Lời nói đầu
ĐĐĐĐ
Tính cấp thiết của luận văn :
“ Hiệu quả” là một thuật ngữ rất hay được dùng để đánh giá một công việc, một vấn đề nào đó. Khi nói đến hiệu quả người ta thường gắn với tính khả thi, sự thành công mà công việc sẽ đạt được. Vậy hiệu quả kinh doanh gắn với cả một quá trình kinh doanh sẽ phải được định nghĩa như thế nào cho xác đáng nhất?
Hiệu quả kinh tế đó chính là khả năng tận dụng tối ưu các nguồn lực khan hiếm. Với mỗi một doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh doanh có ngh
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh muối ở Tổng Công ty Muối Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa là doanh nghiệp đã kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như máy móc, trang thiết bị, con người, nguồn nguyên liệu với các yếu tố đầu ra như công tác Marketing, mẫu mã, bao bì, chất lượng sản phẩm... Như vậy hiệu quả kinh doanh gắn liền với tính năng động nhạy bén của những người lãnh đạo doanh nghiệp.
Cuộc đời là biển cả
Ai không bơi sẽ chìm
Đó là một câu ngạn ngữ có thể áp dụng với các doanh nghiệp Nhà nước ta hiện nay. Trong một cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh được đưa lên làm mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Vì thế đòi hỏi các doanh nghiệp phải tích cực đưa những thiết bị công nghệ mới vào sản xuất, bằng mọi cách giảm chi phí giảm giá thành và không ngừng nâng cao chất lượng... Có làm được như vậy thì các doanh nghiệp mới có thể tồn tại, trụ vững trong cơ chế thị trường.
Thời kỳ bao cấp qua đi để lại một bức tranh kinh tế ảm đạm. Một thời kỳ làm việc theo kiểu quan liêu bao cấp, các xí nghiệp quốc doanh luôn luôn đạt mức sản lượng vượt kế hoạch. Người ta nói rất nhiều đến hiệu quả, năng suất lao động, năng suất chất lượng đều đạt ở mức rất cao nhưng tất cả số liệu doanh thu, sản lượng đều là “lãi” trên giấy tờ, còn thực chất sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp có hoạt động nhưng không có hiệu quả. Các đơn vị kinh tế quốc doanh chỉ đảm bảo số lượng, chỉ tiêu kế hoạch sản xuất đặt ra chứ việc đảm bảo chất lượng cải tiến mẫu mã sản phẩm hầu như các xí nghiệp không chú trọng.
Bắt đầu từ năm 1986 Nhà nước có chủ trương đổi mới cơ chế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước đã chủ chương đổi mới toàn diện về mọi mặt mở ra một thời kỳ phát triển mới.
Riêng với các Doanh nghiệp Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong các thành phần kinh tế, là công cụ vĩ mô của nhà nước thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm hiệu quả xã hội. Do đó ngoài việc cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác để tồn tại các Doanh nghiệp Nhà nước còn phải giữ nhiệm vụ quan trọng đó chính là vai trò chủ đạo.
Khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường các Doanh nghiệp Nhà nước thường gặp phải những khó khăn trở ngại sau đây, có những Doanh nghiệp đã nhanh chóng bắt kịp với thời cuộc bằng cách cải tiến mẫu mã chất lượng, tăng quy mô sản xuất. Nhưng bên cạnh đó có những Doanh nghiệp hàng sản xuất ra không bán được, công nhân nghỉ việc không lương. Những Doanh nghiệp này vẫn loay hoay chưa tìm được lối ra, họ quá ỷ lại vào kế hoạch, trợ cấp của Nhà nước và đã có những Doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ dẫn đến phá sản.
Vì vậy để Doanh nghiệp Nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường thì vấn đề hiệu quả và không ngừng nâng cao hiệu quả là mục tiêu hàng đầu của các Doanh nghiệp, với Tổng Công ty Muối không nằm ngoài quy luật đó. Trong những năm gần đây sản lượng muối hàng năm tăng nhưng hiệu quả vẫn còn thấp. Chính hiệu quả kinh doanh thấp đã hạn chế vai trò chủ đạo của Công ty Muối Việt nam.
Bởi vậy tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh muối ở Tổng Công ty Muối Việt nam ”
Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu với mục đích hiệu quả là:
+ Góp phần làm rõ cơ sở khoa học ứng dụng quan điểm hiệu quả kinh doanh muối ở Tổng Công ty Muối Việt Nam trong nền kinh tế thị trường.
+ Vận dụng các biện pháp để phân tích, đánh giá hiệu quả thực trạng kinh doanh muối và dự báo nhu cầu sản xuất và cung ứng muối trong những năm tới tại Tổng Công ty Muối Việt Nam.
+ Nghiên cứu, phân tích các nguyên nhân tồn tại ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh muối ở Tổng Công ty Muối Việt Nam.
+Căn cứ vào lý luận và kết quả phân tích đánh giá hiệu quả giữa kinh doanh cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới hiệuquả kinh doanh đó mà đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh muối của Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là hiệu quả kinh doanh mặt hàng muối ở các Doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Muối là một mặt hàng sản xuất gắn liền với biển, nước biển là nguyên liệu chính để sản xuất muối. Gắn liền với sản xuất muối là các đồng muối, kho tàng, các phương tiện vận chuyển chuyên trở.
ở hầu hết các tỉnh thành phố ven biển ở nước ta đều sản xuất muối tuy nhiên sản lượng cao thấp ở các địa phương là khác nhau. Tổng Công ty Muối bao gồm rất nhiều các Doanh nghiệp muối Nhà nước trải dài trên địa bàn cả nước. Mặt khác muối là một mặt hàng thiết yếu vì vậy phạm vi hoạt động của Tổng công ty rất rộng từ đồng bằng đến miền núi, các vùng sâu, vùng xa.
Muối bao gồm hai sản phẩm chính quan trọng bậc nhất đó là muối iốt (muối ăn) và muối công nghiệp dùng trong sản xuất.
Trong luận văn sẽ giới hạn và đi sâu nghiên cứu hai sản phẩm này trên phạm vi các hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để hoàn thành Luận văn, với góc độ của một sinh viên khoa QTKDTH tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu đã học như:
Phương pháp duy vật biện chứng.
Phương pháp điều tra dự báo.
Phương pháp quy nạp diễn giải.
Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phương pháp phân tổ...
Những đóng góp chủ yếu của luận văn
Luận văn hoàn thành có được những đóng góp chủ yếu sau:
- Góp phần thực hiện hệ thống hoá những luận cứ khoa học, phương pháp luận có tính chất truyền thống nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp nói chung và kinh doanh muối tại Tổng công ty Muối nói riêng.
- Vận dụng một cách sáng tạo những lý luận khoa học đã nêu để phân tích đánh giá đúng thực trạng hiệu quả kinh tế của các hoạt động kinh doanh tại Tổng Công ty Muối Việt Nam.
- Trên cơ sở kết quả đánh giá và phân tích những nguyên nhân đặc biệt là những nguyên nhân làm hạn chế hiệu qa kinh doanh muối tại Tổng Công ty Muối Việt Nam, luận văn đã đề xuất các biện pháp cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh mặt hàng này.
kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục, tài liệu tham khảo luận văn gồm ba chương.
Chương I: Những vấn đề cơ bản về vai trò và hiệu quả kinh doanh muối của Tổng Công ty Muối Việt nam.
Chương II: Thực trạng kinh doanh muối và hiệu quả kinh doanh muối của Tổng Công ty Muối Việt nam.
Chương III: Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh muối ở Tổng Công ty Muối Việt nam.
***********
Chương I
NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về VAI TRò Và HIệU QUả KINH DOANH MUốI CủA CáC DOANH NGHIệP NHà NƯớC ở VIệT NAM
ĐĐĐĐ
I. Vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước trong kinh doanh muối ở Việt Nam
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, đổi mới doanh nghiêp nhà nước luôn luôn được chú ý nhiều nhất. Đảng và nhà nước ta luôn xác định thành phần kinh tế quốc doanh phải là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.
ở Việt nam trong thời kỳ bao cấp tồn tại 2 thành phần kinh tế chiếm ưu thế tuyệt đối là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Trong cơ chế này thị trường bị triệt tiêu tính cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp , sản xuất không được thúc đẩy mức độ tăng trưởng kinh tế ngày càng thụt lùi. Điểm yếu kém trong cơ chế bao cấp đó là sự bất hợp lý của cơ cấu kinh tế sự trì trệ thua lỗ triền miên của sản xuất kinh doanh từ đó nảy sinh yêu cầu bức thiết phải có cơ chế mới thích hợp.
Đại hội Đảng lần thứ VI ra đời là một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự khởi sắc của nền kinh tế và một lần nữa khảng định vai trò chủ đạo của các Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Trong những năm đầu khi chuyển đổi cơ chế các cơ sở kinh tế quốc doanh chưa theo kịp sự thay đổi của cơ chế thị trường, bộ máy quản lý của Doanh nghiệp quá cồng kềnh không phù hợp với cơ chế tự trang trải tự hạch toán kinh doanh do đó nhiều Doanh nghiệp sản xuất thua lỗ dẫn tới phá sản. Chính vì vậy có nhiều quan điểm tư tưởng lệch lạc cho rằng các Doanh nghiệp quốc doanh cần phải xoá bỏ và họ đặt ra câu hỏi liệu các Doanh nghiệp Nhà nước có giữ vai trò chủ đạo hay không?
Quan điểm trên hoàn toàn sai lầm, bởi nền kinh tế của các nước phát triển đã từng chứng minh nếu để bàn tay vô hình đièu tiết thị trường sẽ dẫn đến những trục trặc, tổn thất vô ích cho xã hội. Đảng và nhà nước Việt Nam nhận thức rằng việc cải tạo các thành phần kinh tế một cách thô bạo cũng như việc tư nhân hoá các Doanh nghiệp Nhà nước một cách một cách xô bồ nóng vội đều trái với quy luật phát triển kinh tế, không phù hợp thực tế đất nước.
Cần phải coi trọng vai trò của các Doanh nghiệp Nhà nước, nhưng phải kiên quyết đổi mới tổ chức quản lý các Doanh nghiệp Nhà nước theo yêu cầu của kinh tế thị trường theo định hướng xẫ hội chủ nghĩa. Các Doanh nghiệp Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo: là công cụ kinh tế, là lực lượng vật chất trong tay Nhà nước để Nhà nước khống chế vĩ mô nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh, điều chỉnh san lấp các chỗ hổng của thị trường tạo ra.
Cũng giống như các Doanh nghiệp khác các Doanh nghiệp muối không nằm ngoài vòng quay của thời cuộc. Doanh nghiệp muối phải đương đầu với bao khó khăn thử thách trước sự cạnh tranh khốc liệt của thành phần kinh tế tư nhân. Mặt khác muối là một thành phần kinh tế quan trọng, then chốt, sản phẩm muối là mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày. Muối là ngành sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp và muối iốt dùng cho toàn dân cần được ổn định về số lượng và chất lượng theo nhu cầu ngày càng tăng. Nhà nước thực hiện chính sách nhiều thành phần kinh tế sản xuất và kinh doanh muối nhưng vẫn duy trì Tổng Công ty Muối là Doanh nghiệp Nhà nước làm lực lượng nòng cốt để phát triển nghề muối ở nước ta.
