Lời nói đầu
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới diễn ra với một quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng cao, việc mở cửa ra nền kinh tế thế giới là một xu hướng phát triển tất yếu của mỗi quốc gia đặc biệt là với các nước đang phát triển như nước ta. Vào những năm 70-80 đất nước ta đang lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội do ảnh hưởng của chiến tranh, đất nước còn bị bao vây, cấm vận và phải chi phí lớn về quốc phòng. Thêm vào đó là nhược điểm của cơ chế quản lý
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty XNK Vật tư thiết bị giao thông vận tải Vietracimex-1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế bao cấp chưa được khắc phục và nhiều yếu tố khác dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế xã hội tiếp tục diễn ra gay gắt, lạm phát lên đến 700% vào những năm 1986.
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể của nền kinh tế Việt Nam, việc mở cửa nền kinh tế nước ta ra thế giới là một yêu cầu cấp bách cho những năm tiếp theo. Nền kinh tế VIệt Nam chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường kể từ khi chính sách mở cửa ở Việt Nam được xây dựng, các hoạt động ngoại thương được mở rộng và phát triển mạnh mẽ, từ đó xuất hiện nhiều thành phần kinh tế, tổ chức kinh tế tham gia hoạt động tên các lĩnh vực của ngoại thương, trong đó hoạt động chính là: “ Nhập Khẩu hàng hoá”.
Chúng ta biết rằng trong lĩnh vực kinh tế thì hoạt động nhập khẩu giữ vai trò rất quan trọngđặc biệt là đối với những nước kém phát triển và đang phát triển. Như nước ta thì việc đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu sẽ tạo được nguồn ngoại tệ để đầu tư và phát triển đất nước nhằm cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, giảm bớt sự chênh lệch giữa nền kinh tế nước ta và các nước khác trong cùng khu vực cũng như trên toàn thế giới.
Chính vì vậy, qua quá trình thực tập tại Công ty Xuất nhập khẩu Vật tư thiết bị giao thông vận tải Vietracimex-1, tôi đã học hỏi và xem xét quá trình hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty. Do đó tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp với mong muốn sử dụng kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình thực tập và nghiên cứu thực tiễn kinh doanh ở đơn vị.
Chương I
Cơ sở lý luận về nhập khẩu và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Một số vấn đề chung về kinh doanh nhập khẩu.
1.Khái niệm, bản chất, đặc điểm và vai trò kinh doanh nhập khẩu.
Khái niệm và bản chất của kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá từ nước ngoài mang vào trong nước.
Chuyên môn hoá và phân công lao động quốc tế càng sâu sắc thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng, giữa các nước càng có sự phụ thuộc lẫn nhau và hình thành các mối quan hệ buôn bán với nhau. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là quá trình buôn bán giữa các nước với nhau, là lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá với nước ngoài, hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có cả tổ chức bên trong và bên ngoài. THực chất nhập khẩu ở đây là nhập khẩu từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài tiến hành tiêu thụ hàng hoá đó tại thị trường nội địa hoặc tái xuất với mục đích thu lợi nhuận và nối liền sản xuất giữa các quốc gia với nhau.
Như vậy, kinh doanh nhập khẩu cũng là một hoạt động buôn bán, tuy nhiên khác với hoạt động buôn bán trong nước, nó là hoạt động buôn bán vượt ra khỏi quốc gia và nó gặp nhiều khó khăn phức tạp hơn nhiều so với buôn bán trong nước.
Đặc điểm của kinh doanh nhập khẩu .
Kinh doanh nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các quốc gia, vì vậy nó phức tạp hơn buôn bán trong nước: giao dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng khó kiểm soát, mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, thường vận chuyển qua cửa khẩu các quốc gia khác nhau, hoạt động buôn bán phải tuân theo các tập quán thông lệ quốc tế cũng như địa phương khác nhau.
Thương mại quốc tế có quan hệ trực tiếp với quanh hệ chính trị, quan hệ kinh tế với các nước nhập khẩu và xuất khẩu. Vì vậy hoạt động kinh doanh nhập khẩu là cơ hội để các doanh nghiệp có quốc tịch khác nhau làm ăn với nhau hợp tác lâu dài.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là hoạt động lưu thông hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia. Vì vậy đối tượng này rất phong phú, đa dạng, thường xuyên bị chi phối bởi các chính sách luật pháp của mỗi quốc gia. Nhà Nước quản lý hoạt động kinh doanh nhập khẩu thông qua các công cụ như: chính sách thuế, hạn ngạch và các văn bản luật pháp quy định danh mục hàng hoá được phép nhập khẩu.
Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Kinh doanh nhập khẩu được hình thành dựa trên cơ sở của sự trao đổi và chuyên môn hoá. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu xuất phát từ mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các nước. Không một cá nhân hay một quốc gia nào có thể tự mình tồn tại và phát triển một cách nhanh chóng được nếu như không thể tự thoả mãn hết các nhu cầu của mình nếu không có các quan hệ buôn bán quốc tế. Thông qua hoạt động kinh doanh nhập khẩu hay buôn bán quốc tế cho phép mỗi nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp và không có quan hệ buôn bán.
Kinh doanh nhập khẩu ra đời trên cơ sở trao đổi và chuyên môn hoá. Phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá ngày càng mở rộng do có sự khác biệt giữa các nước về khả năng có nguyên vật liệu, các yếu tố sản xuất khác như lao động và trình độ kỹ thuật dẫn tới sự khác biệt giữa các nước, chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm. Thông qua buôn bán và trao đổi quốc tế, các nước cung cấp cho nền kinh tế thế giới các loại hàng hoá mà họ tạo ra tương đối rẻ và mua của nền kinh tế thế giới những hàng hoá rẻ hơn ở các nước đó. Những lợi ích kinh doanh thương mại này càng lớn nếu có lợi thế kinh tế nhờ quy mô sản xuất thay vì Nhà nước có nhiều nhà sản xuất quy mô nhỏ, các nước khác nhau có thể tập trung vào những việc làm khác nhauvà mọi người sẽ cùng có lợi do việc giảm bớt chi phí sản xuất.
Như vậy, kinh doanh nhập khẩu có vai trò rất to lớn trong việc phát triển nền kinh tế mỗi nước, phát huy được thế mạnh trong mỗi nước và các thế mạnh của nền kinh tế thế giới. Kinh doanh nhập khẩu tạo điều kiện mở rộng chấp nối sản xuất và tiêu dùng trong nước với sản xuất tiêu dùng nước ngoài. Thực hiện tốt hoạt động kinh doanh nhập khẩu sẽ thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển không ngừng nhờ nhập khẩu được máy móc, quy trình công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế đất nước.
Nội dung hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hàng vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, phát triển chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Do đó, hoạt động nhập khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại rất quan trọng, nó đem lại những hiệu quả cho nền kinh tế rất cao hoặc tạo ra những đột biến lớn cho nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một lĩnh vực phức tạp, đầy khó khăn. Khác với hoạt động buôn bán trong nước, nhập khẩu là hoạt động buôn bán vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc gia, giao dịch giữa mọi người có quốc tịch khác nhau. Thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là đồng ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới bằng các hình thức khác nhau như vận chuyển bằng tàu biển, ô tô, máy bay,.....do buôn bán với các quốc gia khác nhau nên phải tuân thủ các phương thức, tập quán khác nhau, cũng như các thông lệ quốc tế về hợp đồng vận chuyển hàng hoá, phương thức giao dịch. Chỉ cần sai sót một yếu tố nhỏ, chúng ta có thể bị trả giá bắng kết quả kinh doanh của mình.
Mặt khác do trình độ nghiệp vụ không được vững vàng trong hoạt động thanh toán quốc tế, ký kết hợp đồng, thông tin kinh tế dẫn đến nhiều thiếu sót, sai lầm làm thiệt hại về mặt kinh tế trong buôn bán với nước ngoài. Vì thế để thực hiện tốt hoạt động nhập khẩu, các công ty đã phải trải qua các công việc khác nhau. Và các công ty muốn thực hiện tốt, có hiệu quả theo một trình tự nhất định đòi hỏi các công ty phải tự lập kế hoạch có hệ thống cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu và nó có thể được khái quát như sau.
a.Các nghiệp vụ nhập khẩu:
-Chuẩn bị giao dịch: Các công ty tiếp xúc thông qua trang web được mở trên mạng của các đối tác. Trên trang web, công ty có thể xem được hình ảnh và một số thông tin cơ bản về mặt hàng cần nhập, nguồn hàng tìm được của công ty chủ yếu thông qua mạng Internet.
Chào hàng: Các công ty đưa ra lời chào hàng bằng thư điện tử. Sau khi xem xét các thông tin của hàng hoá về chất lượng và giá cả, nếu thấy hợp lý công ty sẽ lập dự án trên trình lên Giám đốc xét duyệt.
