uỷ ban nhân dân thủ đô Hà nội ngày 2/1/1994. Trong quyết định thành lập này có quy định rõ chức năng và nhiệm vụ của Công ty Bia Việt Hà như sau:
Sản xuất kinh doanh các loại bia như: bia lon, bia chai, bia hơi và các loại nước giải khát có ga, nước khoáng ....
Hợp tác với các đơn vị cơ khí, diện lạnh để thiết kế, chế tạo thiết bị và chuyển giao công nghệ sản xuất bia, nước giải khát nước khoáng cho các đơn vị có nhu cầu.
Xuất khẩu các sản phẩm của công ty và sản phẩm liên doanh, nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu hoá chất cho nu cầu sản xuất của công ty và thị trường .
Sản xuất kinh doanh các loại bao bì bằng thuỷ tinh, cartoon, nhựa PP, PE, PET....phục vụ cho các ngành thực phẩm, dược phẩm và các ngành khác.
Dịch vụ du lịch và kinh doanh khách sạn.
Liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế trong ngoài nước làm đại lý, đại diện, mở cửa hàng dịch vụ, giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm của công ty và sản phẩm liên doanh.
Cơ cấu tổ chức của Công ty.
Công ty Bia Việt Hà hiện nay, có tổng số cán bộ công nhân viên là 261 người trong đó tổng số nhân viên quản lý hành chính là 45 người chiếm khoảng gần 17,2% trên tổng số cán bộ công nhân viên.
Đứng đầu công ty là Giám đốc do cấp trên bổ nhiệm sau khi đã tham khảo ý kiến đảng bộ và phiếu tín nhiệm của cán bộ công nhân viên toàn công ty. Giám đốc đại diện cho nhà nước, đại diện cho các bộ công nhân viên quản lý công ty theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc có quyền quyết định điều hành hoạt động của công ty theo đúng kế hoạnh, chính sách, pháp luật của nhà nước và nghị quyết của đại hội công nhân viên chức. Giám đốc là đại diện toàn quyền của công ty trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và đồng thời chụi trách nhiệm trước nhà nước cũng như cán bộ công nhân viên về kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Làm việc trực tiếp với Giám đốc là 4 phó giám đốc:
Phó giám đốc kỹ thuật: chịu trách nhiệm về chỉ đạo kiểm tra kỹ thuật để đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất, cụ thể là: giám sát hoạt động kỹ thuật, đảm bảo an toàn sản xuất, an toàn lao động, nghiên cứu và bảo dưỡng máy móc thiết bị, đào tạo và bồi dưỡng tay nghề....
Phó giám đốc tổ chức: chịu trách nhiệm về chỉ đạo và kiểm tra các công tác hành chính và nhân sự lao động. Bồi dưỡng đáo tạo công nhân và đảm bảo an ninh trật tự. Cụ thể giám sát phòng hành chính, phòng tổ chức bảo vệ.
Phó giám đốc kinh doanh : chịu trách nhiệm về công tác sổ sách kế toán toàn công ty. Tổ chức tình hình sản xuất kinh doanh .... làm nhiệm vụ bảo toàn vốn, có kế hoạch mở rộng sản xuất, tìm đối tác về tài chính.
Phó giám đốc tài chính : là người chịu trách nhiệm trực tiếp ra quyết định điều hành tới các phòng tài vụ và phòng kiến thiết cơ bản
Chịu sự chỉ đạo của các phó giám đốc là các phòng ban, tổng số phòng ban hiện nay trong công ty là 10 phòng ban, nhằm tham mưu giúp đỡ phó giám đốc có những thông tin để nắm rõ tình hình sản xuất kinh doanh. Bao gồm :
Phòng tổ chức lao động: (2 người) có nhiệm vụ tiếp nhận, thanh toán các chế độ lương thưởng, bảo hiểm xã hội, trợ cấp....cho người lao động, thực hiện thi đua công tác trong công ty
Phòng kỹ thuật: (7 người) xây dựng cải tiến quy trình công nghệ sản xuất, tổng hợp và đưa vào thực tiễn các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, phụ trách về các vấn đề kỹ thuật trong nhà máy. Xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật cho các sản phẩm mới.
Phòng KCS: (2 người) kiểm tra nghiệm thu chất lượng sản phẩm.
Phòng hành chính: (2 người) chăm lo vấn đề đời sống cho cán bộ công nhân viên công ty. Tiếp khách, giải quyết các thủ tục hành chính....
Phòng cung tiêu - Phòng kế hoạch : (2người) lập các kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư, nguyên liệu, tổ chức giới thiệu và bán sản phẩm ....
Phòng tài vụ : (6 người) thực hiện các nghiệp vụ tính toán ghi chép các thông tin về vốn, vật tư, nguyên vật liệu..... Nắm tình hình thu chi, lỗ lãi, bảo toàn vốn và nộp ngân sách.
Phòng kiến thiết cơ bản : (1 người) hoàn chỉnh tu sửa, xây dựng mới các công trình, cơ sở vật chất của công ty.
Tổ chức bảo vệ : (15 người) bảo vệ trật tự an ninh, an toàn cho sản xuất. Đảm bảo thực hiện đúng các nội quy, quy chế của công ty.
Ban kho : (3 người) tạo điều kiện để xuất vật tư cho sản xuất một cách dễ dàng. Nhập vật tư, bảo quản dự trữ khoa học để hàng hoá có chất lượng không thay đổi, hàng hoá trong kho không bị hao hụt mất mát.
Sơ đồ bộ máy quản lý Công ty Bia Việt Hà Hiện nay
PGĐ Tài chính
Phòng KTCB
Phòng tài vụ
Ban kho
Pgđ kinh doanh
Phòng kế hoạch
Phân xưởng sản xuất
Giám đốc
Phòng cung tiêu
PGđ tổ chức
Ban bảo vệ
Phòng tổ chức
Phòng hành chính
pgđ kỹ thuật
Phòng KCS
Phòng kỹ thuật
Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Bia Việt Hà
Đặc điểm sản phẩm bia hơi của Công ty
Từ ngày thành lập và trải qua hơn 30 năm hoạt động, công ty đã có rất nhiều sản phẩm khác nhau, biến đổi theo thời gian để phù hợp vời tình hình chung của yêu cầu thị trường có thời kỳ sản phẩm của công ty ngoài các mặt hàng như nước chấm, dấm, tương....còn có kẹo, rượu để xuất khẩu. Nắm bắt được tình hình thực tế từ năm 1993 trở lại đây sản phẩm chính của công ty Bia Việt Hà là bia hơi, công nghệ của Đan Mạch. Năm 1999 sản lượng kế hoạch là 12 triệu lít/năm tương ứng với dây chuyền thiết bị và sản lượng thực hiện là 10,73 triệu lít/năm đạt 89,42% kế hoạch.