Để phát huy vai trò chủ đạo các Doanh nghiệp muối Nhà nước phải không ngừng vươn lên trụ vững. Ngoài nhiệm vụ thực hiệm các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế như doanh thu, chi phí lợi nhuận... Tổng Công ty Muối còn phải thực hiện các chỉ tiêu xã hội. Nhiệm vụ mà Tổng Công ty Muối được giao là điều hoà muối iốt giữa các vùng trong cả nước từ đồng bằng đến miềm núi. Giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động góp phần tăng trưởng kinh tế tại các vùng ven biển. Thực hiện các chỉ tiêu xã hội Tổng Công ty Muối cũng hoàn thành các chỉ tiêu chính trị. Việc tạo ra một khung giá muối thích hợp với đồng bào miền núi vùng cao thể hiện sự quan tâm sâu sắc, tính nhân đạo của Đảng và Chính phủ, chứng tỏ tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc.
Đối với các dân tộc miền núi vùng sâu, vùng xa việc vận chuyển được một “gùi”muối rất khó khăn. Do địa hình miền núi khác hẳn với các vùng khác, đa số là vùng núi hiểm trở, gập gềnh gây cản trở công việc vận tải, thêm vào đó muối là một mặt hàng cồng kềnh dễ chẩy nước. Thông qua Tổng Công ty Muối, muối ăn được chuyển tải đầy đủ và kịp thời tới đồng bào miền núi và hải đảo.
Như vậy với tất cả các chỉ tiêu xã hội mà Tổng Công ty Muối đã thực hiện phần nào đã khẳng định vai trò chủ đạo trong ngành muối nói riêng và trong hệ thống các Doanh nghiệp Nhà nước nói chung. Để xem xét cụ thể vai trò của các Doanh nghiệp muối chúng ta cùng đi vào đặc điểm quá trình sản xuất và cách thức quản lý.
1. Vai trò của sản phẩm muối
Muối và sản phẩm muối có vai trò vô cùng quan trọng trong tiêu dùng và sản xuất.Muối ănlà nguyên liệu chính là sản phẩm thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày . Sản phẩm của muối là nguyên liệu ,chất phụ gia để chế biến hơn 14.000 sản phẩm, có mặt hầu hết ở các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y dược, thực phẩm. Ví dụ trong y dược là nguyên liệu chế nước khoáng, thuốc chữa bệnh, trong nông nghiệp là là nguyên liệu chế phân bón, thức ăn cho gia súc,trong công nghiệp có vai trò trong chế biến tơ nhân tạo,thuỷ tinh,xút... Người ta chỉ nhìn nhận muối trong một lĩnh vực duy nhất là bữa ăn hàng ngày nhưng công dụng của muối là rất lớn nó có vai trò và tác dụng chế nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác nhau. Vì vậy khi nói đến muối không chỉ thuần nhất xem xét tính mặn nhạt mà phải tìm hiểu cả công dụng của muối. Hiện nay khi cuộc sống ngày càng phất triển,nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì đồng nghĩa với nền kinh tế hàng hoá là sự thay đổi cảnh quan thiên nhiên,thay đổi môi trường sống. Việt Nam là một nước thiếu iốt. Qua bao nhiêu thế kỷ iốt tự nhiên trong đất bị rửa trôi khỏi các sườn núi dẫn tới lụt lội đât không đủ cung cấp cho cây trồng và gia súc. Điều đó dẫn đến thiếu iốt dùng cho thực phẩm cho con người.
Năm 1993 Bộ Y tế và Unicef đã tiến hành khảo sát tại một số điểm và chọn ngẫu nhiên trên toàn quốc, đánh giá bướu cổ và các thử nghiệm khác .Kết quả khảo sát cho thấy 94% đân số Việt Nam bị thiếu iốt, diện dân cư bị thiếu iốt với mức độ khác nhau và trải rộng trên toàn quốc. Tác hại của căn bệnh bướu cổ rất ghê gớm nó kéo thao sự đần độn và giảm trí thông minh của con ngươì. Ngay từ năm 1992 một chương trình Quốc gia về phòng chống các rối loạn do thiếu iốt được Chính phủ thành lập tại Bộ Y tế để quản lý chương trình quốc gia loại trừ thiếu iốt vào năm 2010. Một phần chủ yếu của chương trình là iốt hoá muối toàn quốc, để cung cấp iốt và phòng bệnh cho tất cả nhân dân
Có rất nhiều cách đưa iốt vào cơ thể con người nhưng dùng muối pha trộn iốt là cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Muối cần cho tất cả mọi người và được sử dụng thường xuyên, đưa Iốt vào muối tức là đã cho tất cả cộng đồng dân cư được bổ xung iốt vào cơ thể một cách tự nhiên đơn giản nhất, giá cả rất dẻ phù hợp với thu nhập của mọi tầng lớp trong xã hội
Bên cạnh sản phẩm muối iốt còn có một sản phẩm rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân đó là muối công nghiệp. Muối công nghiệp là nguyên liệu cho rất nhiều ngành kinh tế khác nhau như hoá chất, công nghiệp thực phẩm, nông nghiệp... Hiện nay nhu cầu về muối công nghiệp đang là vấn đề cấp bách. Theo đúng quy hoạch ngành muối đã được chính phủ phê duyệt đến năm 2000 cần một lượng muối là 1.100.000tấn muối /năm, trong đó muối công nghiệp phục cho xuất khẩu là 625.000 tấn /năm. Hiện tại ở nước ta có các xí nghiệp quóc doanh được thiết kế để sản xuất muối công nghiệp với diện tích là 1000 ha, hàng năm có thể sản xuất 100- 150.000 tấn muối . Như vậy so với nhu cầu thì lượng cung quá nhỏ bé.
Mặt khác do cách sản xuất muối công nghiệp phân tán, chưa chặt chẽ nên sản xuất muối công nghiệp không đảm bảo chất lượng do đó mấy năm gần đây chúng ta phải nhập muối công nghiệp từ nước ngoài
Để sản xuất muối công nghiệp chất lượng cao đáp ứng tiêu dùng cho sản xuất cần phải nâng cấp đồng muối, cải tiến công nghệ phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Thời gian gần đây Tổng Công ty Muối đã mạnh dạn và cung cấp hàng loạt các trang thiết bị mới phục vụ sản xuất muối công nghiệp. Vì thế muối công nghiệp đáp ứng một phần cho các Doanh nghiệp trong nước như công ty VEDAN mua của Tổng Công ty Muối 70.000 tấn năm 1998, ngoài ra Tổng Công ty Muối đã xuất khẩu 25.000 tấn.
Nếu như Tổng Công ty Muối có những chính sách chủ trương đầu tư sản xuất muối công nghiệp dài hạn thì sẽ mang lại rất nhiều lợi ích và tạo đà phát triển vượt bậc góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu muối.
2. ĐặC ĐIểM SảN XUấT LƯU THÔNG Và TIÊU DùNG MUốI
a. Đặc điểm sản xuất muối
Đặc điểm sản xuất muối nhìn chung còn manh mún phân tán chưa tập chung. Các đồng muối sản xuất chưa được quy hoạch cụ thể. Hiện nay do truyền thống lâu đời nên nghề muối nước ta vẫn chủ yếu được làm theo phương pháp thủ công với diện tích 9600 ha và sản lượng đạt 430.000 tấn/năm, năm 1998 đạt 800.000 tấn. Do điều kiện khác nhau giữa hai miền Nam Bắc nên phương thức sản xuất khác nhau. ở miền Nam chỉ có hai mùa mưa và nắng nên áp dụng phương pháp phơi nước. Phương pháp này cho năng suất cao chất lượng muối nguyên liệu khá tốt và một phần muối đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. ở miền Bắc thời tiết chia làm 4 mùa không rõ rệt nên áp dụng phương pháp sản xuất phơi cát (phương pháp này hiện nay trên thế giới không còn sử dụng nữa) . Phương pháp phơi cát cho năng suất thấp vì thế lợi thế cạnh tranh của muối miền Bắc kém hơn miền Nam. Tuy nhiên không thể không coi trọng nghề muối ở miền Bắc do thị hiếu người tiêu dùng và đặc biêt có liên quan đến đời sống hàng vạn người lao động.
Từ khi bãi bỏ cơ chế bao cấp, các thành phần kinh tế tư nhân được phép tham gia vào sản xuất và kinh doanh muối. Thị trường trở nên cạnh tranh gay gắt giữa tư thương và các Doanh nghiệp Nhà nước làm cho giá cả hỗn loạn. Chính vì sự biến động của thị trường làm cho phát triển sản xuất giảm sút, một số đồng muối bị thu hẹp. Diêm dân quay sang nuôi trồng tôm, thuỷ sản. Một số người sản xuất theo kiểu hộ gia đình, lúc đầu cho thu nhập khá cao nhưng vì sản xuất muối mang tính công nghiệp, đồng muối kho bãi cơ sở hạ tầng phải dùng chung. vì vậy một số đồng muối xuống cấp nghiêm trọng, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
b. Đặc điểm của lưu thông muối
Trên thực tế hiện nay đặcn điểm lưu thông muối bị buông lỏng thị trường muối hoàn toàn được thả nổi. Trước năm 1990 toàn quốc có Tổng Công ty Muối làm nhiệm vụ bán buôn, các công ty công nghiệp địa phương làm nhiệm vụ bán lẻ trên từng địa bàn tỉnh, huyện. Hệ thống cửa hàng thương nghiệp và hợp tác xã mua bán làm nhiệm vụ bán lẻ.
Do muối là mặt hàng kinh doanh có khối lượng lớn ăn mòn phương tiện, chi phí vận tải lớn, gía bán lẻ thấp nên chiết khấu không đủ cho cho cả khâu bán buôn và khâu bán lẻ. Thông thường phải lấy chi phí của các mặt hàng khác để bù vào chi phí về kinh doanh.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường các Doanh nghiệp bắt đầu dần dần không kinh doanh muối nữa. Các xí nghiệp được phân cấp và địa phương quản lý. ở Trung ương vẫn tồn tại Tổng Công ty Muối chuyên doanh làm nhiệm vụ buôn bán muối và được giao nhiệm vụ làm chủ những công trình xây dựng cơ bản nhằm duy trì sản lượng muối. Việc tổ chức lưu thông muối hiện nay bị buông lỏng không có một đầu mối thống nhất, tình trạng tranh mua bán diễn ra thường xuyên. Tổng Công ty Muối với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước có chức năng kinh doanh, buôn bán muối và điều hoà thị trường muối trong cả nước, Trên thực tế việc quản lý lưu thông muối của Tổng Công ty Muối gặp rất nhiều khó khăn. Giữa Tổng Công ty Muối và các hộ dân sản xuất chưa có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ. Trong cơ chế thị trường khi người bán thấy xuất hiện nhu cầu tiêu thụ sản phẩm theo quy luật chung ai trả giá cao họ sẽ bán khi nào cần bán sẽ bán, người sản xuất muối không là ngoại lệ, đó cũng là kẽ hở cho tư thương hoạt động. Tư thương hoạt động theo kiểu tự do, họ hoạt động đơn thuần là mục đích lợi nhuận nên khi mua thì ép gía của dân mang bán lại cho công ty muối với giá cao hơn hẳn cho nên giá thành của Tổng Công ty Muối bị nâng lên. Mặt khác tư nhân chế biên sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng, họ cố tình làm giả sản phẩm (nhại nhãn mác, trọng lượng thiếu...) với cách làm muối giả mà muối của tư thương luôn luôn giảm hơn giá muối trên thị trường, làm rối loạn thị trường tiêu thụ.