Đàm phán chính thức và lập hợp đồng: Sau khi dự án được duyệt, công ty sẽ chính thức đàm phán với các đối tác để đưa ra các điều kiện cụ thể tiến tới lập hợp đồng.
Thực hiện hợp đồng: Sau khi hợp đồng được ký kết, công ty xin mở L/C theo thời hạn hợp đồng quy định. Khi hàng tới cảng quy định, công ty làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá, trao bộ chứng từ thanh toán và chuyển tiền cho người bán qua ngân hàng phục vụ mình.
Các hoạt động liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Mỗi một công ty muốn có thể tiếp tục kinh doanh lâu dài thì việc đầu tiên là phải giữ chữ tín và thực hẹn nghiêm túc các điều khoản trên. Để hoạt động nhập khẩu được thực hiện một cách có hiệu quả thì các công ty còn cần phải xem xét đến nhiều yếu tố tác động xung quanh như:
Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới.
Giao dịch thanh toán quốc tế.
Tổ chức thực hiện hoạt động nhập khẩu vật tư hàng hoá với nước ngoài.
Hệ thống luật pháp, tình hình chính trị xã hội, mức sống của người dân.
*Ngiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả các mối quan hệ kinh tế đặc biệt là trong công tác nhập khẩu hàng hoá của mỗi quốc gia. Nghiên cứu, nắm vững đặc điểm tình hình biến động của thị trường và giá cả hàng hoá trên thế giới là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho các tổ chức nhập khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu quả cao nhất. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới còn bao gồm cả việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất của một nghành sản xuất hàng hoá, nó không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà cả lĩnh vực sản xuất phân phối hàng hoá.
Đối với các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu thì việc nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới bao gồm nội dung: Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu, giá cả, dung lượng của thị trường hàng hoá, bạn hàng trong giao dịch, chiến dịch kinh doanh cho từng giai đoạn để đạt mục tiêu đề ra.
*Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu một vấn đề nữa cần quan tâm đó là thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế là một khâu rất quan trọng trong buôn bán với nước ngoài. Hiệu quả trong kinh doanh nhập khẩu một phần lớn nhờ vào chất lượng của việc thánh toán, nó là bước bảo đảm cho người xuất khẩu thu tiền về và người nhập khẩu nhân được hàng hoá.Thanh toán quốc tế trong ngoại thương ta có thể hiểu đó là việc chi trả những khoản tiền tín dụng có liên quan tới việc nhập khẩu hàng hoá đã được thoả thuận, qui định trong hợp đồng kinh tế về nhập khẩu hàng hoá.
Thanh toán trong nhập khẩu hàng hoá bao gồm các vấn đề như:
Tỷ giá hối đoái
Thời hạn thanh toán
Các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế
Các điều kiện đảm bảo hối đoái
*Hợp đồng và tổ chức thực hiện hợp đồng:
Sau khi bàn bạc giữa hai bên mua bán, trong kinh doanh nhập khẩu việc ký kết hợp đồng mua bán là yêu cầu bắt buộc có trong kinh doanh nhập khẩu mặc dù đã bàn bạc thoả thuận với nhau giữa hai bên nhưng không có bản hợp đồng thì nhiều khi vẫn có thể huỷ bỏ cam kết.
Hợp đồng là văn bản, bằng chứn ghi rõ những điều khoản hứu hẹn của hai bên trên giấy trắng mức đen có chữ ký và dấu của cả hai bên. Hợp đồng phải ghi rõ nếu có kiện tụng hay tranh chấp thì gải quyết theo phương pháp nào, giải quyết ở đâu, áp dụng luật nước nào? Hợp đồng phải ghi rõ nếu một bên không làm đúng theo hợp đồng thì giải quyết như thế nào?
Thực hiện hợp đồng là việc tổ chức thực hiện các điều khoản đã cam kết trong bản hợp đồng của hai bên sau khi đã ký kết hợp đồng. Nếu mọtt trong hai bên thực hiện sai cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm theo qui định trong bản hợp đồng. Các hợp đồng đó được ký kết thực hiện tuỳ theo loại hình kinh doanh nhập khẩu.
*Các laọi hình kinh doanh nhập khẩu:
-Nhập khẩu trực tiếp: Các độc quyền sản xuất công nghiệp giao hàng trực tiếp cho người nước ngoài. Còn đối với công ty doanh nghiệp thương mại thì được buôn bán trực tiếp với người nước ngoài.
-Nhập khẩu gián tiếp: Nhập khẩu qua trung gian thương mại.
-Tái xuất khẩu: Xuất khẩu hàng đã nhập về trong nước nhưng không qua chế biến thêm, cũng có trường hợp hàng không về trong nước sau khi giao nhận hàng và giao ngay hàng đó cho người thứ ba( tạm nhập tái xuất)
-Chuyển khẩu: Hàng mua của một nước này bán cho một nước khác không làm thủ tục nhập khẩu.
-Dịch vụ nhập khẩu như gửi hàng đại lý, thuê dịch vụ sủa chữa.
*Trong các loại hình nhập khẩu trên, xu hướng kinh doanh nhập khẩu trực tiếp ngày càng tăng lên trong điều kiện nước ta hiện nay. Từ khi chuyển đổi cơ chế các đơn vị kinh doanh, doanh nghiệp được tự chủ trong sản xuất kinh doanh và họ có thể làm được. Đó là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
-Các công ty không theo kịp được sự thay đổi cấu tạo sản phẩm của doanh nghiệp. Xu hướng tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, cho nên cấu tạo của sản phẩm cũng thay đổi về chất lượng, hình thức kiểu dáng, số lượng sao cho phù hợp. Chính vì sự thay đổi liên tục đó khiến cho các công ty kinh doanh thương mại rất khó khăn để có thể theo đuổi kịp. Mặt khác, ngày nay việc bán hàng thường kèm theo các dịch vụ bảo hành kỹ thuật, do vậy các doanh nghiệp thương mại cũng khó có thể làm theo được như vậy.
-Về việc đào tạo chuyên môn cũng không có điều kiện do sự thay đổi liên tục của các loại sản phẩm mà không thể có được chuyên gia am hiểu sâu về kỹ thuật.
-Về năng lực ngoại ngữ: Do xuất phát từ nhu cầu kinh doanh cần phải có trình độ ngoại ngữ nên trình đọ đa số tăng lên và tỏ ra có hiệu quả.
-Về nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế tri thức về các mối quan hệ xung quanh đã được nâng cao và tự họ có thể hoà nhập vào cuộc sống quốc tế .
-Tình hình vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước được cải thiện do đó vai trò quay vòng của các hãng có giảm đi. Các doanh nghiệp sản xuất có thể trực tiếp giao dịch với các ngân hàng để vay vốn cũng như trực tiếp giao dịch với nước ngoài. Do đó, vị trí giao dịch của các công ty xuất nhập khẩu cũng dần dần được thay thế bởi các hãng sản xuất lớn có thể tự mình dùng khả năng của chính mình để thực hiện chưc năng nhập khẩu.
II – Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
1.Các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực nhập khẩu nói riêng đều được đánh giá bằng tổng mức lợi nhuận thu được. Chúng ta có thể tính hiệu quả kinh doanh một cách tổng quát nhất bằng cách lấy doanh thu( tổng thu nhập trừ đi chi phí ).
Hiệu quả kinh doanh =Sdoanh thu-Schi phí.
Qua đó chúng ta có thể thấy rằng hiệu quả đạt càng cao khi tổng doanh thu càng cao và tổng chi phí càng thấp. Từ sự phân tích trên cho ta thấy hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó là:
-Nhóm những nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu.
-Nhóm những nhân tố ảnh hưởng đến chi phí.
1.1.Những yếu tố tác đọng đến doanh thu
*Để doanh thu đạt kết quả cao thì cần quan tâm đến các vấn đề sau : Doanh thu TR, Giá bán P, Khối lượng Q
ị TR=PxQ
a.Giá bán:
Giá bán cao tạo nên doanh thu lớn, để có thể đạt được giá bán cao mà thị trường vẫn chấp nhận đòi hỏi phải có rất nhiều yếu tố tác động. Có thể do tính thời vụ thời điểm mà giá trị tự nhiên tăng hoặc cũng có thể do tính độc quyền của sản phẩm mà giá bán tăng cao. Tuy nhiên những yếu tố chủ yếu trước hết để bán được giá cao đó là chts lượng sản phẩm tốt, mẫu mã hình thức phù hợp với thị hiếu và thu nhập của người tiêu dùng.
Giá bán là sự trao đổi xảy ra trong quan hệ mua bán giữu người cung cập sản phẩm hay dịch vụ với người tiêu dùng hay khách hàng. Khi người cung cấp nhận được một khoản tiền trả cho sản phẩm hay dịch vụ của mình, người tiêu dung hay khách hàng sẵn sàng trả số tiên đó để đổi lấy sản phẩm hay dịch vụ. Doanh thu lớn không chỉ có mức giá bán cao mà phải tuỳ theo từng thời điểm. Trong điều kiện cạnh tranh thì giá bán cao lại là một điểm rất bất lợi. Vì thế ta phải rất chú trọng đến việc đánh giá một cách hợp lý trong chính sách giá.