Bia là một loại đồ uống được sản xuất từ một loại hạt nẩy mầm gọi là Malt và hoa Hublong (hoa tạo hương bia). Những nguyên liệu này chủ yếu là nhập khẩu. Vào những năm 1957-1958 khi bia lần đầu tiên được bán trên thị trường miền Bắc vẫn còn là một đồ uống xa lạ với mọi người. Khi đó người ta đã pha bia với Siro để giảm bớt vị đắng, sản lượng tiêu dùng bia khá ít. Dần dần, nhận ra tác dụng của loại đồ uống này với sức khoẻ thì nó trở nên thông dụng hơn. Người ta không chỉ uống bia vào những ngày nóng mà còn vào những tháng mùa đông hanh khô. Đặc biệt trong các dịp lễ tết, hội nghị, bia trở thành nhu cầu không thể thiếu. Trong tương lai bia sẽ trở thành một loại đồ uống được ưa chuộng và công nghiệp sản xuất bia còn nhiều tiềm năng phát triển mạnh.
Bia, đặc biệt là bia hơi có đặc điểm giống như mọi thứ hàng thực phẩm khác, qua thời gian bia sẽ lên men chất lượng giảm. Chính vì vậy vấn đề đặt ra với cơ sở là phải gắn liền quá trình sản xuất với tiêu thụ sản phẩm.
Bia có thành phần từ các nguyên liệu chủ yếu là: gạo, Malt (men), hoa Hublong với các nhiên liệu than, điện cùng một số hoá chất khác. Định mức cho 100 lít bia mà công ty đang sản xuất bao gồm :
Malt : 13 Kg
Hoa Hublong : 1 Kg
Điện : 15 Kw
Gạo : 6 Kg
Cao hoa : 0,4 Kg
Đường và hoá chất: 1,5 Kg
Khác với sản phẩm giải khát khác, sản phẩm bia khi sản xuất đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh rất cao mới cho sản phẩm có chất lượng. Song mặt khác nó cũng yêu cầu một chế độ bảo quản nghiêm ngặt trong khoảng nhiệt độ thấp từ lúc là thành phẩm hoàn chỉnh đến khi tiêu dùng. Đặc điểm quan trọng này ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sản xuất và tiêu thụ bia .
Đặc điểm về tiêu thụ sản phẩm
Công ty Bia Việt Hà là doanh nghiệp sản xuất chuyên môn hoá mặt hàng Bia hơi. Hiện nay sản phẩm bia trên thị trường Việt Nam được chia làm ba loại: bia cao cấp, bia trung bình và bia có chất lượng kém. Sản phẩm Bia hơi của công ty là loại sản phẩm tươi mát có giá trị dinh dưỡng cao, thời gian bảo quản tốt nhất là 24h. Sản phẩm của công ty thuộc loại chất lượng phổ thông, đối tượng phục vụ chính là người tiêu dùng có thu nhập từ trung bình trở xuống. Sản phẩm bia của công ty có chất lượng phù hợp với người tiêu dùng và giá cả phải chăng nên dần chiếm lĩnh được thị trường. Thị trường tiêu thu sản phẩm chính của Công ty Bia Việt Hà là thành phố Hà nội, với các quận huyện nội thành. Hiện nay công ty có khoảng 420 điểm tiêu thụ với mức tiêu thụ bình quân một ngày là 70lít/điểm tiêu thụ. Số điểm này được thể hiện qua bảng sau.
Bảng 1: khả năng Tiêu thụ sản phẩm bia hơi của công ty
Đơn vị: lít/ngày/điểm tiêu thụ
Năm
Số điểm tiêu thụ
Số lượng tiêu thụ bình quân
1992
15
-
1994
160
30
1996
570
40
1998
610
70
1999
418
70
Do bia là một sản phẩm đang có sức tiêu thụ lớn, thu lợi nhuân cao nên ngày càng có nhiều sản phẩm cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất. Các hãng đưa ra sản phẩm của mình với những lời quảng cáo rất hấp dẫn.
Ngoài tính chất thời vụ, thị hiếu người tiêu dùng, công ty phải tính đến thu nhập của người tiêu dùng và cách phân bổ của họ cho đồ uống trong sinh hoạt hằng ngày mà đặc biệt là mặt hàng bia hơi. Những người có thu nhập cao thường dùng bia có chất lượng cao và nếu trung bình trở xuống thì họ lại có mặt hàng đáp ứng cho mình một cách hợp lý hơn. Đó là bia chai và bia hơi, các loại bia này chất lượng tươi ngon, giá lại rẻ hơn nên đáp ứng phần lớn nhu cầu của người lao động bình thường. Đây là nguyên nhân chính tạo ra hệ thống khách hàng cho loại bia hơi: nhân dân lao động và người có thu nhập trung bình.