Hiện nay mạng lưới các xí nghiệp quốc doanh muối bố trí bị phân tán nên gây ra khó khăn trong việc quản lý về cung cầu muối. Thêm vào đó các tư nhân kinh doanh thao kiểu tự do kinh doanh đã tạo ra sự hỗn loạn trong sản xuất và lưu thông muối. Vì vậy cần có sự tác động tích cực của nhà nước đối với nhu cầu muối của toàn xã hội, bằng cách quản lý các xí nghiệp quốc doanh vừa đảm bảo quyền tự chủ cho họ vừa tránh được các cuộc khủng hoảng thừa thiếu cho chính các xí nghiệp đó. Việc vận chuyển từ Nam ra Bắc vào mùa khô tránh làm muối ướt và chủ yếu bằng hai phương tiện thuỷ và bộ.
Mật khác ngoài thời vụ người lao động khá rỗi việc. Trong quá trình sản xuất họ tích trữ một phần sản phẩm của mình để dự trữ lưu thông bán lẻ. Việc lưu thông kiểu này tiện lợi cho người tiêu dùng nhưng lại gây khó khăntrong việc lưu thông trên thị trường có thể xảy ra hai trương hợp giá bán của họ quá thấp do được mùa muối, lúc giá bán lại quá cao tạo nên sự không ổn định về giá muối. Như vậy vấn đề lưu thông hiện nay còn rất nhiều bất cập. Ngoài vận chuyển muối cho đồng bằng còn phải cung cấp cho đồng bào vùng sâu vùng xa. Việc vận chuyển muối lên miền núi rất khó khăn do địa hình hiểm trở, hơn nữa đây lại là khu vực dân cư có thu nhập thấp, giá muối bán ra phải thấp hơn gia muôi tại đồng bằng. Vì vậy để điều hoà muối giữa các vùng trong cả nước đối với các doanh nghiêp Nhà nước sản xuất còn là bài toán khó .
c.Đặc điểm tiêu dùng muối.
Đặc điểm tiêu dùng quanh năm rộng khắp và ổn định chất lượng muối dùng cho dân cư, khu công nghiệp, khu vực sản xuất đòi hỏi ngày càng cao. Nếu như trước kia người ta thường dùng muối hạt thì nay sử dụng muối tinh chế (đã lọc bỏ tạp chất) hay muối tinh trộn iốt. Trong cơ thể con người bao giờ cũng phải cung cấp muối iốt cần thiết, người ta không thể lúc này ăn thật nhiều muối nhưng lúc khác không ăn hoặc ăn ít hơn Muối không có mặt hàng thay thế như gạo, thực phẩm nên mức cầu về tiêu dùng khá ổn định. Do đó việc tăng sản xuất trong ngành muối là rất khó khăn, người ta không thể tăng hiệu quả sản xuất bằng cách sản xuất thật nhiều muối. Đối các Doanh nghiệp sản xuất thì với cùng công nhân, tay nghề sản phẩm làm ra càng nhiều thì càng mang lại lợi nhuận nhiều cho nhà kinh doanh, nhưng với sản xuất muối thì khác hẳn sản xuất phải nghiên cứu định mức tiêu dùng sản xuất quá nhiều sẽ dẫn đến sự mất cân đối cung cầu. Điều này làm cho các nhà sản xuất luôn bị thiệt và lúc đó hiêu quả kinh tế sẽ không được đảm bảo.
Từ sự khác nhau giữa tiêu dùng và sản xuất, cộng với những đặc trưng cơ bản mà các ngành khác không thể có được như ngành muối , đã gây ra sự mất cân đối cung cầu về mặt không gian và thời gian
3. Khả năng đáp ứng yêu cầu về muối khi không có doanh nghiệp nhà nước kinh doanh muối.
3.1. Mạng lưới tư thương và sự trôi nổi của thị trường muối
Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường có rất nhiều thành phần xuất hiện và lớn mạnh. Đặc biệt trong đó có ngành muối đã có một lực lượng tư thương cùng tham gia cạnh tranh với các Doanh nghiệp Nhà nước họ đã khống chế được một phần thị trường Nhưng sự cạnh tranh diễn ra gay gắt một cách khá tự nhiên bởi vì sự buông lỏng quản lý của Nhà nước. Quá trình cạnh tranh diễn ra giữa tư nhân với Tổng Công ty Muối và giữa Tổng Công ty Muối với các đơn vị thành viên. Tuy nhiên đối tượng chịu tác động sâu sắc nhất bởi sự trôi nổi của thị trường muối chính là người sản xuất muối. Người dân sản xuất khi bán sản phẩm của mình thì không bán được giá cao, nếu có bán được giá cao tại thì nguồn lợi do sản xuất muối cũng không đủ để cho họ trang trải đủ cuộc sống (Thu nhập bình quân của một người làm muối là 90.000/người/tháng). Nhìn chung người sản xuất luôn trong tình trạng muốn bán nhanh sản phẩm sau mỗi mùa thu hoạch, đa số là bán cho tư thương. Giá muối bán trên thị trường không theo sự điều khiển của Tổng Công ty Muối. Hơn nữa số lượng sản phẩm không phải là nhỏ, chính vì vậy nó tạo thành tảng băng trôi trên thị trường.Trong những năm đầu của cơ chế thị trường do chúng ta còn quá thiếu kinh nghiệm trong quản lý và lưu thông muối đã tạo ra những khe hở cho tư thương hoành hành, giá cả lên, xuống một cách tự do.
Tư thương ép giá ngay tại đồng muốí, khi mà Tổng Công ty Muối chưa thực hiện xong kế hoạch thu mua thì họ có thể trả một giá cao hơn. Đôi khi do cuộc sống quá khó khăn diêm dân đành phải bán với giá rẻ cho tư thương. Trong quá trình cung cấp muối bán trên thị trường họ lại phá giá của Tổng Công ty Muối để bán với mức giá thấp hơn. Sự trôi nổi của giá cả làm cho thị trường muối vô cùng khó khăn: nơi quá thừa muối và nơi quá thiếu.
Muối là sản phẩm rất đặc biệt, gặp mưa hoặc thời tiêt ẩm ướt và độ ăn mòn rất lớn. Vì thế muối đòi hỏi cách bảo quản rất cẩn thận từ bao bì đến kho dự trữ phải có những điều kiện riêng. Khi một phần lớn lượng muối đã rơi vào tay tư thương thì chất lượng trọng lượng muối hoàn toàn không được bảo đảm theo những quy định của ngành.
Muốn đua muối vào guồng máy có hiệu quả, điều hoà muối giữa các vùng ,tránh tìng trạng nơi quá ứ đọng muối nơi lại quá thừa muối thì các doanh nghiệp sản xuất phải có sự quản lý của Nhà nước. Thời gian qua chúng ta hoàn toàn thả lỏng thị trường muối các doanh nghiệp tư nhân. nhóm kinh doanh ồ ạt phát triển tìm mọi cách bán nhiều muối nhất dẫn đến chỉ chú trọng thị trường có thu nhập cao mà bỏ qua thị trường khác. Chính vì vậy tạo ra sự mất cân đối khi phân phối muối cho các vùng đồng bằng và miền núi .Hơn nữa còn tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp do đó nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước .
3.2. Vai trò của Tổng Công ty Muối Việt nam
Tổng Công ty Muối là một Doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các Doanh nghiệp trực thuộc. Địa bàn của Tổng Công ty Muối rộng khắp cả nước và các Doanh nghiệp, xí nghiệp trực thuộc trải đều từ Bắc vào Nam.
Tổng Công ty Muối giữ vai trò điều tiết thị trường giữa miền núi và đồng bằng cân đối cán cân xuất nhập khẩu. Từ năm 1986 đất nước bước vào chuyển đổi sang cơ chế thị trường cũng giống các Doanh nghiệp Nhà nước khác Tổng Công ty Muối đã gặp phải không ít khó khăn trở ngại. Tổng Công ty Muối chủ động tìm ra lối thoát bằng cách đầu tư công nghệ tìm kiếm thị trường mới, cải tiến mẫu mã không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Để nâng cấp và cải tạo đồng muối đưa sản xuất với quy mô lớn chỉ có Tổng Công ty Muối mới hoàn thành tốt nhiệm vụ này. Mặt khác cùng với việc nâng cao chất lượng muối nhập các công nghệ thiết bị hiện đại Tổng Công ty Muối còn hướng mở rộng thi trường ra xuất khẩu.
Ngoài mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận, doanh thu, giảm thiểu chi phí, Tổng Công ty Muối là đơn vị duy nhất đảm bảo các chỉ tiêu hiệu quả xã hội. Tổng Công ty Muối giải quyết cho hàng vạn lao động góp phần nâng cao đời sống kinh tế vùng biển. Bên cạnh đó Tổng Công ty Muối là doanh nghiệp duy nhất thực hiên các trương trình lưu thông muối iốt.
II. Những vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh muối đối với các doanh nghiệp nhà nước.
1. Quan điểm về hiệu quả kinh doanh muối đối với các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đều có một mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả kinh doanh phát triển với quy mô ngày càng cao, không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước và đối với xã hội. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải đảm bảo các mục tiêu trên và mục tiêu số một có tính chất bao trùm đó là lợi nhuận
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh ở các doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất. Tại mỗi thời điểm người ta có cách quan niệm về hiệu quả kinh doanh một cách khác nhau song tựu trung lại có một số quan điểm chủ yếu sau
Quan điểm thứ nhất: Theo nhà kinh tế học người ANH AĐAMSMITH cho rằng: ”Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu tiêu thụ hàng hoá “
ở đây tác giả đã đồng nhất quan điểm hiệu quả kinh doanh và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thực chất hai phạm trù đều có ranh giới rõ ràng. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp là những gì Doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của Doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một Doanh nghiệp cũng có thể là nhứng đại lượng cân, đong, đo, đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại doanh thu lợi nhuận thị phần. ..và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm, ... như thế kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của Doanh nghiệp. Trong khi đó khái niệm về hiệu quả sản xuất luôn luôn gắt với hai chỉ tiêu kết quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản xuât kinh doanh Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí đều có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị.
Qua đó cho thấy rằng một Doanh nghiệp sẽ đat hiệu quả kinh doanh cao nhất khi sử tối ưu các nguồn lực đầu vào với mức chi phí thấp nhất. Gắn liền với hiệu quả kinh doanh là kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh. Còn doanh thu tiêu thụ hàng hoá chỉ là kết quả là một trong số rất nhiều mục tiêu của doanh nghiệp. Với cách nhìn nhận như vậy chúng chúng ta sẽ xác định được hiệu quả tăng lên là do tăng các nguồn lực đầu vào hay là làm giảm chi phí, điều này rất khó xác định.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả sản xuât xã hội diễn ra khi không thể tăng một lượng hàng hoá này mà không cắt giảm một lượng hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó “. Có thể nối quan điếm này đã đề cập đến khía cạnh của nền phân bố có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội “Trên phương diện này, rõ ràng phân bố các nguồn lực của nền kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả. Đây là trường hợp lý tưởng không thể thực hiện được vì tất cả các nguồn lực đều được sử dụng tối đa không thể lãng phí bất cứ nguồn lực nào.