*Cần quan tâm đến các yếu tố xác định giá bán như:
-Nhu cầu đối với sản phẩm.
-Giá bán của các đối thủ cạnh tranh.
-Điều kiện kinh tế của các doanh nghiệp .
-Hoạt động marketing: Nhận biết sản phẩm ,kênh phân phối ,các biện pháp xúc tiến bán hàng.
b.Khối lượng hàng hoá tiêu thụ:
Việc tiêu thụ hàng hoá đối với các doanh nghiệp sản xuất cũng như doanh nghiệp thương mại là điều rất cần thiết, hàng hoá phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu thị hiếu của khách hàng , giá thành phải thích hợp với túi tiền của người tiêu thụ. Để thu hut khách hàng phải có cơ cấu mặt hàng phong phú, đa dạng. Riêng đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu do phải tiếp xúc buôn bán với quốc tế, do đó yêu cầu về hàng hoá phỉa cao. Để làm được điều đó yêu cầu phải xây dựng một kế hoạch mặt hàng ổn định, tăng khả năng khai thác tìm kiếm thị trường bạn hàng. Còn nhập khẩu thì phải xác định đến khả năng tiêu thụ và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước.
c.Công tác thị trường :
Công tác thị trường là vấn đề mà mọi doanh nghiệp đều quan tâm và đặt lên hàng đầu. Vì thị trường là một nhóm hàng hay khách hàng đang có sức mua và nhu cầu chưa được thoả mãn do đó công việc củ các nhà kinh doanh là tìm hiểu thị trường ,tiến hành điều tra phát hiện vị trí khách hàng , những đơn vị cá nhân có nhu cầu lớn về loại sản phẩm hay dịch vụ cung ứng.
Lựa chọn phương thức sản xuất : Muốn có được một phương án sản phẩm tối ưu khi lựa chọn xây dựng và đưa ra quyết định phải dựa trên những căn cứ nhất định. Những căn cứ này không những là cơ sở dể xây dựng mà còn là tiêu chuẩn để lựa chọn và quyết định phương án sản phẩm. Tuỳ theo loại hình sản xuất kinh doanh , tuỳ theo khả năng và môi trường kinh doanh, mỗi doanh nghiệp xác định những căn cứ khác nhau để xây dựng và lựa chọn phương án sản phẩm.
d.Hình thành mặt hàng kinh doanh :
Với đoc nhất một loại sản phẩm công ty khó tránh khỏi rủi ro và không thể nào thực thi được mục tiêu an toàn trong kinh doanh. Tuy nhiên, họ cũng không thể kinh doanh tất cr mọi loại sản phẩm trên thị trường và như vậy cũng không đảm bảo mục tiêu lợi nhuận và thế lực của công ty.Do vậy phải tiến hành lựa chọn sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của thị trường đảm bảo mục tiêu chung của chiến lược marketing. Việc lựa chọn sản phẩm phải đảm bảo giữ gìn được vị trí đã chiếm được trên thị trường của công ty. Những sản phẩm kinh doanh cần phải có đặc điểm rõ ràng, người sản xuất có ưu thế về kỹ thuật còn người tiêu dùng lại quen với sản phẩm thị trường sẽ có ít tác động hơn. Sau một thời gian, tuy một loại sản phẩm tung ra thị trường có tác dụng thử nghiệm và cũng sau một thời gian hiệu chỉnh và nghiên cứu các thông số kỹ thuật của sản phẩm, công ty cần nhận biết được luồng thông tin phản hồi từ phiá thị trường, giup cho họ biết được loạ sản phẩm nào đang được khách hàng ưa chuộng. Các đơn vị kinh doanh có thể khẳng định được một loại hàng cần cung cấp cho thị trường, cho phép các công ty chuyên môn hoá sâu, giảm chi phí mà vẫn bán được hàng. Lựa chọn sản phẩm hình thành mặt hàng kinh doanh có tính chất quyết định lớn đến sự tồn tại của chính mình. Do vậy công việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh sẽ chỉ ra cho công ty sản phẩm nào cần được lựa chọn và sản phẩm được lựa chọn phải có tính hấp dẫn đối với khách hàng cả về tính năng công dụng của các loại hàng hoá nhằm nâng cao số khách hàng. Trên cơ sở xây dựng được những sản phẩm để lựa chọn cần phải hình thành danh mục mặt hàng kinh doanh thể hiện toàn bộ những hàng hoá như trong danh mục của công ty theo yêu cầu của khách hàng.
e.Công tác quảng cáo
Thông tin quảng cáo là việc giới thiệu sản phẩm trênn các phương tiên thông tin đại chúng để nhằm thâm nhập chiếm lĩnh thị trường. Trước đây nhà sản xuất thương chú trọng nhiều về sản xuất sản phẩm sau đó mới tính đến chuyện bán hàng thì ngày nay người ta thực hiện công việc quảng cáo chào hàng ngay từ khi sản phẩm chưa xuất hiện trên thị trường hoặc mới bắt đầu sản xuất. Đây là một hìn thức giới thiệu những mặt tốt của sản phẩm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời đại bán hàng hiện đại. Ngày nay người ta nhận thức được rằng khách hàng là yếu tố quan trọng họ quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Xuất phát từ khách hàng , từ thị trường các doanh nghiệp phải tự đề ra kế hoạch kinh doanh cho chính mình.
*Một yếu tố nữa để đạt doanh thu cao là: Trình độ quản lý và năng lực cán bộ. Quản lý chính là một nghệ thuật, nhiều khi trình độ quản lý chưa thích ứng với cuộc sống đổi mới hiện nay. Do có nhiều chính sách chậm đổi mới, có những quyết định không tạo ra tính khoa học do đó chưa làm được công cụ cần thiết có hiệu quả trong kinh doanh .
*Từ những phân tích trên ta có thể rút ra các nhân tố sau đây có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu :
-Thị trường sản phẩm : Khả năng tiêu thụ được nhiều sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cao nhất là thị trường nước ngoài.
-Chất lượng hàng hoá : Cơ cấu sản phẩm và khả năng thích ứng với người tiêu dùng để phù hợp với nhu cầu đa dạng của thị trường, đáp ứng nhu cầu đổi mới về kỹ thuật và công nghệ.
-Trình độ quản lý : Khả năng phán đoán và nhận biết thị trường để nắm thời cơ quyết định giá cả và phương thức mua bán phù hợp.
1.2.Những yếu tố tác động đến chi phí :
Chi phí cho những sản phẩm nhập khẩu của các doanh nghiệp gồm có:
-Chi phí trực tiếp mua hàng.
-Chi phí gián tiếp: Chi phí lưu thông, thuế ngân sách. Chi phí lưu thông ở đây bao gồm nhiều loại chi phí như tiền lương, thưởng, kho bãi... Vì vậy các nhân tố tác động đến chi phí là:
+Thị trường trong ngoài nước: Khả năng khai thác nguồn hàng nhập khẩu.
+Phương thức kinh doanh nhập khẩu ( ảnh hưởng đến chi phí bảo quản, vận chuyển, khả năng rút ngắn kỳ kinh doanh ).
+Phương thức thanh toán: Tăng nhanh vòng vốn rút giảm lãi suất tiền vay.
+Hiệu quả sử dụng các yếu tố lao động (số lượng lao động, năng suất, chất lượng, trình độ nghiệp vụ.. )
2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu
a.Chỉ tiêu phản ánh số lượng và chất lượng kinh doanh:
-Tổng kim nghạch nhập khẩu
-Tổng doanh thu
-Tổng các khoản nộp ngân sách
-Tổng mức lợi nhuận
b.Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng, các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh
-Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động trong quá trình kinh doanh bao gồm:
+Hệ số sử dụng về số lượng lao động
+Hệ số sử dụng về chất lượng lao động ( số công nhân sử dụng đúng cấp bậc nghành nghề so với tổng số công nhân )
-Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định:
+Hệ số sử dụng tài sản cố định
+Hệ số sử dụng về thời gian hoạt động của tài sản cố định
+Hệ số sử dụng đổi mới tài sản cố định
+Mức sản xuất của tài sản cố định: doanh thu
vốn cố định
+Mức sinh lãi của tài sản cố định : lợi nhuận
vốn cố định
-Nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài sản lưu động và vốn lưu động
+Số vòng luân chuyển
+Thời gian một vòng luân chuyển
+Mức sinh lời vốn lưu động: lợi nhuận
vốn lưu động bình quân sử dụng
-Nhóm chỉ tiêu hoạt động hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản bổ sung cho quá trinh kinh doanh:
+Thời gian huy động vốn và sử dụng vốn.