Từ những nhận xét đó, Công ty đã hướng mũi nhọn phấn đấu của mình vào đối tượng khách hàng là nhân dân lao động, ngày càng củng cố chất lượng, thâm nhập vào tầng lớp này để mở rộng thị trường. Năm 1992 công ty chỉ có 15 địa điểm tiêu thụ sản phẩm với số lượng trung bình 30 lít/hộ/ngày, thì cho đến năm 1998 số hộ đăng ký kinh doanh bia hơi việt hà lên tới gần 610 điểm với số lượng trung bình 70 lít/hộ/ngày. Tuy nhiên do tính chất thời vụ của bia, nên số lượng phân bổ có sự khác nhau giữa mùa hè và mùa đông. Mùa đông trung bình một ngày tại một điểm tiêu thu là 50 lít, còn vào mùa hè số lượng này tăng gần gấp đôi khoảng 90 lít. Tại các quầy giới thiệu tiêu thụ sản phẩm của con số này còn lớn hơn rất nhiều, ví dụ riêng 6 tháng đầu năm 1992 của hàng 69 Trương định đã tiêu thụ được 27.000 lít chiếm 1/10 tổng lượng bia sản xuất ra. Việc hình thành các quầy tiêu thụ của công ty trong những ngày đầu thành lập nhằm mục đích nắm được thông tin từ khách hàng về giá cả chất lượng bia. Đến năm 1994 thị trường của công ty đã đi vào ổn định, kênh phân phối của công ty chủ yếu thông qua những người bán lẻ đó là hộ gia đình, của hàng đăng ký làm đại lý tiêu thụ cho công ty. Hiện nay, xấp xỉ 100% lượng bia hơi sản xuất ra là do các hộ gia đình làm đại lý tiêu thụ, chỉ còn duy nhất một quầy giới thiệu tiêu thụ sản phẩm, với mục đích thu nhận những ý kiến đóng góp của khách hàng với sản phẩm của công ty. Điều này chứng tỏ uy tín của khách hàng ngày càng tăng đối với công ty. Số hộ gia đình đăng ký làm đại lý không ngừng tăng, làm tăng nhanh tốc độ tiêu thụ và sản xuất của công ty. Việc sử dụng kênh tiêu thụ thông qua các hộ gia đình là một phương pháp hữu hiệu, làm cơ sở mở rộng thị trường và thông qua mạng lưới này công ty có thể quảng cáo sản phẩm của mình tới quảng đại quần chúng.
Về sản lượng tiêu thụ và mức giá bán sản phẩm của Công ty được thể hiện qua bảng số liệu sau.
Bảng 2: Sản lượng bia của công ty qua các năm.
Đơn vị: triệu lít
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Giá (đ/lít)
3700
40._.ốn
Tận dụng tối đa dây chuyền sản xuất
Một thực tế tại Công ty là dây chuyền sản xuất bia chưa được huy động hết công suất. Công suất thiết kế là 12 triệu lít, trong đó thực tế mới huy động đến 10,73 triệu lít. Giá trị khấu hao hàng năm là 650 triệu đồng. Việc sản xuất thấp so với công suất làm cho giá thành sản phẩm tăng lên vì chi phí khấu hao toàn bộ máy móc. Bên cạnh đó Công ty vẫn phải trả lương cho công nhân theo thời gian, mặc dù số lao động này có thể không cần sử dụng. Từ thực tế đó Công ty cần tận dụng hết công suất của dây chuyền. Nếu dây chuyền hoạt động hết công suất thì sẽ đem lại các kết quả:
- Tăng lượng bia tiêu thụ, tăng thị phần của Công ty, uy tín với khách hàng sẽ được nâng cao.
- Tạo sự gắn bó giữa các hộ gia đình làm điiển tiêu thụ, khách hàng và Công ty - đây là điều quan trọng để tiếp nhận những thông tin phản hồi từ các cơ sở tiêu thụ và khách hàng.
- Tận dụng nguồn lao động sẵn có.
- Giảm chi phí tồn kho nguyên vật liệu, góp phần tăng nhanh vòng quay vốn lưu động.
- Chi phí khấu hao trong giá thành hạ xuống, nâng cao hiệu quả kinh doanh
Với những ích lợi đem lại và thực tế sản xuất Công ty cần phải phát hết năng lực của dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên vấn đề đặt ra lại là làm thế nào để tiêu thụ hết lượng sản xuất thêm. Hiện nay tốc độ gia tăng nhu cầu thị trường với sản phẩm bia hơi ngày một tăng, mặt khác với những biện pháp đưa ra trong phần đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm thì đảm bảo rằng khi công ty huy động hết công suất của dây truyền thì sản phẩm vẫn được tiêu thụ hết.
Cải tiến cơ cấu vốn phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sử dụng vốn không chỉ phụ thuộc vào khối lượng, quy mô của vốn đưa vào sản xuất kinh doanh mà còn phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu lượng vốn đó. Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng ngành, từng doanh nghiệp mà từ đó xác định cơ cấu vốn cho hợp lý và tối ưu.
Hiện nay cơ cấu vốn của Công ty chưa hợp lý trong việc phân phối vào tài sản. Như đã phân tích, tài sản cố định của Công ty có khả năng sinh lời khá cao, nhưng việc đổi mới tài sản cố định chưa mạnh mẽ, các bộ phận thiếu đồng bộ, công suất thực tế vẫn chưa đạt mức thiết kế. Tốc độ luân chuyển chậm và bị ứ đọng. Trong khi đó vốn lưu động lại sử dụng kém hiệu quả, lãng phí trên 3,5 tỷ đồng. Do vậy cơ cấu vốn của Công ty phải dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng tài sản cố định, giảm tỷ trọng vốn lưu động.
Sản phẩm của Công ty được tiêu thụ khá mạnh, nhưng việc thu hồi các khoản bán hàng rất chậm dẫn đến tình trạng bị chiếm dụng vốn và để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh Công ty lại phải đi vay hay chiếm dụng của các Công ty khác....Công ty bị chiếm dụng khoảng 12 tỷ đồng, đây không phải là một con số nhỏ với Công ty có tổng số vốn kinh doanh 47 tỷ. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bắt buộc Công ty phải tìm mọi cách thu hồi lại khoản vốn này.
Trước mắt Công ty cần phải phân khoản phải thu thành nợ có thể đòi và nợ khó đòi. Khoản nợ có thể đòi luôn được thì phải tiến hành xúc tiến để thu lại tiền, các khoản nợ khó đòi có thể nhờ các cơ quan có thẩm quyền can thiệp và giúp đỡ. Trong thời gian tới công ty nên bỏ phương pháp bán hàng trả chậm kéo dài, thay vào đó là thanh toán luôn hay chỉ chậm một vài ngày. Hình thức cấp tín dụng cho người mua tại thời điểm hiện nay không thích hợp với Công ty. Việc thanh toán chậm chỉ tiến hành với những khách hàng có mối quan hệ làm ăn lâu dài.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh yêu cầu Công ty phải có một cơ cấu vốn hợp lý. Sau khi thực hiện các nghiệp vụ thu hồi các khoản nợ này công ty lên tiến hành đầu tư vào tài sản cố định. Tài sản cố định của Công ty có sức sịnh lời lớn nhất trong toàn bộ cơ sở vật chất. Một đồng vốn bỏ vào tài sản lưu động chỉ đem lại được 0,044 đồng tiền lãi, nhưng với tài sản cố định một đồng vốn đem lại 0,089 đồng. Với khoản phải thu 12 tỷ đồng được đầu tư vào tài sản cố định sẽ đem lại 12 * 0,089 = 1,068 tỷ đồng tiền lãi.
