Lời nói đầu
Tiền lương luôn là vấn đề được xã hội quan tâm, góp ý bởi ý nghĩa kinh tế xã hội to lớn của nó. Tiền lương có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với người lao động vì nó là nguồn thu chủ yếu giúp họ đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình. Tiền lương đối với mỗi doanh nghiệp là một phần không nhỏ của chi phí sản xuất. Tiền lương là yêu cầu cần thiết khách quan luôn được chủ doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, tiền lương là vấn đề hết sức quan trọng.
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp hoàn thiện tiền lương theo sản phẩm ở Công ty Vật liệu xây dựng bưu điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nó có thể là động lực thúc đẩy tăng năng suất lao động của người lao động nếu tiền lương được trả cao hơn sức lao động của người lao động.
Công ty Vật liệu xây dựng bưu điện sản xuất các loại ống cáp thông tin, cột bệ tông... Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, Công ty đã từng bước sắp xếp lại lao động một cách hợp lý, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ... và công tác trả lương đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động được Công ty coi trọng, xem đây là khâu quan trọng của quá trình đổi mới và có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển. Để cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới nên vấn đề tiền lương cần có bước hoàn thiện rõ rệt để phù hợp với nền kinh tế đất nước và yêu cầu thực tiễn.
Trong quá trình thực tập, em chọn đề tài" Một số biện pháp hoàn thiện tiền lương theo sản phẩm ở Công ty Vật liệu xây dựng bưu điện".
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Thạc sỹ Trần Thị Thạch Liên và các cô chú ở Phòng Tổ chức - Hành chính đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo thực tập này.
Chương I
Tiền lương theo sản phẩm và vai trò của nó
I.Một số lý luận cơ bản về công tác tiền lương.
1.Bản chất của tiền lương.
1.1.Khái niệm.
Tiền lương luôn luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng trong đời sống sản xuất và xã hội của đất nước. Nó hàm chứa nhiều mối quan hệ mâu thuẫn giữa sản xuất và nâng cao mức sống, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa thu nhập của các thành phần dân cư.
Đối với hàng triệu người lao động làm công ăn lương, tiền lương là mối quan tâm hàng ngày đối với họ. Thật vậy, tiền lương là nguồn thu nhập chính nhằm duy trì và nâng cao mức sống của người lao động và gia đình họ. ở một mức độ nhất định, tiền lương có thể được xem là bằng chứng thể hiện giá trị, địa vị, uy tín của người lao động đối với cá nhân và xã hội.
Như vậy, tiền lương đựơc hiểu là số tiền mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động của họ thanh toán lại tơng ứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã tiêu hao trong quá trình tạo ra của cải xã hội.
1.2.Nguyên tắc tổ chức tiền lương.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, dù thực hiện bất kỳ chế độ tiền lương nào, muốn phát huy đầy đủ tác dụng đòn bẩy kinh tế của nó đối với sản xuất và đời sống phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc sau:
- trả lương bằng nhau cho lao động như nhau:
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc phân phối theo lao động. Trả lương bằng nhau cho lao động như nhau có nghĩa là khi qui định tiền lương, tiền thưởng cho công nhân viên chức nhất thiết không được phân biệt giới tính, tuổi tác, dân tộc mà phải trả cho mọi người đồng đều số lượng, chất lượng mà họ đã cống hiến cho xã hội.
- Bảo đảm tốc độ tăng năng suất lao động bình quân phải nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân trong toàn đơn vị và trong kỳ kế hoạch.
Tiền lương bình quân tăng chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu do nâng cao năng suất lao động như nâng cao trình độ lành nghề, giảm bớt thời gian tổn thất cho lao động. Còn năng suất lao động tăng không phải chỉ do những nhân tos trên mà còn trực tiếp phụ thuộc vào các nhân tố khách quan như: áp dụng kỹ thuật mới, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tổ chức lao động và các quá trình sản xuất. Như vậy, tốc độ tăng năng suất lao động rõ ràng có điều kiện khách quan để lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân. Có như vậy mới tạo cơ sở giảm giá thành, hạ giá cả, tăng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng.
- Bảo đảm thu nhập tiền lương hợp lý giữa các ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế.
+ Đối với các ngành đòi hỏi kỹ thuật cao, phức tạp thì phải được trả lương cao hơn các ngành khác.
+ Đối với các ngành mà công nhân làm việc trong điều kiện nặng nhọc, có hại đến sức khoẻ thì phải được trả lương cao hơn những người làm việc trong điều kiện bình thờng.
