Mục lục
Lời nói đầu
Phần I
Cơ sở lý luận về tiền lương
I. Khái niềm, ý nghĩa và một số yêu cầu của tiền lương
1. Vai trò và ý nghĩa của tiền lương.
2. Nguyên tắc chung của tiền lương.
3. Một số yêu cầu cơ bản của chế độ tiền lương hiện nay.
II. Quy định của Nhà nước về việc quản lý tiền lương, tiền thưởng trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
1. Các quỹ tiền lương và tiền thưởng.
2. Phương pháp xác định đơn giá tiền lương.
Phần II: thực trạng tổ chức công tác lao động và tiền lươ
43 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp hoàn thiện quản lý lao động & tiền lương tại Trạm kinh doanh Xuất nhập khẩu Từ Sơn - Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tại trạm kinh doanh - xuất nhập khẩu Từ sơn - bắc ninh..
I. Qúa trình hoạt động sản xuất kinh doanh tại Trạm kinh doanh.
1. Quá trình hình thành và phát triển ở trạm kinh doanh.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Trạm kinh doanh.
II. Đặc điểm tổ chức quản lý lao động và tiền lương tại trạm kinh doanh xuất nhập khẩu Từ Sơn.
1. Tổ chức bộ máy quản lý hoàn chỉnh.
2. Chức năng, nhiệm vụ các phòng ban.
3. Công tác quản lý lao động và tiền lương tại Trạm kinh doanh - xuất nhập khẩu Từ Sơn.
Phần II
Một số biện pháp hoàn thiện quản lý lao động và tiền lương ở trạm kinh doanh - xuất nhập khẩu Từ Sơn - Bắc ninh.
I. Mục đích, nhiệm vụ phương pháp nghiên cứu chuyên đề
1. Mục đích.
2. Nhiệm vụ cần phải giải quyết chuyên đề.
II. Tổ chức thời gian công tác của Trạm.
1. Lựa chọn chế độ làm việc.
2. Tổ chức đảo ca làm việc.
3. Bố trí thời gian làm việc.
III. Hoàn thiện công tác tiền lương của Trạm kinh doanh - xuất nhập khẩu Từ Sơn - Bắc Ninh.
1. Những tồn tại chính cần được giải quyết.
2. Việc giao khoán và thanh toán lương theo chuyên đề.
3. Tích luỹ tiền lương giao khoán cho từng bộ phận.
4. Tổ chức thực hiện biện pháp.
IV. Hiệu quả kinh tế của biện pháp cải tiến.
1. Giảm chi phí tiền lương cho Trạm kinh doanh.
2. Thu nhập của người lao động tăng.
3. Hiệu quả kinh tế của số lao động dôi ra làm việc khác.
kết luận và kiến nghị
tài liệu tham khảo
lời nói đầu
Tiền lương là một khâu quan trọng trong cơ chế quản lý kinh tế, thông qua tiền lương những tác động tích cực trong quá trình lao động, trong quá trình tái sản xuất sức lao động được thực hiện. Khả năng sử dụng tiền lương như là một đòn bẩy kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ thỏa mãn nhu câù vật chất cơ bản đối v ới người lao động. Điều đó cũng có nghĩa là xác định đúng mức tiền lương cần phải căn cứ vào số lượng, chất lượng lao động, số lượng và chất lượng sản phẩm của mỗi người và mỗi tập thể lao động.
Tiền lương gắn chặt với quy luật nâng cao năng xuất lao động và tiết kiệm thời gian lao động bởi vì tăng năng xuất lao động là cơ sở dể tăng tiền lương đồng thời phần tiết kiệm do nâng cao năng xuất lao động dùng để tăng lương lại là động lực thúc đẩy chất lượng sản phẩm.
Nâng cao vai trò khuyến khích vật chất của tiền lương xác định đúng đắn mối quan hệ trực tiếp giữa thu nhập và cống hiến của người lao động, của tập thể người lao động trong sự phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội là đặc điêm chủ yếu của tiền lương hiện nay.
Với ý nghĩa đó quá trình thực tập tại Trạm kinh doanh xuất nhập khẩu Từ Sơn em đã chọn chuyên đề: “Một số biện pháp hoàn thiện quản lý lao động và tiền lương tại Trạm kinh doanh xuất nhập khẩu Từ Sơn”.
Trong quá trình làm báo cáo chuyên đề được sự giúp đỡ tận tình của Cô và thầy giáo hướng dẫn đồng thời được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong khoa và các đồng chí lãnh đạo Trạm kinh doanh XNK Từ Sơn đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Vì thời gian và năng lực bản thân còn hạn chế cho nên chuyên đề này còn có nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ đạo của các thầy giáo, cô giáo và những ai quan tâm đến chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn.