Việc đầu tư vào tài sản cố định mà cụ thể là máy móc thiết bị là cần thiết vì để đạt được mức sản lượng 17 triệu lít bia/năm vào năm 2002 công ty cần phải nâng công suất tối thiểu là 16,5 triệu lít. Hiện nay công suất máy móc thiết bị là 12 triệu lít/năm, do vậy Công ty phải đầu tư máy móc thiết bị nếu muốn thực hiện kế hoạch của mình.
Song song với áp dụng phương án sử dụng khoản tiền đòi nợ đầu tư vào tài sản cố định thì Công ty phải tiến hành huy động các nguồn vốn khác để hỗ trợ và có thể đầu tư vào tài sản cố định, nguồn vốn này có thể là huy động từ ngân hàng các doanh nghiệp liên doanh, hay từ ngân sách Nhà nước.
Một phương thức khác mà doanh nghiệp cũng có thể áp dụng là thuê tài sản cố định của các doanh nghiệp khác để tiến hành cân đối tài sản cố định và tài sản lưu động, nhằm đạt đựoc cơ cấu vốn hợp lý. Nhưng quan trọng hơn cả là Công ty sử dụng chúng mở rộng sản xuất kinh doanh.
Cải thiện công tác khấu hao tài sản cố định
Trong những năm qua Công ty thực hiện khấu hao theo quyết định 1065/TC/QĐ/CSTC, khấu hao đường thăng với tỷ lệ 10%- 12%/năm. Với tỷ lệ này Công ty phải mất 8-10 năm mới khấu hao hết tài sản cố định.
Thực tế hiện nay Công ty có những tài sản cố định, máy móc thiết bị lạc hậu cần phải đổi mới. Dưới sự tác động của tiến bộ kỹ thuật, sự biến động của giá cả, sự hư hỏng mất mát làm giảm công suất máy móc trước thời hạn là nguyên nhân làm cho quỹ khấu hao không thể bù đắp tái đầu tư vào tài sản cố định.
Trong thời gian tới Công ty cần có sự đổi mới công tác trích khấu hao, cụ thể là tăng tỷ lệ trích khấu hao tài sản cố định để đảm bảo tái đầu tư (do chi phí tài sản cố định cho một lít bia của công ty tương đối thấp 65 đ/lít). Công ty cần phải phân loại từng nhóm tài sản cố định và xác định tỷ lệ khấu hao cho mỗi nhóm cho phù hợp. Theo quy định về khấu hao hiện nay công ty có thể trích khấu hao với tỷ lện 20%, do vậy để tăng nguồn vốn tự có cho đổi mới công nghệ, tuỳ theo từng nhóm tài sản cố định công ty có thể trích khấu hao trên 10-12%/năm.
Ví dụ : nếu công ty áp dụng tỷ lệ khấu hao 20%/năm cho máy móc thiết bị thay vì 12%/năm thì chỉ sau 5 năm là công ty có thể thu hồi được vốn đầu tư, trong khi đó trước đây công ty phải mất hơn 8 năm mới thu hồi được vốn. Với tỷ lệ trích khấu hao mới Công ty rút ngắn được hơn 3 năm cho thời gian thu hồi vốn. Điều này thể hiện sự phù hợp với thực tế phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và sự rút ngắn của chu kỳ đổi mời máy móc thiết bị. Đồng thời nó hạn chế được sự ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy vậy việc áp dụng tỷ lệ khấu hao 20% sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng rất thấp.
Với mức khấu hao 65 đồng/lít bia hơi là điều kiện đảm bảo việc áp dụng tỷ lệ khấu hao cao trong thời gian tới không ảnh hưởng nhiều đến giá thành và giá bán sản phẩm của Công ty trên thị trường.
Tăng hiệu suất sử dụng tài sản lưu động
Vấn đề khúc mắc lớn nhất trong sử dụng tài sản lưu động của Công ty là lượng hàng tồn kho quá lớn chiếm 29,74% vốn kinh doanh và 44,38% vốn lưu động (năm 1999). Để tăng hiệu suất sử dụng tài sản lưu động yêu cầu Công ty phải giảm lượng hàng tồn kho trong đó chủ yếu là nguyên vật liệu. Cụ thể là phải thực hiện các biện pháp sau:
Bán thanh lý, hạ giá để thu hồi vốn lưu động lượng hàng tồn kho quá lâu của Công ty. Trong lượng hàng tồn kho của Công ty có một số bộ phận tồn kho quá lâu, chuyển qua một số kỳ kinh doanh như Malt và đường gây ứ đọng vốn. Vì vậy lượng hàng này cần thiết phải được thanh lý để thu hồi vốn sử dụng vào các mục đích khác. Để thanh lý Công ty có thể liên hệ với các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng Malt và đường.
Xây dựng kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu theo chu kỳ sản xuất. Đây là công việc hết sức khó khăn, yêu cầu Công ty phải cân đối lượng bán ra và mua vào. Căn cứ vào các định mức sử dụng nguyên vật liệu do phòng kỹ thuật thiết kế, cộng với dự đoán thị trường của phòng Marketing và kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty để đưa ra nhu cầu sử dụng nguyên vật. Căn cứ vào các thuộc tính tự nhiên, chu kỳ cung ứng nguyên vật liệu là cơ sở đúng đắn nhất để công ty đưa ra mức dự trữ nguyên vật liệu tối ưu.
Với các khoản phải thu biện pháp xử lý đã được nêu trong phần cải tiến cơ cấu vốn phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh.
Biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu.
Tăng cường hoạt động Marketing.