Ngoài ra, với những ngành chủ đạo có tính chất quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước thì được hưởng mức lương cao hơn nhằm khuyến khích công nhân an tâm, phấn khởi làm việc lâu dài ở những ngành đó. Bên cạnh đó, nên đãi ngộ tiền lương cao hơn hoặc thêm những khoản phụ cấp để thu hút người lao động đến làm việc ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đời sống gặp nhiều khó khăn, nhân lực thiếu...
- Khuyến khích bằng lợi ích vật chất kết hợp với giáo dục chính trị tư tưởng cho người lao động.
Ngoài tiền lương ra, nên có thêm tiền thưởng để khuyến khích người lao động nh: trợ cấp của doanh nghiệp cho các nhân viên đông con hoặc có hoàn cảnh khó khăn quà tặng của doanh nghiệp cho nghân viên vào các dịp sinh nhật, cới hỏi, mừng thọ cha mẹ nhân viên...
Tiền lương là một loại kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đối với người lao động trong việc phấn đấu thực hiện công việc tốt hơn. Thưởng có rất nhiều loại như: thưởng năng suất, chất lượng; thưởng tiết kiệm; thưởng sáng kiến; thưởng đảm bảo ngày công ...
Bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc trên thì cần phải đảm bảo các điều kiện sau đây thì việc trả lương mới có ý nghĩa.
- Mức lương trả cho người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu mà nhà nước công bố cho các đơn vị được cụ thể ở từng lĩnh vực. Nếu mà người lao động đi làm thêm giờ thì phải được trả thêm lương.
- Đơn vị trả lương và các khoản phụ cấp cho người lao động trực tiếp đầy đủ, đúng hạn, tại nơi làm việc và bằng tiền mặt.
- Khi đơn vị bố trí người lao động tạm thời chuyển sang nơi làm việc hoặc công việc khác thì phải trả lương cho người lao độngkhông thấp hơn mức lương của công việc trớc.
- Khi đơn vị giải thể, phá sản, thanh lý thì tiền lương phải được ưu tiên thanh toán cho người lao động trớc.
2. Các chế độ tiền lương.
2.1.Chế độ tiền lương cấp bậc.
a.Khái niệm.
Chế độ tiền lương cấp bậc là toàn bộ những qui định của nhà nước mà doanh nghiệp dựa vào đó để trả lương cho công nhân theo chất lượng và điều kiện lao động khi họ hoàn thành một công việc nhất định.
b.Các yếu tố của tiền lương cấp bậc.
- Tháng lương: Là bảng xác định tỷ lệ tiền lương giữa những công nhân cùng nghề hoặc cùng nhóm nghề giống nhau theo trình độ cấp bậc của họ.
- Mức lương: Là lượng tiền trả công cho người lao động cho một đơn vị thời gian phù hợp với các bậc trong tháng lương.
- Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật: Là văn bằng qui định mức độ phức tạp của công việc và yêu cầu trình độ lành nghề của công nhân ở bậc nào đó phải hiểu biết ở mặt kỹ thuật và phải làm được những gì về mặt thực hành.
Ba yếu tố trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi yếu tố đều có tác dụng riêng đối với công việc xác định chất lượng lao động và điều kiện lao động của công nhân. Đó là một yếu tố quan trọng để vận dụng trả lương cho các loại lao động khác nhau trong mọi thành phần kinh tế.
2.2.Chế độ tiền lương chức vụ.
Chế độ tiền lương chức vụ chủ yếu áp dụng cho cán bộ và nhân viên trong các doanh nghiệp thuộc moị thành phần kinh tế. Bởi vì họ không trực tiếp chế tạo ra sản phẩm nh công nhân. Phần lớn họ lao động bằng trí óc, mang tính sáng tạo cao, đòi hỏi nhiều về thần kinh và tâm lý. Kết quả lao động của họ chỉ thể hiện gián tiếp thông qua kết quả công tác của một tập thể mà họ lãnh đạo hoặc phục vụ, thể hiện qua những chỉ tiêu sản xuất của doanh nghiệp hoặc từng bộ phận sản xuất.
2.3.Chức năng, vai trò của tiền lương.
- Chức năng kích thích người lao động: Tiền lương là đoàn bẩy kinh tế để thu hút người lao động làm việc một cách hăng say, là động lực thúc đẩy tăng năng xuất lao đông, khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, gắn trách nhiệm cá nhân với tập thể và công việc.
- Chức năng thanh toán theo tiền lương: Dùng tiền lương để thanh toán chi tiêu phát sinh trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Chức năng này giúp người lao động có quyền tính toán các khoản chi tiêu hết bao nhiêu và họ phải điều chỉnh, cân đối chi tiêu cho hợp lý số tiền nhận được khi kết thúc một quá trình lao động.
- Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động (bao gồm cả tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng). Điều này có nghĩa là tiền lương trả cho người lao động không chỉ đủ sống mà còn đủ nâng cao mọi mặt cho bản thân và gia đình họ, thậm chí có một phần nhỏ để tích luỹ.
Vì tiền lương có những chức năng và vai trò trên nên đối với các nhà quản trị doanh nghiệp, một trong những công việc cần được quan tâm hàng đầu là phải theo dõi đầy đủ công tác tổ chức tiền lương, thờng xuyên lắng nghe và phát hiện kịp thời những ý kiến bất đồng hoặc những mâu thuẫn có khả năng xuất hiện trong phân phối tiền lương hoặc tiền thưởng cho người lao động, qua đó có sự điều chỉnh thoả đáng và hợp lý. Có như vậy thì người lao động mới tích cực làm việc bằng cả nhiệt tình hăng say và họ có quyền tự hào về mức lương họ đạt được.
3.Các hình thức tiền lương đang được áp dụng ở các công ty.
3.1.Hình thức trả lương theo thời gian.
Tiền lương theo thời gian là tiền lương thanh toán cho người công nhân căn cứ vào trình độ kỹ thuật và thời gian công tác của họ.
Thông thờng ở các doanh nghiệp, người ta sử dụng hình thức tiền lương cho những người làm công tác quản lý và cho những bộ phận mà quá trình sản xuất đã được tự động hoá, những công việc cha xây dựng được định mức lao động, những công việc mà khối lượng hoàn thành không xác định được hoặc những loại công việc cần thiết phải trả lương theo thời gian nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Nhược điểm: Không gắn liền giữa chất lượng và số lượng lao động mà người công nhân đã tiêu hao trong quá trình sản xuất sản phẩm. Nói cách khác, phần tiền lương mà người lao động được hưởng không gắn liền với kết quả lao động mà họ tạo ra.
Hình thức tiền lương theo thời gian gồm 2 loại:
- Tiền lương thời gian giản đơn: Trả lương cho người lao động chỉ căn cứ vào bậc lương và thời gian thực tế làm việc, không xét đến thái độ và kết quả công việc.
- Tiền lương theo thời gian có thưởng: Ngoài tiền lương theo thời gain giản đơn, người lao động còn nhận được một khoản tiền thưởng do kết quả tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật tư hoặc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
3.2.Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Trả lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất ra của mỗi người và đơn giá lương sản phẩm để trả lương cho người lao động.
Công thức: L = Đ x Q
Trong đó:
L: Tiền lương nhận được
Đ: Đơn giá sản phẩm
Q: Khối lượng sản phẩm
Ưu điểm: Phản ánh rõ ràng nguyên tắc phân phối theo lao động, nó có tác dụng kích thích mạnh mẽ người lao động làm việc. Ai làm nhiều, chất lượng sản phẩm tốt được hưởng nhiều lương; ai làm ít, chất lượng sản phẩm xấu thì hưởng ít lương.
Nhược điểm: Kích thích công nhân chạy theo số lượng sản phẩm mà coi nhẹ chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, giữ gìn máy móc thiết bị.
Để áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm cần có các điều kiện sau:
- Công tác chuẩn bị sản xuất.
+ Chuẩn bị về nhân lực: Việc chuẩn bị về nhân lực là vấn đề cần thiết vì con người là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất. Con người có quán triệt ý nghĩa tác dụng của chế độ lương sản phẩm thì mới đề cao tinh thần trách nhiệm.
+ Chuẩn bị về kế hoạch sản xuất: Kế hoạch sản xuất phải rõ ràng, cụ thể, phải tổ chức cung cấp đầy đủ thờng xuyên nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và phương tiện phòng hộ lao động để công nhân có thể sản xuất được liên tục.
- Xác định đơn giá lương sản phẩm: Cần xác định đơn giá lương sản phẩm cho chính xác trên cơ sở xác định cấp bậc công việc và định mức lao động chính xác.
Mức lương cán bộ công nhân viên + Phụ cấp
_ Đơn giá sản phẩm =
Mức sản lượng
- Công tác kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm: Cần phải kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm chặt chẽ nhằm đảm bảo xuất những sản phẩm có chất lượng tốt, tránh khuynh hướng chạy theo sản lượng để tăng thu nhập, làm ra những sản phẩm sai hỏng không đúng qui cách và yêu cầu kỹ thuật đồng thời đảm bảo việc trả lương cho công nhân đúng đắn, kịp thời.