Phần I
Cơ sở lý luận về tiền lương
I. khái niệm, ý nghĩa và một số yêu cầu của tiền lương.
1. Vai trò và ý nghĩa của tiền lương.
Quá trình đổi mới đang đưa nền kinh tế nước ta chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Quá trình phát triển nay đòi hỏi chúng ta phải nhân thức lại bản chất của các phạm trù kinh tế trong đó có phạm trù tiền lương, tiền công và chính sách của nó.
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc thừa nhân sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế tất yếu sẽ có sự khác nhau trong công tác quản lý phân phối thù lao lao động giữa 2 khu vực, khu công nghiệp quốc doanh - đó là tiền lương, khu vực ngoài quốc doanh - đó là tiền công.
Tiền công bao trùm tất cả những hình thức bù đắp mà một doanh nghiệp dành cho công nhân. Nó bao gồm tiền lương, tiền thưởng, tiền hoa hồng và các hình thức trả tiên khác. Theo cách dùng phổ biến thuật ngữ tiền công thường được dùng để chỉ thù lao theo giờ trả cho công nhân làm việc không giám sát.
- Tiền lương đôi khi được phân vơi tiền công và là số tiền được trả không bao giờ xứng đáng với công nhân.
Sự phân biệt nay được chấp nhận rộng rãi do quy định về tiền công và giờ làm.
Trong khu vực công nghiệp quốc doanh thì tiền lương là một bộ phận thu nhạp quốc dân biểu hiện bằng tiền mà người lao động được tiếp nhận để bù đắp cho sức lao động đã bỏ ra tuỳ theo chất lượng và số lượng của lao động đó.
Khu vực ngoài quốc doanh, sức lao động là hàng hoá người lao động tuy được tự do về thân thể nhưng không có tư liệu sản xuất. Do đó họ có quyền chọn nơi làm việc có lợi cho mình nhất. Tiền công của họ được xác định và căn cứ vào tình hình sản xuất trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Mức tiền công được thoả thuận giữa người lao động với chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh được hình thành trên cơ sở quyết định của tập thể. Tiền công đó hoàn toàn chịu tác động của quy luật cung - cầu về sức lao động xét trên tổng thể toàn xã hội, phần mà người lao động nhận được từ xã hội không thêt vượt quá cái mà xã hội tạo ra.
Trong phạm vi doanh nghiệp, quan hệ giữa trả lương (Giám đốc) và người lao động (Cán bộ công nhân viên) đòi hỏi phải sòng phẳng, thoả đáng và thoả thuận.
Một điều nữa chúng ta cần phân biệt phạm trù tiền lương với thu nhập. Thu nhập bao gồm các khoản ngoài lương: Tiền thưởng, phân chia lợi nhuận của các khoản khác. Hiện nay ở nhịều doanh nghiệp người lao động sông không phải chủ yếu bằng tiền lương mà bằng các nguồn thu nhập khác từ doanh nghiệp và phạm vi ngoài doanh nghiệp. Thực tế vẫn còn những bất hợp lý trong chế độ tiền lương hiện nay. Đó là vẫn còn những trường hợp thu nhập ngoài lương lớn hơn phần tiền lương mà người lao động được hưởng với ý đời sống xã hội và quá trình phát triển kinh tế, nó được biểu hiện cụ thể ở các mặt:
+ Về mặt kinh tế: Tiền lương là đối trọng của lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp. Sức lao động là hàng hoá vì no có hai điều kiện để khẳng đinh. Người có sức lao động trong có tư liệu sản xuất nên họ đi mua và thuê sức lao động thông qua việc ký hợp đồng lao động. Nội dung của hợp đồng thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của hai bên và có khoản ghi rõ quyết định và tiền lương cơ bản trả theo thời gian. Tiền lương đóng vai trò quyết định và tiền lương cơ bản trả theo thời gian. Tiền lương đóng vai trò quyết định trong việc ổn định và phát triển kinh tế gia đình. Người lao động dùng tiền lương để trang trải các khoản chi phí sinh hoạt trong gia đình. Ngươi lao động dùng tiền ở học hành, vui chơi giải trí….. Một phần dùng để tích luỹ. Vì vậy tiền lương đảm bảo đủ trang trải và có tích luỹ thì sẽ tạo điêu kiện cho người lao động yên tâm phấn khởi làm việc, cống hiến sức lao động của mình vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.d
+ Về mặt chính trị - xã hội : Tiền lương không chỉ ảnh hưởng đến tâm tư, lý trí của người lao động đối với doanh nghiệp. Sau đó Nhà nước sẽ tham gia và bảo hộ. Cấm các doanh nghiệp trả lương cho công nhân thấp hơn lương tối thiểu. Nếu khoản tiền lương cao nó sẽ ảnh hưởng đến tính tích cực của người lao động đối với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Nếu ngược lại người lao động sẽ không thiết tha với doanh nghiệp sẽ chán nản công việc mình làm và họ sẽ tìm nơi làm việc có thu nhập về tiền lương cao hơn, thậm chí còn mất lòng tin vào chế độ xã hội trong tương lai. Vì vậy có thể nói tiền lương là yếu tố năng động nhất, tác dụng nhất.