Thành lập phòng Marketing
Trong nền kinh tế thị trường mang tính cạch tranh như ngày nay thì hoạt động Marketing là không thể thiếu được nhằm thúc đẩy, hỗ trợ cho tiêu thụ sản phẩm, tăng sản lượng tiêu thụ của Công ty, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động Marketing tiến hành phân tích, nghiên cứu khả năng thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu. Soạn thảo chương trình Marketing - Mix với các chính sách (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến) tác động mạnh tới quá trình sản xuất và kinh doanh. Thông qua hoạt động Marketing Công ty sẽ biết được nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm của mình, từ đó mà Công ty có kế hoạch đầu tư kinh doanh dài hạn phù hợp với nhu cầu thị trường. Hoạt động Marketing sẽ thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm, góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận, tốc độ luân chuyển vốn....
Thực tế thời gian qua Công ty Bia Việt Hà chưa chú trọng đến hoạt động Marketing. Điều này được thể hiện rõ là Công ty chưa có phòng Marketing, hoạt động Marketing nằm phân tán ở các phòng như phòng cung tiêu (thực hiện các hoạt động tiêu thụ về xúc tiến và phân phối), phòng kế hoạch (thực hiện các vấn đề kế hoạch, chính sách giá cả, tiêu thụ sản phẩm....), phòng kỹ thuật (nghiên cứu sản phẩm mới). Các hoạt động Marketing của Công ty có tính đơn lẻ, không tập trung, thiếu một chính sách nhất quán đồng bộ phù hợp với định hướng và chiến lược phát triển của Công ty.
Do việc thiếu công tác nghiên cứu thị trường nên dẫn đến tình trạng sản phẩm đạt các tiêu chuẩn khoa học, nhưng khi bán ra thị trường vẫn bị người tiêu dùng chê và xem chưa thoả mãn được nhu cầu. Theo kế hoạch Công ty sẽ sản xuất 17 triệu lít bia hơi/năm vào năm 2002, vậy liệu Công ty có dễ dàng tiêu thụ được khối lượng sản phẩm lớn như vậy không để đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và đạt hiệu quả kinh doanh nếu không đẩy mạnh hoạt động Marketing.
Vì vậy nhiệm vụ cấp bách của Công ty hiện nay là phải đẩy mạnh hoạt động Marketing. Công ty nên chính thức tách nghiệp vụ Marketing tại các phòng để thành lập nên phòng Marketing. Để thành lập phòng Marketing Công ty phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực, năng động và có trách nhiệm với công việc. Công ty nên chuyển những cán bộ trước đây hoạt động Marketing tại phòng kế hoạch, cung tiêu và phòng kỹ thuật, tiến hành đào tạo thêm nghiệp vụ cho họ để họ có thể thực hiện được nhiệm vụ, chức năng được giao. Yêu cầu với đối với nhân viên Marketing là phải có kiến thức, có khả năng thu thập xử lý thông tin và hiểu biết về lĩnh vực chế biến thực phẩm và
Chức năng chính của phòng Marketing sau khi thành lập là thực hiện các nghiệp vụ làm việc với thị trường, tìm thị trường mục tiêu mới và thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường đã chiếm lĩnh. Nội dung cơ bản trong hoạt động Marketing bao gồm:
- Nghiên cứu thị trường trên cơ sở các tài liệu nghiên cứu như các bản tin kinh tế, thương mại... và dặc biệt quan trọng là nghiên cứu trên cơ sở thăm dò thực tế. Căn cứ vào các thông tin từ thị trường mục tiêu, khách hàng Công ty xác định chất lượng và mức giá bán ra thị trường tối ưu nhất.
- Nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển của Công ty và chiến lược Marketing.
- Thực hiện các nghiệp vụ nhằm hỗ trợ thúc đẩy tiêu thụ.
Để phòng Marketing hoạt động Công ty cần tiến hành trang bị cơ sở vật chất, đó là nơi làm việc cho cán bộ, các thết bị xử lý thông tin. Công ty cần giao quyền hạn và trách nhiệm cụ thể, có chính sách và tạo điều kiện để phòng Marketing thực hiện tốt trách nhiệm.
Thành lập phòng Marketing và lợi ích từ phòng Marketing có ý nghĩa về nhiều mặt, trước hết là thức đây tiêu thu, sau đó là nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường
Những năm qua nghiên cứu thị trường đã được Công ty quan tâm, nhưng hiệu quả do nghiên cứu thị trường đem lại tại Công ty chưa cao, cụ thể là thị trường mục tiêu nằm trên địa bàn đạt nhà máy là chủ yếu, thị phần trên thị trường thấp.... Là một nhiệm vụ của phòng Marketing do vậy nghiên cứu thị trường phải giao cho phòng Marketing. Nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường yêu cầu phòng Marketing phải có một kế hoạch cụ thể về địa bàn, về tiến độ thực thi nhằm đưa ra các kết quả xác đáng và các quy luật biến động của thị trường đối với sản phẩm bia hơi của Công ty theo giá, theo mùa.... Cụ thể là thực hiện các nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu thị trường hiện tại, thị trường tiềm năng của Công ty theo khu vực địa lý, thu nhập người tiêu dùng. Cần xác định tốc độ gia tăng, quy mô, cơ cấu, sự vận động của loại thị trường này
- Nghiên cứu nhu cầu đối với sản phẩm bia nói chung và bia hơi của Công ty nói riêng tại thị trường Hà Nội và các khu vực ngoại thành lân cận và đặc biệt là ba điạ bàn mà Công ty còn bỏ ngỏ đó là Quận Tây Hồ, Quân Cầu Giấy và quận Thanh Xuân. Xác định nhu cầu có khả năng thanh toán của khách hàng, đây là nhiệm vụ quan trọng nhất trong nghiên cứu thị trường, nó giúp Công ty xác định được thị trường mục tiêu.
- Nghiên cứu nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán của khách hàng. Để tránh những phản ánh không tốt về chất lượng sản phẩm của Công ty thì nghiên cứu chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng là quan trọng nhất. Công ty không chỉ thu nhận các ý kiến của khách hàng một cách bị động thông qua phản ánh của họ tại quầy giới thiệu sản phẩm như hiện nay, mà phải thực hiện các bảng hỏi điều tra chất lượng sản phẩm, mức giá bán hợp lý. Các bảng hỏi do phòng Marketing của Công ty thiết kế trên cơ sở hiểu biết rõ về đặc tính và tác dụng của sản phẩm, công việc này nên được tiến hành thương xuyên khoảng 1 năm một lần.