Quan điểm thứ ba: “ Hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí ”. Như vậy quan niệm này chỉ đề cập đến phần tăng lên của hiệu quả kinh tế chứ không phải là của toàn bộ phần tham gia vào quá trình kinh tế.
Quan điểm thứ tư : đây là quan điểm của khá nhiều tác gỉả đề cập đến hiệu quả kinh doanh ở dạng khái quát coi hiêu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí để đạt được kết quả đó.
Định nghĩa một cách khái quát nhất “ hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế là một phậm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực như nhân, tài, vật lực, tiền vốn để đạt mục tiêu xác định ”. Từ khái niệm khái quát này hình thành công thức biểu diễn như sau :
H=K/C
Trong đó : K là kết quả thu được từ hiện tượng hay quá trình kinh tế
C là chi phí toàn bộ để đạt được kế quả đó
H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng hay một quá trình kinh tế
Và như thế có thể khái niệm ngắn gọn :hiệu quả là mặt chất lượng của hoạt độ._.ng kinh tế và được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được vơi chi phí bỏ ra để được kết quả đó.
Quan điểm này đã đánh giá tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực của của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như thế hoàn toàn có thể tính được hiệu quả kinh tế trong sự vận động và biến đổi không ngừng cuả các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Tuy nhiên quan điểm này vẫn còn một số thiếu sót. Nó chưa biểu hiện mối tương quan về lượng giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh mức độ chặt chẽ của mối quan hệ này. Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của một quá trình nào đó phải đặt trong trạng thái động.
Quan điểm thứ năm: Quan điểm của nhà kinh tế học Mác Xít cho rằng “Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu kinh tế cơ bản của xẫ hội chủ nghĩa, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. “
Quan điểm này là có ưu điểm là bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, đó là không ngừng nâng cao đòi sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Song ở đây không cho thấy phương tiện đo lường để thể hiện rõ tư tưởng định hướng này. ý nghĩa của quan điểm thứ năm này rât cao đẹp, nhưng đưa vào thực tiên đòi hỏi có nhừng chỉ tiêu cụ thể. Đời sống nói chung và nâng cao mức sống cá nhân rất phong phú, đa dạng nên việc phản ánh bằng các chỉ tiêu mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống là những chỉ tiêu rât trừu tượng.
Thu nhập quốc dân gồm quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng, chọn quỹ tiêu dùng phản ánh hiệu quả kinh doanh là chưa đầy đủ. Bởi vì vai trò của quỹ tích luỹ nhằm phát triển sản xuất là để có tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Cần phải tuân theo một thích hợp giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng một cách tốt nhất để đạt lợi ích trước mắt và lâu dài.
Từ các quan điểm trên cho thấy rằng để xây dựng một khái niệm hoàn thiện chính xác về hiêu quả kinh doanh, trước hết phải xem tới tính biện chứng của các yếu tố đạt được và các chi phí nguồn lực bỏ ra. Sau đó phải chú ý đến mức độ phản ánh mối liên hệ giữa các hiện tượng
2. Kinh doanh có hiệu quả - điều kiện sống còn của các doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường các chủ thể cạnh tranh với nhau vô cùng ác liệt để đảm bảo cho sự sinh tồn của chính mình, vì thế các doanh nghiệp phải tìm mọi cách vươn lên, trụ vững. Có những Doanh nghiệp tìm mọi cách để phát triển như phá hỏng kế hoạch của các đối thủ, trốn lậu thuế... những doanh nghiệp này có thể tồn tại trong một thời gian rất ngắn bởi vì xét trên phương diện đạo đức họ đã vi phạm nguyên tắc đạo đức trong kinh doanh. Có những Doanh nghiệp lại đi đúng hướng phát triển bằng các chính sách cải tiên sản phẩm, thực hiện cac chương trình khuyếch trương marketing nhằm thâm nhập thị trường. Như vậy trong mỗi cách đi mỗi Doanh nghiệp tìm ra con đường riêng của mình nhưng họ phải trả lời câu hỏi chung nhất của thị trường đó là sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai? Tựu trung lại điểm mấu chốt mà các nhà Doanh nghiệp phải giải quyết là tinh hiệu quả trong kinh doanh. Quá trình sản xuất các hoạt động dịch vụ kinh doanh đều là những vòng quay liên hồi phục vụ một vòng đời sản phẩm. Doanh nghiệp mong muốn vòng đời sản phẩm ngắn lại, quy mô mở rộng ra giai đoạn tăng trưởng và phát triển của sản phẩm được kéo dài đòi hỏi mỗi quyết định kinh doanh phải đúng đắn mang tính hiêu quả cao. Hiệu quả là mục tiêu bao trùm của mỗi một Doanh nghiệp, nó không mang tính trừu tượng chung chung mà trong bất cứ hoạt động kinh tế nào từ sản xuất đén tiêu thụ cần phải đạt kết quả tối ưu nhất với mức chi phí thấp nhất. Qua đó cho thấy rằng bất kỳ một Doanh nghiệp nào trong cơ chế thị trường hoạt động không có hiệu quả thì tự nhấn mình chết chìm trong vòng xoáy của các luồng cạnh tranh. Nhưvậy con đường phát triển của các Doanh nghiệp này trở nên mù mịt bởi vì rất đơn giản kinh doanh để tìm kiếm hiệu quả, hiệu quả cao là đáp ứng đúng cho một hoạt động kinh tế.
Để nghiên cứu sâu sắc bản chất kinh doanh có hiệu quả trong Doanh nghiệp phải bắt đầu đi nghiên cứu hiệu quả kinh doanh với tư cách là công cụ quản trị kinh doanh.
a. Hiệu quả kinh doanh là công cụ quản trị kinh doanh
Mục tiêu bao trùm và lâu dài của quá trình kinh doanh là tạo ra lợi nhuận tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở các nguồn lực sẵn có. Để đạt mục tiêu này quản trị Doanh nghiệp phải dùng nhiều phương thức khác nhau. Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ để nhà quản trị thực hiện các chức năng của mình . Việc xem xét và tinh toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết sản xuất đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các yếu tố đưa ra các biện pháp thích hợp thên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bản chất của phạm trù hiệu quả đã chỉ rõ trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất: trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất càng cao, Doanh nghiệp càng có khẳ năng tạo ra kết quả trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc tốc độ tăng kết quả lớn hơn so với việc sử dụng các nguồn lực đầu vào. Đây là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Do đó xét trên phương diện lý luận và thực tiễn phạm trù sản xuât kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá, so sánh phân tích kinh tế nhằm tìm ra các giải pháp tối ưu đưa ra các phương thức đúng đắn để đạt được mục tiêu lợi nhuận.
Với tư cách là công cụ đánh giá và phân tích kinh tế phạm trù hiệu quả không chỉ sử dụng ở giác độ tổng hợp mà còn sử dụng để đánh gía cấu thành của từng bộ phận Doanh nghiệp. Trong một số trường hợp hiệu quả không chỉ là phương tiện là công cụ để thực hiện kết quả mà còn là mục tiêu cần phải đạt.
b. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Điều kiện đủ cho sự lựa chọn là cùng với sự phát triển của kỹ thuật sản xuất thì người ta càng tìm ra nhiều phương pháp khác nhau để chế tạo sản phẩm. Kỹ thuật sản xuất sản phẩm cho phép cùng với những nguồn lực đầu vào nhất định có thể tạo ra rất nhiều sản phẩm khác nhau. Điều này cho phép Doanh nghiệp có khả năng lựa chọn kinh tế, lựa chọn sản xuất kinh doanh sản phẩm (cơ cấu sản phẩm tối ưu). Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao nhất. Hoạt động trong cơ chế thị trường, môi trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Với mỗi Doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại, từ khi bắt đầu một qúa trình sản xuất đều phải đưa ra câu trả lời là sản phẩm có được khách hàng chấp nhận không? Doanh nghiệp đã chiếm được bao nhiêu thị phần trên thị trường? Cơ hội chiếm lĩnh thị trường là bao nhiêu phần trăm ? đồng thời dựa trên quan hệ cung cầu giá cả cạnh tranh và hợp tác từ đó có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp. Các doanh nghiệp phải đưa ra những quyết định kinh doanh, tự hạch toán lỗ lãi với chi phí thấp nhất có thể. Nếu đưa ra những quyết định sai lầm sẽ kéo Doanh nghiệp thua lỗ triền miên dẫn tới phá sản. Sự tồn tại của Doanh nghiệp hiện nay đó chính là đi giải quyết bài toán mang tính chất sống còn đó là lợi nhuận . Nếu như trước kia người ta hoàn thành kế hoạch bằng các chỉ tiêu nhà nước giao cho thì bây giờ mục tiêu phải nhìn thấy được quan sát được. Muốn vậy các Doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất lượng giảm chi phí, nâng cao uy tín và vị thế của Doanh nghiệp. ...
Tóm lại qua tất cả các vấn đề trên cho thấy rằng kinh doanh có hiệu quả và không ngừng kinh doanh có hiệu quả vừa là mục tiêu kinh tế tổng hợp chỉ tiêu cần đạt được trong mỗi kỳ kinh doanh vừa là yêu cầu chung của các Doanh nghiệp Nhà nước nói chung và của các Doanh nghiệp muối Nhà nước nói riêng
Cũng giống như tất cả các Doanh nghiệp Nhà nước trong quá trinh bươn trải để tìm chỗ đứng trong cơ chế thị trường Tổng Công ty Muối phải định hướng cho mình môt chiến lược kinh doanh thích hợp một chiên lược sản phẩm hoàn toàn mới. Mục đích của Tổng Công ty Muối trong quá trình kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận, đạt được các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Nhưng khác với các Doanh nghiệp khác ngoài mục tiêu không ngừng nâng cao lợi nhuận Tổng Công ty Muối còn phải hoàn thành những chỉ tiêu xã hội mà nhà nước giao phó. Đó là hoàn thành những chương trình lưu thông muối iốt lên miền núi, trưng thu hết muối của diêm dân, tổ chức bảo quản và dự trữ khi có những yếu tố bất ngờ xảy ra vẫn có muối để đảm bảo sản xuất và tiêu dùng, tham gia bình ổn giá muối. Vì vậy song song với việc đảm bảo cao nhất tối đa hoá lợi nhuận Tổng Công ty Muối còn phải hoàn thành các chỉ tiêu xã hội tức là đáp ứng nhu cầu của khách hàng lớn nhất trong độ an toàn cao nhất.
2. hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế và phương pháp tính toán hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp.
Trong các Doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các Doanh nghiệp muối hay Tổng Công ty Muối nói riêng ngoài việc dự đoán ước lượng khả năng cung cầu, ước lượng lượng lượng muối tiêu thụ năng suất bình quân... chúng ta còn phải quan tâm tới hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế. Đó là một nhóm chỉ tiêu chính liên quan đến hiệu quả, kết quả mà Doanh nghiệp đạt được để từ đó đưa ra các biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả kinh doanh muối, giảm chi phí xuống mức thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh là một vấn đề phức tạp có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh (lao động tư liệu lao động và đối tượng lao động) nên Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả. Để đánh gía chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp, khái quát và các chỉ tiêu chi tiết (cụ thể).