2. Nguyên tắc chung nhất của tiền lương.
Với nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước đòi hỏi chế độ tiền lương phải tuân thủ theo những yêu cầu có tính nguyên tắc như sau:
+ Đảm bảo tính phù hợp của chế độ tiền lương với điều kiện kinh tế của đất nước trong từng thời kì.
Vấn đề tiền lương phải được đặt trong một tổng thể của quá trình đổi mới mọi mặt cùng với việc giải quyết các vấn đề tổ chức bộ máy quản lý tổ chức lao động, phải dựa trên định hướng phát triển kinh tế xã hội có tính chiến lược của đất nước. Tôc độ tăng tiền lương bình quân phải nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất lao động xã hội có như vậy thì mới có khả năng tích luỹ đêt tái mở rộng dản xuất.
+ Đảm bảo quan hệ hợp lý giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa sản xuất để tái sản xuất mở rộng, nâng cao đời sống của người lao động.
Nếu không có tích luỹ thì không thể có cơ sở vật chất kỹ thuật để tái sản xuất mở rộng, nâng cao đời sống của người lao động.
Ngược lại nếu chỉ chú ý đến tích luỹ mà giảm được bớt tỷ lệ dành cho người tiêu dùng sẽ làm nảnh hưởng không nhỏ đếnđời sống của người lao động. Để có thể thích hợp giữa tích luỹ và tiêu dùng đòi hỏi chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa 3 lợi ích Nhà nước, tập thể và người lao động.
+ Thực hiện nguyên tắc phân phối lao động và gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tiền lương dựa trên cơ sở nguyên tắc phân phối lao động và tiền lương tương ứng với số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đóng góp. Lao động đó phải là lao động xã hội cần thiết và phải được xã hội chấp nhận thông qua thị trường. Nội dung của việc phân phối theo lao động chính là lấy lao động làm thước đo chung để đánh gía phần đóng góp cũng như xác định phần phụ hưởng thụ của người lao động, không thể công bằng trong phân phối theo nghĩa mọi người hưởng thụ ngang bằng nhau. Người làm nhiều thì hưởng nhiếu, người làm ít thì được hưởng ít và nếi không làm thì sẽ không được hưởng. Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi phải phải sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng dẫn đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân, xoá bỏ từng bước phần cung cấp còn lại trong chế độ tiền lương áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
+ Chế độ tiền lương phải đảm bảo người lao động có mức lương thực tế đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất sức lao động.
ở đây chế độ tiền lương phải như một khoản đầu tư vào sản xuất, cụ thể là đầu tư vào lao động. Nó vừa để tiêu dùng cá nhân và là khoán vốn bỏ vào đầu tư sản xuất. Đây là yếu cầu thấp nhất của tiền lương. tiền lương phải đảm bảo nuôi sống ngựời lao động, duy trì sức lao động của người lao động và gia đình họ, bởi lẽ người lao động chân chính cuộc sống của họ và gia đình họ phụ thuộc vào tiền lương mà họ nhận được từ việc làm.
Nền sản xuất càng phát triển, tính kỹ thuật càng phát triển và mở rộng thì tiền lương (tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế) đều có xu hướng ngày càng tăng và đời sống của người lao động ngày càng được cải thiện không ngừng.
Để đảm bảo thực hiện tốt chế độ tiền lương phải tiến hành định mức lao động nhờ đó có thể xác định được sự đong góp của mỗi người và sản xuất của xã hội. Cùng với định mức lao động để trả công đúng với mỗi loại công việc với trình độ lành nghề của người sản xuất với tính chất điều kiện đặc điểm của từng ngành kinh tế thì phải có chế độ tiền lương nhiều bậc. Chế độ tiền lương nhiều bậc được xác định căn cứ vào điều kiện thực tế và trình độ kỹ thuật của các lực lượng lao động. Cho nên tuỳ từng thời kỳ cần phải điều chỉnh lại bậc lương và các tiêu chuẩn kỹ thuật của mỗi bậc lương khi điều kiện kinh tế phát triển và trình độ kỹ thuật cua người lao động được nâng cao.