+Thời gian thu hồi vốn đầu tư
III.Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu:
Hiệu quả hiệu quả kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao, duy trì và phát triển doanh nghiệp, nó là cơ sở để thành lập và vận hành doanh nghiệp cũng như quyết định duy trì hay giải thể doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả thì mới ngày càng mở rộng và phát triển được, nâng cao được khả năng cạnh tranh và vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Do đó hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề buộc mọi doanh nghiệp phải quan tâm và phải hướng đến, phải bảo đảm trong qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến hiệu quả của nó mà còn nỗ lực để nâng cao hiệu quả kinh doanh, đó chính là sự cần thiết phả nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Sự cần thiết đó xuất phát từ những nguyên nhân sau:
-Các nhà doanh nghiệp, các nhà kinh doanh, các chủ sở hữu luôn mong muốn doanh nghiệp ngày càng thu được nhiều lợi nhuận hơn, ngày càng đem lại lợi ích kinh tế xã hội cho bản thân nhà kinh doanh và cộng đồng. Để đáp ứng được mong muốn đó, các nhà kinh doanh cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu, có như vậy mới đáp ứng được mong muốn của họ.
-Các doanh nghiệp luôn có tham vọng, có mong muốn doanh nghiệp của mình ngày càng mở rộng và phát triển để ngày càng có vị trí cao và có sức mạnh trên thương trường. Để đạt được điều đó công ty cần thiết phải nâng cao các chỉ tiêu như doanh thu, kim ngạch nhập khẩu, vong quay của vốn, lợi nhuận... đó chính là những chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Như vậy chỉ có nâng cao được các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh thì công ty mới đạt được mong muốn có vị trí và sức mạnh trên thương trường.
-Kinh doanh trong cơ chế thị trường công ty phả chấp nhận cạnh tranh gay gắt, công ty chỉ có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh khi công ty có hiệu quả kinh doanh cao hơn đối thủ cạnh tranh. Do vậy để giành thắng lợi trong cạnh tranh thf cần thiết phả nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Như vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty là sự cần thiết quan trọng để đảm bảo doanh nghiệp tồn tại và phát triển được, duy trì và bảo đảm vị trí trên thương trường, do đó các doanh nghiệp nghiệp cần thiết phải đưa ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình
Chương II
Thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu ở Công ty XNK vật tư thiết bị giao thông vận tải ( VIETRACIMEX-1 )
I.Quá trình hình thành, phát triển, mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh và tổ chức bộ máy quản lý củ công ty.
1.Quá trình hình thành và phát triển của Công ty XNK vật tư thiết bị giao thông vận tải ( VIETRACIMEX-1 )
Công ty XNK vật tư thiết bị giao thông vận tải là một công ty thành viên thuộc Tổng công ty Thương mại va Xây dựng trực thuộc Bộ GTVT.
Tổng công ty Thương mại và Xây dựng (VIETRACIMEX) được thành lập ngày 30-6-1961 theo quyết định số 160/QĐ của Bộ GTVT.
-Tên gọi ban đầu “Cục vật tư – Bộ GTVT và BĐ’’ với chức năng là cung ứng vật tư kỹ thuật trong toàn nghành GTVT , trực tiếp quản lý cung ứng qua kho các mặt hàng trong nghành GTVT, thuỷ, bộ và xây dựng cơ bản trên toàn Miền Bắc.
-Năm 1983, có sự thay đổi trong cơ chế quản lý, Nhà nước xoá dần cấp cục, liên hiệp.. theo quyết định số 846/QĐ TCCB Cục vật tư chuyển thành Công ty vật tư thiết bị GTVT. Lúc này công ty có nhiệm vụ kinh doanh cung ứng vật tư kỹ thuật chuyên dụng GTVT về mặt hàng thuỷ, bộ và xây dựng cơ bản, tiếp nhận, bảo quản, cấp phát ,dự trữ vật tư của Bộ GTVT.
-Đến năm 1998, công ty đổi tên thành Công ty Thương mại – Du lịch và Xây dựng công trình với nhiệm vụ kinh doanh mặt hàng máy móc thiết bị liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước, lựa chọn khai thác mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý.
Khi thành lập công ty có tổng số vốn là: 45.996,9 triệu đồng. Trong đó:
+Vốn lưu động: 21.997,1 triệu đồng
+Vốn cố định: 18.799.2 triệu đồng
+Vốn xây dựng cơ bản: 2.647,5 triệu đồng
+Quỹ xí nghiệp: 2.552,2 triệu đồng
Công ty có 10 xí nghiệp, 9 chi nhánh, 3 liên doanh.
Các xí nghiệp này tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Các chi nhánh ở khắp các thành phố tỉnh thành ttr cả nước: Hà Giang , Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Nội, Hải phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh ,miền Tây Nam Bộ.
-Tháng 10 -1999, để nâng cao uy tín của mình trên thị trường, công ty xin đổi tên thành Tổng công ty Thương mại và Xây dựng với tên giao dịch quốc tế là VIETNAM TRADING AND CIVIL ENGINEERING CONTRUCTION CORP, viết tắt là VIETRACIMEX.
Một trong những doanh nghiệp thành viên đã có những thàh công đáng kể là: Công ty XNK vật tư thiết bị GTVT có tên giao dịch quốc tế là:TRANSPROT EQUIPMENT & MATERIAL IMPORT-EXPORT COMPANY, được viết tắt là VIETRACIMEX –1. Trụ sở chính 76 Kim Ngưu, Hai bà Trưng, Hà Nội. Công ty được thành lập ngày 24/12/1995 theo quyết định số 2920/QĐ/BGTVT.
Công ty xuất nhập khẩu vật tư và thiết bị GTVT là tổ chức sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập có tư cách pháp nhân đầy đủ. Hình thức tổ chức doanh nghiệp: doanh nghiệp nhà nước.
Cho đến nay VIETRACIMEX –1 đã nhập khẩu hàng ngàn máy móc thiết bị, vật tư, phuơng tiện GTVT các loại, sửu chữa tân trang thiết bị ,xe máy công trình phục vụ cho nghành GTVT trên cả nước. Công ty đã có quan hệ ngoại giao với nhiều chủ đầu tư trên mọimiền đất nước và nhiều công ty lớn.
Với phạm vi hoạt động rộng nên công ty đã có một cơ cấu tổ chức bộ máy hợp lý và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.
2.Chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của công ty
Công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị GTVT được thành lập trên cơ sở hợp nhất các trung tâm xuất nhập khẩu và cửa hàng trực thuộc Tổng công ty Thương mại và Xây dựng. Công ty có quyền quản lý, sử dụng vốn đất đai và các nguồn lưc đã được giao theo quy định củ pháp luật để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ đề ra, góp phần hoàn thành kế hoạch và sự phát triển chung của tông công ty.
a.Chức năng chủ yếu của công ty:
-Nhập khẩu vật tư hàng hoá, máy móc, thiết bị thuộc lĩnh vực GTVT. Đây là chức năng chính của công ty.
-Đáp ứng yêu cầu cung cấp hàng hoá nhập khẩu mà trong nước không sản xuất được.
-Tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá các loại như máy móc phụ tùng.. để phục vụ nhu cầu sửa chữa nâng cấp, làm mới các công trình cầu đường trong ngành GTVT .
b.Nhiệm vụ chủ yếu của công ty:
-Xuất nhập khẩu và kinh doanh vật tư thiết bị máy móc và các loại phương tiện vận tải, nguyên liệu sản xuất, nông-lâm-thuỷ-hải sản- hàng tiêu dùng.
-Sửa chữa tân t._.rang thiết bị xe máy công trình.
-Kinh doanh cho thuê kho bãi
c.Quyền hạn chủ yếu của công ty:
-Được quyền ký kết các hợp đồng kinh tế với các đơn vị trong và ngoài nước.
-Được mở các cửa hàng để chào bán sản phẩm và giới thiệu sản phẩm mới, làm dịch vụ, đại lý, chấp hành mọi quy định của Nhà nước.
-Được quyền cho thuê các tài sản chưa dùng đến hoặc chưa dùng hết công suất.
3.Hệ thống cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ các phòng ban của Công ty.
Sau một thời gian sắp xếp, điều chỉnh theo sự chỉ dẫn của nghị định số 388/HĐBT kết hợp với sự đồng ý của ban lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải, của Tổng công ty, đến nay Công ty đã có một cơ cấu tổ chức khá hợp lý, phù hợp với những chức năng nhiệm vụ và quyền hạn đã nêu ở trên. Trong đó có sự phân bổ sắp xếp trách nhiệm rõ ràng cho từng phòng ban, từng bộ phận chuyên môn, nhờ vậy việc quản lý nhân sự hoạt động rất hiệu quả.
a.Cơ cấu tổ chức của Công ty
Chủ tịch hội đồng quản trị
Trưởng phòng
TC-Kế toán
Trưởng phòng
Tổ chức
Hành Chính
Trưởng phòng
XNK
Phó giám đốc
Giám đốc
Giám đốc trung tâm
XNK-15
Giám đốc trung tâm
XNK-2
Giám đốc trung tâm
XNK-1
Cửa hàng trưởng
CH số 10
Cửa hàng trưởng
CH số 1
15 trung tâm 10 cửa hàng
Hình 1: Sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty Đây là sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty. Qua sơ đồ ta thấy: Công ty có sự chỉ đạo trực tiếp từ hội đồng quản trị của Công ty, có hệ thống trung tâm xuất nhập khẩu và hệ thống cửa hàng lớn gắn liền với mỗi hoạt động kinh doanh cụ thể. Toand công ty có khoảng 132 cán bộ công nhân viên.
b.Bộ máy quản lý của công ty:
*Hội đồng quản trị: đây là cơ quan quản lý hoạt động của doanh nghiệp, có quyền cao nhất và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quản trị do Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải bổ nhiệm sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng -trưởng ban tổ chức cán bộ chính trị.