- Công tác tổ chức đời sống: Cần phải tổ chức tốt công tác đời sống cho công nhân yên tâm phấn khởi sản xuất và phục vụ sản xuất. Đời sống của công nhân trớc hết là vấn đề thu nhập tiền lương, kế đến là an toàn lao động, các vấn đề thiết trong lao động, sinh hoạt đời sống của công nhân như: ăn, ở, đi lai... đều phải có kế hoạch giải quyêt tốt những vấn đề này sẽ tạo điều kiện cho công nhân an tâm sản xuất đạt năng suất cao nhất, chất lượng tốt.
3.3.Các chế độ trả lương theo sản phẩm.
a.Chế độ trả lương sản phẩm trực tiếp không hạn chế.
Chế độ tiền lương này được trả theo từng đơn vị sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm và theo đơn giá nhất định. Tiền lương của công nhân căn cứ vào số lượng sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm do họ trực tiếp sản xuất được để trả lương. Như vậy, tiền lương của công nhân sẽ tăng theo số sản phẩm sản xuất ra.
Công thức tính đơn giá sản phẩm.
- Nếu công việc có định mức sản lượng.
Mức lương cấp bậc công việc + Phụ cấp
_ Đơn giá =
Mức sản lượng
- Nếu công việc được định mức thời gian.
Đơn giá = Mức lương cấp bậc công việc x Mức lương thời gian
Ưu điểm: Mối quan hệ tiền lương và kết quả lao động thể hiện rõ ràng, do đó kích thích người lao động nâng cao trình độ tay nghề, tiết kiệm thời gian, nâng cao thu nhập.
Nhược điểm: Tinh thần tập thể người lao động kém, công nhân dễ có tư tưởng chạy theo số lượng, ít quan tâm đến chất lượng sản phẩm.
b.Chế độ tiền lương này không áp dụng đối với công nhân trực tiếp sản xuất mà chỉ áp dụng cho công nhân phục vụ sản xuất. Tiền lương của công nhân phục vụ được tính căn cứ vào số lượng sản phẩm của công nhân đứng máy sản xuất ra.
Lcn = Đ x Q
Lcv
_ Đ =
M x Q
Trong đó:
Lcv: Lương cấp bậc của công nhân phụ
Q: Mức sản lượng của công nhân chính
Lcn: Lương công nhân phụ
M: Số máy móc thiết bị mà người công nhân đó phục vụ
Ưu điểm: Chế độ này gắn trách nhiệm của người công nhân chính và người công nhân phụ nên khuyến khích người công nhân phụ tích cực làm việc để góp phần nâng cao sản lượng của công nhân chính.
Nhược điểm: Tiền lương của công nhân phụ phụ thuộc vào sản lượng của công nhân chính nên cha đánh giá chính xác được công việc của công nhân phụ, mặt khác, công nhân phụ ỷ lại vào công nhân chính.
c. Chế độ trả lương khoán sản phẩm.
Chế độ trả lương khoán sản phẩm là chế độ lương sản phẩm khi giao công việc đã qui định rõ ràng số tiền để hoàn thành một khối lượng công việc trong một đơn vị thời gian nhất định.
Khi áp dụng chế độ tiền lương này cần chú ý các điều kiện:
- Tăng cường công tác kiểm tra để đảm bảo chất lượng và tiến độ hoàn thành công việc.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ khuyến khích lợi ích vật chất.
Ưu điểm: Khuyến khích công nhân nâng cao năng suất lao động, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trớc thời hạn hoặc giảm bớt số người không cần thiết.
Nhược điểm: Khi áp dụng lương khoán, công nhân không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ lao động, làm cho việc thống kê phân tích năng suất lao động của công nhân không chính xác, làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc, ảnh hưởng đến sức khoẻ và các mặt sinh hoạt của công nhân.
d.Chế độ tiền lương sản phẩm có thưởng.
Thực chất của chế độ này là dùng tiền thưởng để khuyến khích người lao động thực hiện vượt chỉ tiêu đặt ra để khắc phục những tồn tại do chế độ lương sản phẩm trực tiếp cá nhân đề ra.
Tiền lương nhận được bao gồm 2 bộ phận: tiền lương sản phẩm theo đơn giá cố định và tiền lương tính theo % số tiền lương sản phẩm.