2.1 Các chỉ tiêu kinh tế
Các chỉ tiêu doanh lợi :
Việc phân tích các chỉ tiêu doanh lợi sẽ đấnh giá hai loại vốn kinh doanh và vốn tự có của Doanh nghiệp phản ánh mức sinh lời của số vốn kinh doanh, khẳng định mức độ đặt hiệu quả kinh doanh của toàn bộ số vốn, cũng như số vốn tự có mà Doanh nghiệp đã sử dụng. Trong các chỉ tiêu doanh lợi,chỉ tiêu doanh thu vô cùng quan trọng, nó xác định doanh số bán thu được từ các hoạt động sản xuất và kinh doanh. Khi doanh thu tăng chứng tỏ mức tiêu thụ càng lớn, phần nào khẳng định chiến lược bán hàng thu được những thành công nhất định.
+ Doanh lợi của toàn bộ số vốn kinh doanh :
Với DVKD: doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh.
PR: Lãi ròng.
PVV: Lãi trả vốn vay.
VKD: Là tổng vốn kinh doanh.
+ Doanh lợi của số vốn tự có :
DVTC: Doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ nhất định.
VTC: Tổng vốn tự có.
Chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có xem xét khi lựa chọn kinh tế nếu DVTC = 100% thì việc tối đa hoá doanh lợi vốn tự có là hoạt động kinh tế không có hiệu quả.
DTR: Doanh lợi của doanh thu trong một thời gian nhất định.
TR: Doanh thu.
+ Ngoài ra bao trùm hoạt động kinh doanh, mấu chốt của các chỉ tiêu doanh lợi chính là chỉ tiêu lợi nhuận Đây là các chỉ tiêu mà các nhà kinh tế cũng như các nhà tài trợ nhà tài trợ quan tâm nhiều nhất khi xem xét hiệu quả kinh doanh. Lợi nhuận của toàn bộ Tổng Công ty Muối là biểu hiện bằng tiền của bọ phận sản xuất thặng dư do kết quả của người sản xuất mang lại. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng của toàn Tổng Công ty Muối, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản của qúa trình sản xuất như lao động, vât tư, tài sản cố định. .. Bên cạnh đó lợi nhuận còn là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất mở rộng toàn bộ Tổng Công ty. Bởi vì lợi nhuận là nguồn hình thành nên thu nhập của ngân sách nhà nước, thông qua việc thu thuế lợi tức giúp cho Nhà nước phát triển nền kinh tế xã hội. Một phần lợi nhuận còn được phân phối vào các quỹ tạo điều kiện nâng cao sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
PR= D - ( C+ T).
PR: lợi nhuận đạt được sau mỗi kỳ kinh doanh
D: doanh thu đạt được sau mỗi kỳ kinh doanh
C: chi phí hay giá thành sản phẩm.
T: thuế doanh thu.
Vì sản phẩm muối là sản phẩm đặc biệt nên thuế VAT= 0% hay T=0.
Trong các chỉ tiêu phản ánh lợi nhuận còn có các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
+ Tỷ suất lợi nhuận chi phí :
T= P/C
T: tỷ suất lợi nhuận chi phí
P: lợi nhuận
C: chi phí
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn :
T= P/V
P : lợi nhuận
V: vốn kinh doanh
* Các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế
QG: Sản lượng tính bằng giá trị.
CTC: Chi phí tài chính.
CTT: Chi phí kinh doanh thực tế.
CPD: Chi phí kinh doanh phải đạt.
Các chỉ tiêu này đánh giá tính hiêu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh xem xét chi phí kinh doanh là chi phí chi ra trong điều kiện thuận lợi nhất
* Các chỉ tiêu bộ phận
+ Số vòng quay của vốn (SVV).
SVV = TR/VKD.
SVV: Là số vòng quay của vốn. Số vòng quay càng lớn thì hiệu xuất sử dụng vốn càng lớn.
+ Hiệu quả sử dụng vốn cố định.
TSCDG= nguyên giá TSCD - hao mòn TSCD
HTSCD: Hiệu suất sử dụng vốn cố định.
TSCDG: Tổng giá trị TSCD bình quân trong kỳ.
Công thức này sẽ cho biết việc đầu tư vào TSCD có hiệu quả hay không.
+ Hiệu suất sử dụng vốn lưu động.
HVLD: hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
VLD: vốn lưu động bình quân trong năm.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ.
2.3. Các chỉ tiêu xã hội
Trước hết chúng ta cần phải hiểu hiệu quả kinh tế xã hội bởi vì ngày nay khi mục tiêu số một của các Doanh nghiệp là lợi nhuận, nhưng bên cạnh lợi nhuận còn rất nhiều các vấn đề phải giải quyết như môi sinh, thất nghiệp, đói kém ... Đó là các vấn đề xã hội mà với các Doanh nghiệp Nhà nước không chỉ giải quyết vấn đề lợi nhuận mà còn phải đảm đương thực hiện các nhiệm vụ xã hội. Chỉ tiêu xã hội cho chúng ta thấy mức độ hoàn thành nhiệm vụ xã hội của Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt các mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường thấy là giải quyết công ăn việc là trong toàn ngành, giảm số người thất nghiệp, nâng cao trình độ đời sống văn hoá cho nhân dân, đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, đảm bảo sức khoẻ, bảo đảm vệ sinh môi trường.
Đối với các Doanh nghiệp muối Nhà nước các hiệu qủa xã hội được xem xét trên các khía cạnh :
- Mức độ tiêu dùng sản lượng muối : trong đó muối tinh qua chế biến là bao nhiêu. Đặc biệt vùng đồng bằng đã tiêu dùng bao nhiêu sản lượng muối Iốt, để giảm và phòng chống bệnh bưới cổ. Đối với các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thì chỉ tiêu tiêu dùng muối rất quan trọng. Bởi vì các căn bệnh giảm trí tụê do thiếu iốt trầm trọng đang trong tình trạng báo động
- Mức độ tiêu thụ sản lượng muối cho diêm dân, chỉ tiêu này được đo lường bằng tỉ trọng muối mà Tổng Công ty Muối mua của diêm dân trong tổng số sản lượng muối mà họ thu hoạch. Một trong những nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho các Doanh nghiệp muối Nhà nước cần phải tiêu thụ hàng hoá dư thừa của diêm dân với giá đảm bảo cho người làm muối một mức lãi nhất định (tuỳ vùng ,tuỳ vụ).
- Mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường: đó chính là thị trường của Doanh nghiệp. Nó được đo bằng tỷ trọng khối lượng muối bán ra của Tổng Công ty Muối và nhu cầu của thị trường. Nó thể hiện khả năng thâm nhập thị trường của Doanh nghiệp. Khả năng đấp ứng nhu cầu thị trường càng lớn càng chứng tỏ vai trò chủ đạo của Tổng Công ty Muối. Có thể nói nhu cầu thị trường là tấm gương phản chiếu tốc độ thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm. Qua đó nhấn mạnh việc nắm bắt nhanh với nhu cầu thị trường của Tổng Công ty Muối đối với người tiêu dùng. Các Doanh nghiệp muối muốn điều tiết được thị trường thì trước hết phải có khả năng đáp ứng phần lớn nhu cầu thị trường.
- Giải quyết công ăn việc làm của người sản xuất muối, từng bước nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện cuộc sống cho họ. Tình trạng lao động dôi dư trong ngành muối hiện nay quá nhiều, công việc ngày càng được cơ giới hoá nên đòi hỏi một số ít công nhân. Mặt khác thu nhập của người dân làm muối hiện nay rất thấp, với thu nhập bình quân là 90.000 đ/người thì không thể đảm bảo đủ trong điều kiện sống quá “đắt đỏ ”.
- Số lượng dự trữ thường xuyên mà Tổng Công ty Muối phải đảm bảo cung ứng cho dân cư và cho các ngành sản xuất khi có các điều kiện xấu( thiên tai, mất mùa. ..) xảy ra. Đồng thời để thực hiện nhiệm vụ bình ổn giá muối, Tổng Công ty Muối phải đảm bảo một lượng muối dự trữ theo nhu cầu.
- Phân bổ một khung giá hợp lý với dân cư miền núi, vùng sâu, vùng xa. Do điều kiện xa biển địa hình hiểm trở gây khó khăn cho công tác vận chuyển, vì thế lượng muối cần phải cung cấp cho đồng bào miền núi còn gặp nhiều trở ngại. Lượng muối cần thiết được cung cấp còn rất thấp, mặt khác đây là khu vực có thu nhập thấp nhất trong cả nước nên việc đưa ra một khung giá thích hợp với túi tiền của người dân miền núi là một chỉ tiêu xẫ hội rất đúng đắn, nó còn nói lên tính nhân đạo, sự quan tâm sâu sắc tới các dân tộc miền núi của Đảng và Nhà nước ta
3. Những nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty Muối và các doanh nghiệp trực thuộc.
3.1 Nhóm nhân tố bên trong
a. Nguồn nhân lực nhân tố con người.
Trong công cuộc khoa học kỹ thuật ngày nay người ta nói nhiều đến thiết bị máy móc và đó là lực lượng sản xuất trực tiếp. Vai trò của con người trong lao động ngày càng bị lu mờ đi nhưng có một điều mà không ai phủ nhận được đó là sức sáng tạo ra những máy móc thiết bị sửa chữa khi chúng bị hư hỏng đó chính là con người.
Với những trang thiết bị tối tân hiện đại không biết sử dụng thì thiệt hại gây ra rất lớn. Không thể dùng nhiều tiền để mua các máy móc trang thiết bị hiện đại trong khi đó trình độ sử dụng không có, điều đó chỉ gây ra lãng phí không cần thiết. Mặt khác với một nền kinh tế đang phát triển việc áp dụng khoa học kỹ thuật phải phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Dân số nước ta đứng hàng thứ 13 trên thế giơí vì vậy nguồn lao động phải được coi là quý giá. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi Doanh nghiệp lực lượng lao động của Doanh nghiệp tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả ở các mặt sau :
- Thứ nhất bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, nguyên liệu mới có hiệu suất cao
- Thứ hai trực tiếp điều khiển máy móc thiết bị để tạo ra kết quả cho Doanh nghiệp
- Thứ ba lao động có kỷ luật, chấp hành đúng nội quy quy định về thời gian về quy trình kỹ thuật sản xuất sản phẩm, quy trình bảo dưỡng máy móc thiết bị
Ngoài năng lực trình độ, kinh nghiệm thì tinh thần đoần kết bầu không khí xẫ hội trong Doanh nghiệp có tác động rất lớn đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Nếu trong Doanh nghiệp tạo ra được bầu không khí hoà hợp cấp trên quan tâm đến cấp dưới, ban lãnh đao tạo ra được sự tin cậy yêu mến của người lao động thì đó là liều thuốc vô cùng quý giá kích thích họ hăng say làm việc Điều này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc trong việc dùng người, cổ nhân đã từng nói một người có thể chưa làm được việc gì nhưng nếu để ba người cung làm thì có thể “ba cây chụm lại nên hòn núi cao ”, những phát minh, sáng chế, sáng tạo có thể bắt nguồn từ lòng đoàn kết, sự thân ái trong lao động. Chính vì vậy những người lãnh đạo Doanh nghiệp phải là những người hiểu biết tâm lý, biết kích thích tinh thần hăng say, năng nổ làm việc của nhân viên đó là biện pháp hữu hiệu để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh
b. Vốn đồng muối kho tàng.