- Nghiên cứu tình hình cạch tranh của thị trường bia. Công ty cần chú ý đến các đối thủ cạnh tranh với các chiến lược cũng như tiềm năng của họ, đặc biệt là sản phẩm bia hơi của Công ty Bia Hà Nội. Từ những hiểu biết về đối thủ cạch tranh Công ty phải đưa ra các chính sách, các chiến lược phát triển của mình cho phù hợp để duy trì và phát triển thị phần của Công ty.
Từ những nghiên cứu trên Công ty lựa chọn thị trường mục tiêu cho mình. Theo thực tế của Công ty hiện nay, Công ty nên chọn đoạn thị trường mà mức thu nhập đầu người từ trung bình đến sát mức cao tại Hà Nội và các vùng phụ cận đặc biệt là Gia Lâm và Thanh Trì. Đây là đoạn thị trường mà hiện tại sản phẩm của Công ty đã đáp ứng nhu cầu của khách hàng về chất lượng và giá cả sản phẩm nhưng lại chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng.
Tăng cường hoạt động xúc tiến khyếch trương
Hiện nay Công ty chưa đẩy mạnh hoạt động xúc tiến khuyếch trương và quảng cáo sản phẩm. Hoạt động quảng cáo khuyếch trương sản phẩm của Công ty trước đây chỉ là băng rôn khẩu hiệu. Để tăng mức tiêu thụ, Công ty cần tăng cường hơn các hình thức quảng các trên. Không chỉ có thể Công ty cần thực hện quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo khác như báo Hà Nội mới, các báo địa phương khác.... Tuy nhiên quảng cáo tối ưu nhất cho sản phẩm của Công ty vẫn là quảng cáo của người tác động, vì vậy nhiệm vụ chính của Công ty vẫn là nâng cao chất lượng sản phẩm và bán với mức giá hợp lý.
Thúc đẩy hoạt động quảng cáo khuyếch trương, yêu cầu Công ty dành một khoản ngân sách riêng cho hoạt động này. Việc xác định cần cung cấp bao nhiêu tiền cho quảng cáo nhằm thu lợi ích cao nhất và chi phí thấp nhất sẽ được thực hiện bởi phòng Marketing và phòng kế hoạch. Hai phòng ban này phải phối hợp với nhau lập ra một dự thảo về chương trình xúc tiến khuyếch trương trên căn cứ định hướng phát triển, chiến lược phát triển, chiến lược Marketing và kế hoạch chiếm lĩnh thị trường của Công ty. Sau khi lập song dự thảo với đầy đủ luận chứng kinh tế sẽ được trình lên phó giám đốc kinh doanh, phó giám đốc sẽ đưa vấn đề này lên ban giám đốc cùng thảo luận và quyết định hoạt động của chương trình xúc tiến khuyếch trương. Sau khi chương trình được duyệt, giám đốc ra quyết định cung cấp ngân sách cho chương trình hoạt động. Ngân sách do phòng tài vụ kế toán nắm giữ và xuất khi có lệnh của giám đốc hoặc hoá đơn thu chi về hoạt động của chương trình.
Tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Hai nhân tố cơ bản của cạnh tranh hiện nay là chất lượng và giá cả. Cạnh tranh là nhân tố để Công ty có thể tồn tại và phát triển và cũng là nhân tố làm Công ty thất bại và phá sản. Công ty muốn phát triển cần nắm chắc nhân tố cạnh tranh không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Ngày nay hầu hết người tiêu dùng đều ưa thích các sản phẩm chất lượng cao, giá cả phải chăng. Do vậy để thúc đẩy tiêu thụ tăng doanh thu Công ty cần nâng cao chất lượng sản phẩm và tiến hành giảm giá.
Trong thập kỷ trước giá cả là nhân tố quyết định khả năng cạch tranh của sản phẩm, nhưng hiện nay nhân tố quyết định sự cạnh tranh của sản phẩm là chất lượng. Do đời sống ngày càng cải thiện nên người tiêu dùng mong muốn thoả mãn nhu cầu của mình một cách tốt nhất và họ ít quan tâm đến giá cả. Đặc biết là với sản phẩm bia hơi được sản xuất phục vụ người tác động bình dân vốn dĩ đã có mức giá tương đối rẻ, vì vậy mà nhân tố quyết định cạnh tranh sản phẩm bia hơi là chất lượng.
Sản phẩm bia hơi của Công ty Bia Việt Hà được thiết kế theo mẫu dây chuyền công nghệ của Đanh Mạch, với hệ thống máy móc hoàn toàn đạt tiêu chuẩn. Vì vậy chất lượng sản phẩm đáp ứng phần nào nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường thì Công ty cần tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm được tiến hành theo hai bước sau:
Thứ nhất, Công ty tiến hành đổi mới công nghệ bằng nghiên cứu và đầu tư cải tiến máy móc thiết bị (được trình bày trong mục đổi mới công nghệ của phần biện pháp làm giảm chi phí sản xuất).
Thứ hai, về mặt quản lý Công ty cần xây dựng chính sách sản phẩm và chất lượng sản phẩm:
Chính sách sản phẩm
Công ty cần xây dựng chính sách sản phẩm Bia cho phù hợp. Hiện nay sản phẩm tiêu thụ của Công ty là bia hơi, tuy nhiên thị trường đang rất ưa chuộng loại bia tươi, một sản phẩm có mức tăng trưởng cao nhất trong thị trường bia một số năm gần đây. Công ty có thể nghiên cứu loại sản phẩm này và công nghệ sản xuất nó, nếu phù hợp về điều kiện kinh tế kỹ thuật thì Công ty nên đầu tư kinh doanh mặt hàng mới.
Ngoài ra Công ty cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng Bia theo các nghiên cứu về chất lượng sản phẩm trong nghiệp vụ nghiên cứu thị trường. Công ty cần tạo hương bia đặc trưng cho sản phẩm để người tiêu dùng có thể phân biệt sản phẩm của Công ty với các hãng khác và hấp dẫn người tiêu dùng hơn.