Lsp (m x h)
_ Lcn = Lsp +
100
Lsp: Tiền lương sản phẩm theo đơn giá cố định
h: % vượt chỉ tiêu
m: Tỷ lệ thưởng cho 1% vượt chỉ tiêu
Ưu điểm: Khuyến khích người công nhân không những quan tâm về mặt số lượng, chất lượng sản phẩm mà còn khuyến khích họ quan tâm tới các chỉ tiêu khác nhau như: mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất, tiết kiệm vật tư.
e.Chế độ trả lương sản phẩm luỹ tiến.
Tiền lương của công nhân trong lĩnh vực này thực chất là:
- Tiền lương sản phẩm căn cứ vào số lượng sản phẩm sản xuất ra với đơn giá cố định.
- Tiền lương phụ thuộc vào số lượng sản phẩm tăng thêm và đơn giá luỹ tiến (Đơn giá luỹ tiến là bộ phận tiền lương trả cho số sản phẩm tăng thêm theo đơn giá phụ thuộc mức tăng sản phẩm-mức tăng càng cao thì đơn giá càng cao).
Tiền lương của công nhân làm theo chế độ sản phẩm luỹ tiến được tính theo công thức sau:
L = [ Q1 x P ] + [ Q1 - Q 0 ] x P x K
Trong đó:
L: Tổng tiền lương công nhân được lĩnh
Q1: Sản lượng thực tế của công nhân sản xuất ra
Q0: Mức sản lượng
P: Đơn giá lương sản phẩm
K: Hệ số tăng đơn giá sản phẩm
Ưu điểm: Khuyến khích công nhân tăng nhanh số lượng sản phẩm.
Nhược điểm: Chế độ này làm cho lương của công nhân sẽ tăng nhanh hơn sản lượng làm cho phần tiền lương trong đơn vị sản phẩm cũng tăng lên. Do đó giá thành sản phẩm cũng tăng theo.
4.Vai trò của tiền lương theo sản phẩm.
- Việc trả lương theo sản phẩm khuyến khích người lao động nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức chuyên môn, sáng tạo trong sản xuất để tăng năng suất lao động, để làm ra nhiều sản phẩm hơn, tiền lương theo sản phẩm sẽ cao hơn. Mặt khác, tiền lương theo sản phẩm cũng phản ánh khách quan về tiêu hao lao động giữa những người thành thạo nghề nghiệp cùng một cấp bậc nhưng khác nhau về kỹ năng sản xuất, cách thức làm việc,sức khỏe do đó khuyến khích người công nhân quan tâm đến công việc của mình hơn, tìm tòi học hỏi nhiều hơn.
- Việc trả lương theo sản phẩm còn có tác dụng thúc đẩy việc cải tiến tổ chức lao động, tổ chức sản xuất, củng cố kỷ luật lao động, hình thức tác phong lao động công nghiệp, phát huy tinh thần tập thể của người lao động, sản lượng tụt xuống tiền lương công nhân ít đi.
- Làm cho mỗi người lao động vì lợi ích vật chất mà quan tâm đến việc nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch nhà nước.
Ngoài những vai trò trên thì trả lương theo sản phẩm còn có ý nghĩa kinh tế, chính trị quan trọng. Nó động viên mạnh mẽ mọi người tích cực sản xuất với chất lượng tốt và năng suất cao. Vừa tăng thu nhập cho cá nhân người lao động vừa làm tăng sản phẩm cho xã hội, góp phần làm thay đổi nền kinh tế cả nước.
II.ý nghĩa của việc hoàn thiện hình thức trả lương theo sản phẩm ở Công ty Vật liệu Xây dựng Bưu điện.
Sự cần thiết phải hoàn thiện hình thức trả lương theo sản phẩm các công ty hiện nay.
Hiện nay, hầu hết tất cả các công ty đều hạch toán kinh doanh độc lập. Một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả được đánh giá qua một số chỉ tiêu nh: giá trị tổng sản lượng, doanh thu, nộp Ngân sách... bên cạnh các chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu tiền lương không kém phần quan trọng. Vì thế, trong chiến lược phát triển của mình, Công ty không thể không hoàn thiện các hình thức tiền lương vì đây chính là nội dung quan trọng của tự chủ kinh doanh, nó tác động tích cực đến các mặt khác của tổ chức sản xuất, góp phần đẩy nhanh quá trình tự chủ kinh doanh của Công ty để có thể đứng vững được trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt.