*Giám đốc và Phó Giám đốc:
-Giám đốc: Giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh của Công ty theo chế độ thủ trưởng, là đại diện pháp nhân của Công ty trong các mối quan hệ kinh doanh và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Hội đồng quản trị về hoạt động của Công ty. Giám đốc do Hội đồng quản trị Công ty bổ nhiệm sau khi đã thông qua Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải.
-Phó giám đốc: phụ trách, chịu trách nhiệm về các khu vự trong công ty.
*Tiếp theo là các phòng ban chức năng đảm nhiệm các công việc đã được phân công. Các phòng ban gồm có:
-Phòng xuất nhập khẩu.
-Phòng tài chính kế toán.
-Phòng tổ chức hành chính.
-Các trung tâm xuất nhập khẩu (15 trung tâm).
-Hệ thống cửa hàng thuộc Công ty (10 cửa hàng)
c.Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban
Mỗi phòng ban có nhiệm vụ, chức năng cụ thể.
-Phòng xuất nhập khẩu : có chức năng tham mưu cho lãnh đạo công ty về quản lý nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu và thị trường. Xây dựng các kế hoạch về xuất nhập khẩu. Nhiệm vụ của phòng là theo dõi tỏng hợp báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch. Khi công ty thực hiện xuất nhập khẩu thì phòng phải lo các thủ tục, giấy phép xuất nhập khẩu. Trong ký kết các hợp đồng thì có nhiệm vụ tham mưu cho ban lãnh đạo. Phòng trực tiếp quản lý các mặt hàng dự trữ, nghiên cứu cứu tìm biện pháp bán hàng ứ đọng. Ngoài ra , phòng còn có rất nhiều nhiệm vụ khác như: điều tra nghiên cứu thị trường, tham gia vào các dự án dầu tư.
-Phòng tài chính kế toán: là phòng có chức năng tham mưu quản lý chỉ đạo nhiệm vụ và trực tiếp làm công tác tài chính kế toán thống kê của công ty, tham mưu cho ban lãnh đạo và theo dõi thực hiện các qui chế về quản lý kinh tế tài chính.Quyết toán và phân tích cc hoạt động sản xuất kinh doanh, xử lý các tồn tại về mặt tài chính. Phòng có nhiệm vụ phân phối và điều hoà vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh của công ty, lập kế hoạch và hướng dẫn thực hiện kế hoạch thu chi tài chính của công ty và các đơn vị, làm thủ tục trình Bộ, Tổng công ty cấp vốn và phân bổ vốn được cấp.Cùng với các phòng có liên quan,phòng có nhiệm vụ phân phối các quĩ khen thưởng hàng năm và đột xuất của công ty.
-Phòng tổ chức hành chính: có nhiệm vụ tham mưu và giúp đỡ lãnh đạo về các mặt công tác thuộc lĩnh vực văn phòng, phân phôi và lưu trữ công văn giấy tờ, đánh máy, in tài liệu, liên lạc kịp thời giữ bí mật, phục vụ đối nội. Quản lý chỉ đạo nghiệp vụ các mặt tổ chức cán bộ nhân sự lao động tiền lương, đào tạo thanh tra pháp chế,khen thưởng kỷ luật, bảo vệ quân sự .
Nhiệm vụ cụ thể của phòng là : tổng hợp điều hoà các hoạt động chung của công ty, tiếp nhận và phân phối công văn giấy tờ, truyền đạt các chỉ thị mệnh lệnh ,phục vụ phương tiện và các điều kiện hoạt động của lãnh đạo và các phòng ban, quan hệ với địa phương sở tại giám sát thi hành khen thưởng ,kỷ luật ,an ninh trong công ty
-Các trung tâm XNK: Được trực tiếp giao dịch ,đàm phán dự thảo hợp đồng đẻ trình giám đốc ký ,có nhiệm vụ tổ chức thực hiện hợp đồng ,tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh .Các trung tâm được vay vốn của công ty (khoảng 50% giá trị hợp đồng) và phải có 50% vốn đối ứng và được thuê mướn lao động ngắn hạn .
-Hệ thống cửa hàng thuộc công ty :
Các cửa hàng có chức năng và nhiệm vụ phân phối và bán rộng rãi các sản phẩm của công ty , giới thiệu sản phẩm mới.
II. Một số đặc điểm về kinh tế kỹ thuật có ảnh hưởng đén việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu .
1.Đặc điểm về lao động cuả công ty .
Công ty được thành lập trong thời điểm các doanh nghiệp đang phát triển các ngành kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, phải tự hạch toán độc lập và tự mình tìm ra phương hướng kinh doanh để tồn tại và phát triển. Trong thời gian này nhiều doanh nghiệp đã gặp phải không ít khó khăn, kinh doanh kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ.Thời gian đầu khi mới thành lập công ty còn lại một số cán bộ làm việc từ thời bao cấp từ tổng công ty chuyển sang và do ảnh hưởng của lề lối làm việc cũ nên đã gặp một số trở ngại.Tuy nhiên, bù lại họ có được kinh nghiệm cao trong kinh doanh và cũng tạo nên một số mối quan hệ ngoại giao tốt, dần dần họ cũng đã thích ứng được với cơ chế mới tuy lúc đầu có hơi bỡ ngỡ. Bên cạnh đó, công ty cũng đã có nhiều cán bộ công nhân viên trẻ trung năng động, sáng tạo nhiệt tình say mê trong công việc, có những ý kiến đóng góp đáng kể cho công ty. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty hiện nay đều có trình độ học vấn chuyên môn cao đều đã tốt nghiệp đại học và trung cấp. Đây chính là những lợi thế của công ty. Hiện nay, công ty có khoảng 132 cán bộ công nhân viên đều là cán bộ biên chế của nhà nước ( chưa kể những nhân viên có hợp đồng trong công ty ), trong đó trình độ đại học chiếm tỷ lệ khoảng 90%, trình độ trung cấp chiếm 10%.
Ban đầu công ty chưa mở rộng và tìm hiểu được thị trường do sự ảnh hưởng của lề lối làm việc cũ về cả tư tưởng và tổ chức. Mặc dù vậy, năm 1997 công ty đã tìm mọi biện pháp để giảm chi phí lưu thông, làm tăng lợi nhuận, so với năm 1996 là 47% và đạt hơn 2,3 tỷ đồng. Có được như vậy là do công ty vay vốn của ngân hàng với lãi suất tiền vay ngân hàng giảm xuống, bên cạnh đó là việc mua sắm chi tiêu tiết kiệm hơn trước và đặc biệt là sự quản lý có hiệu quả của bộ máy cán bộ quản lý và sự phối hợp thực hiện của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty.
Bảng 1: Cơ cấu lao động của công ty qua các năm
Chỉ tiêu Năm
1998
1999
2000
Phân loại lao động
Số người
%
Số người
%
Số người
%
I. Theo nghiệp vụ công tác
1. Cán bộ lãnh đạo
3
2,5
4
3,5
4
3
2. Cán bộ chỉ đạo thực hiện
20
17
24
19
25
19
3. Cán bộ gnhiệp vụ
93
77,5
92
74
98
74
4. Cán bộ nghiên cứu tham mưu
4
3
4
3,5
5
4
II. Theo tính chất lao động
1. Trực tiếp kinh doanh
65
54
72
48
78
60
2. Gián tiếp kinh doanh
55
46
52
52
54
40
III. Theo trình độ đào tạo
1. Đại học
96
80
104
84
118
90
2. Trung cấp
24
20
20
16
14
10
IV. Theo giới tính
1. Nam
74
62
69
56
69
52
2. Nữ
46
38
55
44
63
48
V. Theo độ tuổi
1. > 40
72
60
59
48
60
46
2. < 40
48
40
65
52
72
54
Tổng số cán bộ công nhân viên
120
100
124
100
132
100
Nguồn: Theo Báo cáo tổng kết về lao động của Công ty năm 1998-2000
2.Đặc điểm về các mặt hàng và thị trường chủ yếu của Công ty
2.1.Đặc điểm về mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty.