Chính sách chất lượng sản phẩm và cam kết thực hiện
Chính sách chất lượng sản phẩm là ý đồ và định hướng chung về chất lượng sản phẩm do lãnh đạo cao nhất chính thức đề ra. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay chính sách chất lượng sản phẩm cần thiết cho nhiều bên. Với doanh nghiệp chính sách chất lượng sản phẩm giúp doanh nghiệp hoạt động một cánh nhất quán, định hướng hoạt động theo mục tiêu chung, là bước mở đầu cho việc xây dựng hệ thống chất lượng, cho việc triển khai công tác quản lý chất lượng ở doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Với người tiêu dùng chính sách chất lượng sản phẩm giúp họ hiểu rõ hơn về doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp nó là cơ sở đảm bảo an toàn cho người tác động lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp.
Đối với Công ty Bia Việt Hà xây dựng chính sách chất lượng sản phẩm cần theo mục tiêu sau đây:
“Mục tiêu tổng quát của Công ty là đạt được và thể hiện được uy tín chất lượng sản phẩm trên thị trường. Công ty sẽ cố gắng hết sức mình để thoả mãn các nhu cầu của khách hàng bằng cách cung cấp sản phẩm có chất lượng cao có khả năng đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng với giá cả có sức cạnh tranh.”
Nội dung của chính sách chất lượng sản phẩm của Công ty bao gồm:
1.Sản phẩm sẽ đáp ứng nhu cầu của khách hàng về chức năng an toàn thẩm mỹ và độ tin cậy.
2.Các yêu cầu kỹ thuật sẽ được chấp hành nghiêm túc từ quá trình chế biến đến lên men, lọc bia và chiết bia.
3.Sự lựa chọn và đánh giá, giám sát những người cung ứng đầu vào cho sản xuất sẽ được tiến hành trên cơ sở khoa học kỹ thuật và các thủ tục quy định.
4.Việc cải tiến chất lượng sẽ được kế hoạch hoá và ứng dụng trên cơ sở thông tin phản hồi của khách hàng và sự điều tra thị trường.
5.Cán bộ công nhân viên của Công ty có quyền yêu cầu, đòi hỏi những người khác làm tốt công việc đồng thời có nghĩa vụ cung cấp những việc mình làm với chất lượng tốt.
6.Tiến hành tổ chức đào tạo và giáo dục cho mọi nhân viên trong công ty để họ hiểu và nắm được tránh nhiệm cũng như nghiệp vụ chuyên môn của mình.
Để thực hiện tốt mục tiêu của chính sách chất lượng sản phẩm và các nội dung của nó Công ty có thể làm như sau:
- Xây dựng quy chế chất lượng, quy chế kiểm tra kiểm soát chất lượng, xác định trách nhiệm của từng bộ phận, của từng cá nhân, đề ra quy chế thưởng phạt nghêm minh rõ ràng.
- Tuyên truyền vận động với nội dung: chất lượng là sự sống còn của Công ty mà chất lượng nằm trong tay của mỗi công nhân, mỗi công nhân đều có tính chất quyết định với sự sóng còn của Công ty. Lợi ích của người công nhân gắn liền với lợi ích của Công ty, công ty phát triển thì lợi ích của công nhân cũng tăng theo và ngược lại. Do vậy mỗi nhân viên trong Công ty phải có trách nhiệm với kết quả do mình làm ra và không ngừng nâng cao kết quả đó.
Ngoài việc chú trọng đến chất lượng sản phẩm Công ty cũng cần quan tâm hơn đến giá cả để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Giá cả có tác động mạnh mẽ đến doanh thu và từ đó tác động đến lợi nhuận của Công ty. Mặc dù hiện nay trên thị trường Hà Nội cạnh tranh về giá cả sản phẩm bia hơi đã nhường vị trí cho cho cạnh tranh về chất lượng, nhưng giá cả vẫn có vai trò quan trọng đối với cạnh tranh. Do vậy Công ty cần xây dựng một chính sách giá cả linh hoạt để phù hợp với sự biến động nhu cầu.
Trong việc định giá sản phẩm Công ty phải căn cứ vào chi phí sản xuất kinh doanh bỏ ra nhằm đảm bảo thu hồi được vốn kinh doanh, ngoài ra còn phải căn cứ vào giá cả của các đối thủ cạnh trạnh và các loại bia khác để định giá cho phù hợp nhằm duy trì vàc phát triển thị phần. Ngoài ra Công ty nên tiếp tục áp dụng chính sách giá phân biệt với những người tiêu dùng mua một khối lượng lớn sản phẩm để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ.
Mở rộng mạng lưới tiêu thụ
Chính sách phân phối hợp lý thúc đẩy lưu thông nhanh, tăng sản lượng tiêu thụ, làm cho doanh nghiệp có nhiều cơ hội thực hiện hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để tiêu thụ được 17 triệu lít bia/năm Công ty Bia Việt Hà cần cơ cấu lại, tổ chức lại và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối.
Hệ thống kênh phân phối của Công ty chủ yếu là các hộ gia đình làm đại lý kinh doanh và một của hàng giới thiệu tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện nhiệm vụ trên Công ty cần mở rộng số lượng hộ gia đình làm đại lý tiêu thụ tại các địa bàn, đặc biệt là các địa bàn còn bỏ ngỏ như Quận Cầu Giấy và Quận Thanh Xuân và Quận Tây Hồ, và địa bàn đầy tiềm năng Gia Lâm và Thanh trì. Công ty nên liên hệ với các nhà hàng, các của hàng ăn bình dân để hợp tác, biến họ thành người tiêu thụ sản phẩm đắc lực cho Công ty. Vì tại các của hàng này việc ăn uống có thể bán kèm với sản phẩm hơi của Công ty. Tại mỗi địa điểm tiêu thụ đã có trước đây Công ty thực hiện các biện pháp giúp đại lý tăng sản lượng tiêu thụ bình quân một ngày như cho phép trả chậm trong điều kiện Công ty chấp nhận được và thự hiện chính sách giá ưu tiên....
Vấn đề lưu thông sản phẩm của Công ty gặp khó khăn do các khách hàng nhận hàng tại kho của Công ty, trong khi đó công nhân và phương tiện bốc dỡ, vận chuyển của Công ty rất hạn chế. Mặt khác hiện nay Công ty chủ yếu tiến hành phân phối sản phẩm đến khoảng 10 giờ sáng, gây khó khăn rất lớn cho việc lấy hàng và cận chuyển (sự cạnh tranh mua của khách hàng). Công ty cần thực hiện phân phối sản phẩm với khoảng thời gian nhiều hơn, không chỉ hạn chế đến 10h và đầu tư vào hệ thống kho bãi, và phương tiện vận chuyển và thuê thêm đội ngũ bốc xếp để thuận tiện hơn cho tiêu thụ sản phẩm.