- Vốn : là yếu tố rất quan trọng trong quá trình kinh doanh, đảm bảo cho Doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, tích cực đầu tư công nghệ, từng bước thâm nhập vào các thị trường mục tiêu. Vốn càng lớn sẽ là bước đệm đầu tiên tăng khả năng kinh doanh của Doanh nghiệp. Đối với một Doanh nghiệp mới thành phải đòi hỏi một số vốn nhất định, mà có lúc các Doanh nghiệp cần phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau.
- Đồng muối :là cơ sở quan trọng trong sản xuất và lưu thông muối. Năng suât muối cao hay thấp phụ thuộc vào chát lượng của đồng muối. Nếu đồng muối được khai thác có kế hoạch quy mô và tinh thần trách nhiệm cao thì năng suất và hiệu quả muối cao. Còn nếu như ai cũng khai thác bừa bãi sử dụng đông muối như của riêng mình thì sẽ dẫn đến hư hỏng và xuống cấp. Khi đó phải tốn kém một khoản chi phí của Nhà nước sửa chữa, nâng cấp đồng muối.
- Kho tàng :là nơi có thể dự trữ muối ngắn hạn và dài hạn. Kho tàng cũng có thể là nơi nhận để lưu thông muối trong thời gian rất ngắn, nhưng cũng có khi là nơi bảo quản muối tới mấy mùa vụ. Vì muối rất dễ chảy nước nên cách thức bảo quản muối rất riêng biệt đòi hỏi kho tàng phải chịu được độ ẩm, không để trong môi trường ẩm ướt và phải chịu được sự ăn mòn cao. Vì vây các kho tàng phải được xây dựng trên địa hình thuỷvăn kiên cố. ở nơi không khí thoáng mát và phải được xây dựng bằng những khối đá lớn.
Quá trình xây dựng kho tàng muối phải chi phí khá tốn kém cho nên để đảm bảo sản lượng dự trữ cho tiêu dùng và sản xuất cần nguồn vốn xây dựng cơ bản.
c.Uy tín, vị thế của doanh nghiệp
“Một sự bất tín, vạn sự bất tin” trong kinh doanh điều này trở nên đúng hơn bao giờ hết và đảm bảo được chữ tín còn đảm bảo được vị thế cho Doanh nghiệp
Uy tín thể hiện ở lòng tin với khách hàng, ở đối tác bạn hàng kinh doanh Nếu chúng ta nói hay làm dở, sản phẩm rất kém lại khuyếch trương là tuyệt hảo sẽ tới mất đi chữ tín, người tiêu dùng sẽ quay lưng lại với Doanh nghiệp và đôi khi họ cho rằng cách làm ăn như vậy là vô đạo đức. Do đó có được chữ tín đã khó giữ được chữ tín còn khó hơn, Muốn tạo ra uy tín và vị thế thực sự thì Doanh nghiệp phải trung thành với các sản phẩm của mình, phải tiếp thu sự phản hồi của khách hàng và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ. Làm như thế Doanh nghiệp chắc chắn sẽ tạo lập được uy tín, vị thế vững chắc vượt lên trên đối thủ cạnh tranh.
d. Thông tin, giá cả, cung cầu.
Giá cả là yếu tố mà khác hàng hết sức quan tâm, bởi vì nó phải phù hợp với túi tiền của người mua. Giá cả với các mặt hàng thiết yếu lại càng quan trọng hơn. Trước hết vì các mặt hàng thiết yếu không thể thiếu được cho nên dù giá có quá dắt thì người tiêu dùng vẫn phải mua. Nếu độ co giãn của cầu theo giá quá lớn thì sẽ gây ra tình trạng hỗn loạn trên thị trường. Trên thực tế độ co giãn của cầu theo giá của các mặt hàng thiết yếu là rất nhỏ. Nhưng vì tác động của các yếu tố vĩ mô như thời tiết xấu, các chính sách kinh tế, quản lý chưa tập trung sẽ dẫn tới cung vượt quá cầu hoặc cung không đáp ứng đủ cầu.
Tất cả các hiểu biết về tình hình giá cả, cung cầu đều phải được đưa qua một kênh đó chính là thông tin. Thông tin có ảnh hưởng lớn tới các quyết định kinh doanh của Doanh nghiệp, nó mang lại sự chính xác, kịp thời và hiệu quả cao nhất. Thông tin hiện nay được coi là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh, nền kinh tế thị trường được coi là nền kinh tế thông tin hoá, khối lượng thông tin rất lớn luôn luôn thay đổi đòi hỏi kỹ thuật truyền tin và nhận tin cũng phải thây đổi theo. Nếu Doanh nghiệp không quan tâm đúng đến thông tin một cách thường xuyên, liên tục, không nắm bắt được thông tin một cách kịp thời chính xác thì Doanh nghiệp dễ dàng bị thất bại trong kinh doanh dẫn đến hiệu quả kinh doanh sẽ thấp.
e. Trình độ tổ chức quản lý của Doanh nghiệp
Thực tiễn các Doanh nghiệp của các nước phát triển trong nền kinh tế thị trường cho thấy hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp đạt được sau mỗi kỳ kinh doanh cao hay thấp là do trình độ quản lý quyết định. Trình đọ quản lý cao của một Doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ Doanh nghiệp biết tạo lập được một cơ cấu tổ chức quản lý với tỷ lệ hợp lý, cơ cấu tổ chức được sắp xếp gọn nhẹ bố trí đúng người, đúng việc, chọn được những người có năng lực thực sự và được đào tạo, vận dụng có hiệu quả các phương pháp như: hành chính kinh tế, giáo dục tâm lý học trong quản lý; phân phối lợi ích công bằng, thực sự chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân viên, thực hiện ngiêm túc Pháp lệnh Nhà nước.
Tổ chức tốt quá trình kinh doanh cũng là một vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp. Cần phải lựa chọn quy mô kinh doanh thích hợp vói nhu cầu thi trường, tiềm năng của Doanh nghiệp. Các đầu vào được lựa chọn tối ưu sẽ tạo khả năng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm. Do đó có cơ sở để tăng lợi nhuận, tổ chức mạng lưới mua, mạng lưới tiêu thụ như thế nào là những vấn đè hết sức quan trọng ảnh hưởng tới doanh số bán chi phí và lợi nhuận của Doanh nghiệp. Hệ thống thu mua như thế nào dể đảm bảo nhanh chóng có hàng, chất lượng cao, giá rẻ phù hợp nhằm cung cấp thị trường. Sau khi sản phẩm được ra đời tiếp theo là chương trình kế hoạch tiêu thụ với các hìng thức quảng cáo khuyến mãi các sản phẩm của Doanh nghiệp để làm sao cho khách hàng biết đến và mua nhiều nhất.
3.2. Nhân tố vi mô
a. Khách hàng
Với mỗi một Doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, biệc xác định khu vực tiêu thụ, đối tượng, sở thích, thị hiếu, tâm lý. .. của khách hàng là tối cần thiết. Nếu trong thời bao cấp khách hàng phải đặt chỗ, chen lấn xô đẩy thì ngày nay hoàn toàn ngược lại người bán hàng phải làm thế nào để làm vừa lòng khách hàng nhất.
Đối với Tổng Công ty Muối, khách hàng chia ra làm hai loại: đó là khách hàng trong nước và khách hàng nước ngoài. Với khách hàng trong nước thu nhập chưa phải là đã cao (bình quân tại Hà nội và Thành phố Hồ Chi Minh có thu nhập từ 500.000-600.000đồng tháng). Nhưng muối là mặt hàng phục vụ dân sinh dù già hay trẻ, dù giàu hay nghèo trong bữa cơm không thể thiếu muối. Vì vậy có thể khẳng định khách hàng cua Tổng Công ty Muối là hầu khắp các tỉnh trong cả nước. Thị phần của Tổng Công ty Muối rất rộng lớn nhưng khả năng đáp ứng thị trường này mới chiếm 42% nhu cầu.
Bên cạnh đó là các đối tác, khách hàng nước ngoài. Loại khách hàng này đòi hỏi chất lượng muối cao, bao bì mẫu mã phải đẹp và hấp dẫn. Yêu cầu của lực lượng khách hàng này không phải ngay lập tức mà Doanh nghiệp Muối đáp ứng ngay được. Nhưng thị trường xuất khẩu là thị trường tiềm năng đối với Tổng Công ty Muối, nếu làm được điều này thì nguồn kim ngạch xuất khẩu tăng lên không ngừng đảm bảo mục tiêu hiệu quả mà Tổng Công ty Muối luôn phấn đấu.
b- Mạng lưới lưu thông.
Hoạt động sản xuất kinh doanh muốn có hiệu quả hay không đó là việc doanh nghiệp có tổ chức tốt mạng lưới lưu thông trôi trảy hay chưa. Tổ chức mạng lưới lưu thông suôn sẻ, nhịp nhàng sẽ làm tăng tốc độ cho quá trình tiêu thụ và giảm bớt chi phí cho quá trình sản xuất. Với sản xuất Muối nói riêng lưu thông là vấn đề mấu chốt của tiêu thụ Muối, là góc điểm để giải quyết bài toán cung- cầu. Có khi tại đồng bằng rất thừa muối nhưng lên đến vùng miền núi thì lại thiếu muối nghiêm trọng. Vậy điều cần thiết phải giải quyết là: cân đối lượng muối hai vùng, tức là nếu lưu thông không tốt thì không đạt hiệu quả. Gắn liền với lưu thông là chức năng tiêu thụ và phân phối, nếu lưu thông trục trặc thì sẽ dẫn đến tiêu thụ bị bế tắc. Vì vậy đối với riêng Tổng Công ty Muối giải quyết tốt vấn đề lưu thông được đưa lên hang đầu. Bởi nó ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả kinh doanh. Muốn đạt hiệu quả kinh doanh cao không chỉ đơn giản là sản xuất được nhiều sản phẩm, mà hiệu quả kinh tế đạt được chính là lợi nhuận mà hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra. Hai mục tiêu lợi nhuận và hiệu quả không đồng nhất nhưng lại gắn bó với nhau. Chính vì thế đẻ đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận thì mạng lưới lưu thông phải thông suốt.
c- Đối thủ cạnh tranh.
- Cạnh tranh bên ngoài Doanh nghiệp: Công ty nào muốn tồn tại đều phải có đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh để cùng phát triển và nếu kém cỏi sẽ bị cơ chế thị trường đào thải. Tính công bằng trong cạnh tranh là sẽ tạo ra những Doanh nghiệp có năng lực và khả năng phát triển nhất. Điều cốt yếu đối với các Doanh nghiệp Nhà nước nói riêng là họ phải sẵn sàng tham gia cạnh tranh, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm.. làm tất cả để vượt qua đối thủ của mình.
- Với Tổng công ty thì mạng lưới tư thương, hộ sản xuất thủ công và các thành phần kinh tế khác đều phải cạnh tranh với nhau. Trong quá trình cạnh tranh thì Doanh nghiệp phải hiểu được việc người tiêu dùng thông qua quyết định như thế nào... Từ đó có đối sách, kế hoạch sản xuất thích hợp với mong muốn của đa số ngưòi tiêu dùng.
d. Đối với các đối thủ cạnh tranh.
