Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy Thuốc lá Thăng long

Mở đầu Trong thời đại khu vực hoá và toàn cầu hoá, chất lượng sản phẩm và dịch vụ có một vai trò hết sức quan trọng và đang trở thành một thách thức to lớn đối với mọi quốc gia trên con đường hội nhập vào thế kỷ 21. Thất bại hay thành công trong cuộc cạnh tranh vô cùng khốc liệt trên thương trường hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ thích hợp của hàng hoá và dịch vụ, sự hợp lý về giá cả, điều kiện mua bán giao nhận, xác định được thời điểm đưa hàng hoá ra thị trường…Muốn cạnh tranh hữu hiệu trên th

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Nhà máy Thuốc lá Thăng long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trường quốc tế cũng như trong nước để đạt lợi nhuận cao thì doanh nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng thích hợp tiên tiến. Đối với Việt Nam với đường lối đổi mới và chính sách đa phương hoá trong các lĩnh vực, trước hết trong lĩnh vực kinh tế,việc nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ đang trở thành phương thức tất yếu, một biện pháp có hiệu lực để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế và đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu xã hội, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập. Đối với nhà máy Thuốc lá Thăng Long nói riêng, trải qua hơn 45 năm tồn tại và phát triển ngày nay đã trở thành một trong những đơn vị vững mạnh của cả nước. Mặc dù sản phẩm thuốc lá bị hạn chế sử dụng vì có hại cho sức khoẻ nhưng nhà máy Thuốc lá Thăng Long hiện giờ vẫn chưa thể ngừng sản xuất được. Nếu giả sử như tất cả các cơ sở sản xuất thuốc lá của Việt Nam không hoạt động nữa thì thị trường thuốc lá nội địa sẽ bị lũng đoạn bởi thuốc lá nước ngoài.Hiện nay sản phẩm của nhà máy Thuốc lá Thăng Long đã được người tiêu dùng chấp nhận và chất lượng sản phẩm đã được cải thiện rõ rệt, nhưng trong công tác quản lý vẫn còn một số hạn chế nhất định. Để tìm ra những biện pháp thúc đẩy hơn nữa công tác quản lý chất lượng ở nhà máy Thuốc lá Thăng Long, tôi đã chọn đề tài ”một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở nhà máy Thuốc lá Thăng long" làm đề tài tốt nghiệp. Đề tài gồm ba phần chính như sau: Phần 1: Nâng cao chất lượng sản phẩm là mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp. Phần 2: Thực trạng chất lượng sản phẩm của nhà máy Thuốc Lá Thăng Long. Phần 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở nhà máy Thuốc Lá Thăng Long. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy, Tiến sĩ Vũ Minh Trai, tới các cô chú trong toàn bộ nhà máy Thuốc Lá Thăng Long đã giúp đỡ em trong suốt quá trình hình thành đề tài này. Hà nội, tháng 5 năm 2001 Phần I Nâng cao chất lượng sản phẩm là mục tiêu quan trọng của các doanh nghiệp I- chất lượng sản phẩm, các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm: 1.quan niệm về chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là một phạm trù hết sức phức tạp mà con người thường hay gặp trong các hoạt động của mình.ở mỗi một góc độ khác nhau có cách giải thích khác nhau về chất lượng sản phẩm. 1.1.Chất lượng sản phẩm theo quan niệm của người sản xuất: Theo quan niệm của người sản xuất "sản phẩm muốn đạt đến chất lượng thì phải đạt đến những tiêu chuẩn, những yêu cầu về kinh tế kỹ thuật đặt ra cho mỗi sản phẩm, những tiêu chuẩn này được thiết kế trước theo một hệ thống tiêu chuẩn nhất định " Quan niệm này còn gọi là quan niệm hướng theo công nghệ, coi chất lượng sản phẩm là một vấn đề hết sức giản đơn có thể định lượng được bằng một loạt các chỉ tiêu. Doanh nghiệp dựa vào những chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng sản phẩm của mình, nhưng chỉ đơn thuần là về mặt kỹ thuật. Nói chung nhìn nhận chất lượng sản phẩm theo góc độ của người sản xuất còn có một số hạn chế: Thứ nhất, quan điểm này tách sản phẩm ra khỏi thị trường, chưa gắn sản phẩm với nhu cầu. Bởi vì thực tế là có rất nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng không đáp ứng được những mong muốn của khách hàng và dẫn đến sản phẩm sản xuất ra nhưng chưa chắc đã bán được trên thị trường. Thứ hai, quan niệm này làm cho chất lượng sản phẩm bị tụt hậu so với nhu cầu của thị trường. Vì nhu cầu của con người luôn luôn thay đổi trong khi đó các tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm laị cố định một cách cứng nhắc. Cho nên luôn có khoảng cách giữa chất lượng trong tiêu chuẩn thiết kế với tiêu chuẩn chất lượng theo nhu cầu của người tiêu dùng. Cuối cùng do những quan niệm về chất lượng theo cách quan sát sản phẩm nên công tác quản lý chất lượng chủ yếu tập trung vào khâu sản xuất, đầu tư vào kiểm soát, kiểm tra sản phẩm cuối cùng. Cho nên có thể nói rằng khâu quản lý chất lượng mang tính chất rất cục bộ. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp sản xuất hoặc mua sản phẩm là để bán cho người tiêu dùng. Chính vì vậy cần thiết phải nhìn nhận chất lượng sản phẩm dưới quan điểm của người tiêu dùng. 1.2. Chất lượng sản phẩm theo hướng thị trường: Đứng trên góc độ của người tiêu dùng chất lượng sản phẩm phải thể hiện các khía cạnh sau: _chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, những đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật hay tính hữu dụng của nó. _chất lượng sản phẩm được thể hiện cùng với chi phí. Người tiêu dùng không dễ gì mua một sản phẩm với bất kỳ gía nào. _chất lượng sản phẩm phải được gắn với điều kiện tiêu dùng cụ thể của từng người, từng địa phương…phong tục tập quán của một cộng đồng có thể phủ định hoàn toàn những thứ mà thông thường ta có thể cho là" có chất lượng " Từ những phân tích trên có thể đưa ra một quan niệm chất lượng sản phẩm tương đối hoàn chỉnh như sau :"chất lượng sản phẩm là tổng hợp những chỉ tiêu,những đặc trưng của sản phẩm thể hiện mức thoả mãn những nhu cầu trong những diều kiện tiêu dùng nhất định" Như vậy chất lượng sản phẩm không những chỉ là tập hợp các thuộc tính mà còn là mức độ các thuộc tính ấy thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong những điều kiện cụ thể. Hay nói cách khác, chất lượng sản phẩm hàng hoá vừa có đặc tính chủ quan , vừa có đặc tính khách quan. 2. các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm : Có nhiều yếu tố tác động đến chất lượng sản phẩm ,nhưng có thể gộp các yếu tố này thành hai nhóm là nhóm yếu tố bên ngoài và nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp. Dựa vào nhóm yếu tố này mà doanh nghiệp có thể xây dựng kế hoạch về chất lượng sản phẩm và luôn đổi mới sản phẩm để thoả mãn tột bậc mức kỳ vọng của khách hàng. 2.1.Nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp: Trong phạm vi một doanh nghiệp, tất cả những gì tác động trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất đều ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Qui tắc 4M đã chỉ ra rằng, đó chính là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, con người và phương pháp tổ chức quản lý. Điều này có thể được khái quát theo sơ đồ xương cá sau: Sau đây ta sẽ nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố tới chất lượng sản phẩm Thứ nhất là nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là yếu tố cấu thành nên thực thể sản phẩm, chiếm khoảng 60-80% giá trị của sản phẩm. Cho nên không thể nói rằng chất lượng nguyên vật liệu không ảnh hưởng gì đến chất lượng sản phẩm mà ngược lại đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp nhất, mạnh mẽ nhất. Nguyên vật liệu, chất lượng có tốt, có đồng bộ, đầy đủ, cung cấp kịp thời mới là điều kiện cần thiết để tạo nên một sản phẩm có chất lượng hoàn chỉnh, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy khi xuất nguyên vật liệu ra khỏi kho đưa vào quá trình sản xuất,nhất thiết phải kiểm tra tiêu chuẩn của các yếu tố đầu vào này.Ngoài ra doanh nghiệp cũng phải quan tâm đến việc xây dựng cho mình một hệ thống các nhà cung ứng đầy tín nhiệm và bền chặt để tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào một nhà cung cấp mà vẫn đem lại lợi ích cho cả hai bên Thứ hai là:Kỹ thuật-công nghệ tiến bộ: Quá trình công nghệ là một quá trình phức tạp, qua quá trình này tính chất ban đầu của nguyên vật liệu được thay đổi, bổ sung hoặc cải thiện theo hướng phù hợp với công dụng của sản phẩm. Cho nên công nghệ là yếu tố quyết định đến việc hình thành chất lượng sản phẩm. Còn khoa học là yếu tạo ra lực đẩy, khả năng cải tiến và nâng cao chất lượng. Điều này được thể hiện qua sự sáng tạo, sáng chế ra các sản phẩm mới, sản phẩm thay thế có tính năng sử dụng cao hơn, hoặc tạo ra các máy móc thiết bị mới có khả năng sản xuất các sản phẩm tốt hơn, ở trình độ cao hơn. Mặc dù kỹ thuật và công nghệ được đổi mới nhưng thiết bị cũ thì không thể nào nâng cao được chất lượng sản phẩm. Hay nói cách khác nhóm yếu tố kỹ thuật-công nghệ –thiết bị có mối quan hệ tương hỗ khá chặt chẽ, không chỉ góp phần vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường, đa dạng hoá chủng loại nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao mà chi phí bỏ ra lại thấp. Yếu tố thứ ba là phương pháp tổ chức quản lý Có nguyên vật liệu tốt, có kỹ thuật thiết bị công nghệ hiện đại, nhưng không biết tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm, tổ chức tiêu thụ, vận chuyển, dự trữ bảo quản hàng hoá, sửa chữa vận hành và nâng cấp máy móc thiết bị…hay nói cách khác không biết tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh thì không thể nào nâng cao đựơc chất lượng sản phẩm . Thật là sai lầm khi cho rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu là hoàn toàn phụ thuộc vào người công nhân, vào các yếu tố của quá trình sản xuất. Nhưng thực tế lỗi trực tiếp sản xuất chỉ chiếm từ 15-20%, trong khi đó 80-85%là do lỗi của hệ thống quản lý không hoàn hảo." Những vấn đề chất lượng tốn kém nhất thường là bắt nguồn từ đầu bút chì và từ đầu dây điện thoại". Muốn giải quyết tốt, cần có sự điều chỉnh có mục tiêu, chứ không thể dùng các biện pháp chữa cháy, các biện pháp tình thế ngày một ngày hai. Vấn đề chất lượng là trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh nghiệp, trong đó phương pháp tổ chức quản lý giữ vai trò quyết định. Nhân tố cuối cùng trong nhóm nhân tố nội bộ doanh nghiệp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm là nhân tố con người. Con người là nhân tố quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng sản phẩm. Vì thực ra con người chính là lực lượng lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu. Phải hiều rằng con người ở đây không chỉ riêng là người lao động trực tiếp sản xuất mà còn là cán bộ lãnh đạo của đơn vị thậm chí còn xét cả bản thân người tiêu dùng. Sản phẩm đạt tiêu chuẩn trong sản xuất kỹ thuật nhưng không được người tiêu dùng chấp nhận nằm ứ đọng trong kho thì không thể nói là sản phẩm có chất lượng được. Chất lượng phải tính toàn bộ từ khâu đầu vào cho đến khâu cuối cùng là khâu tiêu thụ sản phẩm đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng chứ không phải tính riêng cho quá trình sản xuất cục bộ. Muốn thực hiện chất lượng sản phẩm một cách toàn diện thì ít nhất đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao phải có nhận thức mới về việc nâng cao chất lượng sản phẩm để có những chủ trương, những chính sách đúng đắn về chất lượng sản phẩm thể hiện trong mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng.Vấn đề con người phải được đặt lên hàng đầu, con người cần phải được đào tạo mà trước mắt là cán bộ quản lý rồi mới đến công nhân kỹ thuật. Mọi người phải có nhận thức rằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm là trách nhiệm và vinh