Chế độ tiền lương phải được xây dựng đồng bộ với việc giải quyết các vấn đề tô chức bộ máy quản lý, tổ chức lao động và các vấn đề kinh tế xã hội khác.
3. Một số yêu cầu cơ bản của chế độ tiền lương hiện nay.
Vai trò của tiền lương đối với quá trình phát triển sản xuất xã hội là không thể phủ nhận được, có thể nói là nhân tố đông nhất và cách mạng nhất, chế độ tiền lương phải tuân thủ các nguyên tắc đã nêu ở trên, đồng thời phải thể hiện được những chức năng chủ yếu và đó cũng chính là những quan điểm khi nghiên cứu vấn đề tiền lương ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước điều đó được thể hiện ở những điểm sau đây:
+ Để đảm bảo tái sản xuất sức lao động.
- Lao động là một trong 3 yêu tố của quá trình sản xuất, nếu thiếu nó quá trình sản xuất sẽ không thực hiện được. Lao động là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất nó là yếu tố hàng đầu, cơ bản, có tính chất quyết định những quá trình sản xuất.
Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội con người có hàng loạt các nhu cầu cả về vật chất và tinh thần. Nếu xét lao động như là một yếu tó đầu vào thì đầu ra của quá trình sản xuất thì rõ ràng đề tài sản xuất mở rộng thì cũng không thể tái sức sản xuất lao động. Có đảm bảo được tái sản xuất sức lao động thì con người mới không ngừng sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội và có phần tích luỹ được.
+ Đảm bảo sự công bằng trong phân phối.
Có thể nói riêng đây là yếu tố cơ bản nhất là chức năng có tính nền tảng của chế độ tiền lương.
Dưới chủ nghĩa xã hội tiền lương phản ánh quan hệ phân phối sản phẩm giữa toàn xã hội do Nhà nước đại biểu với mỗi người lao động. Cơ sở để xác định mức tiền lương chủ yếu là trình độ phát triển của xã hội và yêu cầu phát triển toàn diện cuả người lao động trong tưng thời kỳ. Dù ở đâu cũng vậy con người có năng lực lao động thì họ đều mong muốn có sự bình đẳng về quyền lợi và lợi ích của họ đòi hỏi cũng được quan tầm tới.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay có ít nhất bốn hệ thống lợi ích.
- Thứ nhất: Lợi ích xã hội - lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân và người lao động.
Hệ thống lợi ích này phản ánh mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dưới 2 hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
- Thứ hai: Lợi ích nông dân - lợi ích tập thể.
- Thứ ba: Lợi ích công nhân - lợi ích nhà tư bản, lợi ích tập thể doanh nghiệp - lợi ích Nhà nước.
Hệ thống này tồn tại trong loại hình “kinh tế tư bản Nhà nước”.
- Thứ tư: Lợi ích công nhân - lợi ích tư sản - lợi ích tập thể doanh nghiệp - lợi ích Nhà nước.
Hệ thống này tồn tại trong loại hình “kinh tế tư bản tư nhân”.
Trong khuôn khổ này ta chỉ đi sâu phân tích hệ thống lợi ích thứ nhất bởi vì hệ thống lợi ích này thì lợi ích cá nhân người lao động là loại lợi ích người ta dễ nhận thấy hơn cả bởi vì nó đáp ứng ngay các nhu cầu cá nhân của bản thân họ. Còn lợi ích tập thể và lợi ích xã hội nhiều khi đòi hỏi có một quá trình lâu dài và phụ thuộc và trình độ nhận thức của mỗi con người. Hơn nữa đôi khi các loại lợi ích đó không đồng nhất với nhau và thậm chí còn đối nghịch nhau do đó đòi hỏi phải có một cơ chế thích hợp đúng đắn, rõ ràng, có pháp luật đảm bảo chỉ trên cơ sở đó mới có thì sử lý đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích đó.
Với lý luận này để phát huy được đông lực của mỗi cá nhân và biến nó trở thành đông lực của xã hội. Trước hết phải quan tâm đến lợi ích cá nhân người lao động bao gồm cả lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần trong đó lợi ích vật chất là quyết định bởi vì suy cho cùng thì lợi ích tinh thần là do lợi ích vật chất đảm bảo.
Thực tế cho thấy rằng nhân tố con người chỉ được phát huy khi mà điều kiện sống của họ được cải thiện.