Trong nội bộ Doanh nghiệp: Xảy ra tình trạng cạnh tranh giữa Tổng công ty với các công ty con trực thuộc. Vậy phải làm sao vừa đảm bảo tính thống nhất đó là các công ty phải tự tìm những điểm mạnh phát huy tối đa nó trong sản xuất kinh doanh nhưng không xâm phạm đến lợi ích của công ty khác.
e- Người sản xuất.
Đây là lực lượng sản xuất trực tiếp ra sản phẩm quyết định sản lượng và chất lượng của sản phẩm. Đối với các Doanh nghiệp Muối lựa chọn nhà sản xuất- người cung ứng- cần được lựa chọn. Nếu có được danh sách các nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá đạt chất lượng cao, đủ số lượng cần thiết. Sau đó lựa chọn ra những người tốt nhất, không chỉ dựa vào năng lực kỹ thuật mà còn có khả năng giao hàng đúng hẹn, giá cả phải chăng, chất lượng hàng hoá đảm bảo và cung cấp các dịch vụ cần thiết. Để hoạt động kinh doanh tiến triển tốt đẹp mang lại hiệu quả cao các Doanh nghiệp cần điều động các cán bộ phổ biến kiến thức sản xuất mới để người sản xuất tiếp cận được với ánh sáng của khoa học kỹ thuật.
3.3- Môi trường vĩ mô.
a- Thời tiết và khí hậu.
Đây là nhân tố vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng sản phẩm muối. Nếu thời tiết giao động thất thường, hàng năm sản lượng giảm 30- 60% (tổng sản lượng muối). Do đó đây là yếu tố ngoại lai có tính chất quyết định đến mùa vụ. Không giống như các sản phẩm hàng hoá khác, quy trình sản xuất muối phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Có thể chỉ sau một cơn bão cả đồng muối bị mất trắng. Vì vậy cách duy nhất là Tổng Công ty Muối phải có sự cộng tác hàng ngày với trạm khí tượng thuỷ văn để có kế hoạch sản xuất và dự trữ muối thích hợp.
b- Chính sách của nhà nước.
Để quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung và các Doanh nghiệp nhà nước nói riêng, nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý hoặc các chính sách vĩ mô để điều tiết. Tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của từng thời kỳ, từng thị trường mà Nhà nước sử dụng biện._.g trọng điểm (những vùng có sản lượng muối lớn).
- Tăng số lượng mua cố định vào vụ thu hoạch: Do các công ty ở khá xa đồng muối, việc mua muối phải đặt ra kế hoạch trước, soạn thảo hợp đồng dài hạn với người sản xuất trong đó số lượng mua tăng lên.
- Phát triển các loại hình hợp tác xã muối: Về vốn, cơ sở hạ tầng máy móc trang thiết bị được Tổng công ty chu cấp, trả cước phí vận chuyển. Những đòi hỏi trong việc thu mua là nếu công ty có nhu cầu thì phải được đáp ứng ngay. Các doanh nghiệp khuyến khích sản xuất bằng cách trả hoa hồng cho khách hàng mua với số lượng lớn.
- Tăng cường mua sản xuất chế biến tại chỗ trên các đồng muối.
Thực chất của việc chế biến muối rất dễ thực hiện, dây chuyền công nghệ khá đơn giản. Vì thế sản xuất chế biến tại đồng muối giảm được chi phí vận chuyển, tăng cường sức cạnh tranh .
Đối với các sản phẩm muối thành phẩm cần phải giảm lượng mua, bởi vì công tác chế biến muối đòi hỏi sự kiểm định chất lượng, trọng lượng.
c. Mở rộng thị trường tăng cường khả năng bán lẻ.
Tăng cường khả năng bán lẻ giúp Tổng Công ty tăng hiệu suất sử dụng lao động dư thừa, tăng hiệu suất sử dụng các cửa hàng kho bãi để trống. Muốn vậy phải nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là điều kiện rất quan trọng trong kinh doanh muối.
Đối thủ cạnh tranh của Tổng Công ty chủ yếu là tư nhân, mặc dù vốn của tư nhân rất ít nhưng họ rất nhạy bén năng động linh hoạt phục vụ khách hàng tốt nhất. Với lợi thế mua hàng với giá rẻ khi bán ra họ sẽ hạ thấp hơn giá của Tổng Công ty vì thế sẽ hấp dẫn khách hàng hơn.
Mặt khác phục vụ mục tiêu của tư nhân là chạy theo lợi nhuận nên tìm mọi cách để hạ giá thành. Những người kinh doanh này đã vi phạm đạo đức trong kinh doanh, họ có thể làm giả bao muối, có những bao bì đề là Iốt nhưng bên trong lại là muối trắng .
Chính sự cạnh tranh không lành mạnh đã hạn chế kế hoạch mở rộng thị trường. Vì thế muốn tạo được danh tiếng có chỗ đứng trên thị trường, Tổng Công ty cần phải nâng cao chất lượng bao bì giá cả, phương thức bán hàng theo phuơng thức đảm bảo yêu cầu thuận lợi nhất cho khách hàng .
Hoàn thiện hệ thống phân phối để tăng khả năng giữ vững và mở rộng thị trường. Hệ thống phân phối bao gồm cả hệ thống bán buôn và bán lẻ, tránh cho các điểm tiêu thụ trùng nhau.
- Thiết lập hệ thống tổ chức bán buôn, đại lý bán lẻ trực thuộc hệ thống phân phối của doanh nghiệp .
- Tăng cường hệ thống quầy hàng phục vụ thuận tiện. Đối với các quầy hàng nên đa dạng chủng loại ngoài muối Iốt, bột canh Iốt còn có mắm tôm, nước mắm Iốt và kinh doanh các mặt hàng thực phẩm.
- Thành lập các văn phòng giao dịch với khách hàng trên thị trường ngoại tỉnh.
- Xây dựng hệ thống thu thập xử lý thông tin thị trường kịp thời, nhân viên bán hàng cần nắm vững các thủ tục và nghiệp vụ mua bán đáp ứng được các yêu cầu đề ra của doanh nghiệp, tạo điều kiện rút ngắn thời gian sản phẩm nằm trong lưu thông.
- Ngoài việc cải tạo hệ thống kênh phân phối hợp lý các doanh nghiệp chú ý tới khâu lưu thông và bảo quản. Hiện nay trên mạng lưới lưu thông xuất hiện rất nhiều các thành phần trung gian. Từ người sản xuất, người tiêu dùng thực hiện mua bán trao đổi hàng hoá với Tổng Công ty đều phải qua các khâu trung gian chủ yếu là tư nhân. Lực lượng tư nhân này cản trở rất nhiều tới kênh phân phối làm rối loạn tình hình thị trường. Tư tưởng của khâu trung gian là kiếm lời từ việc mua rẻ bán đắt. Thực tế lực lượng trung gian quá nhiều nó trở thành đối thủ cạnh tranh ép giá của Tổng Công ty vì vậy các doanh nghiệp phải có biện pháp ứng phó với tầng lớp trung gian này không để làm rối loạn giá cả.
Biện pháp để hạn chế trung gian là quản lý tốt khâu đầu vào và đầu ra khi đó lượng trung gian sẽ giảm hẳn và không thể gây ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty. Đối với các thành phố trọng điểm như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố khác nâng cao mức hoa hồng cho các đại lý.
Xu thế về chủ trương của Chính Phủ ban hành nghị định 481/T sẽ có khả năng tạo cơ hội mở rộng thị trường muối Iốt đồng bằng sau khi Nghị định được ban hành. Với lợi thế mạng lưới xí nghiệp muối Iốt được bố trí tiếp cận nguồn nguyên liệu ở đầu mối giao thông trải đều trên ba vùng thị trường ( Bắc - Trung - Nam ). Đa phần các xí nghiệp này đều được trang bị dây chuyền muối tinh chế nên sản phẩm sản xuất chất lượng tốt. Tuy nhiên, chiếm lĩnh thị trường đã khó song củng cố đứng vững trên thị trường đó lại khó hơn. Vì vậy các đơn vị cần hết sức quan tâm phát triển mạng lưới bán buôn bán lẻ mở rộng các mối quan hệ với các thị trường, có chiến lược trong khâu tạo quan hệ với các khách hàng mới, giữ khách hàng cũ biến thành bạn hàng và hợp tác lâu dài.
Trong kế hoạch xây dựng chiến lược mở rộng thị trường, đối với thị trường trong nước củng cố mối quan hệ với các tỉnh miền núi vốn đã có quan hệ truyền thống từ lâu và ổn định. Đối với thị trường xuất khẩu cần giữ được bạn hàng Liên Xô (cũ) trước đây.
d.Chiến lược giá cả hạn chế đối thủ cạnh tranh.
Trong thời kỳ bao cấp ngành muối độc quyền về giá, giá muối do Bộ Thương Mại quy định được thống nhất trên toàn quốc. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần tạo sự cạnh tranh trong ngành muối. Vì vậy giá cả hiện nay hoàn toàn do cung cầu quy định, thị trường được thả nổi để bàn tay vô hình điều tiết. Tổng Công ty Muối cũng giống như các doanh nghiệp khác tham gia vào sản xuất kinh doanh muối một cách bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên việc thả nổi thị trường đã tạo ra rất nhiều những tổn thất xã hội đòi hỏi ngành muối phát triển theo cơ chế thị trường nhưng phải có sự quản lý của Nhà nước thông qua Tổng Công ty Muối Việt nam. Sản lượng muối tiêu dùng hàng năm tương đối ổn định nhưng giá cả trong những năm qua có nhiều biến động . Thị trường định giá một cách tự do, nổi bật trong giai đoạn này là tư thương ép giá Tổng Công ty và người sản xuất làm cho giá muối tăng lên không bình thường. Giá cả nâng lên một cách tự do lên xuống bất thường sẽ tạo nên những cơn sốt muối. Trước tình hình này Tổng Công ty Muối phải thực hiện các biện pháp của chính sách giá cả. Đó là:
Đối với mặt hàng muối tiêu dùng Tổng Công ty chủ động quy định một khoảng giá giao động trên thị trường. Nếu giá thị trường lớn hơn giới hạn trên của quy định hoặc nhỏ hơn thì phải có các biện pháp hữu hiệu .
Xét hai trường hợp:
* Khi giá quá cao > khoảng giới hạn trên: trường hợp này xảy ra khi cung không đủ cầu, giá cao nếu không có dự trữ Tổng Công ty sẽ khó mua bởi vì khi đó sẽ đẩy giá thành lên cao. Vì vậy Tổng Công ty thực hiện các biện pháp như sau:
- Trước hết có kế hoạch điều muối từ miền Nam ra miền Bắc ổn định sản lượng miền Bắc.
- Biện pháp thứ hai là huy động lượng dự trữ trong dân bán cho Tổng Công ty nhưng số lượng mua của dân không đáng kể. Nên chủ yếu là phải tung ra thị trường lượng muối dự trữ. Việc lấy lượng muối dự trữ ra lưu thông chỉ khi nào thị trường xấu nhất mà Tổng Công ty chưa biện pháp khắc phục. Tuy nhiên lượng muối dự trữ ở đây phải được bảo quản tốt trong thời gian cho phép (do tính chất của muối là để quá lâu sẽ bị chảy nước ), đồng thời lượng dự trữ này không được quá nhiều hay quá ít.