dự của mọi thành viên, là sự sống còn, là quyền lợi thiết thân đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự phân chia tách bạch các yếu tố trên chỉ là qui ước, để hiểu rõ tác động của từng nhân tố đến chất lượng sản phẩm chứ thực ra trong yếu tố này có yếu tố kia, yếu tố kia lại quay trở lại tác động vào yếu tố này. Các yếu tố là một thể thống nhất, có mối quan hệ hữu cơ với nhau và được thể hiện qua sơ đồ 2: Sơ đồ 2: Men Con người Material Nguyên vật liệu Machine Máy móc thiết bị Method Phương pháp Chất lượng Sản phẩm 2.2 Nhóm yếu tố bên ngoài doanh nghiệp Doanh nghiệp cũng như một cơ thể sống, cũng phải trao đổi với môi trường bên ngoài. Doanh nghiệp nào mà tự tách mình ra khỏi môi trường thì doanh nghiệp đó khó có thể tồn tại được huống chi là nói đến vấn đề phát triển và mở rộng qui mô. Cho nên khi xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm không thể bỏ qua các nhân tố về thị trường, về sự phát triển của khoa học kỹ thuật, về chính sách quản lý của nhà nước… 2.2.1.Nhu cầu của nền kinh tế *Đòi hỏi của thị trường: Nhu cầu của thị trường về sản phẩm đó như thế nào: cỡ, loại, tính năng kỹ thuật, số lượng, cho ai sử dụng, vào những lúc nào…Hơn nữa, đòi hỏi của thị trường trong nước lại khác với thị trường nước ngoài. Trên mỗi thị trường lại có yêu cầu khác nhau đối với từng đối tượng sử dụng. Đó là chưa nói đến sự biến đổi của thị trường về một phương diện nào đó, theo một chiều hướng nào đó cũng làm cho sản phẩm phải được điều chỉnh thích ứng về chất lượng. Nhạy cảm với thị trường là nguồn sinh lực của quá trình hình thành và phát triển tất cả các loại sản phẩm, điều quan trọng là phải theo dõi, nắm chắc, đánh giá đúng tình hình và đòi hỏi của thị trường, nghiên cứu, lượng hoá từ đó có đối sách đúng đắn. *Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất : Đó là khả năng kinh tế và trình độ kỹ thuật có cho phép hình thành và phát triển một sản phẩm nào đó có mức chất lượng tối ưu hay không. Đảm bảo chất lượng luôn là vấn đề nội tại của bản thân nền sản xuất xã hội, nhưng việc nâng cao chất lượng không thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế. Cho nên logic của vấn đề là muốn sản phẩm có chất lượng thì phải trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất, trình độ kinh tế; và muốn vậy ngay từ đầu của quá trình sản xuất, quá trình phát triển kinh tế phải đảm bảo chất lượng công việc, chất lượng hợp lý nhất cho những sản phẩm làm ra. *Chính sác kinh tế: Hướng đầu tư, hướng phát triển loại sản phẩm và mức thoả mãn các loại nhu cầu của chính sách kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Như chính sách khuyến khích sản xuất những sản phẩm gì và không khuyến khích những sản phẩm gì, khuyến khích xuất khẩu những sản phẩm nào, với mức lợi nhuận nào cần có; chính sách khích lệ người lao động như thế nào…Ngay cả chính sách trong sự hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật nhằm tạo con đượng đặc thù trong phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định nào đó cũng trực tiếp chi phối sự thuận lợi hay không thuận lợi cho sự phát triển về chất lượng sản phẩm. 2.2.2.Sự phát triển của khoa học công nghệ Trong thời đại ngày nay, cùng với đặc điểm là khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trình độ chất lượng của bất cứ sản phẩm nào cũng gắn liền và bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất. Xét trong việc tổ chức ra một sản phẩm cụ thể nào đó, cái quyết định để có sự nhảy vọt về năng suất, chất lượng và hiệu quả chính là việc ứng dụng các thành tựu tiến bộ. Hướng chính của việc áp dụng các kỹ thuật tiến bộ hiện nay là: -Sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế. Bằng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xác lập các vật liệu mới (đặc biệt là các nguồn nguyên liệu có sẵn, chủ động ) có thể hoặc tạo nên những tính chất đặc trưng mới cho sản phẩm tạo thành, hoặc thay thế cho sản phẩm cũ nhưng duy trì được tính chất cơ bản của sản phẩm. ở đây có điều quan trọng là khi sáng tạo ra vật liệu mới hay vật liệu thay thế nhất thiết phải qua nghiên cứu, thử nghiệm, đánh giá, kết luận về công dụng của nó có đúng nghĩa vật liệu mới hay vật liệu thay thế không. -Hướng thứ hai là cải tiến hay đổi mới công nghệ: Với sản phẩm đã xác định, một công nghệ nào đó chỉ cho phép đạt tới một mức chất lượng tối đa ứng với nó. Công nghệ chế tạo càng tiến bộ thì càng có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn, ổn định hơn. Ví dụ trong ngành đúc, công nghệ đúc bằng khuôn kim loại có năng suất và chất lượng hơn khuôn đúc cát; trong nhiệt luyện, tôi trên máy tần số chất lượng gia công bề mặt đồng đều hơn là tôi ở lò điện hay lò phản xạ. ở nước ta nói chung, trình độ trang bị công nghệ của các ngành sản xuất chưa cao, còn nhiều bất hợp lý tiềm năng chưa khai thác hết. Vì vậy, đồng thời với việc thiết lập các hệ thống công nghệ hiện đại, cần tập trung cải tiến, đổi mới công nghệ từng phần sắp xếp các dây chuyền công nghệ sản xuất hợp lý, đây là điều quan trọng đặc biệt, nó sẽ đem lại hiệu quả một cách nhanh chóng và tiết kiệm cho nền kinh tế. -Hướng thứ ba là hướng cải tiến sản phẩm cũ và chế thử sản phẩm mới: Bằng cách áp dụng tiến bộ khoa học, cải tiến, nâng cao tính năng kỹ thuật hay giá trị sử dụng của các sản phẩm hiện có, làm cho nó thoả mãn mục đích và yêu cầu sử dụng một cách tốt hơn. Tuỳ từng sản phẩm mà có nội dung cải tiến khác nhau, nhưng hướng chung là cải tiến nhằm ổn định và nâng cao những chỉ tiêu cơ bản. Với sản phẩm hướng chính là tạo ra cỡ loại, thông số, kích thước cơ bản và các chỉ tiêu đặc trưng cho chất lượng nhằm đáp ứng những nhu cầu mới xuất hiện hoặc thoả mãn những nhu cầu nâng cao của mục đích sử dụng cũ. ở nước ta, cải tiến chất lượng cho những sản phẩm đã có trên cơ sở phát huy tiềm năng của công nghệ, của vật tư, của lao động hiện có là nội dung và biện pháp có ý nghĩa hàng đầu, ít tốn kém và đem lại hiệu quả nhanh. Tất nhiên, việc nghiên cứu chế thử sản phẩm mới có ý nghĩa riêng của nó. Nhưng phải có tính toán, cân nhắc, chuẩn bị chu đáo, để thưc sự có sản phẩm đúng nghĩa là mới, tức là tiến bộ hơn, có tính năng kỹ thuật và giá trị sử dụng ưu việt hơn sản phẩm cùng loại đã có. Thực ra có rất nhiều hướng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhưng trên đây là ba hướng cơ bản, điển hình hơn cả. Doanh nghiệp sẽ dựa vào đặc điểm nội lực của mình để lựa chọn hướng áp dụng cụ thể. Điều quan trọng không phải là áp dụng nhiều hướng, mà là kết quả cuối cùng sản phẩm của mình sau khi áp dụng một loạt các biện pháp ấy có được người tiêu dùng thừa nhận hay không, doanh số và lợi nhuận có tăng lên hay không? 2.2.3.Hiệu lực của cơ chế quản lý kinh tế: Bất kỳ hoạt động sản xuất nào, dưới chế độ nào cũng chịu tác động, chịu chi phối của cơ chế quản lý kinh tế, kỹ thuật, xã hội nhất định. Do đó chất lượng sản phẩm cũng bị yếu tố này qui định. Điều ấy được thể hiện qua các mặt sau đây: *Kế hoạch hoá phát triển kinh tế: Một quan điểm, một phương pháp kế hoạch hoá đảm bảo nguyên tắc cân đối các yếu tố vật chất và tinh thần, cân đối giữa số lượng và chất lượng, cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, lấy yêu cầu chất lượng tiêu dùng làm điểm xuất phát thì nhất định sự phát triển sản xuất sẽ đi vào con đường đảm bảo chất lượng. Trong quá trình xây dựng, xét duyệt, đánh giá hoàn thành kế hoạch, nếu luôn luôn tính tới yếu tố chất lượng, không đem chất lượng đối lập với số lượng, phân tích sâu sắc tỉ mỉ hiệu quả chung đem lại …thì chắc chắn sản phẩm làm ra sẽ đạt được tới mức chất lượng hợp lý nhất trong điều kiện cho phép. *Giá cả: Giá cả phải định theo mức chất lượng.Sản phẩm có nhiều mức chất lượng khác nhau thì phải có giá trị tương ứng khác nhau. Đồng thời, chênh lệch giá giữa các sản phẩm cùng loại có mức chất lượng khác nhau phải đảm bảo khuyến khích sản xuất ra sản phẩm có mức chất lượng cao. *Chính sách đầu tư: Chú trọng đầu tư theo chiều sâu để nâng cao hiệu quả tổng hợp của lực lượng sản xuất bằng cách dành lực lượng như thiết bị, cán bộ…thích đáng cho việc nghiên cứu, chế thử…nhằm nâng cao chất lượng. Đây là hướng đầu tư quan trọng nhất để nâng cao chất lượng và hiệu quả chung của nền kinh tế . *Tổ chức quản lý về chất lượng : Đó chính là việc hình thành cơ chế quản lý chất lượng sản phẩm trong cơ chế chung của quản lý kinh tế. Mục tiêu chất lượng và hiệu quả phải được thể hiện trong từng việc làm và kết quả cụ thể của mọi mặt hoạt động có liên quan từ nghiên cứu, thiết kế, chế thử đến tổ chức sản xuất, lưu thông, sử dụng sản phẩm. Tóm lại một cơ chế hợp lý, một môi trường pháp luật bình đẳng và đồng bộ là điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực chất lượng hoạt động. Chính nhà nước sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, buộc các doanh nghiệp muốn đứng vững để phát triển phải đưa vấn đề nâng cao chất lượng lên hàng đầu. II-nội dung của công tác quản lý chất lượng sản phẩm 1-bản chất và chức năng của quản lý chất lượng sản phẩm 1.1.Bản chất quản lý chất lượng sản phẩm Có rất nhiều khái niệm khác nhau về quản lý chất lượng nhưng quan niệm về quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO9000 được sử dụng phổ biến hơn. ISO9000 cho rằng : " Quản lý chất lượng là một tập hợp những hoạt động có chức năng quản lý chung nhằm xác định chính sách chất lượng, mục đích chất lượng và thực hiện chúng bằng những phương tiện như lập kế hoạch, điều khiển chất lượng, bảo đảm chất lượng, cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng " Với định nghĩa này quản lý chất lượng có đặc điểm sau: -Mục tiêu là thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và xã hội trên cơ sở tiết kiệm tối ưu chi phí. -Quản lý chất lượng được thực hiện trong tất cả các giai đoạn từ thiết kế, sản xuất cho đến phân phối và sử dụng sản phẩm. -Quản lý chất lượng là toàn bộ các chức năng quản lý chung được thực hiện theo vòng tròn chất lượng PDCA.Theo vòng tròn này quản lý chất lượng có tính lặp lại thứ tự thực hiện các công việc nhưng thực ra chu kỳ điều lập kế hoạch chỉnh kiểm tra, kiểm soát Ajust plan check do sau lại khác hẳn với chu kỳ trước cả về nội dung lẫn mức độ bởi vì chu kỳ sau dựa trên cơ sở của chu kỳ trước và do đó đưa chất lượng sản phẩm tiến lên. -Nhiệm vụ của quản lý chất lượng là xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng thông qua việc xác định mức yêu cầu chất lượng, đa dạng hoá mức chất lượng sản phẩm đưa ra thị trường. 1.2.Chức năng của quản lý chất lượng *Lập kế hoạch chất lượng Kế hoạch chất lượng chính xác đầy đủ là cơ sở để doanh nghiệp định hướng các hoạt động tiếp theo .Cũng giống như mọi kế hoạch khác kế hoạch chất lượng được xây dựng theo các bước sau: -Thứ nhất là xây dựng chương trình, chiến lược và kế hoạch chất lượng. -Thứ hai là xác định những yêu cầu chất lượng phải đạt tới trong từng giai đoạn nhất định. -Thứ ba là chỉ ra những phương hướng cụ thể để thực hiện từng mục tiêu chất lượng. -Cuối cùng là xác định kết quả dài hạn của những biện pháp thực hiện. *Tổ chức thực hiện: Tổ chức thực hiện có ý nghĩa quyết định đến việc biến các kế hoạch chất lượng thành hiện thực.Các bước tiến hành: -Tạo sự nhận thức một cách đầy đủ về mục tiêu chất lượng đối với từng người. -Tổ chức những chương trình đào tạo và giáo dục, khuyến khích người lao động tham gia tích cực vào quản lý chất lượng . -Xây dựng ban hành các tiêu chuẩn qui trình bắt buộc. -Cung cấp đầy đủ nguồn lực để thực hiện kiểm soát chất lượng. *Kiểm tra, kiểm soát chất lượng :Mục đích là tìm kiếm những nguyên nhân gây ra khuyết tật của sản phẩm để có những biện pháp ngăn chặn kịp thời. Nhiệm vụ chủ yếu: -Theo dõi tình hình thực hiện thông qua thu thập thông tin. -Đánh giá và xác định mức độ chất lượng đạt được. -So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch -Phân tích ,tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện đi chệch so với mục tiêu kế hoạch đặt ra. *Hoạt động điều chỉnh và cải tiến : Khi điều chỉnh và cải tiến chất lượng, cần phân biệt giữa hai loại nguyên nhân là nguyên nhân phổ biến và nguyên nhân đột biến, cần phân biệt giữa việc loại trừ hậu quả với nguyên nhân dẫn đến hậu quả. Nếu đã áp dụng theo đúng kế hoạch rồi mà vẫn không đạt mục tiêu thì phải cải tiến lại hoạt động hoạch định chất lượng, thậm chí có thể loại bỏ cả kế hoạch ban đầu. Các bước cải tiến chất lượng : + Xác định đòi hỏi cụ thể về cải tiến chất lượng để xây dựng dự án . + Hình thành các nhóm dự án cải tiến chất lượng. + Cung cấp các nguồn lực cần thiết ( tài chính, kỹ thuật, lao động ). + Động viên, đào tạo và khuyến khích quá trình triển khai dự án. 2.Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm Tuỳ theo mục đích sử dụng, các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm hàng hoá có thể chia thành 4 nhóm cơ bản: *Nhóm chỉ tiêu sử dụng Đây là nhóm chỉ tiêu chất lượng mà người tiêu dùng khi mua hàng thường quan tâm, nhóm này bao gồm: -Thời gian sử dụng. -Mức độ an toàn trong sử dụng. -Khả năng sửa chữa thay thế các chi tiết. -Hiệu quả sử dụng (sinh lợi, tiện lợi). *Nhóm chỉ tiêu kỹ thuật công nghệ: Đây là nhóm chỉ tiêu mà các cơ quan nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, kinh doanh thường dùng để đánh giá giá trị sử dụng của sản phẩm. Các chỉ tiêu kỹ thuật công nghệ rất nhiều nhưng quan trọng hơn cả là các chỉ tiêu sau: -Chỉ tiêu về kích thước: thường được áp dụng cho các mặt hàng như : giày dép, hàng dệt, hàng may mặc…hoặc để hợp lý hoá sản xuất,đóng gói vận chuyển, bảo quản. -Chỉ tiêu về cơ lý như khối lượng các thông số, các yêu cầu về kỹ thuật như độ bền, độ chính xác, độ tin cậy, độ an toàn trong sử dụng… -Chỉ tiêu về sinh hoá như thành phần hoá học biểu thị giá trị dinh dưỡng của thực phẩm, khả năng sinh nhiệt, hệ số tiêu hoá…sự có mặt của thành phần hoá học bổ sung đôi khi dẫn đến những thay đổi quan trọng về chất lượng. Việc lựa chọn những chỉ tiêu kỹ thuật công nghệ làm cơ sở để kiểm tra đánh giá một số mặt hàng nào đó phải xuất phát từ công dụng, đặc điểm cấu tạo cũng như điều kiện sử dụng sản phẩm ấy. *Nhóm chỉ tiêu kiểu dáng thẩm mỹ bao gồm: -Tính biểu hiện của kiểu dáng thể hiện ở bố cục rõ ràng, từng bộ phận đường nét đều tạo nên hiệu quả thẩm mỹ. -Tính hoàn chỉnh thể hiện sự thống nhất hữu cơ giữa các bộ phận riêng lẻ, vừa tinh tế vừa hài hoà. -Sự phong phú về kiểu cách, mẫu mã nhưng lại phù hợp với nhu cầu tiêu dùng -Sản phẩm phải đảm bảo sự hài hoà về màu sắc, làm tôn tính độc đáo của sản phẩm *Nhóm chỉ tiêu kinh tế Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến chất lượng mà còn phải xem xét kỹ về giá cả của sản phẩm. Một sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao là một sản phẩm đạt chất lượng cao mà chi phí của chất lượng lại thấp: đó là toàn bộ các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, tiêu dùng và các chi phí xã hội khác. Như vậy, nhóm các chỉ tiêu kinh tế quyết định đến chất lượng sản phẩm. 3.Nội dung quản lý chất lượng trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh : 3.1. Chất lượng trong thiết kế sản phẩm: Thiết kế là một quá trình sáng tạo dựa trên những kiến thức chuyên môn sự am hiểu về thị trường để chuyển hoá những nhu cầu của khách hàng thành đặc điểm chất lượng của sản phẩm.Thiết kế sản phẩm có vai trò rất quan trọng vì nó là khâu đầu tiên để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu thiết kế đúng đắn phù hợp với nhu cầu của thị trường sẽ góp phần vào thành quả hoạt động, vào khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi vì doanh nghiệp đã xây dựng được sản phẩm có chất lượng theo đúng nghĩa của nó. Công tác thiết kế sản phẩm bao gồm các bước sau: -Tập hợp các chuyên gia thiết kế, các cán bộ quản lý để cùng nhau thiết kế ra sản phẩm mới. -Tiếp nhận phân tích thông tin từ bộ phận điều tra thị trường . -Đề xuất các phương án khác nhau về các đặc điểm của sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu thị trường . -Thực hiện kiểm tra đánh giá và phân tích các phương án nhằm lựa chọn phương án tối ưu. -Sản xuất thử. -Trưng cầu ý kiến khách hàng, tiến hành hiệu chỉnh. -Phân tích để đưa vào sản xuất hàng loạt. Trong giai đoạn thiết kế cần đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng sau: +Trình độ chất lượng sản phẩm thiết kế: như chỉ tiêu sử dụng, chỉ tiêu thẩm mỹ, chỉ tiêu kinh tế … +Chỉ tiêu tổng hợp về công nghệ và chất lượng chế thử . +Hệ số khuyết tật của sản phẩm chế thử và các biện pháp điều chỉnh những sai hỏng ấy. 3.2.Bảo đảm chất lượng nguyên vật liệu cung ứng: Người sản xuất sẽ không thể nào bảo đảm được chất lượng sản phẩm của mình nếu nguyên liệu và vật tư mà bên cung ứng giao cho không đạt tiêu chuẩn hay có khuyết tật. Vì vậy chất lượng nguyên vật liệu của người cung cấp được đặc biệt quan tâm. Việc đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu cũng là điều kiện cần thiết để kế hoạch hoá nhịp nhàng các công đoạn sản xuất, nâng cao năng suất và lập kế hoạch giảm chi phí. Nội dung của việc bảo đảm chất lượng trong khâu cung ứng nguyên vật liệu bao gồm các bước sau: -Lập kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất. -Lựa chọn nguồn cung ứng. -Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ, thường xuyên giữa doanh nghiệp và nhà cung ứng. -Thoả thuận việc đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng vật tư cung ứng, các phương pháp kiểm tra, xác minh nguyên vật liệu. -Xác định các phương án giao nhận và thời hạn giao nhận -Xác định rõ, đầy đủ và thống nhất các điều khoản trong việc giải quyết các trục trặc của quá trình cung ứng nguyên vật liệu. Muốn đánh giá việc cung ứng nguyên vật liệu có đạt tiêu chuẩn hay không phải căn cứ vào ba chỉ tiêu chính sau: +Một là số lần cung ứng đúng thời hạn. +Hai là tỷ lệ nguyên vật liệu không đạt tiêu chuẩn chất lượng . +Ba là tổng chi phí cho việc cung ứng. Khi đã có những chỉ tiêu chất lượng mà thị trường đặt ra trong giai đoạn thiết kế sản phẩm, khi đã có nguyên vật liệu đúng yêu cầu doanh nghiệp phải bắt tay ngay vào sản xuất sản phẩm. Và vấn đề trung tâm ở đây là muốn nâng cao chất lượng sản phẩm phải quản lý chất lượng trong giai đoạn sản xuất . 3.3.Quản lý chất lượng trong giai đoạn sản xuất: Mục đích của quản lý quá trình sản xuất không phải là loại bỏ những sản phẩm xấu, kém chất lượng vừa sản xuất xong mà là ngăn chặn sao cho không có những sản phẩm xấu xuất hiện trong quá trình sản xuất. Trong sản xuất, phải phát hiện ngay những sai xót càng sớm càng tốt. Ngoài ra cần có nhận thức đúng đắn, nâng cao chất lượng sản phẩm, quản lý quá trình sản xuất không chỉ là trách nhiệm của các nhà quản lý mà là trách nhiệm của mọi thành viên . Quản lý chất lượng trong giai đoạn sản xuất nhằm mục tiêu sau: & Trước tiên là huy động mọi nguồn lực của doanh nghiệp để sản xuất chế biến sản phẩm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng. & Sau đó sẽ là đảm bảo chi phí ở mức thấp nhất, đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất đúng thời gian qui định, đảm bảo duy trì chất lượng sản phẩm trong quá trình lưu thông kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là: +Cung cấp đúng số lượng, chất lượng nguyên vật liệu một cách kịp thời. +Thông báo mục tiêu chất lượng và phân công công việc cụ thể đến từng cá nhân trong tổ chức. +Tiến hành kiểm tra nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm trước khi đưa vào sản xuất. +Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn , qui trình thao tác từng công việc. +Tiến hành kiểm tra chất lượng bán thành phâmt trong từng giai đoạn sản xuất. +Kiểm tra thường xuyên hệ thống máy mọc thiết bị thông qua công tác duy tu bảo hành +Kiểm tra một cách toàn diện chất lượng sản phẩm theo yêu cầu thiết kế. Khi sản phẩm được sản xuất xong tức là doanh nghiệp đã đi được 3/4 trong chặng đường nâng cao chất lượng sản phẩm. Đoạn đường còn lại là quản lý chất lượng trong và sau khi bán. 3.4.Các biện pháp bảo đảm chất lượng trong và sau khi bán hàng. Điểm quan trọng trong quá trình phân phối sản phẩm là phải duy trì một cách tốt nhất chất lượng sản phẩm từ sau khi sản xuất đến khi giao sản phẩm cho khách hàng. Sau khi bán hàng không phải doanh nghiệp đã hết n._.hiệm vụ mà có khi doanh nghiệp còn phải giải quyết những tình huống không thể lường trước được, đó là những vấn đề thoả mãn những khiếu nại của người tiêu dùng khi chất lượng sản phẩm của mình gặp phải những sự cố. Nhà sản xuất cung cấp sản phẩm chất lượng thấp, khách hàng sẽ khiếu nại. Nhưng thông thường chỉ khiếu nại những sản phẩm giá cao, còn những sản phẩm rẻ tiền đôi khi khách hàng cũng bỏ qua. Và thế là những thông tin về chất lượng thấp của sản phẩm không đến được nhà sản xuất . Còn người tiêu dùng thì lẳng lặng tìm mua sản phẩm của hãng khác.Vì vậy các nhà sản xuất còn phải làm sao thu thập được những khiếu nại của người tiêu dùng ngay cả đối với những sản phẩm có giá trị thấp. Tuy nhiên thông tin khiếu nại về chất lượng sản phẩm có hữu hiệu, có được giải quyết triệt để hay không còn tuỳ thuộc vào thái độ, vào cách thức tổ chức của nhà sản xuất . Biện pháp hữu hiệu nhất là tổ chức mối liên hệ ngược đối với các khiếu nại của người tiêu dùng. Trình tự thoả mãn các khiếu nại như sau : Nguyên nhân và biện pháp Xử lý tìm Các đại lý Bộ phận kho hàng Khiếu nại Người tiêu dùng Đơn vị sản xuất Khiếu nại Khiếu nại Các tổ chức Bồi thường vật chất Ngoài ra bảo hành là một hoạt động cần thiết và quan trọng để đảm bảo chất lượng sản phẩm trong quá trình sử dụng . Cần phải có thời gian bảo hành sản phẩm đơn vị sản xuất chịu chi phí nếu sản phẩm trục trặc trong quá trình sử dụng .Bảo hành,bảo dưỡng kỹ thuật là sự thoả thuận giữa nhà kinh doanh và người tiêu dùng.Thuận lợi cho người tiêu dùng càng nhiều thì uy tín của nhà kinh doanh và lợi nhuận của họ càng lớn. Hơn nữa nguyên nhân dẫn đến làm hỏng sản phẩm do việc sử dụng không đúng, vận hành trong những điều kiện bất thường hoặc kiểm tra định kỳ không đầy đủ… Chính vì vậy đối với tất cả các sản phẩm, nhất là các sản phẩm sử dụng lâu, cần phải có tài liệu hướng dẫn sử dụng, hướng dẫn kiểm tra định kỳ…thật chi tiết. Tài liệu hướng dẫn cần phải được trình bày dễ hiểu, đầy đủ sao cho bất cứ người nào cũng phải sử dụng được. Trong tài liệu này cũng cần nêu rõ những quyền lợi của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm và trách nhiệm của nhà sản xuất đối với trục trặc của sản phẩm . 