Xét đến cùng thì cái làm cho côn người hoạt động tích cực là những động lực bên trong những khát vọng cuả bản thân họ được thực hiện. Điều đó lý giải vì sao hành động của mỗi con người cụ thể bao giờ cũng diễn ra trược hết knhằm thực hiện lợi ích của bản thân mình. Dù muốn hay không muốn thì chúng ta vẫn buộc phải thừa nhận sự jthật ấy nghĩa là thừa nhận lợi ích cá nhân bao giờ cũng là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất kích thích tính tích cực của mỗi con ngươì.
Còn lợi ích tập thể và lợi ích xã hội chủ nghĩa có thể thực hiện được thông qua lợi ích cá nhân. Lần này lợi ích cá nhân mà đặc biệt là ki vật chất, một động lực mạnh mẽ của sự phát triển xã hội bị xem nhẹ và đó chính là nguyên nhân dẫn đến thái độ thờ ơ cuả bản thân người lao động đối với lao động và đây cũng chính là nguồn gốc của mọi tiêu cực xã hội.
Đối với doanh nghiệp quốc doanh việc nhấn mạnh coi trọng lợi ích không có nghĩa là khuyến khích thực hiện lợi ích đó bằng mọi cách, mọi biện pháp bởi lẽ đó lợi ích còn cần được phân biệt lợi ích đúng và lợi ích không chính đáng. Mặt khác sự kích thích mạnh mẽ của lợi ích sẽ làm nảy sinh những mưu mô thủ đoạn bất chấp đạo lý pháp luật, hơn nữa lợi ích của con người rất đan dạng, trong đó lợi ích của người này chưa hẳn là lợi ích của người kia, thậm chí còn tổn hại đến lợi ích tập thể doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước.
Trong nhiều năm qua do những quan điểm và cách vận dụng thiếu tính thực tiễn cho nên đã hiểu sai và vận dụng sai nguyên tắc, sai quy luật kinh tế.
Lợi ích chung phải được đặt lên lợi ích riêng. Như thế lợi ích cá nhân người lao động không được quan tầm và bị đẩy xuống hàng thứ yếu, mọi sự quan tâm đến lợi ích cá nhân đều bị coi thường thêm vào đó cơ chế cũ đã sinh ra nhiều mánh khoé lừa gạt, nguyên tắc tính thu nhập theo lao động một cách hình thức.
Với việc phân tích trên vấn đề đặt ra cho việc quản lý các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay muốn đạt hiệu quả cao thì trước hết phải sử dụng được tiền lương, tiền thưởng một cách hợp lí như một đòn bẩy kinh tế kích thích lợi ích cá nhân chính đáng bằng mọi biện pháp hợp lý để tăng thu nhập trên cơ sở kết hợp sinh hoạt, hợp lý lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của Nhà nước. Việc phân phối thu nhập phải dựa trên mức độ cống hiến giá trị lao độn đã sáng tạo ra của người lao động theo đúng nguyên tắc.
“Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không hưởng ít, không hưởng ít, khônghác để đảm bảo đư hay nói cách khác để đảm bảo được sự thống nhất lợi ích của người lao động, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thì không còn nguyên tắc nào tốt hơn là thực hiện phân phối theo lao động.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ngoài việc nhấn mạnh vai trò phân phối theo lao động thì điều cần thiết phải nhấn mạnh đó là thu nhập chính đáng được pháp luật thừa nhận. Những người làm ra của cải vật chất và những việc có ích cho xã hội thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và chính sách thì được quyền hưởng thụ thu nhập tương ứng với kết quả lao động kinH doanh hợp pháp của họ.
Là công cụ của Nhà nước để phân phối sắp xếp lao động một cách hợp lý.
Một chế độ tiền lương hợp lý sẽ trở thành công cụ quản lý của Nhà nước để điều phối lao động bởi lẽ tiền lương thoả đáng thì người lao động sẽ tưn nguyện nhận mọi công việc được giao dù ở đâu, ở ngành gì. Mặt khác thông qua việc trả lương đó là kiểm tra giám sát người lao động để đảm bảo tiền lương chi ra phải đem lại và hiệu quả rõ ràng.
Trong việc nghiên cứu vấn đề tiền lương ở ta có một khía cạnh không thể không được xem xét tới đó là làm sao cho thu nhập thực tế của người lao động ngày càng được tăng lên, cố gắng đảm bảo được tái sản xuất sức lao động, vấn đề này có liên quan đến tiền lương danh nghĩa và gía cả tiêu dùng. Theo công thức:
Chỉ số tiền lương thực tế =
Chỉ số tiền lương danh nghĩa
Chỉ số giá cả hàng tiêu dùng
Trong đó: tiền lương thực tế là khoản tiền mua được bao nhiêu vật phẩm tiêu dùng do đó tiền lương thực tế có xét đến yếu tố gia tăng.