Hình thức trả lương theo sản phẩm thể hiện tính khoa học cao trong việc gắn quyền lợi của người lao động với kết quả cuối cùng của doanh nghiệp. Nó được coi là một công cụ của hệ thống đòn bẩy kinh tế, kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Bởi vậy, hình thức trả lương này ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn trong các công ty. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề trong Công ty cần xem xét lại: Thực tế cho thấy việc xác định đơn giá trong hình thức trả lương theo sản phẩm là rất phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế - kỹ thuật nh: hệ thống định mức lao động, định mức vật tư đồng thời nó còn đòi hỏi thay đổi liên tục (do biến động giá cả, công nghệ...) cho phù hợp. Như vậy, để trả lương theo sản phẩm một cách chính xác cần có hệ thống định mức được xây dựng một cách khoa học và tiên tiến nhất phù hợp với từng điều kiện của đơn vị và từ đó làm cơ sở cho việc xác định đơn giá. ở nhiều doanh nghiệp, có thể do chủ quan hoặc khách quan mà đơn giá tính cao hơn hoặc thấp hơn so với thực tế. Đơn giá không chính xác sẽ không đảm bảo hài hoà và lợi ích: xã hội, tập thể, người lao động. Mặt khác, một số tổ chức phục vụ nơi làm việc, công tác kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hình thức trả lương theo sản phẩm nhưng không được các phân xởng chú ý đến. Một điều cần chú ý tới là hình thức trả lương theo sản phẩm làm cho công nhân có xu hướng chạy theo số lượng sản phẩm, cha chú ý tới bảo quản máy móc thiết bị, nguyên vật liệu mà các phân xởng cha có biện pháp quản lý chặt chẽ.
Để thúc đẩy sự phát triển của Công ty, cũng nh hoàn thiệ hơn hình thức trả lương theo sản phẩm cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
-Phải xây dựng được hệ thống định mức một cách khoa học đối với từng loại sản phẩm, từng khâu trong quá trình sản xuất.
-Thực hiện tốt công tác nghiệm thu sản phẩm.
-Tiến hành giáo dục thờng xuyên cho người lao động để họ nhận thức rõ trách nhiệm khi làm việc hưởng lương theo sản phẩm.
Đối với Công ty VL - XD Bưu điện nói chung và với Phân xởng Nhựa nói riêng, việc cải tiến hoàn thiện các hình thức trả lương, đặc biệt là hình thức trả lương theo sản phẩm là việc rât quan trọng. Nó sẽ góp phần vào việc sắp xếp, bố trí lao động theo đúng công việc, người lao động sẽ nhận được số tiền phù hợp với sức lao động mà họ bỏ ra. Hình thức trả lương theo sản phẩm sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ cho cả lao động trực tiếp sản xuất và lao động ở khu vực sản xuất gián tiếp và cuối cùng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh sản Phân xởng Nhựa và của cả Công ty VL - XD Bưu điện, giúp Công ty có vị trí đứng vững trong cơ chế thị trường - một thách thức lớn đối với mọi đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chương II
Tình hình công tác trả lương theo sản phẩm ở công ty vật liệu xây dựng bưu điện
I.Quá trình phát triển và một số đặc điểm chủ yếu của công ty.
1.Quá trình phát triển.
Tiền thân của Công ty VL -XD Bưu điện là Xí nghiệp Bê tông thuộc Công ty Công trình Bưu điện, được thành lập theo quyết định số 834 của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam ngày 13/5/1959.
Xí nghiệp được khởi công xây dựng vào năm 1959 và đi sâu vào sản xuất từ năm 1961 với sản phẩm chủ yếu là vật liệu bê tông trang bị cho đường dây thông tin. Để tăng cường năng lực sản xuất cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nên ngày 21/10/1989, Xí nghiệp đổi tên thành Xí nghiệp Vật liệu Xây dựng Bưu điện. Trong giai đoạn này, Xí nghiệp cung cấp cho thị trường sản phẩm chính là vật liệiu xây dựng như: tấm lợp nhà Penan, gạch lát nền, tấm đan... và nhận thi công các công trình trong và ngoài ngành Bưu điện.
Khi nền kinh tế đất nước chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường, Xí nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn. Để phù hợp với tình hình mới, năm 1995, Xí nghiệp VL - XD Bưu điện một lần nữa đổi tên thành Công ty VL - XD Bưu điện theo quyết định 1609/QĐ - TCCB.
Từ đây Công ty đã chuyển sang một giai đoạn mới trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất cũng nh tiêu thụ sản phẩm của Công ty đã từng bước hoà nhập vào cơ chê thị trường.