Những năm trước đây (thời kỳ bao cầp) hoạt động chủ yếu của công ty là cung ứng vật tư thiết bị giao thông vận tải cho các đơn vị trong ngành theo kế hoạch mà bộ giao xuống. Có thể nói mọi hoạt động của công ty đều thụ động và theo sự chỉ đạo của cấp trên, thói quen chờ chỉ tiêu phân cấp và việc bảo trợ của cấp trên đã gây nhiều khó khăn cho công ty như thiếu vốn, thiếu việc làm, ứ đọng sản phẩm,...
Trong những năm gần đây khi công ty trở thành đơn vị kinh doanh hạch toán độc lập, nhờ những cố gắng của mình, công ty đã đứng vững trong cạnh tranh và tự khẳng định là một trong những công ty xuất nhập khẩu hàng đầu của ngành Giao thông vận tải, cũng như trong cả nước.
Công ty đã tiến hành nhập khẩu các mặt hàng chuyên dùng và mặt hàng truyền thống như: nhựa đường, săm lốp, phụ tùng ô tô, thép xây dựng, máy thiết bị thi công, máy tàu thuỷ,...
-Sắt thép chuyên dùng (thép làm cầu, thép xây dựng)
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế thì đến năm 92 nhu cầu trên thị trường có sự tăng đột biến. Bởi vì thời gian này chúng ta đã sửa chữa và xây dựng nhiều cầu lứon như cầu Phú Lương, cầu Lai Vu, cầu nối vùng Tây Nguyên với vùng đồng bằng sông Cửu Long và nhiều công trình khác để đáp ứng nhu cầu trong và ngoài ngành.
-Máy thi công: cùgn thời gian mặt hàng này tăng mạnh về số lượng và chủng loại do nhu cầu ngành càng lớn về máy móc công nghệ làm đường. Những năm gần đây có nhiều dự án xây dựng quốc lộ như quốc lộ 1A, đường 5 đi Hải Phòng,... nên công ty có nhiều thuận lợi trong việc tiêu thụ hàng như: máy xúc, máy nghiền sàng đá, máy trộn bê tông, máy ủi, máy lu, máy san,...
-Săm lốp ô tô: đây là một trong những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty nhưng lại không nằm trong danh mục quản lý của Nhà nước. Dựa trên nhu cầu của thị trường công ty tiến hành nhập khẩu để kiếm lời, chịu trách nhiệm, chịu lỗ,...
-Nhựa đường: là một mặt hàng chiếm tỷ trọng nhập khẩu cao trong các mặt hàng chủ lực của công ty. Trong những năm gần đây, nước ta chủ trương xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, do vậy nhu cầu về nhựa đường tăng mạnh để mở rộng tu sửa đường xá. Nhựa đường là mặt hàng chiến lược của công ty. Công ty đã chiếm lĩnh thị trường về mặt hàng này trên thị trường cả nước. Ngoài ra công ty còn nhập một số mặt hàng khác khi thị trường có nhu cầu như: phụ tùng ô tô, máy phát điện, que hàn, máy bơm li tâm, thiết bị thí nghiệm, kính an toàn, mũ bảo hiểm,..
Để thực hiện tốt hoạt động kinh doanh nhập khẩu,nâng cao kim ngạch nhập khẩu, tìm kiếm nguồn hàng mà thị trường đang khan hiếm và có nhu cầu cao là điều rất quan trọng. Do chính sách nhập khẩu thường hay thay đổi nên việc tìm kiếm mặt hàng nhập khẩu cũng luôn thay đổi và không ổn định. Mặc dù vậy, công ty cũng luôn cố gắng hết sức để đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu và cũng đạt một số kết quả nhất định trong những năm qua.
Bảng 2: Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty
Đơn vị tính: triệu đồng
Stt
Mặt hàng
1998
1999
2000
Số lượng
Tổng giá nhập
Số lượng
Tổng giá nhập
Số lượng
Tổng giá nhập
1
Máy ủi
22 chiếc
2.175
24 chiếc
2.545
25 chiếc
2.830
2
Máy lu
108 chiếc
3.915
110 chiếc
4.120
116 chiếc
4.370
3
Máy xúc
29 chiếc
2.900
30 chiếc
3.058
32 chiếc
3.210
4
Máy san
10 chiếc
970
11 chiếc
1.072
12 chiếc
1.198
5
Máy nghiền sàng đá
12 chiếc
1.632
14 chiếc
1.930
15 chiếc
1.864
6
Máy trộn bê tông
15 chiếc
2.105
16 chiếc
2.290
18 chiếc
2.650
7
Sắt thép
350 tấn
1.059
356 tấn
1.153
374 tấn
1.240
8
Nhựa đường
17.400 tấn
29.986
18.200 tấn
32.870
18.360 tấn
34.066
9
Phụ tùng ô tô
48 tấn
6.400
51 tấn
6.720
54 tấn
7.163
10
Săm lốp ô tô
1.812 bộ
1.986
1.954 bộ
2.140
2.048 bộ
2.270
Nguồn: Theo báo cáo tổng kết về các mặt hàng kinh doanh của công ty từ năm 98-2000
2.2 Đặc điểm về thị trường nhập khẩu của công ty
Công ty có một môi trường kinh doanh hàng hoá nhập khẩu rộng lớn và khá thuận lợi. Công ty luôn chú trọng đến chữ tín trong kinh doanh, lấy chữ tín làm đầu, luôn biết phân tích và đánh giá đúng thị trường. Vì vậy, thị trường của công ty ngày càng mở rộng bạn hàng kinh doanh ngày càng đông, nó hạn chế mọt số rủi ro và tăng khả năng thắng lợi trong kinh doanh.
Công ty có quan hệ bạn hàng với rất nhiều nước trên thế giới. Ngoài những bạn hàng có quan hệ lâu năm, công ty còn có thêm nhiều bạn hàng mới. Một trong những thuận lợi lớn của công ty là quan hệ thương mại của Việt Nam không ngừng cải thiện, Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ ngoại thương và đã tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế như: ASEAN, AFTA,APEC,.. tién tới gia nhập WTO. Chính vì vậy mà công ty có thêm nhiều cơ hội trong quan hệ làm ăn, hợp tác với các tổ chức nước ngoài.
Hiẹn nay, công ty nhập khẩu một số mặt hàng như thép chuyên dùng, máy thi công, máy thiết bị công trình, săm lốp ôtô, xe ô tô,.. các loại tại các thị trường: Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga,Trung Quốc và một số nước Đông Âu,... nhập khẩu nhựa đường tại các thị trường Singapo, Đài Loan, Iran,... Ngoài ra công ty cũng có quan hệ thương mại với các thị trường khác như: Đức, Mỹ, Thái lan,...
Bảng 3: Cơ cấu thị trường nhập khẩu của công ty
Đơn vị tính: triệu đồng
Stt
Mặt hàng
Thị trường
1998
1999
2000
KNNK
Tỷ trọng
(%)
KNNK
Tỷ trọng(%)
KNNK
Tỷ trọng(%)
1
Máy ủi
Nhật Bản
2.175
4,09
2.545
4,39
2.830
4,65
2
Máy lu
Nhật Bản
3.915
7,37
4.120
7,1
4.370
7,18
3
Máy xúc
Nhật Bản
2.900
5,46
3.058
5,27
3.210
5,28
4
Máy san
Nhật Bản
970
1,82
1.072
1,8
1.198
1,97
5
Máynghiềnsàng đá
Nhật Bản
1.632
3,07
1.930
3,32
1.864
3,06
6
Máy trộn bê tông
Nhật Bản
2.105
3,97
2.290
3,94
2.650
4,35
7
Sắt thép
Nga,Đức,Trung Quốc
1.059
1,99
1.153
1,98
1.240
2,04
8
Nhựa đường
Singapo,Đài Loan,Iran
29.986
56,4
32.970
56.84
34.066
56,02
9
Phụ tùng ô tô
Nga Trung Quốc, Nhật Bản
6.400
12,04
6.720
11,58
7.162
11,77
10
Săm lốp ô tô
Nga,Trung Quốc.ấn Độ
1.986
3,57
4.140
3,78
2.270
3,68
Tổng
53.128
57.998
60.806
Nguồn: Theo báo cáo tổng kết về thị trường nhập khẩu của công ty năm 98-2000
Ngoài ra công ty còn kinh doanh một số loại mặt hàng máy móc vật tư thiết bị trong xây dựng công trình giao thông vận tải đạt hiệu quả cao trong kinh doanh .
Qua bảng ta thấy mặt hàng trên củh yếu được nhập từ thị trường các nước như Nhật Bản,Singapo, ấn Độ ,Đức, Nga, Đài Loan, Trung Quốc... và nhiều thị trường khác. Đây là những loại hàng mà thị trường có nhu cầu tiêu thụ rất lớn ở trong nước và các mặt hàng này được nhà nước quản lý chặt chẽ theo hạn ngạch giao chỉ tiêu cho từng công ty. Trong kim ngạch nhập khẩu của công ty thì các loại máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng cao. Năm 2000 kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh đạt 105.896 triệu đồng do nhu cầu về một số mặt hàng tăng lên và do công ty đã ký được nhiều hợp đồng lớn có giá trị. Các mặt hàng về máy móc ngày càng đa dạng hơn để thích ứng với nhu cầu của từng năm, từng thời kỳ trên thị trường. Nói chung trong hoạt động nhập khẩu, công ty đã phát huy vàvân dụng tốt mọi biện pháp nâng cao kim ngạch nhập khẩu mặc dù nhà nước it khuyến khích trong việc nhập khẩu. Tuy vậy, công ty đã lựa chọn được những loại hàng hoá phù hợp với xu thế và nhu cầu phát triển trong nước, đó cũng chính là loại hàng mang lại lợi nhuận lớn trong công ty đồng thời lại dễ tiêu thụ.