Xây dựng môi trường văn hoá, quy chế quản lý trong Công ty
Trong những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu quen với khái niệm văn hoá Công ty. Vậy văn hoá Công ty là gì? Có thể nói văn hoá Công ty là toàn bộ những giá trị tinh thần mà Công ty tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó tác động đến tình cảm lý trí và hành vi của tất cả thành viên trong Công ty, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Với Công ty Bia Việt Hà đây còn là phạm trù mới, chưa được coi trọng trong tổ chức, điều hành sản xuất của lãnh đạo. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh Bia Việt Hà cần xây dựng môi trường văn hoá và quy chế quản lý trong Công ty, cụ thể như sau:
- Đảm bảo sự thống nhất trong Công ty về mục tiêu hành động chung, có chung một chuẩn mực đạo đức trong đó giá trị cơ bản nhất là tôn trọng ủng hộ phát triển con người.
Thật vậy khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì trình độ nhận thức của con người về địa vị xã hội ngày càng đầy đủ. Khi đó trong Công ty cần phải thiết lập sự bình đẳng giữa công nhân và lãnh đạo trong một chừng mực nào đấy, tạo môi trường văn hoá và sự tôn trọng con người để kích thích tinh thần làm việc của họ.
- Đảm bảo sự cân đối giữa phát triển một trình độ kỹ thuật công nghệ cao với sự phát triển nhân cách của lao động góp phần giảm hao phí sức lực, tăng năng suất lao động.
- Giải quyết tốt quan hệ con người như quan hệ lãnh đạo và công nhân viên trong các buổi thảo luận, phiên họp.....
- Thúc đẩy phát huy sáng kiến, tinh thần và khả năng sáng tạo của công nhân và cán bộ, xem đây là nguồn tài sản lớn nhất của Công ty và luôn tạo động lực cho nó.
- Xây dựng, gắn bó người lao động với Công ty, thông báo rõ cho người lao động nắm được kế hoạch phương hướng sản xuất kinh doanh dài hạn và ngắn hạn của Công ty tạo nên mục tiêu hành động thống nhất của toàn Công ty.
- Thực hiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh, lấy phần thưởng vật chất làm cơ sở động lực để người lao động phấn đấu.
- Tổ chức thực hiện các buổi liên hoan văn nghệ, du lịch cho cán bộ công nhân viên vào ngày nghỉ để tăng thêm bầu không khí đoàn kết, để họ có thể xem Công ty như là nhà mình.....
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có mục tiêu số một là lợi nhuận. Lợi nhuận không chỉ đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại mà là điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Để có được lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng tăng thì doanh nghiệp phải từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
Là một doanh nghiệp nhà nước, Công ty Bia Việt Hà đã vượt qua bao nhiêu khó khăn thủ thách để tồn tại và phát triển. Đây là một thành công lớn của tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty. Tuy còn nhiều thiếu sót nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự nỗ lực và năng động của đội ngũ lãnh đạo, sự tận tâm với nghề của công nhân lao động. Với những kinh nghiệm còn ít về thị trường, nhưng Công ty Bia Việt Hà giám chấp nhận cạnh tranh và thu được lợi nhuận không nhỏ. Nâng cao hiệu quả kinh doanh đã, đang và sẽ được Công ty thực hiện thông qua việc tiến hành hàng loạt các biện pháp cải tiến bộ máy, nâng cao việc sử dụng nguồn lực, tăng cường chất lượng sản phẩm....
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là tất yếu cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Bằng những kiến thức đã học tập tại trường Đại Học Kinh Tế Quốc dân, qua quá trình thực tập, khảo sát thực tế hoạt động kinh doanh tại Công ty Bia Việt Hà em đã đi sâu vào phân tích vấn đề này.
Để có được chuyên đề thực tập tốt ghiệp này là nhờ vào những kiến thức đã học và sự chỉ bảo của thầy giáo, cố giáo cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của tập thể cán bộ Công ty. Em xin chân thành cảm ơn.
Mục lục
Lời nói đầu
1
Chương 1: Hiệu quả kinh doanh và vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh ở doanh nghiệp
3
I. Hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp
3
1. Hiệu quả kinh doanh
3
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
6
II. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
8
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
10
1. Nhân tố thuộc về doanh nghiệp
10
2. Những nhân tố ngoài doanh nghiệp.
13
IV. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh
17
1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp
17
2. Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
21
Chương 2: Phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty Bia Việt Hà
23
Vài nét về Công ty Bia Việt Hà
23
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bia Việt Hà
23
2. Chức năng nhiệm vụ của Công ty
24
3. Cơ cấu tổ chức của Công ty
25
4. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty Bia Việt Hà
28
4.1. Đặc điểm sản phẩm bia hơi của Công ty
28
4.2. Đặc điểm về thị trường tiêu thụ
28
4.3. Đặc điểm về công nghệ sản xuất Bia
30
4.4. Đặc điểm về sử dụng nguyên vật liệu
34
4.5. Đặc điểm tổ chức sản xuất và lao động
36
4.6. Đặc diểm về hạch toán kinh doanh
37
4.7. Đặc điểm về tình hình tài chính
38
5. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
42
II. Phân tích hiệu quả kinh doanh ở công ty Bia Việt Hà
44
1. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
44
2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định
47
3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
51
4. Tình hình tài chính của Công ty
53
5. Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường
54
6. Hiệu quả sử dụng lao động
59
III. Đánh giá chung
60
Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia Việt Hà
62
I. Định hướng hoạt động của Công ty trong thời gian tới
62
II. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty
62
Biện pháp giảm chi phí sản xuất
63
1. Nâng cao năng suất lao động.
63
2. Đổi mới công nghệ
68
3. Nâng cao hiệu quả công tác thu mua và sử dụng nguyên vật liệu.
70
4. Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
72
Biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu.
75
1. Tăng cường hoạt động Marketing.
75
2. Tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
78
3. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ
81
Xây dựng môi trường văn hoá, quy chế quản lý trong Công ty
81
Kết luận
83
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0239.doc