Khi có chủ trương của lãnh đạo ngành Bưu điện thực hiện tăng tốc và hiện đại hoá toàn mạng lới của của ngành Bưu điện, nhiều thiết bị hiện đại, nhiều loại vật liệu mới được đa vào sử dụng đã thực sự mở ra hướng đi để Công ty thực hiện chuyển hướng sản xuất và hiện đại hoá ngành doanh nghiệp. Công ty VL - XD Bưu điện đã có chương trình, kế hoạch chuyển hướng sản xuất, tách một bộ phận ở khu vực Từ Liêm chuyển sang sản xuất sản phẩm mới. Công ty đã chọn đầu t dây chuyền công nghệ mới sản xuất ống PVC theo công nghệ DSF. Đây là công nghệ mới lần đầu tiên được nước ngoài chuyển giao công nghệ cho Việt Nam mà Công ty được tiếp nhận qua hợp đồng trọn gói. Dây chuyền công nghệ này có nhiều ưu điểm nổi bật: công suất và năng suất cao, được tự động hoá cao, ít độc hại với công nhân, có tính vạn năng tốt. Không chỉ sản xuất được ống DSF mà còn có thể sản xuất được ống PVC 1 lớp có chất lượng và mỹ thuật hơn hẳn các doanh nghiệp ngoài ngành. Đây chính là các yếu tố tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho Công ty.
Hiện nay, Công ty đang lớn mạnh về mọi mặt, sự lớn mạnh đó của Công ty VL - XD Bưu điện được thể hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản trong những năm gần đây.
STT
Chỉ tiêu
Năm
1998
Năm
1999
Năm
2000
1
Tổng số cán bộ công nhân viên trong danh sách giá
257
259
259
2
Giá trị tổng sản lượng(theo giá trị cố định)
79655
92690
96710
3
Tổng doanh thu(triệu đồng)
88885
89450
90106
4
Tổng nộp danh sách(triệu đồng)
5642
6541
5306
5
Lợi nhuận thực hiện(triệu đồng)
4288
4012
3753
6
Tỷ suất lợi nhuận/vốn(%)
29
24
26
7
Thu nhập bình quân người/ tháng(1000đ)
1250
1400
1400
Để đạt được kết quả này là do Công ty hoàn thiện công tác khuyến khích người lao động bằng phương pháp trả lương theo sản phẩm, đồng thời nhập một số máy móc thiết bị hiện đại nâng cao năng suất lao động thay thế thiết bị cũ, lạc hậu và tiến hành sắp xếp lại bộ máy quản lý. Việc chuyển đổi cơ cấu và chủng loại mặt hàng được thực hiện hợp lý và các kênh tiêu thụ dần dần được hoàn thiện.
II.Một số đặc điểm chủ yếu của Công ty VL - XD Bưu điện.
1.Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý.
Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo hình thức trực tuyến chức năng. Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty bao gồm: Giám đốc, 3 Phó Giám đốc và 5 Phòng quản lý nghiệp vụ.
Sơ đồ tổ chức của công ty
giám đốc
pgđ
kd tiếp thị
pgđ
kinh tế
pgđ
kĩ thuật
phòng
vật tư
phòng
kd tiếp thị
phòng kh
kĩ thuật
phòng kế
toán tài chính
phòng tc
hành chính
xn nhựa
bưu điện
xn bê tông
bưu điện ii
xn bê tông
bưu điện
đơn vị
xây dựng
-Giám đốc: Ngoài việc tổ chức chung, còn trực tiếp phụ trách lĩnh vực tổ chức cán bộ-lao động và lĩnh vực kế hoạch sản xuất kinh doanh.
-Các Phó giám đốc:Giúp Giám đốc đi sâu quản lý các lĩnh vực chủ yếu.
+Phó giám đốc phụ trách lĩnh vực kinh doanh tiếp thị: Có nhiệm vụ tìm kiếm thị trường để nở rộng sản xuất, ký kết các hợp đồng cung ứng vật t, sản phẩm, các công trình xây dựng trong hoặc ngoài ngành...
+Phó giám đốc phụ trách lĩnh vực kinh tế: Phụ trách toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nh: nắm tình hình sản xuất kinh doanh hàng tháng, quý... của các xởng, xác định những tổn thất hoặc hiệu quả kinh tế mang lại cho tập thể hoặc cá nhân để đề xuất với Giám đốc thưởng hoặc phạt xác đáng kịp thời, ký kết các giâyd tờ thuộc thủ tục hành chính, kế toán...
+Phó giám đốc phụ trách lĩnh vực kỹ thuật: Có nhiệm vụ nghiên cứu xem xét đề xuất với Giám đốc đầu tư thiết bị máy móc phát triển chiều sâu cho sản xuất, nắm chắc tình trạng các thiết bị máy móc để có kế hoạch bảo dỡng, đại tu, sửa chữa...
-Các phòng nghiệp vụ: Giải quyết các công việc cụ thể, chuyên môn sâu theo nghiệp vụ chuyên môn.