2.3.Đặc điểm thị trường đầu ra và đối thủ cạnh tranh của công ty
-Đặc điểm thị trường đầu ra: khách hàng tiêu thụ những mặt hàng nhập khẩu của công ty chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp của Bộ GTVT, Bộ Xây dựng như Tông công ty Xây dựng Giao thông 1, các tông công ty và công ty xây dựng đóng trên địa bàn toàn quốc, các đoạn quản lý đường bộ... và số it các khách hàng tư nhân. Vì vậy doanh thu của công ty phụ thuộc rất nhiều vào vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước.
Bảng 4: Cơ cấu thị trường đầu ra của công ty
đơn vị tính: triệu đồng
Stt
Đơn vị khách hàng
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Tổng giá trị tiêu thụ
Tổng giá trị tiêu thụ
Tốc độ tăng
(lần)
Tổng giá trị tiêu thụ
Tốc độ tăng
(lần)
1
Tổng công ty xây dựng
công trình giao thông 1-4-5-8
2.548
6.250
2.45
14.600
2.34
2
Tổng công ty xây dựng
Sông Lô-Hà Giang
1.463
3.405
2.32
6.903
2.02
3
Công ty công trình
giao thông 1- Hà Giang
1.276
4.590
3.6
12.302
2.68
4
Công ty xây dựng Lũng Lô-
-Bộ Quốc phòng
1.030
2.700
2.6
5.760
2.1
5
Đoạn quản lý đường bộ 1-2 Yên Bái
1.192
2.875
2.4
7.563
2.63
6
Đoạn quản lý đường bộ 1-2
Lào Cai
1.120
3.150
2.8
8.206
2.6
7
Doanh nghiệp xây dựng
Trường Hà
834
1.456
1.74
3.970
2.7
Nguồn:Theo báo cáo tổng kết năm về thị trường tiêu thụ năm 1998-2000
-Đối thủ cạnh tranh:
Trước năm 1996,khi còn tồn tại chế độ cấp phép nhập khẩu theo quota, công ty hầu như không có đối thủ trên thị trường nội địa về mặt hàng máy móc thiết bị GTVT vì công ty là đơn vị đọc quyền nhập những mặt hàng này.
Sau năm 1996 , với chính sách mở cửa của nhà nước, ngoài một số doanh nghiệp nhà nước khác cũng nhập khẩu những mặt hàng này, công ty còn phải đương đầu với những doanh nghiệp tư nhân tham gia vao lĩnh vực này trong khi nước ta đang khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh phát triển tăng thu nhập, lợi nhuận và ngân sách nhà nước, nên ngày càng coa nhiều doanh nghiệp tư nhân,công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập tham gia vào nền kinh tế đất nước.
Chính vì vậy công ty ngày càng phải hoàn thiện phát triển hơn nữa để tự khẳng định mình trên thương trường kinh doanh với cường độ ngày càng nhanh hơn và mạnh hơn như hiện nay.
Xu hướng phát triển xã hội trên sẽ là xu hướng chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam cũng như thế giới nói chung-xu hướng cạnh tranh khốc liệt trên thương trường trong thế kỷ 21 và tương lai, nên công ty phải có nhiều biện pháp mạnh để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
*Tất cả các yếu tố trên đã góp phần không nhỏ trong hoạt động kinh doanh của công ty. Vì vậy, phải làm thế nào để phát huy hết tiềm năng đó hiện đang là vấn đề nan giải mà công ty VIETRACIMEX-1 cần quan tâm.
III.Thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty trong những năm qua
1.Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm gần đây
//Bảng 05: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Từ bảng kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, ta có thể thấy:
Nhìn chung kể từ khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường công ty luôn tìm kiếm, nắm bắt hoạt động thị trường để hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả.
Trong ba năm gần đây, hoạt động kinh doanh của công ty khá hiệu quả, doanh thu ngày càng tăng lên, mỗi năm tăng khoảng 11 tỷ đồng do công ty đã áp dụng một số chính sách kinh doanh hợp lý và sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, thực hiện đúng mục tiêu chiến lược trong kinh doanh của mình đem lại lợi nhuận cho công ty.
Sang năm 2000, công ty chú trọng chuyển hướng kinh doanh mở ra thêm nhiều thị trường mới, hình thành nhiều mặt hàng kinh doanh , các loại hàng hoá có giá trị kinh tế nên đã mang leại hiệu quả kinh tế cao mặc dù công ty có đội ngũ lao động gián tiếp tới 40% và cũng nhờ sự đóng góp nhiệt tình của cán bộ công nhân viên và ban lãnh đạo của công ty. Công ty đã đạt doanh thu hơn 86 tỷ đồng, tỷ lệ doanh thu thuần tăng 6,5% so với năm 1999, điều này chứn tỏ công ty đã đứng vững và ngày càng khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
Nói chung, nhờ có một bộ máy quản lý lãnh đạo và đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ học vấn, tay nghề và chuyên môn cao, mô hình bộ máy và cơ cấu tổ chức hợp lý đã phát huy khả năng tiềm tàng của mỗi người, công ty không ngừng nâng cao cải tiến về cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng kho bãi để phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh. Công ty biết lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp với nhu cầu và sức mua của thị trường, biết lựa chọn bạn hàng tin cậy, giữ uy tín với khách hàng để hoạt động kinh doanh lâu dài nên có được nhiều khách hàng truyền thống và dùng nhiều biện pháp marketing, ngoại giao giới thiệu mặt hàng thu hut được nhiều bạn hàng mới. Đó là những lợi thế mà công ty cần phát huy để cho hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty không ngừng phát triển và ngày càng tăng lên.
2.Thực trạng thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty
Bảng 6: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty năm 1998-2000
Đơn vị tính: triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
1
Tổng kim ngạch nhập khẩu
63.548
84.236
105.832
2
Tổng giá trị sản lượng
63.488
74.516
86.916
3
Chi phí
6.761
6.458
7.228
4
Nộp ngân sách nhà nước
1.270
1.490
1.738
5
Lợi nhuận
2.483
2.559
2.648
6
Lợi nhuận / doanh thu
0.0391
0.0343
0.0304
7
Lợi nhuận / vốn kinh doanh
0.0210
0.0215
0.0220
8
Doanh thu / vốn kinh doanh
1.048
1.051
1.053
9
Hệ số hiệu quả
0.082
0.086
0.089
Nguồn: theo báo cáo tổng kết kinh doanh của công ty năm 1998-2000
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy rằng tổng giá trị sản lượng đạt được của công ty đều tăng lên qua các năm. Mức độ tăng của các năm tương đối đều nhau.
-Tổng giá trị sản lượng đạt được qua các năm tăng cụ thể là:
Năm 1999 so với 1998 tăng 1,17 lần hay tăng 11.031 triệu đồng.
Năm 2000 so với 1999 tăng 1,17 lần hay tăng 12.399 triệu đồng.
- Lợi nhuận đạt được qua các năm tăng lên cả về số tương đối và số tuyệt đối, qua bảng ta thấy lợi nhuận đạt được của các năm như sau:
Năm 1999 so với 1998 tăng 1,03 lần hay tăng 76 triệu đồng.
Năm 2000 so với 1999 tăng 1,034 lần hay tăng 88 triệu đồng.
-Mức nộp ngân sách qua các năm cũng tăng lên cụ thể như sau:
Năm 1999 so với 1998 tăng 1,17 lần hay tăng 220 triệu đồng.
Năm 2000 so với 1999 tăng 1,17 lần hay tăng 248 triệu đồng.
-Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt được qua các năm đều tăng lên và đạt:
Năm 1999 so với 1998 tăng 1,3 lần hay tăng 18.352 triệu đồng
Năm 2000 so với 1999 tăng 1,26 lần hay tăng 22.416 triệu đồng
Từ sự phân tích trên ta thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty tăng trưởng mạnh mẽ phản ánh cả bốn chỉ tiêu: tổng kim ngạch nhập khẩu, tổng giá trị sản lượng, mức nộp ngân sách, lợi nhuận.