4.Sự cần thiết, ý nghĩa của nâng cao chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp nước ta hiện nay -Sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin đã tạo ra những điều kiện to lớn cho giao lưu thu thập nắm bắt xử lý thông trên các thị trường xa xôi. Nó trở thành vũ khí quan trọng để các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, vươn ra những thị trường rộng lớn hơn, phục vụ khách hàng đầy đủ kịp thời, chất lượng cao nhưng giảm đáng kể chi phí, làm cho các hoạt động hiệu quả hơn. Thị trường không còn là độc quyền của một số nước mà có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế một mặt tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt được cơ hội kinh doanh mới nhưng mặt khác cũng làm cho cạnh tranh gay gắt hơn. Đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có thị trường tiêu thụ các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng là một trong những giải pháp quan trong để các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng khả năng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Ngược lại khả năng cạnh tranh cao tạo điều kiện cho đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. -Chất lượng sản phẩm tốt là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện chiến lược mở rộng thị trường, tạo uy tín, danh tiếng cho sản phẩm. Từ đó làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. -Hiệu quả kinh tế : sự thành công của một doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất có năng suất mà còn được tạo bởi sự tiết kiệm ( tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động ) trong quá trình sản xuất và sự tiết kiệm nhờ không lãng phí do không sản xuất ra những sản phẩm sai hỏng kém chất lượng. Nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với tính hữu ích của sản phẩm được nâng cao, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng đồng thời giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm ( giảm nguyên vật liệu sử dụng, tiết kiệm tài nguyên, giảm những vấn đề về ô nhiễm môi trường ). Như vậy nâng cao chất lượng sản phẩm chính là con đường ngắn nhất đem lại hiệu quả kinh tế cao . -Chất lượng sản phẩm nâng cao giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu đ lợi nhuận. Chất lượng sản phẩm góp phần đẩy mạnh tiến bộ sản xuất, tổ chức lao động trong doanh nghiệp, đảm bảo việc làm ổn định cho người lao động, tăng thu nhập cho họ và làm cho họ tin tưởng gắn bó với doanh nghiệp. Chính họ là người tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao giúp doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả hơn Qua phần I này ta đã có cái nhìn tổng quan về chất lượng sản phẩm :các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng. Và chỉ có bằng nâng cao chất lượng sản phẩm doanh nghiệp mới thực sự tồn tại và phát triển lâu dài trên thị trường được. Phần II Thực trạng chất lượng và công tác quản lý chất lượng ở nhà máy thuốc lá thăng long i-những đặc điểm của nhà máy Thuốc lá Thăng Long ảnh hưởng đến việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm 1.Khái quát nhà máy và quá trình hình thành phát triển 1.1.Khái quát nhà máy Nhà máy Thuốc lá Thăng Long là một trong 7 đơn vị thành viên của Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam với số vốn 120 tỷ đồng trong đó vốn sản xuất là 60 tỷ, hoạt động theo phương thức hạch toán kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Địa chỉ nhà máy: 235 đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội thuộc khu công nghiệp Thượng Đình, do Trung Quốc giúp ta xây dựng năm 1957-1958. Nhiệm vụ chủ yếu của nhà máy là sản xuất các loại thuốc lá có đầu lọc và không có đầu lọc, bao cứng và bao mềm. Hiện nay nhà máy thuốc lá Thăng Long đang từng bước xuất khẩu sợi pip thành phẩm sang Đông Âu. Hy vọng đây sẽ là thị trường đầy triển vọng của nhà máy. Về thiết kế nhà máy : -Phần thiết kế xây dựng do viện thiết kế công nghiệp Bắc Kinh thuộc bộ xây dựng Trung Quốc thiết kế - Phần công nghiệp do Viện thiết kế công nghiệp thực phẩm Thượng Hải thuộc bộ công nghiệp nhẹ Trung Quốc thiết kế. -Các công trình phụ do phía Việt Nam thiết kế. Diện tích xây dựng Diện tích nhà xưởng sản xuất Tổng chiều dài đường đi trong nhà máy Tổng chiều dài đường đi ngoài nhà máy Diện tích làm đất làm đường trong nhà máy Chiều dài tường xây quanh nhà máy Hệ số xây dựng Hệ số sử dụng 893635 m2 33699 m2 530 m 204 m 21100 m2 525m 30% 45% Theo thiết kế ban đầu thì công suất của nhà máy là 60 triệu bao/năm, số công nhân 1100 người. -Phía Tây bắc (mặt trước của nhà máy ) là quốc lộ số 6, tiếp đó là trường Đại học Khoa học Xã hội Tự nhiên và Nhân văn -Phía Đông bắc giáp với nhà máy Xà phòng -Phía Đông nam giáp với cơ quan và khu nhà dân -Phía Tây nam giáp với khu nhà dân 1.2.Lịch sử hình thành và phát triển Địa điểm được chọn thử nghiệm đầu tiên của nhà máy thuốc lá Thăng Long là nhà máy Bia Hà Nội. Nhưng khi công việc sắp bắt đầu thì bộ công nghiệp lại có quyết định khôi phục lại nhà máy Bia. Nhóm khảo sát lại phải tìm đến cơ sở nhà máy Diêm cũ (139-Bà Triệu ) nay là nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo để sản xuất thử. Cuối năm 1956, vì kết quả thử nghiệm tương đối khả quan và để ổn định phát triển sản xuất, nhà nước quyết định chuyển địa điểm về khu vực tiểu thủ công nghệ Hà Đông. Ngày 1/6/1957 đã trở thành ngày lịch sử của nhà máy với những bao thuốc lá đầu tiên mang nhãn hiệu Thăng Long, vỏ in hình cột cờ tượng trưng cho sự trường tồn của thủ đô, sức đấu tranh của nhân dân và kết tinh trí tuệ, công sức của cán bộ công nhân nhà máy. Năm 1958 là năm đầu tiên sản phẩm của nhà máy xuất hiện trên thị trường quốc tế như Liên Xô, Mông Cổ, Tiệp Khắc, Triều Tiên, Pnômpênh…Trong thời gian này bộ Công Nghiệp quyết định lấy địa điểm Thượng Đình xây dựng khu công nghiệp trong đó có nhà máy Thuốc lá Thăng Long. Ngày 22/12/1958 là lễ khởi công xây dựng nhà máy. Tháng1/1960 Thăng Long chính thức đi vào hoạt động tại địa điểm mới. Với sự nỗ lực rất cao, từ một xí nghiệp nửa cơ khí, Thăng Long đã tiến lên một nhà máy bán tự động, theo đó cơ cấu sản xuất đã được hoàn chỉnh hơn một bước. Trong giai đoạn 1965-1975 chiến tranh là thử thách nặng nề đối với nhà máy Thuốc lá Thăng Long.Qua tổ chức sơ tán lên Lạng Sơn, Ba Thá, Vĩnh Phú nhà máy đã bảo vệ được lực lượng lao động và phương tiện vật chất kỹ thuật của mình, đạt 103,32% giá trị tổng sản lượng. Chiến tranh kết thúc nhà máy lại bắt tay ngay vào công việc khôi phục những hậu quả do chiến tranh để lại. Trong thời gian này phía Trung Quốc bỗng đơn phương huỷ bỏ các hợp đồng kinh tế, đình chỉ xuất khẩu vật tư thuốc lá cho. Cán bộ công nhân nhà máy lại phải chủ động tìm ra công thức gia công hương liệu nội địa một cách hợp lý mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm. Ngoài ra nhà máy còn xây dựng các đề án qui hoạch các vùng thâm canh trồng cây thuốc lá như Điện Biên, Cao Bằng, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Trị Thiên. Năm 1984, thuốc Sapa được xếp hạng A1 trong Hội tuổi trẻ sáng tạo thủ đô, Du Lịch đầu lọc và Điện Biên không đầu lọc đạt huy chương bạc trong Hội chợ triển lãm kinh tế toàn quốc. Đây thực sự là những thành quả đáng tự hào của nhà máy Thuốc lá Thăng Long. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay là giai đoạn đầy thử thách với một nhà máy đã từng quen với cơ chế quan liêu bao cấp nay phải đối mặt với cơ chế thị trường. Nhà máy Thuốc lá Thăng Long đã tìm mọi cách để đổi mới cơ chế sản xuất kinh doanh, đầu tư chiều sâu, kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất, thị trường và khoa học kỹ thuật. Năm 1994 nhà máy lắp đặt xong dây chuyền chế biến sợi hiện đại nhất Việt Nam. Ngoài những sản phẩm quen thuộc nhà máy cho ra đời 6 sản phẩm mới như Hoàn Kiếm, Du Lịch, City, Điện Biên xuất khẩu, Hạ Long và Ba Đình hộp. Trong giai đoạn này bình quân mức tăng trưởng đạt từ 25-30%. Kết quả ấy đã khẳng định vị trí của nhà máy Thuốc lá Thăng Long trong cơ chế thị trường đầy biến động và phức tạp. Bài học của Thăng Long là bài học về sự đoàn kết nhất trí cao độ, ra sức phấn đấu, đầu tư chiều sâu một cách thích đáng và hiệu quả để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín của nhà máy Thuốc lá Thăng Long . 2-Đặc điểm về tổ chức sản xuất và quản lý: Giám đốc PGĐ Kinh doanh Phó GĐ sản xuất Phòng Thị trường Phòng Hành chính Phòng Tiêu thụ Phòng Tổ chức L Đ-TL Phòng Nguyên liệu Phòng Tài vụ Phòng Kế hoạch VT Phòng Kỹ thuật Công nghệ Phòng KCS Nhà ăn Nhà ăn Nhà ăn Nhà ăn Kho thành phẩm Kho Nguyên liệu Kho VT BC Kho Cơ khí Kho Vật Liệu P x Sợi P x Bao mềm P x Bao cứng P x Dunhill P x Cơ điện P x 4 Phòng bảo vệ Đội xe Đội bốc xếp Mô hình tổ chức sản xuất và quản lý của nhà máy là mô hình trực tuyến chức năng, áp dụng thi hành chế độ một thủ trưởng. Giám đốc là thủ trưởng cấp cao nhất, chịu trách nhiệm trước toàn bộ nhà máy và Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị đồng thời cũng là người vạch ra các chiến lược kinh doanh và ra các quyết định mệnh lệnh buộc cấp dưới phải thực hiện. Giúp việc và tham mưu cho giám đốc là phó giám đốc sản xuất, phó giám đốc kinh doanh và một hệ thống bao gồm 9 phòng ban chức năng. Phó giám đốc kinh doanh phụ trách hai phòng là phòng Thị trường và phòng Tiêu Thụ. Phó giám đốc sản xuất phụ trách ba phòng là phòng Kỹ thuật công nghệ, phòng Kế hoạch vật tư và phòng KCS. Chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của phòng ban trước giám đốc là trưởng phòng. Đứng đầu các phân xưởng là quản đốc, đứng đầu các đội là đội trưởng. Giữa các đơn vị trong cơ cấu tổ chức quản lý của nhà máy có mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc và hỗ trợ lẫn nhau. Qua sơ đồ ta thấy nhà máy đã sắp xếp ban lãnh đạo theo hướng gọn nhẹ nhằm giảm chi phí gián tiếp, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cơ cấu bộ máy được chuyên môn hoá tới từng phân xưởng, từng phòng ban, bộ phận. Sắp xếp này đòi hỏi tinh thần trách nhiệm của từng phòng ban trong quá trình sản xuất kinh doanh của nhà máy. Điều đó góp phần không nhỏ vào quá trình bảo đảm chất lượng sản phẩm bởi chất lượng cuối cùng là chất lượng của cả quá trình của sự đóng góp của tất cả các thành viên trong nhà máy. Nếu một phòng ban, một bộ phận nào đó trong bộ máy tổ chức có sơ xuất trong vấn đề chất lượng thì sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình. Ngược lại khi sự chỉ đạo của cấp trên không phù hợp với thực tiễn thì cũng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng. Cơ cấu tổ chức kiểu trực tuyến chức năng của nhà máy góp phần khắc phục được những sai lệch đó vì quyết định ở đây được xem xét và thảo luận từ nhiều người có thẩm quyền nhưng cũng am hiểu thực trạng diễn ra tại từng phân xưởng sản xuất. 3.Đặc điểm về tài chính và thực trạng lao động 3.1.Khả năng tài chính của nhà máy Thuốc lá Thăng Long Vốn là yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thực tế có nhiều công ty phải ngừng hoạt động vì thiếu vốn. Nhà máy Thuốc lá Thăng Long là doanh nghiệp nhà nước nên vốn chủ yếu là vốn ngân sách và một phần vốn bổ sung trong từng năm bởi hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Biểu số2: Một số chỉ tiêu tài chính của nhà máy Chỉ tiêu đơn vị 1998 1999 2000 Sản lượng Triệu bao 218.665 219.051 207 Nguồn vốn kinh doanh Tỷ đồng 107.305 110.184 110.952 Vốn ngân sách ,, 77.546 78.233 78.233 Vốn tự bổ sung ,, 29.759 31.951 32.692 Doanh thu ,, 537.163 604.018 584.754 Nộp ngân sách ,, 216 240 225 Lãi trước thuế ,, 28.263 25.9 14.5 Tổng nợ phải trả ,, 46.392 57.715 81.367 Nợ ngân sách ,, 6.739 11.18 14.618 Nợ ngân hàng ,, 5 10 3 Nợ khác ,, 34.653 35.935 63.758 Tổng nợ phải thu ,, 44.327 44.388 41.824 Trong đó nợ khó đòi ,, 1.417 1.737 1.683 Nguồn tài liệu: phòng KHVT Cũng như các doanh nghiệp khác, nhà máy Thuốc lá Thăng Long dùng một phần lãi của mình để tập trung đầu tư cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Thăng Long chủ yếu tập trung vào sản phẩm trung và cao cấp bởi vì thị trường sản phẩm này rất lớn mà lãi đơn vị lại cao. Tuy nhiên sản phẩm cấp thấp vẫn được duy trì bởi giải quyết được vấn đề lao động tận dụng hết công suất thiết kế của máy móc thiết bị. Nhưng một điều bất lợi cho nhà máy Thuốc lá Thăng Long là lãi qua các năm giảm dần. Sở dĩ như vậy là vì vật tư đầu vào chủ yếu nhập ngoại. Tỷ giá đồng ngoại tệ so với đồng nội tệ lại liên tục tăng dẫn đến tăng chi phí thu mua, tăng giá thành sản phẩm trong khi đó giá bán sản phẩm gần như cố định nên lợi nhuận cũng phải