- Tiền lương danh nghĩa là số tiền lương mà người lao động được trả trên số lương chưa tính đến biến động giá cả. Với công thức này để tăng tiền lương thực tế có thể thực hiện bằng hai phương pháp.
+ Tăng tiền lương danh nghĩa đồng thời tăng giá cả hàng tiêu dùng nhưng tốc độ tăng của tiền lương phải lớn hơn tốc độ tăng của giá cả hàng tiêu dùng.
+ Giữ nguyên tiền lương danh nghĩa, giảm giá cả hàng tiêu dùng. Khi đề cập vấn đề tiền lương tối thiểu và tối đa, đối với những người có thu nhập thấp. Nhà nước cần bảo đảm tiền lương của họ sao cho phần tiền lương đó (kể cả các khoản trợ cấp khác) tạo ra khả năng để có thể thoả mãn những nhu cầu cơ bản phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Giới hạn thống nhất là tổng thu nhập của họ đủ để tái sản xuất sức lao động.
Vận dụng quy luật phân phối theo lao động trong việc trả lương phải căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội của mỗi thời kỳ. Tiền lương là một vấn đề cần thiết đối với đời sống của cán bộ công nhân viên chức nếu chế độ tiền lương đúng đắn, phản ánh đúng quy luật phân phối theo lao động và hiệu quả kinh doanh thực tế của doanh nghiệp và luật giá trị nó sẽ trở thành một động lức mạnh mẽ kích thích người lao động ra sức sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề học hỏi kinh nghiệm, của tiến tổ chức sản xuất, của tiến kỹ thuật sản xuất để nâng cao năng xuất lao động, hiệu quả công tác. Vì vậy khi xây dựng chính sách tiền lương phải tính toán nhiều mặt để phát huy tác dụng tích cực của tiền lương góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất và thúc đẩy sản xuất phát triển.
II. hình thức tiền lương trong doanh nghiệp.
1. Tiền lương theo thời gian.
Hình thức tiền lương theo thời gian là số tiền lương trả cho người lao động căn cứ vào tiêu thời gian làm việc và tiền lương trong đơn vị thời gian.
Như vậy tiền lương theo thời gian phụ thuộc vào hai nhân tố ràng buộc đó là mức lương trong một đơn vị thời gian đã làm việc.
Tiền lương theo thời gian lại được chia ra làm hai loại chính.
- Tiền lương theo thời gian giản đơn: Là số tiền trả cho người lao động chỉ căn cứ vào bậc lương và thời gian thực tế làm việc mà không xét đến thái độ lao động và kết quả công việc.
- Tiền lương theo thời gian có thưởng: Ngoài phần tiền lương theo thời gian giản đơn thì người lao động còn nhận được một khoản tiền thưởng cho kết qủa tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật tư, hoặc là do hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
* Ưu điểm:
hình thức trả lương này giản đơn, dễ áp dụng và việc tính toán không phức tạp song dùng hình thức trả lương này thì vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương sẽ bị giảm sút không khuyến khích được người lao động trong sản xuất, duy trì chủ nghĩa bình quân tiền lương. Điều này trái với quan điểm đổi mới của ta hiện nay đó là xoá bỏ tính bình quân sự cân bằng trong phân phối.
Tuy nhiên, có những công việc ta không thể áp dụng theo hình thức trả lương khác được mà ta vẫn phải áp dụng hình thức trả lương theo thời gian. Nói chung chỉ nên áp dụng chế độ trả lương thời gian theo những điều kiện sau:
* Nhược điểm:
- Khó đặt ra và duy trì định mức thời gian theo công việc.
- Sản lượng nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
- Công nhân bị phụ thuộc vào nhịp độ hoạt động của máy móc hay một thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Công việc đòi hỏi phải tập trung suy nghĩ sáng tạo nghiên cứu, giám sát khảo sát thị trường đầu vào đầu ra cho một sản phẩm.
Hiện nay hình thức này vẫn còn áp dụng ở một số nơi ở nước ta. Do đó đòi hỏi chúng ta cần phải thay đổi cách trả lương khi sử dụng hình thức này. Để kích thích được sản xuất thì chúng ta phải kết hợp trả lương theo thời gian với khuyến khích tiền lương có như vậy mới khắc phục được tính bình quân trong cách trả lương này.