+Phòng Kế toán tài chính: Giúp Giám đốc quản lý công tác tài chính kế toán của các xí nghiệp, ghi chép, tính toán, phản ánh số hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật t, tiền vốn, quá trìn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu, chi tài chính, phát hiện và ngăn ngừa kịp thời những hành động tham ô, lãng phí, vi phạm chính sách, chế độ kỹ thuật kinh tế tài chính của nhà nước.
+Phòng Kế hoạch kỹ thuật: Giúp Giám đốc xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, ngắn hạn, kế hoạch phát triển sản xuất của toàn Công ty.
+Phòng Tổ chức hành chính: Giúp Giám đốc quản lý công tác tổ chức, bố trí cán bộ sắp xếp lao động, tuyển dụng và cholao động nghỉ việc theo chế độ, xây dựng kế hoạch đào tạo...
+Phòng Kinh doanh tiếp thị: Có nhiệm vụ giúp Giám đốc trong việc xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty, xây dựng và tổ chức thực hiện các phương thức bán hàng.
+Phòng Vật tư: Có nhiệm vụ giúp Giám đốc lập kế hoạch cung ứng vật tư cho hoạt động sản xuất, kiểm tra thực hiện cân đối định mức vật tư cho sản phẩm.
2..Đặc điểm tình hình sử dụng máy móc thiết bị:
Trước đây khi chưa chuyển hướng sản xuất, công ty chỉ sản xuất cột bê tông là chủ yếu và chỉ phục vụ cho ngành bưu điện nên lao động chủ yếu là lao động thủ công nặng nhọc, các máy móc sử dụng chủ yếu để làm giảm lao động nặng nhọc như máy chộn bê tông, máy dầm hồ, máy cắt, máy cán kéo…
Từ khi chuyển hướng sản xuất ,tách một bộ phận ở khu vực Từ liêm chuyển sang sản xuất sản phẩm mới đó là sản xuất sản phẩm bằng chất dẻo với công nghệ hiện đại ,tự động hoá cao là một bước ngoặt lớn với công ty sản phẩm chính là sản xuất ống DSF .Công nghệ sản xuất ống DSFdo nước ngoài chuyển giao công nghệ.
Sau 5 năm thực hiện chương trình chuyển hướng sản xuất ,công ty đã nhanh chóng làm chủ công nghệ hạn chế dần sự phụ thuộc vào nước ngoài về nguyên liệu và phụ tùng thay thế .đội ngũ cán bộ kỹ thuật đã mạnh dạn tìm hiểu nguyên lý hoạt động các công thức cũ, có nhiều cải tiến đưa được nhiều vật liệu của nhiều nhà cung cấp trong nước vào sản xuất .Không chỉ khai thác công nghệ được chuyển giao ,lực lượng cán bộ kỹ thuật của công ty đã từ công nghệ sản xuất ống DSF chế tạo ra sản phẩm HI3P thay thế cho ống thép dùng các công trình của nghành thay thế hàng nhập khẩu làm lợi cho đất nươcs nhiều tỷ đồng .Với những suy nghĩ táo bạo là mua máy móc về không chỉ để dùng mà còn là vật mẫu để tìm hiểu học tập lực lượng kỹ thuật cơ điện của công ty đã mạnh dạn thiết kế chế tạo được nhiều phụ tùng, khuôn mẫu ,máy chuyên dùng đưa vào sử dụng không phải nhập khẩu điển hình là đôi trục vít …80,bánh răng trung gian trong hộp giảm tốc ,khuôn tạo hình ống nhựa …vì vậy mà công ty đã đạt được những thành công to lớn từ sản xuất thủ công tiến thẳng vào công nghệ hiện đại ,đã làm chủ được thiết bị ,công nghệ mới chạy máy đạt công suất thiết kế không để xảy ra một sự cố đáng tiếc nào.
Do đặc thù sản xuất kinh doanh của công ty nên sản phấm sản xuất ra phục vu cho nghành bưu điện là chính .Ngoài ra còn phục vụ cho nghành cấp thoát nước …nên mỗi sản phẩm có một qui trình sản xuất khác nhau .ở xí nghiệp nhựa sản xuất ống dẫn cáp là chủ yếu .Quy trình sản xuất ống dẫn cáp như sau (trang sau)
Vì quy trình công nghệ sản xuất bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau nên xí nghiệp chia ra làm nhiều xưởng ,ở mỗi xưởng có xưởng trưởng phụ trách và có một đến hai đốc công giúp việc .Trưởng xưởng chịu trách nhiệ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34097.doc