giảm đi khi mà sản lượng bán ra gần như không thay đổi. Mặt khác vốn vay ngân hàng của nhà máy không phải là ít, trung bình hàng năm từ 6-7 tỷ đồng, các khoản nợ phải thu quá lớn, trung bình khoảng 43 tỷ đồng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng về vốn của nhà máy. Hiện tại nhà máy đang bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn gây thiếu vốn kinh doanh. Vì thế đầu tư cho máy móc thiết bị, cho đào tạo cán bộ công nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm gặp khó khăn. 3.2.Thực trạng lao động của nhà máy Chất lượng lao động ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Trong quá trình hình thành và phát triển rất chú trọng đến việc đầu tư chiều sâu qua việc đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tay nghề cho người lao động. Do đó lực lượng lao động của nhà máy gần như không thay đổi qua các năm nhưng chất lượng thì không ngừng lớn mạnh. Biểu số 3: Thu nhập bình quân lao động Chỉ tiêu đvt 1998 1999 2000 Lao động Người 1183 1184 1186 Thu nhập bình quân một người đ/tháng 1271544 1339987 1892000 Nguồn :p.tclđtl Trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân ngày càng được nâng cao. Điều này được thể hiện qua biểu thống kê 4 (ĐVT: người) Để khuyến khích việc nâng cao chất lượng sản phẩm nhà máy đã áp dụng chế độ xét hạng thưởng theo chất lượng sản xuất - công tác. Hạng A:Dành cho những người hoàn thành nhiệm vụ sản xuất nhà máy giao.Chất lượng công tác được nhà máy khen thưởng hai kỳ"lao động giỏi" Hạng B: Dành cho những người hoàn thành nhiệm vụ sản xuất công tác được khen thưởng một kỳ lao động giỏi. Hạng C: Dành cho những người hoàn thành nhiệm vụ sản xuất công tác ở mức độ trung bình, không sai phạm nội qui, kỷ luật, sản phẩm hỏng cho phép khi sản xuất. Hạng khuyến khích: hạng này giành cho những người đạt thành tích thấp hơn hạng C nhưng nhà máy vẫn thưởng để cổ vũ cho họ phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm chất lượng công việc tốt hơn trong năm tới . Biểu số 4: thống kê trình độ lao động SStt Chỉ tiêu 11998 ((người) 11999 ((người) 22000 ((người) 11999/1998 ( %) 22000/1999 ( % ) 1 đại học, cao đẳng 120 125 129 104.2 103.2 2 Tại chức 70 72 75 102.9 104.2 3 Bậc 6/7 7 8 10 114.3 125.0 4 Bậc 5/7 42 44 45 104.8 102.3 5 Bậc 4/7 36 37 37 102.8 100.0 6 Bậc 3/7 8 9 9 112.5 100.0 7 Bậc 6/6 12 12 15 100.0 125.0 8 Bậc 5/6 151 152 154 100.7 101.3 9 Bậc 4/6 350 351 366 100.3 104.3 10 Bậc 3/6 140 136 124 97.1 91.2 111 Bậc 2/6 40 38 36 95.0 94.7 112 Chưa đào tạo 207 200 186 96.6 93.0 Nguồn tư liệu:phòng tổ chức lao động tiền lương Nhà máy đã áp dụng cách tính thưởng cho cả ngày công và chất lượng làm việc, do đó sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất. Đặc biệt sẽ khuyến khích công nhân hoàn thành, hoàn thành vượt mức kế hoạch chất lượng và kế hoạch sản lượng còn thể hiện rõ ở hệ số tính thưởng đã được nâng cao hơn so với qui định của Bộ Lao động. Biểu số 5:Hạng thưởng A, B, C của nhà máy Hạng thưởng A B C KK Hệ số của Bộ Lao động 1 0.7 0.4 0.12 Hệ số qui định của nhà máy 1.2 1 0.8 0.24 Chênh lệch 0.2 0.3 0.4 0.12 Nguồn tư liệu:phòng tổ chức lao động tiền lương Biểu số 6:Bảng thưởng nâng cao chất lượng bình quân cho một công nhân Năm Chỉ tiêu 1998 (đồng) 1999 (đồng) 2000 (đồng) 1999/1998 (%) 2000/1999 (%) Tổng thu nhập Bq 15258528 16 079 844 22704000 105.38 141.19 Tổng thưởng Chất lượng bq 2147860 258000 4398716 102 171 % thưởng CL 0.14 0.16 0.19 114 119 Nguồn tư liệu :p.tổ chức lao động tiền lương. Ta thấy tổng thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm bình quân cho một công nhân của nhà máy liên tục tăng trong các năm chứng tỏ cán bộ công nhân viên nhà máy đẫ rất chú trọng đến chất lượng công việc của mình. Kết quả chất lượng được chứng minh qua biểu số 7 Ngoài ra nhà máy Thuốc lá Thăng Long còn thưởng sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và sáng chế để không ngừng nâng cao hiệu quả của sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm : +Với những sáng kiến của hai hoặc nhiều người thì tiền thưởng sẽ phát chung, những người này sẽ thoả thuận với nhau về việc sử dụng số tiền đó. +Với những sáng kiến của một người đề xuất nhưng chưa đầy đủ sau có người khác bổ sung, hoàn thiện áp dụng có hiệu quả thì tiền thưởng cũng phát chung, những người này sẽ thoả thuận với nhau về việc sử dụng số tiền đó. +Những người được cử đến giúp đỡ người khác giải quyết một số khó khăn về kỹ thuật để mau chóng áp dụng sáng kiến vào sản xuất thì sau khi áp dụng có hiệu quả cũng sẽ được thưởng. Số tiền thưởng người đến giúp đỡ này nhiều nhất không quá 25% số tiền thưởng những người có sáng kiến và không lấy trong số tiền của những người có sáng kiến mà trong số tiền làm lợi được do sáng kiến đem lại. Bên cạnh đó, hàng năm nhà máy đều tổ chức các lớp tập huấn nâng cao tay nghề, nâng bậc cho công nhân, tổ chức thi lên cấp lên bậc, cử cán bộ đi học hoặc thuê các tổ chức bên ngoài về giảng dạy, bồi dưỡng thêm cho công nhân viên. Có thể nói, những biện pháp như thế này về lâu dài chất lượng lao động của nhà máy sẽ không ngừng phát triển, tạo điều kiện thuận lưọi cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng công việc. Bảng số 7:chất lượng sản phẩm một số máy bao của phân xưởng Bao Mềm stt Tổ 1999 2000 Sản lượng S p hỏng % Sản lượng S p hỏng % 1 Máy Tây Đức 13 672.1 75.2 0.55 16 791 63.8 0.38 2 Máy Đông Đức 14 792 59.16 0.4 15 629.4 50.01 0.32 3 Máy YJ 11 356.8 48.83 0.43 12 344.5 24.68 0.2 Tổng cộng 39 820.0 183.19 0.46 44 764.9 138.49 0.31 Nguồn tài liệu: P. KCS 3.3 Năng lực máy móc thiết bị Chất lượng sản phẩm phải được đặt lên hàng đầu. Nhận thức được điều ấy, nhà máy đã luôn chú trọng đến công tác đầu tư máy móc thiết bị. Qua việc đầu tư này, nhà máy mới có điều kiện để nâng cao năng suất lao động , tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm . Trước đây, nhà máy chủ yếu sử dụng các thiết bị công nghệ của Trung Quốc, Tiệp Khắc, Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Đây là những thiết bị được chế tạo từ những năm 50 – 60, đưa sang nhà máy sử dụng trong một thời gian rất dài khoảng 20-30 năm. Nhìn chung các thiết này đã lạc hậu, năng suất thấp, tiêu tốn nguyên vật liệu, chỉ sản xuất chủ yếu các loại thuốc lá điếu không đầu lọc cấp thấp như SaPa, Sông Cầu, Đại Đồng,Trường Sơn, Điện Biên…do đó làm ảnh hưởng đến giá thành và chất lượng sản phẩm đồng thời làm chậm tiến độ tiêu thụ. Hiện nay máy móc của nhà máy chủ yếu vận hành bằng hơi và khí nén, rất ít bằng điện và được tập trung ở các phân xưởng Sợi, phân xưởng Bao Cứng, phân xưởng Bao Mềm và Phân xưởng Dunhill. Máy móc của Thăng Long đều không sử dụng hết công suất thiết kế bởi vì khả năng tiêu thụ nhỏ hơn và không đồng bộ .Tuy nhiên nhà máy vẫn phải duy trì một số máy móc cũ vì hệ thống máy móc này sử dụng nhiều lao động bảo đảm việc làm đều đặn. Ngoài ra nhà máy thường xuyên bảo dưỡng, trung tu, đại tu, tân trang lại máy móc thiết bị để bảo đảm chất lượng sản phẩm . Điều này được thể hiện qua biểu thống kê số 8. Như vậy máy móc thiết bị của phân xưởng Bao Mềm lạc hậu hơn phân xưởng Bao Cứng, công suất nhỏ hơn, chất lượng sơ bộ hiện tại trung bình khoảng 65%. Cho nên sản phẩm ở phân xưởng Bao Mềm bao giờ cũng có nhiều tỷ lệ sai hỏng hơn ở phân xưởng Bao Cứng . Để tránh tình trạng cùng trong một nhà máy mà sản phẩm lại không đồng đều về mức chất lượng nhà máy nên có kế hoạch đầu tư thêm máy móc thiết bị, trước tiên là cho phân xưởng Bao Mềm, sau đó sẽ tiến tới đầu tư đồng bộ vì đầu tư có chọn lọc bao giờ cũng có hiệu quả hơn là đầu tư dàn trải khi khả năng về vốn giới hạn. 4. Đặc điểm sản phẩm, nguyên vật liệu, công nghệ sản xuất thuốc lá 4.1 Đặc điểm sản phẩm Trước hết, thuốc lá là sản phẩm có hại cho người tiêu dùng nên bị hạn chế sử dụng. Nhưng hiện nay các nhà máy sản xuất thuốc lá vẫn chưa ngừng sản xuất được vì nhu cầu trong nước còn rất lớn. Sản phẩm thuốc lá là mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với mức thuế suất rất cao (32%,52%,70%) đồng thời bị cấm quảng cáo trên bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào. Tiêu thụ sản phẩm thuốc lá mang tính mùa vụ: Về mùa đông nhu cầu tiêu thụ thuốc lá rất cao, về mùa hè nhu cầu thuốc lá giảm xuống có khi chỉ bằng 1/3 nhu cầu trong mùa đông. Mặt khác về mùa đông bao giờ việc bảo quản thuốc lá cũng khó hơn mùa hè do độ ẩm cao dễ gây ẩm, mốc, ảnh hưởng đến thuỷ phần của điếu thuốc. Thành phần chủ yếu của thuốc lá là sợi thuốc.Ngoài ra để tăng tính chất cần phải pha các loại hương liệu tạo nên đăc trưng riêng của mỗi lọai thuốc lá . Sản phẩm của nhà máy Thuốc lá Thăng Long hiện nay đang được nhiều người tiêu dùng ưa thích. Thị phần của nhà máy là khoảng 10%. Sản phẩm của nhà máy chia làm hai loại có đầu lọc và không có đầu lọc, trong sản phẩm có đầu lọc lại chia thành đầu lọc bao cứng và đầu lọc bao mềm: Loại sản phẩm Các mác thuốc 1.thuốc lá có đầu lọc -đầu lọc bao cứng Thăng Long bao cứng, Vinataba,Dunhill… -đầu lọc bao mềm Điện biên đầu lọc, Du Lịch, Hoàn Kiếm… 2.thuốc lá không đầu lọc Sapa, Tam Đảo, Thủ Đô, Hồng Hà… Nếu phân theo mức giá thì sản phẩm thuốc lá của Thăng Long có thể chia làm 3 loại: + Thuốc cấp thấp: như Điện Biên bạc, Điện Biên đầu lọc… với mức giá khoảng 680 – 1350 đồng/bao phù hợp với thị trường có mức thu nhập thấp như ở vùng miền núi, nông thôn. + Thứ hai là sản phẩm cấp trung: như Hoàn Kiếm, Thủ Đô, Tam Đảo, Thăng Long, Gallery có mức giá khoảng tử 1600 – 2000 đồng/ bao phục vụ cho vùng nông thôn và thành thị. + Sản phẩm cấp cao, phục vụ cho thị trường có thu nhập tương đối khá chủ yếu là ở thành thị như sản phẩm Dunhill, Vinataba, Thăng Long hộp sắt, Thăng Long hộp cứng. - Một đặc điểm nữa của sản phẩm thuốc lá Thăng Long là mác thuốc chủ yếu tập trung vào tên địa danh nên phần nào cũng hạn chế về hình ảnh của nhà máy trên thị trường. Cho nên Thăng Long phải không ngừng đổi mới sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. 