2. Tiền lương trả theo sản phẩm.
Tiền lương theo sản phẩm là số tiền mà người lao động nhận được căn cứ vào đơn giá tiền lương và số lượng sản phẩm hoàn thành.
Hình thức tiền lương theo sản phẩm được tính như sau:
TLSP = Qi x Gi
TLSP: Tiền lương sản phẩm.
Qi: Số lương sản phẩm thứ i sản xuất ra.
Gi: Đơn giá tiền lương một sản phẩm thứ i.
So với tiền lương tính theo thời gian thì hình thức tiền lương này thể hiện tính ưu việt hơn hẳn. Nó thể hiện tính khoa học, nó có tác dụng kích thích người lao động đẩy mạnh sản xuất, tăng năng xuất lao động, tiết kiệm vật tư nhiều hơn, nó là cơ số để xác định trách nhiệm của mỗi người, thúc đẩy xí nghiệp cải tiến tổ chức sản xuất, tổ chức lao động và tổ chức quản lý. Tuy nhiên việc xây dựng định mức, đơn giá cho hình thức trả lương này rất phức tạp, khó chính xác do đó để áp dụng có hiệu quả hình thức đòi hỏi chúng ta phả:
- Xây dựng một hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật phản ánh đúng đắn chính xác kết quả lao động.
- Bảo đảm các yếu tố vật chất cho lao động cải thiện điều kiện làm việc.
- Xây dựng và kiện toàn một số chế độ, thể lệ cần thiết xu hướng hiện nay đối với các doanh nghiệp là việc sử dụng hình thức tiền lương theo sản phẩm, bên cạnh đó mở rộng các hình thức trả lương khoán và trả lương theo năng xuất lao động, những chính sách tiền lương mới đây của Nhà nước ban hành đã chú ý rất nhiều đến việc thúc đẩy trả lương, thưởng theo sản phẩm. Dù sao việc áp dụng hình thức trả lương nào vẫn là do doanh nghiệp quyết định tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của đơn vị mình song nếu xác định đúng đắn phù hợp với các hình thức trả lựơng sẽ có tác dung thúc đẩy sản xuất, tăng năng xuất lao động.
Hình thức trả lương theo sản phẩm bao gồm:
+ Tiền lương sản phẩm cá nhân trực tiếp không hạn chế.
+ Tiền lương theo sản phẩm tập thể.
+ Tiền lương sản phẩm gián tiếp.
+ Tiền lương sản phẩm luỹ tiến.
+ Tiền lương khoán.
+ Tiền lương theo sản phẩm cuối cùng.
Sau đây là các nội dung cụ thể của từng chế độ tiền lương theo hình thức trả lương theo sản phẩm.
* Chế độ tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp không hạn chế.
Thực hiện của chế độ tiền lương này là dựa trên cơ sở đơn giá quy đinh khối lượng sản phẩm của người lao động cao nhiều thì người ấy sẽ được trả lương càng cao và ngược lại:
LCN =
- Xây dựng một hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật phản ánh đúng đắn chính xác kết quả lao động.
- Bảo đảm các yếu tố vật chất cho người lao động cải thiện điều kiện làm việc.
- Xây dựng và kiện toàn một số chế độ, thể lệ cần thiết xu hướng hiện nay đối với các doanh nghiệp là việc sử dụng hình thức tiền lương theo sản phẩm bên cạnh đó mở rộng các hình thức trả lương khoán và trả lương theo năng xuất lao động. Những chính sách tiền lương mới đây của Nhà nước bàn hành đã chú ý nhiều đến việc thúc trả lương, thưởng theo sản phẩm, dù sao việc áp dụng hình thức trả lương nào vẫn là do doanh nghiệp quyết định tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của đơn vị mình song nếu xác định đúng đắn phù hợp với các hình thức trả lựơng sẽ có tác dung thúc đẩy sản xuất, tăng năng xuất lao động.
Hình thức trả lương theo sản phẩm bao gồm:
+ Tiền lương sản phẩm cá nhân trực tiếp không hạn chế.
+ Tiền lương theo sản phẩm tập thể.
+ Tiền lương sản phẩm gián tiếp.
+ Tiền lương sản phẩm luỹ tiến.
+ Tiền lương khoán.
+ Tiền lương theo sản phẩm cuối cùng.
Sau đây là các nội dung cụ thể của từng chế độ tiền lương theo hình thức trả lương theo sản phẩm.
* Chế độ tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp không hạn chế.
Thực hiện của chế độ tiền lương này là dựa trên cơ sở đơn giá quy đinh khối lượng sản phẩm của người lao động cao nhiều thì người ấy sẽ được trả lương càng cao và ngược lại:
Sau khi xác định được tiền lương cả tổ tiến hành chia lương cho từng cá nhân.