Đối với chỉ tiêu chất lượng:
- Lợi nhuận / vốn kinh doanh: có nghĩa là một đồng vốn bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Lợi nhuận / doanh thu: có nghĩa là một đồng doanh thu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Hình số 2: Biểu đồ lợi nhuận sau thuế
3
2,5
2
1
2483
2559
2648
2000
1999
1998
Năm
Lợi nhuận
Trđ
Hình 3: Biểu đồ nộp ngân sách Nhà nước
2
1,5
1
1270
1490
1738
2000
1999
1998
Năm
NSNN
Trđ
- Doanh thu / vốn kinh doanh : có nghĩa là một đồng vốn bỏ ra tương ứng với bao nhiêu đồng doanh thu.
* Công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị giao thông vận tải là doanh nghiệp nhà nước cũng như bao doanh nghiệp khác luôn luôn coi trọng hoạt động kinh doanh nhập khẩu là vấn đề sống còn quyết định sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Bên cạnh đó công ty lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, nhờ đó mà những năm qua công ty luôn được bộ giao thông vận tải và bộ thương mại đánh giá là đơn vị mạnh trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, thực hiện tốt kế hoạch đặt ra đặc biệt là từ năm 1998 trở lại đây, Vietracimex – 1 luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch.
Bảng 7: Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của công ty
Stt
Mặt hàng
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Kim ngạch nhập khẩu
Tỷ trọng
(%)
Kim ngạch nhập khẩu
Tỷ trọng
(%)
Kim ngạch nhập khẩu
Tỷ trọng
(%)
1
Máy móc thiết bị
17.653
27,78
23.484
27,88
30.215
28,55
2
Vật tư nguyên vật liệu
35.866
56,44
47.879
56,84
59.287
56,02
3
Phụ tùng ôtô
10.027
15,78
12.871
15,28
16.329
15,43
Tổng kim ngạch nhập khẩu
63.548
100
84236
100
105.832
100
Nguồn: theo báo cáo tổng kết về kim ngạch nhập khẩu năm1998-2000
Hình 5: Biểu đồ kim ngạch nhập khẩu
100
50
63548
84236
105832
2000
1999
1998
Năm
Lợi nhuận
Trđ
Sự cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đã làm cho Công ty Vietracimex-1 không ngừng vươn lên và mở rộng thị trường thu hút được nhiều bạn hàng. Qua bảng số liệu ta thấy kim ngạch nhập khẩu và tổng kim ngạch nhập khẩu từng mặt hàng tăng đáng kể, đièu này khẳng định hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty thực sự sự mang lại hiệu quả và đứng vững trong sự cạnh tranh của cơ chế thị trường.
-Cụ thể mức độ tăng kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị là:
Năm 1999 so với 1998 tăng 1,33 lần hay tăng 5831triệu đồng
Năm 2000 so với 1999 tăng 1,29 lần hay tăng 6731 triệu đồng
-Cụ thể mức độ tăng kim ngạch nhập khẩu vật tư nguyên vật liệu là:
Năm 1999 so với 1998 tăng 1,33 lần hay tăng 11993 triệu đồng
Năm 2000 so với 1999 tăng 1,24lần hay tăng 11408 triệu đồng
- Cụ thể mức độ tăng tổng kim ngạch nhập khẩu là:
Năm 1999 so với 1998 tăng 1,32lần hay tăng 21.596 triệu đồng
Năm 2000 so với 1999 tăng 1,26 lần hay tăng 47.688 triệu đồng
Những kết quả trên đây cũng chính là sự thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của nhà nước, sự giúp đỡ về nhiều mặt của Bộ GTVT và Bộ Thương mại đối với công ty, đặc biệt ban lãnh đạo của công ty có tinh thần trách nhiệm cao trước tập thể và sự nghiệp phát triển của toàn công ty. Ngày nay, công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị giao thông vận tải (VIETRACIMEX-1) được biết như một địa chỉ đáng tin cậy đối với bạn hàng trong và ngoài nước.
3.Các biện pháp mà công ty đã áp dụng để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu trong những năm qua:
Công ty luôn duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống nên nhiều công ty bạn như công ty xây dựng công trình giao thông, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông, Công ty xây dựng Bộ quốc phòng,... ngày càng tin tưởng và lượng hàng tiêu thụ của các công ty này ngày càng tăng.
Công ty không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ như đào tạo và rèn luyện đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ kỹ thuật chuyên môn cao nhiệt tình say mê trong công việc đáp ứng được mọi yêu cầu đòi hỏi của công việc. Hiên nay số lượng cán bộ công nhân viên có trình độ đại học và sau đại học ngày càng tăng đạt trên 90%.
Công ty luôn chú trọng việc nâng cấp cơ sơ vật chất kỹ thuật máy móc kho bãi nhà xưởng.hiện nay công ty có nhiều phòng làm việc mới trang thiết bị hiện đại với nhiều dàn máy tính được nối mangj phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu mở rộng xây mới khu vực nhà xưởng sân bãi.
Công ty đã nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các mặt hàng vươn tới nhiều lĩnh vực mới. Trước đây công ty chỉ nhập khẩu các loại máy móc thiết bị vật tư, từ năm 1999 công ty đăng ký hoạt động thêm cả lĩnh vực nhập khẩu phương tiện vận tải như ôtô ..
Để mở rộng thị trường kinh doanh nhập khẩu công ty luôn mở rộng mối quan hệ kinh doanh buôn bán giao lưu cả trong nước và ngoài nước và đã thu hút nhiều khách hàng, doanh nghiệp tư nhân.
Công ty đã áp dụng chính sách khuyến khích khen thưởng cho những đơn vị có thành tích đạt doanh thu cao đem lại nhiều lơị nhuận cho công ty để họ phát huy và phấn đấu tăng cao hiệu quả kinh doanh hơn nữa.
IV.Đánh giá thực trạng nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty
1.Những ưu điểm trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty
Nhiều năm nay bằng uy tín đã tạo ra đối với khách hàng, bằng nỗ lực cố gắng của mình công ty đã duy trì tốt và phát huy vai trò cung cấp các thiết bị máy móc vật tư phục vụ nghành GTVT.
Trong nhập khẩu hàng hoá công ty có sự trợ giúp của Bộ Thương Mại và Bộ GTVT. Ngoài nhuồn vốn , cơ sở vật chất lớn mạnh đồng thời có quan hệ mật thiết với những ngân hàng lớn như VIETCOMBANK, Ngân hàng Thương mại Quốc gia.. Điều này tạo điều kiện thuận lợi trong việc ký kết và thanh toán các hợp đồng nhập khẩu, các văn phòng đại diện, chi nhánh trong nước như VIETRACIMEX Sàigòn-Đà nẵng Hải phòng.. đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm thị trường kinh doanh nhập khẩu củ công ty ngày càng đạt hiệu quả cao.
Do chuyên sâu về kinh doanh nhập khẩu các mặt hàng phục vụ cho GTVT, do đó cán bộ kinh doanh có thể nắm bắt được đặc tính kỹ thuật chủng loạ cũng như giá cả từng mặt hàng mà mình kinh doanh hơn so với các đơn vị không chuyên về loại hàng đó. Vì vậy hiệu quả hoạt động nhập khẩu các loại hàng hoá đó công ty có ưu thế hơn so với các đơn vị khác.
Bên cạnh đó, các văn phòng đại diện ở nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty tìm kiếm thu thập thông tin về thị trường bạn hàng giảm bớt các rủi ro trong khâu trung gian và chi phí đi lại nhằm góp phần tích cực đưa hoạt động kinh doanh nhập khẩu củ công ty ngày càng đạt hiệu quả cao.
2.Những tồn tại cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty
Trong những năm qua bên cạnh sự nỗ lực và những thành tựu đạt được của công ty nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng, cúng ta không thể phủ nhận những vấn đề còn tồn tại, những vướng mắc chưa giải quyết được của công ty.
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của công ty còn thấp, tốc độ tăng qua các năm còn chậm so với tiềm năng thực có của công ty , hiệu quả đạt được còn thấp so với chi phí bỏ ra. Công ty chưa có phướng án kinh doanh cụ thể đối với từng mặt hàng nên khi có một biến động nào xảy ra thì khó thay đổi kịp.
Bên cạnh đó khi xây dựng phương án chiến lược đối với từng mặt hàng nhập khẩu lại không xây dựng phương án lãi tố thiểu của từng mặt hàng. Vì thế khi hàng về thường xảy ra rủi ro ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu của công ty. Ngoài ra do quá chạy đua cới thành tích nên quá trình kinh doanh nhập khẩu gặp phải nhiều khiếm khuyết như hàng về đến cảng vẫn chưa xin được hạn ngạch, vì vậy phải kéo dài thời gian hàng ở cảng thậm chí phải lưu kho làm chi phí phát sinh ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Đa số các bạn hàng ở thị trường nước ngoài chỉ là công ty thương mại không phải là hãng sản xuất trực tiếp nên giá nhập khẩu chấp nhận một gía cao hơn so với một số công ty khác nhập hàng trực tiếp. Điều đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty.
Một vấn đề nữa còn tồn tại trong công ty vẫn chưa giải quyết được đó là khó khăn về vốn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33599.doc