4.2. Đặc điểm nguyên vật liệu: Nguyên liệu thuốc lá có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Tỷ trọng chi phí nguyên liệu chiếm khoảng 50%- 60% giá thành . Vì vậy công tác bảo vệ nguyên liệu có ý nghĩa quan trọng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và công tác nâng cao chất lượng sản phẩm nói riêng. Nguồn nguyên liệu của nhà máy có thể được huy động từ trong và ngoài nước: *ở trong nước nguồn nguyên liệu khá đa dạng và khả năng đáp ứng các nhu cầu về nguyên liệu cho nhà máy là rất lớn. Nhưng nhìn chung nguồn này chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, chưa ổn định và được chia thành hai nhánh: phía Bắc và phía Nam. Các tỉnh phía Bắc chủ yếu cung cấp thuốc lá vàng. Do ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm của các tháng thu mua nguyên liệu nên thuốc lá thường có độ ẩm khá cao dễ bị xuống màu, xuống cấp, phát sinh các loại mốc. Bên cạnh đó nhà máy còn hợp tác với hãng Tobacco của Pháp và BAT của Anh trồng thử nghiệm 100 ha giống thuốc lá ở SócSơn, Ba Vì, Bắc Giang… và bước đầu có kết quả tốt. Các tỉnh phía Nam chủ yếu cung cấp các loại thuốc lá nâu phơi. Do phải vận chuyển xa, điều kiện thời tiết không thuận lợi, nên chất lượng nguyên liệu khó đảm bảo, giá mua nguyên liệu cao. Khi thu mua vào các tháng 5,6,7 thời tiết xấu, mưa nhiều, độ ẩm cao dễ làm nấm mốc nguyên liệu. Còn khi thu mua vào các thàng 11, 12, 1 thì thời tiết khô nóng dễ làm nát vụn nguyên liệu. *Đối với vùng nguyên liệu nhập ngoại thì nhà máy nhập về theo hai dạng: Dạng nhập thuốc lá vàng sấy từ Campuchia, với số lượng hàng năm khoảng 500- 700 tấn, năm cao nhất đã nhập 1100 tấn. Nói chung, loại lá thuốc này có chất lượng tương đối tốt, mầu sắc khá đồng đều phù hợp với sản xuất một số loại thuốc lá có chất lượng khá. Loại nguyên liệu này chủ yếu do một số đơn vị kinh doanh ở biên giới tây Nam và ở thành phố Hồ Chí Minh cung ứng. Đến năm 1998, do các cơ sở trong nước đã trồng và cung ứng được một phần lá thuốc vàng có giống nhập ngoại từ Mỹ, Braxin, Zimbabuê có chất lượng tương đương với nguyên liệu nhập từ Campuchia nhà máy đã cắt giảm việc nhập nguyên liệu từ Campuchia khoảng 50 – 100 tấn. Vì vậy nhà máy đã tiết kiệm chi phí mua lá thuốc vàng sấy từ 17000-21000 đồng/kg. Nhờ đó Thăng Long có điều kiện hạ giá thành sản phẩm, chủ động trong việc đảm bảo chất lượng nguyên liệu. Dạng còn lại là nhà máy nhập sợi thành phẩm về để sản xuất thuốc lá điếu. Để sản xuất thuốc lá Vinataba, Hồng Hà bao cứng nhà máy nhập sợi thành phẩm từ Sigapore do tập đoàn thuốc lá BAT cung ứng với chất lượng cao, ổn định giá khoảng 130.000- 140.000 đồng/kg kể cả thuế nhập khẩu. Sản xuất thuốc lá Dunhill, nhà máy nhập sợi thuốc lá của hãng Rothmans, để sản xuất Golden Cup phải nhập sợi từ Hiệp Hội thuốc lá Mỹ. Mặc dù giá nguyên liệu nhập ngoại cao nhưng chất lượng tốt thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng. Các vùng nguyên liệu trọng điểm của nhà máy gồm : Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hà Tây, Băc Thái, Sóc Sơn, Đồng Nai… . Để nâng cao chất lượng sản phẩm nhà máy chú trọng đến công tác bảo đảm nguyên liệu. Trước hết nhà máy đứng ra tổ chức chỉ đạo, hợp tác với các địa phương để gieo trồng, hái sấy, bảo quản nguyên liệu thuốc lá. Sau đó nhà máy tiến hành việc thu mua nguyên liệu rải vụ. Từ năm 1998, theo quyết định của Tổng công ty thuốc lá Việt Nam việc chuyển giao nguyên vật liệu cho các nhà máy thành viên do công ty Nguyên Liệu thuốc lá Bắc và công ty Nguyên Liệu thuốc lá Nam đảm nhiệm. Hai công ty này sẽ thu mua toàn bộ nguyên liệu trồng ở phía Bắc và phía Nam thay cho các nhà máy. Tuy nhiên do còn nhiều vấn đề chưa thể giải quyết được ngay với một số cơ sở đã ký kết hợp đồng gieo trồng nhà máy Thuốc Lá Thăng Long đã xin phép Tổng công ty và được chấp thuận việc tiếp tục đầu tư và thu mua nguyên liệu; tạm chuyển giao cho công ty nguyên liệu thuốc lá Bắc đảm nhiệm 30% lượng nguyên liệu nhà máy cần cho một năm. Nguyên vật liệu dùng để sản xuất sản phẩm của nhà máy gồm: ãLá thuốc: có thể là lá vàng hoặc lá nâu sau đó được chế biến thành sợi, sợi chiếm tỷ lệ rất cao trong sản phẩm khoảng 85%. ãHương liệu chiếm khoảng 1% sản phẩm, mặc dù tỷ lệ này rất nhỏ nhưng nó quyết định trực tiếp đến đặc trưng riêng của sản phẩm . ãCác loại giấy cuốn: 26.5; 26.75; 27; 27.5 (mm) ãCác loại sáp vàng, sáp trắng. ãLưỡi gà, chỉ xé, giấy nhôm ãCác loại keo: keo điếu, keo bao, keo đầu lọc , keo bao mềm. ãNhãn bao, tem bao, vỏ, tút, đầu lọc. Qua đây ta thấy vật liệu để sản xuất thuốc lá thuộc loại dễ bảo quản trong kho còn nguyên liệu thì lại gặp khó khăn vì phụ thuộc nhiều vào yếu tố khí hậu. Thời gian dự trữ nguyên liệu lại nhất định. Do đó nếu để quá hạn hoặc bảo quản lưu trữ không tốt sẽ gây thiệt hại lớn cho nhà máy và chất lượng sản phẩm giảm sút. Công tác thu mua bảo quản và cung ứng vật tư trong nhà máy phải được thực hiện một cách tốt nhất, và kiên quyết không đưa nguyên liệu kém phẩm chất vào sản xuất. 4.3. Quy trình công nghệ sản xuất thuốc lá Quy trình công nghệ sản xuất thuốc lá của nhà máy nói chung không phải là đơn giản nhưng các dây truyền sản xuất phần lớn là tự động chỉ có một vài khâu thủ công. Chất lượng sản phẩm bị ảnh hưởng không nhỏ bởi các vấn đề thuộc quy trình công nghệ như vệ sinh, thừa thiếu nguyên vật liệu, phụ liệu, nhiệt độ trong lò sấy… Độ ẩm thấp sẽ không đủ làm mềm lá và sạch lá hoặc trương nở cuộng trong giai đoạn hấp chân không. Ngược lại nhiệt độ cao làm cho sợi giòn dễ nát vụn. Nếu phun hương quá tỷ lệ 7-10 0/0 0 sẽ làm cho thuốc có vị đậm khó chịu chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu. Nhà máy đã khắc phục hiện tượng này bằng cách thường xuyên kiểm tra tiêu chuẩn._.úng qui cách, chủng loại, chất lượng, đúng thời gian vận chuyển và bảo quản : Nhìn chung công tác bảo đảm nguyên vật liệu sản xuất được thực hiện tốt. Nhà máy đã tiến hành kiểm tra nguyên vật liệu trước khi đưa từ ngoài vào, bảo quản trong kho và cấp phát kịp thời theo yêu cầu của sản xuất. Tồn tại trong việc cấp phát nguyên vật liệu của nhà máy đó là nguyên vật liệu khi xuất kho đưa vào sản xuất được kiểm tra chất lượng một cách rất qua loa. Nhà máy nên bố trí cán bộ KCS kiểm tra nguyên vật liệu xuất kho, dù sẽ tốn thêm chi phí về tiền lương nhưng hiệu quả đem lại sẽ không ngờ khi mà những trục trặc do chất lượng nguyên vật liệu gây ra giảm xuống. Do nguồn thu mua nguyên vật liệu của nhà máy ở rất xa như Cao Bằng, Lạng Sơn, Đồng Nai, Gia Ninh, Ninh Thuận, Khánh Hoà…(gần nhất cũng là ở Sóc Sơn, Hà Tây) cho nên phương tiện vận chuyển của nhà máy cần phải được coi trọng. Vừa qua nhà máy đã đại tu ba xe; thắng bộ bốn xe trung tu hai xe và đảm bảo an toàn 100% vận chuyển hàng hoá. Nhưng để đạt hiệu quả hơn nữa nhà máy nên có kế hoạch khám xe định kỳ, thường xuyên bảo dưỡng và có chế độ sửa chữa dự phòng theo kế hoạch. Việc dự trữ vật tư của nhà máy được tiến hành qua việc cân đối giữa lượng vật tư cần dùng và tồn kho cuối kỳ. Nhưng một hạn chế rất lớn trong việc quản trị vật tư dự trữ của nhà máy đó là việc nhà máy không xác định được nên tập trung vào bảo quản vật tư nào nhiều hơn, vật tư nào ít hơn thì có hiệu quả với một chi phí cho phép. Vì vậy để khắc phục được vấn đề này nhà máy có thể áp dụng kỹ thuật phân tích A-B-C trong phân loại hàng dự trữ. Kỹ thuật phân tích A-B-C được đề xuất dựa vào nguyên tắc Pareto, phân toàn bộ vật tư dự trữ của doanh nghiệp thành ba loại giá là nhóm A, B và C căn cứ vào giá trị và chủng loại, trong đó : Giá trị vật tư dự trữ Giá bán đơn vị Nhu cầu dự trữ vật tư = x Chủng loại vật tư dự trữ Lượng vật tư từng loại Tổng vật tư dự trữ = X 100 = ´ + Nhóm A bao gồm những loại vật tư có giá trị cao nhất, khoảng 70-80% so với tổng số giá trị hàng dự trữ nhưng về mặt chủng loại chỉ chiếm 15% + Nhóm B bao gồm những loại vật tư dự trữ có giá trị trung bình khoảng 15-25% nhưng về sản lượng chiếm khoảng 30% tổng hàng dự trữ . + Nhóm C gồm những loại vật tư có giá trị nhỏ khoảng 5% nhưng số lượng lại lớn khoảng 55%. Từ kế hoạch dự trữ vật tư các loại trong 6 tháng và giá đơn vị từng loại vật tư của nhà máy ta có thể sắp xếp được vật tư vào từng nhóm như bảng dưới đây. Biểu số21:phân loại dự trữ vật tư thành 3 nhóm A-B-C stt Loại vật tư % chủng loại Lương yêu cầu 6 tháng Giá đơn vị (đ) Giá trị (tr đ) giá trị Xếp loại % 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 17 18 19 20 Đầu lọc 90 Đầu lọc 132 Vỏ tút Vina Sáp vàng52 Sáp trắng 48 Giấynhôm 87 Keo bao mềm Nhãn bao cứng Nhãn bao mềm Vỏ tút bao mềm Lưỡi gà bao cứng Giấy cuốn Dunhill Giấy cuốn 27.5 Lưỡi gà Dunhill Giấy nhôm 82 BOPP 117 BOPP Bao Cứng Chỉ xé Bao Cứng Chỉ xé Bao Mềm Keo Bao Cứng 15 40 45 191 603 000 67 440 000 2 505 958 18 478 14 911 69 630 19 100 15 836 471 67 313 703 6 666 017 32 300 1 790 11 851 1 790 1 790 431 8 083 808 1 095 6 800 39 57 1 133 49 802 82 711 36 983 30 976 101 36 100 31 173 159 853 40 200 53 656 110 428 132 511 27 000 432 309 312 227 40 163 7 472 3 844 2 839 920 1 230 2 575 592 1 599 2 432 73 1066 286 476 10 197 6 218 349 342 273 273 900 27.28 14.03 10.37 3.35 4.49 9.4 2.16 5.84 8.85 2.67 3.67 1.04 1.73 0.03 0.71 0.02 0.8 1.3 1.27 0.99 100% A 51.68 B 40.43 C 7.89 Qua bảng phân tích này ta thấy các loại đầu lọc và vỏ tút Vinataba được xếp vào nhóm A, nhóm chiếm rất ít về chủng loại (15%) nhưng lại chiếm giá trị lớn (51,68%) còn nhóm C chủng loại thì rất nhiều 45(%) nhưng giá trị lại ít 7,89(%). Từ đặc điểm này, nhà máy cần có sự đầu tư thích đáng vào quản trị nhóm vật liệu A. Các nguồn tiềm lực dùng mua hàng cho nhóm A cần phải hơn nhiều so với nhóm C. Các loại hàng nhóm A cần có sự ưu tiên trong bố trí, kiểm tra kiểm soát về chất lượng cũng như hiện vật. Việc thiết lập các báo cáo chính xác về nhóm A cần phải được thực hiện thường xuyên tháng 1 lần ; nhóm B là các loại sáp , keo và nhãn có thể theo quý và nhóm C là các loại chỉ xé, giấy cuốn, lưỡi gà có thể kiểm tra báo cáo theo năm hoặc nửa năm . Biểu đồ Pareto về quản trị chất lượng nguyên vật liệu %GT 100% 93,21% 51,68% 40,43% nhóm A 7,89% nhóm C 0 15 40% 45% %chủng loại Nhóm A Nhóm B Dựa vào kỹ thuật phân tích ABC này nhà máy thuốc lá sẽ phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả nhất đối với từng nhóm nguyên vật liệu. Như vậy chất lượng nguyên vật liệu luôn được đảm bảo mà chi phí bảo quản bỏ ra lại ít nhất . Ngoài việc sử dụng kỹ thuật phân tích ABC trong quản trị chất lượng nguyên vật liệu dự trữ ra nhà máy cần đầu tư hơn nữa cho công tác bảo quản bao gồm kho tàng và các công cụ bảo quản đặc biệt là bảo quản sợi và lá thuốc công tác này nên được quan tâm thường xuyên vì khí hậu ở nước ta là khí hậu nhiệt đới gió mùa ảnh hưởng rất lớn đến nguyên vật liệu bảo quản trong kho .Trước mắt nhà máy phải cải tạo lại hệ thống kho tàng cũ để đảm bảo độ thông thoáng, tiến hành chống dột, đảm bảo điều kiện cần thiết nhằm giữ gìn nguyên vật liệu . Để tránh tình trạng vật liệu tồn kho quá lâu nhà máy thuốc lá Thăng Long nên vận dụng phương pháp nhập trước xuất trước. Với phương pháp này thời gian tồn đọng trong kho vật tư sẽ được rút ngắn lại. Khi đó nhà máy sẽ giảm được những tổn thất do vật tư xuống cấp quá nhiều. Mà khi vật tư đã bị tồn kho quá lâu, tuyệt đối không đưa vào sản xuất bừa bãi làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Cách giải quyết có thể là phục hồi hoặc thanh lý. Với những biện pháp trên nhà máy sẽ cung cấp nguyên vật liệu đầy đủ về số lượng, chất lượng, chủng loại cho sản xuất. Nguồn cung cấp sẽ ổn định với giá cả hợp lý. Công tác bảo quản được quan tâm, việc dự trữ được tiến hành thường xuyên đảm bảo cho việc sản xuất được diễn ra một cách nhịp nhàng và liên tục. Từ đó nhà máy có cơ sở để sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá khác . Để thực hiện được giải pháp này trước hết nhà máy phải có nguồn vốn cần thiết để chủ động đầu tư kho tàng dự trữ nguyên vật liệu đảm bảo về số lượng và chất lượng. Khoản này có thể lấy từ quỹ đầu tư xây dựng cơ bản và tính vào chi phí giá thành.Tuy nhiên việc tính toán phải được tiến hành qua phương pháp khấu trừ hoặc phân bổ thành nhiều kỳ nếu không giá cả hàng hoá sẽ tăng đột ngột. Và đứng về chỉ tiêu kinh tế, chất lượng sản phẩm sẽ không đạt yêu cầu. Nhà máy nên hoạch định kế hoạch chất lượng sản phẩm để xác định việc cung ứng vật tư trong từng thời kỳ. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật phải được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, có trách nhiệm kiểm tra, bảo quản nghiên cứu và phát triển nguyên vật liệu. 3. Trang bị đổi mới máy móc thiết bị : Thực trạng của nhà máy là một số máy móc thiết bị đã quá lâu như máy cuốn điếu Trung Quốc từ năm 1960, máy cuốn C7 của Tiệp Khắc từ năm 1963. Những máy này chất lượng hiện nay đã giảm, còn khoảng 65 – 70% gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm sản xuất. Ngoài ra máy móc giữa các bộ phận, giữa các khâu của quá trình sản xuất không đồng bộ về mặt năng lực, do đó dẫn đến ứ đọng nhiều sản phẩm dở dang, nếu không bảo quản tốt sản phẩm dở dang sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cuối cùng. Ví dụ như công suất thực tế của máy cuốn điếu đầu lọc C7 – Tiệp Khắc là 800 điếu một phút, tức là đủ số thuốc cho 40 bao trong một phút. Thế nhưng công suất của máy đóng bao mềm Đông Đức lại là 100 bao /phút dẫn đến máy Đông Đức phải chờ thêm 2.5 phút nữa thì máy cuốn điếu mới cung cấp đủ thuốc cho máy đóng bao. Còn từ khâu đóng bao sang khâu đóng tút cũng tương tự. Công suất thực tế của máy đóng tút mềm YB62-YB92-Trung Quốc là 22 tút/phút máy đóng bao phải sản xuất trong 2.2 phút mới đủ 220 bao cho máy YB62-YB92 đóng 22 tút. Vậy là khâu nọ phải chờ khâu kia gây lãng phí nhiên liệu, động lực, quá trình sản xuất không diễn ra liên tục ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên việc đầu tư đổi mới công nghệ là rất khó, đặc biệt là với nhà máy thuốc lá Thăng Long. Bởi vì hiện nay nhà nước đang có chủ trương hạn chế đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá. Máy móc thiết bị mới cũng như nguồn vốn ngân sách sẽ không được hỗ trợ. Do những khó khăn này nhà máy không thể đầu tư tràn lan mà phải đầu tư có tính chất trọng điểm . Hiện nay máy móc thiết bị của phân xưởng Bao Mềm còn lạc hậu với phân xưởng Bao Cứng và phân xưởng Dunhill. Cho nên đây sẽ là khu vực quan trọng nhất cần được ưu tiên đầu tư. Bởi vì phần lớn những sai hỏng và những lãng phí vật tư là xảy ra ở đây, mà sản phẩm của phân xưởng Bao Mềm lại được tiêu thụ rất mạnh, cho nên nhà máy phải gấp rút xây dựng kế hoạch huy động nguồn vốn đổi mới, cải tạo máy móc thiết bị cho phân xưởng Bao mềm . Nhưng sẽ đầu tư cho khâu nào? Vì thực trạng là khâu đóng bao phải chờ khâu cuốn điếu, khâu đóng tút phải chờ khâu đóng bao như đã phân tích ở trên cho nên khâu cuốn điếu và đóng bao cần phải được chú trọng đầu tư để đuổi kịp công suất so với khâu đóng tút, làm cho quá trình sản xuất được diễn ra một cách liên tục và nhịp nhàng. Các trọng điểm đầu tư vì thế được biểu diễn qua bảng sau: Các khâu Mức độ đầu tư Sợi Cuốn điếu Đóng bao Đóng tút Tiên tiến Cao Trung bình Phù hợp Vì dây chuyền của nhà máy được đánh giá là hiên đại nhất trong các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá cho nên chỉ cần tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ theo kế hoạch chứ không cần đâù tư đổi mới nữa. Khâu đóng tút , đóng bao, cuốn điếu lần lượt cao hơn nhau một bước cho nên khi đầu tư phải đầu tư quay ngược trở lại, tập trung vào cuốn điếu rồi mới đóng bao và cuối cùng là đóng tút. Khi chất lượng sản phẩm được nâng cao, nguồn vốn tích luỹ được nhiều nhà máy sẽ từng bước đổi mới máy móc hơn nữa, có thể theo quy trình sau: Khâu MĐ Sợi Điếu Bao Tút Tiên tiến Cao TB PH Khâu MĐ Sợi Điếu Bao Tút Tiên tiến Cao TB PH Đồng thời với giải pháp đầu tư có trọng điểm để giải quyết những khó khăn về vốn, nhà máy nên tiếp tục tự trang tự chế cải tiến máy móc kỹ thuật . Nhà máy vừa sát nhập nhà máy cơ khí thuốc lá vào phân xưởng 4 cho nên sẽ có đủ khả năng để làm công việc này. Và thực tế đã chứng minh điều ấy: +Năm 1996 đồng chí Dương Văn Sang cùng tập thể phòng kỹ thuật công nghệ ; phân xưởng Bao Mềm ; phân xưởng cơ điện đã chế tạo hai máy là máy đóng tút và tút bóng kính , tút cứng , bao mềm với công suất điện 1.5 KW và đưa vào sử dụng năm 1997. +Năm 1996 đồng chí Vũ Văn Thưởng cùng tập thể phân xưởng cơ điện đã chế tạo và đưa luôn vào sử dụng một hệ thống cấp sợi cho 8 máy cuốn điếu với công suất điện 8.8 KW. Năm 1997 cải tiến thành hệ thống cấp sợi tự động. +Năm 1996 đồng chí Đặng Xuân Phương cùng phân xưởng cơ điện và phân xưởng sợi chế tạo máy phân ly sợi, cuộng với công suất điện 24 KW. Giải pháp tự trang tự chế cải tiến máy móc thiết bị ngoài ra còn góp phần nâng cao năng lực chuyên môn của người lao động cho nhà máy. Những dù có thực hiện giải pháp nào đi chăng nữa thì nhà máy thuốc lá Thăng Long vẫn phải tổ chức, bảo dưỡng, bảo quản và sửa chữa theo định kỳ. Đầu tư thoả đáng cho việc mua sắm thiết bị phụ tùng thay thế dự phòng để có thể sửa chữa hỏng hóc một cách kịp thời không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Chú ý bố trí, sắp xếp dây chuyền phân chia các công đoạn sao cho có sự phối hợp tốt giữa người lao động và trang thiết bị máy móc. Hiệu quả trước tiên đem lại của các giải pháp trên là khoảng cách lạc hậu về máy móc giữa hai phân xưởng Bao Cứng và Bao Mềm được rút ngắn lại .Chất lượng sản phẩm bao mềm được cải tiến rõ rệt, tốc độ tiêu thụ nhanh hơn , mở rộng thị trường, nâng cao uy tín của nhà máy. Ngoài ra máy móc thiết bị đồng bộ sẽ đem lại hiệu quả về mặt tài chính và ngày càng hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất thuốc lá hiện tại. Điều kiện quan trọng cho giải pháp này là phải có vốn để thực hiện. Nhưng vì là đầu tư có trọng điểm và tự chế tạo cải tiến cho nên nguồn vốn có thể tự huy động từ nguồn vốn xây dựng cơ bản, vốn khấu hao được để lại, nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận, vốn tự có của nhà máy, vốn vay ngân hàng, vốn ngân sách cấp. Hơn nữa, khi đã có máy móc hiện đại rồi nhà máy phải chuẩn bị đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân lành nghề có khả năng đáp ứng yêu cầu hoạt động của máy móc. 4. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng ở mọi khâu mọi công đoạn của quá trình sản xuất : Với đặc điểm của quá trình sản xuất tương đối dài và phức tạp, người lao động chưa nhận thức rõ vai trò của chất lượng và chưa tự giác trong công việc của mình nhà máy thuốc lá Thăng Long nên áp dụng phương pháp kiểm tra chất lượng trên tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra thoả mãn nhu cầu đa dạng của thị trường. Biện pháp này hoàn toàn có thể thực hiện được bởi vì nhà máy đã phân công rõ nhiêm vụ kiểm tra chất lượng sản xuất cho phòng KCS và phòng kỹ thuật công nghệ. Cán bộ kiểm tra của hai phòng này luôn có mặt ở các phân xưởng, moị lúc, mọi nơi. Ngoài ra các tiêu chuẩn kiểm tra ở mỗi giai đoạn đã được nhà máy xây dựng rõ ràng và phù hợp. Ví dụ như trong giai đoạn hấp chân không thì phải hấp làm hai lần mới đảm bảo thuỷ phân sau khi hấp tăng từ 2-4 % nếu nhiệt độ sau khi hấp nhỏ hơn 600C thì đó là sợi thuốc tốt còn nhỏ hơn 65 0C là loại sợi trung bình và xấu. Trong giai đoạn trương nở cuộng thì phải dùng hơi nước nóng làm cuộng lá trương xốp lên và mềm ra để tiến hành thái sợi. Nếu nhiệt độ không nằm trong khoảng từ 102- 1050C thì hơi nước nóng không thể đủ làm biến từ cuộng lá cứng thành cuộng lá mềm, cuộng lá sẽ bị dai, và khi tiến hành thái cuộng sợi thuốc rất to và thô chứ không nhỏ và mảnh. Từ những thuận lợi này nhà máy cần quán triệt hơn nữa quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm trên tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất. Nội dung của công tác này có thể được tiến hành như sau : Trước tiên nhà máy phải phân công rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng người đối với việc kiểm tra từng khâu, từng công đoạn phù hợp với khả năng, năng lực và kinh nghiệm của cán bộ kiểm tra giám sát. Sự phân công càng chặt chẽ càng tránh được bộ phận thì có quá nhiều kiểm tra, bộ phận thì chẳng có ai giám sát và giải quyết khi có những trục trặc xảy ra. Nhìn một cách tổng quát thì phòng KCS kiểm tra về mặt sản phẩm còn phòng kỹ thuật công nghệ chịu trách nhiệm về máy móc thiết bị. Khi đã Khi có sự phân công chi tiết cụ thể thì cán bộ kỹ thuật phải có nhiệm vụ : + Kiểm tra thường xuyên trên dây chuyền sản xuất mà mình được phân công. + Phát hiện các yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, tiến hành phân tích và giải quyết. Đây mới là ý nghĩa thiết thực của kiểm tra, bởi vì kiểm tra không sẽ chẳng làm chất lượng sản phẩm tốt hơn mà còn làm tăng áp lực về phía người công nhân. Kiểm tra là phải gắn liền với công việc giải quyết các yếu tố ảnh hưởng đến sự sai hỏng của sản phẩm, nếu cán bộ được phân công không có khả năng giải quyết thì phải thông tin ngược về phòng KCS và phòng kỹ thuật công nghệ để cùng phối hợp. + Kiểm tra không có nghĩa là cứ phải tìm ra một sự sai hỏng nào đó điều này thật vô lý, mà qua việc kiểm tra cán bộ phải ghi nhận các kết quả đạt được trong khu vực của mình.Từ đó phổ biến kinh nghiệm cho toàn bộ nhà máy phải làm như thế nào sản phẩm sẽ đạt chất lượng cao. Để thực hiện được giải pháp này có hiệu quả nhà máy thuốc lá Thăng Long cần đào tạo và bổ sung thêm cán bộ và công nhân kiểm tra chất lượng sản phẩm ở một số khâu còn xảy ra nhiều khuyết tật và một số khâu quan trọng có tính quyết định tới chất lượng sản phẩm ví dụ như khâu gia hương nhằm tăng phẩm chất sợi, khâu cuốn điếu còn bị lăn nhiều, điếu co, rỗ nhiều ở phân xưởng Bao Mềm, khâu đóng bao ở phân xưởng Bao Cứng còn nhiều bẹp đáy, bong hồ…như chúng ta đã biết ở phần phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm của nhà máy. Ngoài ra nhà máy cũng cần phải xây dựng một chế độ thưởng phạt nghiêm ngặt đối với công nhân sản xuất cũng như bộ phận quản lý trực tiếp trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm . 5.Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để định hướng nâng cao chất lượng sản phẩm Nhu cầu thị trường luôn thay đổi nên yêu cầu về chất lượng sản phẩm cũng biến động theo. Nếu doanh nghiệp luôn tuân thủ chất lượng cố định nào đó, sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh sẽ bị tụt hậu, mặc dù sản phẩm của doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn chất lượng kỹ thuật nhưng người tiêu dùng không chấp nhận. Để tránh mắc phải tình trạng này nhà máy thuốc lá Thăng Long nên tăng cường hơn nữa công tác điều tra nghiên cứu thị trường. Điểm rất thuận lợi của nhà máy là cán bộ công nhân viên nhà máy đã nhận biết được vai trò quan trọng của thị trường đối với chất lượng sản phẩm qua việc tách phòng Tiêu thụ ra làm hai phòng đó là phòng Thị Trường và phòng Tiêu Thụ như chúng ta đã biết ở sơ đồ tổ chức của nhà máy. Một trong những nhược điểm của nhà máy thuốc lá Thăng Long là phòng Tiêu Thụ chỉ có nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm còn những vấn đề sau khi bán hàng, những yêu cầu của khách hàng sau khi sử dụng sản phẩm lại không được để ý tới. Nhà máy cho rằng mọi sản phẩm bị trả lại không phải do những trục trặc về chất lượng mà là do không hợp gu với thị trường điạ lý. Nhà máy cũng không để ý rằng vì sản phẩm thuốc lá qúa nhỏ, giá trị không lớn như các loại hàng hoá khác nên người tiêu dùng rất ngại việc khiếu nại và phản hồi với người cung cấp. Nhiệm vụ của nhà máy là phải khai thác hết những gì mà khách hàng không hài lòng khi sử dụng sản phẩm thuốc lá của nhà máy. Công việc này thuộc phòng Tiêu Thụ nhưng phòng Tiêu Thụ đã lướt qua.Vì vậy để cho công việc nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, các nhiệm vụ chức năng của các phòng có thể được quy định như sau : Nghiên cứu thị trường tiêu thụ Phân tích thông tin về chất lượng Sp Nghiên cứu sp có chất lượng cần thiết Đảm bảo chất lượng trong khi tiêu thụ Thu thập thông tin phản hồi từ người mua Nghiên cứu sản phẩm mới Thiét kế chế thử sản xuất hàng loạt P.Thị trường P. Tiêu Thụ P.kỹ thuật công nghệ Phòng Thị Trường nghiên cứu đặc điểm của từng vùng thị trường, tổng hợp các thông tin về chất lượng mẫu mã, sản phẩm, yêu cầu thị hiếu, phản ánh lại cho nhà máy để xây dựng kế hoạch sản xuất đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó phòng Thị Trường cũng luôn nghiên cứu những tính năng mới để cùng phòng Công Nghệ cải tiến chất lượng sản phẩm và cho ra đời sản phẩm mới. Còn phòng Tiêu Thụ ngoài việc đảm bảo chất lượng trong khi tiêu thụ còn phải kiểm tra sản phẩm bị trả lại, phân tích các điều phân vân và kháng nghị của khách hàng. Tất cả những thông tin từ hai phòng lại được phản hồi tới phòng kỹ thuật công nghệ để nghiên cứu ra những sản phẩm mới, sản xuất thử, đưa sản phẩm chế thử, đưa các sản phẩm mẫu ra thăm dò thị trường; nếu thành công sẽ đi vào sản xuất hàng loạt. Để giải pháp này có hiệu quả nhà máy cần phải xây dựng được đội ngũ nghiên cứu thị trường có kiến thức marketing, có khả năng thu thập và xử lý thông tin, có khả năng sáng tạo, năng động trong công việc, có kinh nghiệm, có khả năng tạo ra các kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm mới … cùng với phòng kỹ thuật Công nghệ hình thành sản phẩm. Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất là tư tưởng của người lãnh đạo. Nếu ban giám đốc nhận thức được vai trò quan trọng của công tác nghiên cưú thị trường đối với sự phát triển của nhà máy nói chung và của công tác cải tiến chất lượng sản phẩm nói riêng thì việc tăng cường hơn nữa cho công tác thị trường sẽ gặp nhiều thuận lợi. Ban giám đốc phải xây dựng được những quy định cụ thể về mục tiêu chính sách phương hướng hoạt động đồng thời tạo điều kiện vật chất cũng như tinh thần cho cán bộ nghiên cứu thị trường làm tốt nhiệm vụ. Phát huy hơn nữa công tác khen thưởng sáng kiến mà nhà máy vẫn đang thực hiện. 6.áp dụng hệ thống ISO 9000 vào quản lý chất lượng sản phẩm ISO 9000 là phương tiện đảm bảo cho hoạt động quản lý thực hiện các yêu cầu về chất lượng sản phẩm có hiệu quả mà lại tiết kiệm được chi phí ,đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Do công đoạn sản xuất thuốc lá tương đối dài nhà máy nên áp dụng ISO 9002 vào công tác quản lý chất lượng sản phẩm của mình. Để thực hiện việc này nhà máy Thuốc lá Thăng Long cần làm những công việc cơ bản sau: Công việc mở đầu có vai trò quan trọng nhất là lãnh đạo nhà máy phải trực tiếp xây dựng chính sách chất lượng, cam kết bằng văn bản việc triển khai chính sách chất lượng và hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000. Sau đó thông báo một cách rộng rãi cho tất cả mọi thành viên trong nhà máy đồng thời phân bổ nguồn lực một cách hợp lý để việc thực hiện đạt kết quả cao. *Thành lập ban chỉ đạo và chỉ định các thành viên: chủ tịch ban chỉ đạo nên là phó giám đốc sản xuất, các thành viên là trưởng phòng các phòng ban.Điều cần thiết là nhà máy phải xác định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của ban chỉ đạo và xây dựng kế hoạch hành động có kèm theo hướng dẫn cụ thể. *Nhà máy phải lựa chọn cho mình chuyên gia tư vấn phù hợp: tuỳ vào khả năng mà có thể đi thuê bên ngoài hoặc tự nghiên cứu. Nhưng đối với thực trạng vốn, khoa học công nghệ của nhà máy cộng với những nhận thức còn chưa toàn diện về ISO của cán bộ công nhân viên thì nhà máy nên thuê chuyên gia tư vấn nước ngoài chứ không nên tự lực cánh sinh. Tuy nhiên chuyên gia tư vấn chỉ là người định hướng còn nhà máy vẫn phải chủ động thực hiện là chính. Ba bước ở trên thực ra nhà máy Thuốc lá Thăng Long đã tiến hành, trong đó phụ trách chính nhà máy giao cho phòng KCS. Hiện nay nhà máy đang lựa chọn tư vấn và dừng lại ở bước này. Nhìn chung mặc dù đã có kế hoạch áp dụng ISO 9000 nhưng việc thực thi còn rất chậm trễ và hầu như không được xúc tiến thêm. Để có một hệ thống quản lý chất lượng hoàn hảo nhà máy nên tăng cường hơn nữa cho kế hoạch này. Ban giám đốc phải chỉ định cho một bộ phận chuyên nghiên cứu về ISO để nhanh chóng lựa chọn một tổ chức tư vấn phù hợp còn thực hiện tiếp các bước sau. *Tiếp theo nhà máy phải xây dựng và tổ chức những chương trình giáo dục đào tạo nhằm nâng cao kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn về chất lượng cho các thành viên. Chương trình phải bắt đầu từ những kiến thức chung nhất cho đến các kỹ năng cụ thể và mỗi chương trình phải có mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng. *Khảo sát đánh giá tình trạng của nhà máy: về cơ cấu tổ chức quản lý và mối quan hệ giữa các phòng ban, đành giá việc tuân thủ các tiêu chuẩn, các qui trình, chỉ ra được các phương pháp quản lý và thói quen làm việc. Mục tiêu của bước này là chỉ ra những thiếu sót và vấn đề cần giải quyết khi áp dụng ISO 9000. Công việc này được tiến hành thường xuyên ở nhà máy Thuốc lá Thăng Long định kỳ 6 tháng một lần, tiến tới sẽ là một quý 1 lần. Cho nên khi chuẩn bị cho việc áp dụng ISO 9000 nhà máy sẽ đi qua bước này một cách nhanh chóng mà vẫn hiệu quả. *Xây dựng kế hoạch hành động cụ thể: từ những ưu điểm của từng bộ phận nhà máy phải xác định được thời gian biểu, những công việc cần tiến hành, những nhiệm vụ và các chỉ tiêu cần hoàn thành của từng bộ phận của từng cá nhân trong doanh nghiệp. Kế hoạch càng được chia nhỏ bao nhiêu thì càng dễ dàng thực hiện bấy nhiêu. *Triển khai xây dựng hệ thống tài liệu chất lượng: thể hiện việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của ISO 9000 đó là văn bản hoá tất cả các công việc cần làm và làm tất cả những gì đã được văn bản hoá. *Tổ chức thực hiện theo tài liệu đã xác định . *Xem xét lại công tác quản lý những hoạt đọng áp dụng ISO 9000. *Đánh giá chất lượng nội bộ. *Mời một chuyên gia tư vấn khác có tư cách tới nhà máy để đánh giá xem nhà máy đã có đầy đủ tiêu chuẩn trước khi xin cấp chứng chỉ ISO 9000. *Khi đã có đầy đủ điều kiện nhà máy Thuốc lá Thăng Long sẽ tiến hành đăng ký chứng chỉ phù hợp . Để thực hiện các bước này nhà máy Thuốc lá Thăng Long cần phải chuẩn bị những vấn đề sau: +Tính được chi phí cho việc áp dụng hệ thống ISO 9000 và xác định được các nguồn mà nhà máy có thể huy động được như từ quỹ đầu tư phát triển , lợi nhuận để lại, quỹ khấu hao… +Chọn ra một cán bộ kỹ thuật ở vị trí cao để làm người chỉ đạo. Đó phải là người có kinh nghiệm, am hiểu về chất lượng và về tình hình sản xuất kinh doanh của nhà máy, đặc biệt phải có uy tín để chỉ đạo các phòng ban và các bộ phận có liên quan. +Bồi dưỡng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho các thành viên trong ban chỉ đạo. +Tạo được sự ủng hộ đông đảo của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong nhà máy. III một số kiến nghị với tổng công ty thuốc lá việt nam và nhà nước 1.Một số kiến nghị với Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam Việc Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam chuyển giao toàn bộ khâu cung cấp nguyên vật liệu cho công ty Nguyên Liệu Thuốc lá Bắc và thuốc lá Nam rất có thuận lợi cho nhà máy Thuốc lá Thăng Long trong việc đảm bảo chất lượng và hạn chế rủi ro. Tuy nhiên đôi lúc thủ tục còn rườm rà và phải phân bố một cách có hạn chế cho tất cả các nhà máy thành viên. Nên chăng Tổng công ty chỉ lo cung cấp nguyên vật liệu một phần, còn lại nhà máy tự tìm nguồn cung cấp. Như thế sẽ tạo cho nhà máy Thuốc lá Thăng Long quyền chủ động trong việc phát triển vùng nguyên liệu có chất lượng cao và tiếp tục duy trì mối quan hệ mật thiết với một số địa phương mà nhà máy đã trực tiếp hướng dẫn gieo trồng, phổ biến kỹ thuật, cung ứng vật tư, tổ chức hái sấy bảo quản thu mua trong một thời gian rất dài. Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam nên phối hợp hoạt động của các thành viên một cách nhịp nhàng đồng bộ để phát huy những mặt mạnh của mỗi đơn vị thành viên, cùng hỗ trợ lẫn nhau trong việc bảo đảm chất lượng sản phẩm. Có kế hoạch giúp đỡ các nhà máy thành viên đặc biệt là về vốn kinh doanh, về thiết bị máy móc và các thông tin về thị trường. Một vấn đề nữa của nhà máy Thuốc lá Thăng Long nói riêng cũng như các nhà máy khác là mặc dù chất lượng sản phẩm được nâng cao nhưng mức lãi thì lại giảm dần vì vật tư chủ yếu là nhập ngoại. Tỷ giá ngoại tệ tăng sẽ dẫn đến chi phí sản xuất cho một sản phẩm tăng mặc dù nhà máy đã cố giảm chi phí sai hỏng đi rất nhiều. Để tạo điều kiện cho nhà máy tăng trưởng thuận lợi hơn Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam nên đẩy mạnh hơn nữa việc hợp tác với các tập đoàn nguyên vật liệu thuốc lá lớn trên thế giới như Dimond, Intabex, Universal…tạo nguồn nguyên vật liệu ổn định, chất lượng bảo đảm và giá rẻ hơn vật tư nhập ngoại. 2.Một số kiến nghị với nhà nước Thuốc lá cũng như rượu bia là những mặt hàng bị đánh thuế tiêu thụ dặc biệt với mức thuế suất rấy cao. Sản phẩm thuốc lá của nhà máy phải chịu ba mức thuế: đối với các sản phẩm không đầu lọc chịu thuế suất 32%, đối với các sản phẩm bao cứng và bao mềm sử dụng dưới 50% nguyên vật liệu nhập ngoại chịu thuế suất 52% và 70%đối với các sản phẩm bao cứng có sử dụng hơn 50% nguyên vật liệu nhập ngoại. Ngoài ra nhà máy Thuốc lá Thăng Long còn phải chịu cả thuế VAT, thuế sử dụng vốn và thuế thu nhập doanh nghiệp. Với khoản nộp ngân sách quá lớn sẽ hạn chế khả năng của doanh nghiệp. Nên chăng nhà nước cần có chính sách thuế công bằng hơn để tạo một moi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm cần phải được quản lý chặt chẽ hơn nữa, không để tình trạng lan tràn thuốc lá giả, thuốc lá nhập lậu, trốn thuế…Nhà nước phải xử lý nghiêm ngặt những trường hợp vi phạm pháp luật như buôn bán thuốc lá trái phép, câu kết trong việc sử dụng tem….Có như vậy mới tạo cho nhà máy yên tân sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm vì đã có nhà nước đứng phía sau bảo hộ. Doanh nghiệp nào cũng tìm mọi cách để quảng cáo sản phẩm của mình trên mọi phương tiện. Nhưng nhà máy Thuốc lá Thăng Long lại bị cấm triệt để các hoạt động quảng cáo, khuyến mại dưới mọi hình thức. Điều này càng gây khó khăn đối với nhà máy khi cho ra đời các sản phẩm mới. Chưa một nước nào trên thế giới ngoại trừ Singapore lại cấm quảng cáo thuốc lá như nước ta. Mặc dù các nước ấy cũng không khuyến khích việc sản xuất thuốc lá nhưng chỉ cấm marketing ở một mức độ nhất định: nếu cấm quảng cáo trên truyền hình thì sẽ cho phép quảng cáo trên đài phát thanh; chỉ cấm quảng cáo trên các panô ap phich lớn, các đèn hiệu chứ không cấm quảng cáo dưới dạng in tranh khổ nhỏ…Vậy thì tại sao Việt Nam lại không nới rộng quyền hạn này cho các nhà máy thuốc lá.Nhà nước đã cho phép các cơ sở thuốc lá tồn tại thì hãy cho phép họ được hưởng quyền kinh doanh trên thị trường đó là quyền quảng cáo,khuyến mại sản phẩm thuốc lá dù chỉ có giới hạn. Kết luận Khi nền kinh tế càng ngày càng phát triển ở trình độ cao hơn thì cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm hay dịch vụ càng trở nên có hiệu quả. Sản phẩm chỉ có thể được tiêu thụ nhanh khi nó có chất lượng thoả mãn nhu cầu thị trường, giá cả phù hợp với mức thu nhập của người tiêu dùng. Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được điều đó và luôn luôn chú ý đến việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm một cách đặc biệt, coi chất lượng là yếu tố quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp. Nhà máy Thuốc lá Thăng Long với hơn 45 năm hình thành và phát triển cũng không nằm ngoài qui luật ấy. Ban lãnh đạo và công nhân nhà máy luôn luôn đặt mục tiêu chất lượng lên hàng đầu và ra sức thực hiện bằng được kế hoạch đã đặt ra. Sản phẩm của nhà máy đã được người tiêu dùng chấp nhận với một sự tin tưởng lớn về mặt chất lượng. Tuy nhiên chẳng có sản phẩm nào lại có chất lượng hoàn hảo cả, sản phẩm thuốc lá của Thăng Long cũng còn một số hạn chế. Qua thời gian thực tập và tìm hiểu thực trạng cũng như khả năng của nhà máy tôi đã mạnh dạn đề ra một số giải pháp để chất lượng sản phẩm của nhà máy càng ngày càng trở nên hoàn thiện. Tôi hy vọng rằng những ý kiến của mình sẽ đóng góp một phần nhỏ vào mục tiêu đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của nhà máy. Mặc dù đã có cố gắng rất nhiều nhưng chuyên đề về :" Một số biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của nhà máy Thuốc lá Thăng Long " của tôi chắc sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong được các thầy cô cũng như các cô chú trong nhà máy giúp đỡ và chỉ bảo tận tình để tôi hoàn thiện hơn về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà nội tháng 5/2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0033.doc
Tài liệu liên quan