- Phương pháp chia theo giờ hệ số được tiến hành theo 3 bước.
+ Tính tổng số giờ hệ số của cả tổ (giờ hệ số là giờ quy đổi của các công nhân ở các bậc khác nhau ra giờ của công nhân bậc 1) bằng cách lấy giờ làm việc của từng người nhân với hệ số bậc của người đó, sau đó tổng hợp lại cho cả tổ.
+ Tính tiền lương một giờ hệ số (lấy tiền lương cả tổ được lĩnh chia cho tổng số giờ hệ số của tổ).
+ Tính tiền lương cho từng người căn cứ vào tiền lương một giờ hệ số và số giờ hệ số của mỗi người.
- Phương pháp chia lương theo hệ số điều chỉnh lần đầu (lấy mức tiền lương của mỗi người nhân với số giờ từng người đã làm).
+ Tìm hệ số điều chỉnh (lấy tổng số tiền lương cả tổ được lĩnh chia cho tổng số tiền đã chia lần đầu)
+ Tiền lương cho từng người căn cứ vào hệ số điều chỉnh và số tiền lương tính lần đầu cho mỗi người.
Ưu điểm của chế độ tiền lương này là làm cho công nhân trong tổ cùng một đơn vị gắn bó với nhau giúp nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên nó có nhược điểm là tiền lương không gắn trực tiếp với mỗi người mà thông qua một tập thể để phân phối laị. Trong đó cấp bậc tiền lương của mỗi người, không hẳn đã gắn với kết quả thực tế. cho nên chế độ tiền lương này chỉ áp dụng cho những công việc khó định mức và tính lương trực tiếp cho từng người.
* Chế độ tiền lương theo sản phẩm gián tiếp.
Chế độ tiền lương này được áp dụng trong trương hợp công việc của những người công nhân chính và phụ gắn chặt với nhau nhưng không trực tiếp tính được sản phẩm cho công nhân phụ.
Cách tính của chế độ tiền lương này là căn cứ vào sản lượng định mức và mức độ hoàn thành định mức của công nhân chính và tính lương cho công nhân phụ.
Tính đơn giá tiền lương phụ cho một đơn vị sản lượng định mức của công nhân chính.
`
Lương công nhân phụ 1 ca
Số lượng sản phẩm định mức của công nhân chính 1 ca
LP = gp x qc
Trong đó: Lương sản phẩm gián tiếp của công nhân phụ (LP)
qc Sản lượng sản phẩm thực hiện của công nhân chính.
Ưu điểm của cách trả lương này là làm cho công nhân chính và phụ ở hai nghề khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau. Hợp tác chặt chẽ với nhau để tăng sản lượng nhưng trong số trường hợp không khuyến khích được công nhân phụ.
* Chế độ tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến.
Chế độ tiền lương này áp dụng ở những khâu chủ yếu quyết định với việc hoàn thành kế hoạch của đơn vị. Theo chế độ này trên cơ sở định mức sản lượng ( được coi là 100% ) nếu công nhân hoàn thành vượt định mức càng cao thì tiền lương được tính theo giá trị tăng dần.
Do đó chế độ tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến có tác dụng khuyến khích mạnh mẽ đến việc tăng nhanh khối lượng sản phẩm càng cao so với khối lượng càng tốt. Nhưng nhược điểm của nó là tốc độ tăng tiền lương bình quân sẽ lớn hơn tốc độ năng xuất lao động. Vì vậy chế độ trả lương này chỉ được áp dụng hạn chế trong một số trường hợp cần động viên hoàn thành dứt điểm công việc, hoàn thành sớm nhiệm vụ.
Để chế độ tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến áp dụng có hiệu quả cần chú ý điều kiện cơ bản là: Mức tăng của đơn giá tiền lương phải nhỏ hơn hoặc bằng mức tiết kiệm chi phí cố định, mức tăng đơn giá được khống chế theo công thức sau:
Kd =
C ( H - 1 )
L x H
Trong đó: Kd : Hệ số tăng của đơn yếu sản phẩm luỹ tiến.
L : Hệ số tiền lương trong giá thành đơn vị sản phẩm .
H : Hệ số sản phẩm đạt.
C : Hệ số chi phí quy định trong giá thành sản phẩm.
* Chế độ tiền lương khoán.
Chế độ tiền lương này áp dụng trong trường hợp công việc không định mức chi tiết hay định mức không chính xác.
Trả lương khoán là chế độ trả lương, trả lương ngày từ lúc đầu nhận ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Q0022.doc