Biện pháp 1: tăng cường mua muối của dân bằng các nguồn vốn mà Tổng Công ty có thể huy động được. Tốt nhất là Tổng Công ty luôn dành riêng một khoản tiền thường trực để mua muối của dân. Trong trường hợp này nếu không huy động được tiền mua thì cơ hội mua với giá rẻ sẽ không có.
Biện pháp 2 : Thoả thuận với người sản xuất hạn chế bán cho tư thương bằng cách đặt mua với một mức giá cố định cao hơn giá thi trường tại thời đIểm đó. Việc mua với giá cao hơn Tổng Công ty sẽ đảm bảo lợi ích cho người sản xuất muối vừa hạn chế tư thương không thể “vơ vét “ hết sản lượng muối trên thị trường.
* Khi giá nhỏ hơn giới hạn dưới của khoảng dao động: trong trường hợp này giá muối quá thấp người sản xuất muối sẽ bị thất thu vì giá muối. Vì vậy để đảm bảo lợi ích cho họ Tổng Công ty Muối sẽ mua với giá cao hơn giá giới hạn dưới.
Đối với mặt hàng muối công nghiệp phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu nhu cầu càng ngày càng tăng lên.
Khách hàng thuộc Tổng Công ty thường là những khách hàng lớn vì vậy trong qua trình buôn bán Tổng Công ty phải có sự “ưu ái” đặc biệt nhằm thỏa mãn và hài lòng khách hàng. Chẳng hạn như giá bán có thể giảm 1 - 2 giá, không lấy cước phí vận chuyển, bốc xếp, cho các doanh nghiệp được phép thanh toán chậm trong một thời gian ngắn. Với các nhà sản xuất trong nước có nhu cầu muối công nghiệp thì Tổng Công ty sẽ thoả thuận một mức giá nào đó để khi cung cầu tăng giảm vẫn đảm bảo cho các nhà sản xuất này.
Đối với mặt hàng muối Iốt miền núi:
Trước hết đây là vùng dân cư nghèo thu nhập thấp, địa hình vô cùng hiểm trở, gây khó khăn cho việc vận chuyển. Theo cách suy luận bình thường khi chi phí vận chuyển tăng thì giá sẽ tăng tỷ lệ thuận với độ tăng chi phí. Nhưng với vùng miền núi ,vùng sâu, vùng xa Tổng Công ty Muối phải đặt ra những khung giá thích hợp, thông thường giá muối Iốt miền núi thấp hơn giá đồng bằng, hiện tại giá muối miền núi là 550 đồng/kg còn ở đồng bằng 650 đồng/kg
Việc đặt ra một khung giá thấp cho miền núi hoàn toàn mang tính chất xã hội. ở thị trường này Tổng Công ty không có lãi vì chi phí vận chuyển quá lớn. Năm 1994 Nhà nước có quyết định cấp không muối Iốt cho các tỉnh miền núi, bắt đầu từ năm 1995 Tổng Công ty thực hiện bán muối cho dân nhưng giá muối được Nhà nước bù lỗ.
3. Các giải pháp thuộc về tổ chức quản lý nội bộ doanh nghiệp.
3.1 Tổ chức tốt lao động tăng cường động viên khuyến khích để nâng cao hiệu quả lao động.
Hiện nay trong toàn Tổng Công ty vẫn còn một số lượng lớn lao động dư thừa, vì số lao động này phần lớn là không có trình độ, nhưng không thể đẩy họ ra ngoài xã hội được vì vậy Tổng Công ty phải có các chính sách đúng đắn :
- Cho nghỉ những người nào đúng tuổi về hưu.
- Tạo công ăn việc làm cho họ bằng cách : bán hàng tại các đại lý muối của Tổng Công ty hoặc cấp cho họ một khoản vốn ban đầu để họ tự mở cửa hàng kinh doanh. Đối với những người có đạo đức tốt thì cách này rất hữu ích, tăng cường khả năng bán lẻ cho Tổng Công ty
- Với các xí nghiệp quá đông nhân viên, thì phải cho nghỉ luân phiên.
Phong cách làm việc của các doanh nghiệp hiện nay là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nhân viên phải có năng lực thực sự, có trình độ chuyên môn và năng động nhạy bén với sự thay đổi thị trường. Chính vì thế khi giao việc phải giao cho người giỏi, khi xác định vị trí công việc cần bố trí theo năng lực của nhân viên tránh tình trạng thân quen, tình cảm riêng để sắp xếp công việc.
Đối với các nhân viên cần được khuyến khích vật chất tinh thần để động viên tính tích cực, sáng tạo, có hiệu quả trí lực, thể lực của người lao động. Một thực tế hện nay là các giám đốc doanh nghiệp chưa giải quyết tốt mối quan hệ nhân viên và ban điều hành. Muốn vậy việc chỉ đạo từ trên xuống phảI được thông xuốt và có tính hai chiều, ban điều hành cũng phải sửa đổi theo sự đóng góp ý kiến của nhân viên. Sự quan tâm động viên sẽ làm cho hiệu suất lao động tăng lên nhanh chóng. Chủ doanh nghiệp (Ban lãnh đạo doanh nghiệp ) phải am hiểu về lĩnh vực tinh thần phải tạo ra cho doanh nghiệp một bầu không khí thoải mái, tinh thần đoàn kết hăng say làm việc. Nhưng đồng thời cũng cần phải có phần thưởng về mặt vật chất, ngoài lương hiện nay phải có chế độ thưởng dựa vào hiệu suất kết quả công việc, tiền thưởng có thể được phát bất kỳ chứ không để đến dịp lễ tết.
Đồng thời tổ chức các hội thi tay nghề, có kế hoạch đào tạo lại, nâng cao tay nghề người lao động.
Như vậy bằng cách khuyến khích vật chất, tinh thần sẽ củng cố tinh thần làm việc của các nhân viên, giữ được sự trung thành gắn bó với Tổng công ty Muối.
3.2. Cải tiến nâng cao năng lực lãnh đạo của người quản lý.
Thực trạng của bộ máy quản lý đội ngũ cán bộ tại Tổng Công ty Muối như đã phân tích ở chương II cho thấy rằng muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh cần phải giải quyết các vấn đề sau:
- Trẻ hoá đội ngũ quản lý, lựa chọn những người có đầy đủ các yếu tố của một nhà lãnh đạo giỏi, có thể phát huy tác dụng tổng hợp các điều kiện nguồn lực hiện có và nhạy bén với các biến động của môi trường xung quanh.
- Đối với các cấp quản lý lãnh đạo ở các địa phương thì công việc của nội bộ công ty phải để công ty đó tự giải quyết. Tổng Công ty chỉ kiểm tra và khảo sát tình hình thực tế của các đơn vị thành viên. Khi nào mà các đơn vị thành viên xảy ra các trình trạng không có khả năng thanh toán, tham nhũng, lập quỹ đen .. . lúc đó Tổng Công ty mới trực tiếp can thiêp.
- Trong việc lựa chọn đề bạt cán bộ quản lý, doanh nghiệp cần phải để ra các tiêu chuẩn cụ thể cho từng vị trí. Ngoài tiêu chuẩn về trình độ thì tư cách đạo đức, uy tín thật sự của người đó với tập thể rất quan trọng. Nhưng cần tránh đưa những người kéo bè, kéo cánh tạo bờ thế dể “leo” lên những chức vụ quan trọng.
Đối với người lãnh đạo, ngoài việc có trình độ năng lực quản lý, kinh nghiệm được “tôi luyện” ngoài thực tế thì phẩm chất chính - tư cách đạo đức có vị trí vô cùng quan trọng. Giám đốc, Tổng giám đốc - người trực tiếp quản lý đại diện giao dịch với các công ty và với cơ quan Nhà nước là người đại diện cho danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp . Vì vậy đạo đức như là một cái gương soi mọi soi mọi hành vi của họ. Một giám đốc có tư cách đạo đức tốt sẽ buộc nhân mọi viên phải tiến hành công việc và có trách nhiệm cao. Giám đốc thực hiện lòng trung thành tuyệt đối với doanh nghiệp và các nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật .
- Bộ máy tổ chức của công ty cần phải cải tiến theo hướng tăng cường các bộ phận chuyên trách như bộ phận marketing, bộ phận bán hàng, bộ phận thử nghiệm sản phẩm... và không nên đi vào kiểu 1 phòng ban đảm nhiệm quá nhiều trọng trách .
- Người lãnh đạo tạo ra bầu không khí đoàn kết thông nhất trong nội bộ doanh nghiệp, tăng cường tính dân chủ trong quản lý, triệt để phát huy tính chủ động sáng tạo của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Cần quán triệt nguyên tắc: Con người là chủ thể quản lý, quản lý phải lấy con người làm gốc.
Tăng cường nhân tài quản trị trong doanh nghiệp bằng các biện pháp:
- Xây dựng và kiện toàn hệ thống phát triển nhân tài bao gồm các quá trình đào tạo, sử dụng, đề bạt, thưởng phạt.
- Có quy hoạch lâu dài về tuyển chọn, đào tạo nhân tài và đưa vấn đề này vào mục tiêu phát triển chung của toàn Tổng Công ty trong dài hạn.
- Đào tạo số lượng cán bộ quản lý và đề ra nhiệm vụ là phải luôn luôn học hỏi những lý thuyết quản trị hiện đại để áp dụng có hiệu quả.
- Người lãnh đạo Tổng Công ty và các công ty phải là người có đầu óc tiên tiến, phải xoá bỏ hết các cung cách làm việc ỷ lại thời bao cấp. Bây giờ họ phải chú ý tới các chiến lược, thông tin , giá cả , thị trường , pháp luật.. .
- Hiện đại hoá phương tiện quản lý để đảm bảo xử lý thông tin kịp thời nhanh chóng. Tuy nhiên, không được quá lạm dụng quỹ phát triển để sử dụng vào các phương tiện quản lý một cách lãng phí.
3.3. Giải pháp về vốn, công nghệ.
Vốn: Mở rộng nguồn vốn, tìm kiếm phát triển thêm các nguồn vốn như vay của dân, huy động từ lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất. Những giải pháp vay vốn chủ yếu là vay ngân hàng, vấn đề chính cần phải giải quyết là: đẩy mạnh tốc độ quay vòng vốn.
Các biện pháp tăng tốc độ quay vòng vốn là:
- Tăng cường tích luỹ, giảm chi phí đến mức thấp nhất.
- Không để số lãi của ngân hàng tồn đọng từ năm này sang năm khác mà có kế hoạch trả ngay.
Ngoài ra nguồn vố còn phải được bổ sung bằng cách tận dụng từ nguồn ngân sách Nhà nước. Cần tranh thủ các chính sách ưu đãi của chính phủ, ngành để mở rộng quy mô sản xuất, tăng hiệu quả kinh doanh.
Các giải pháp phát triển công nghệ: có hai giải pháp. Một là mua mới hoàn toàn, hai là đổi mới cải tiến các dây chuyền cũ theo các mẫu mã kiểu hiện đại
ở nước ta nên lựa chọn đổi mới công nghệ sản xuất muối theo cách thứ hai tức là cải tiến theo các dây chuyền công nghệ hiện đại. Làm như thế giá thành sẽ giảm rất nhiều, lựa chọn được công nghệ thích hợp với túi tiền hoàn cảnh nước ta.
Những dây chuyền công nghệ kỹ thuật mà Tổng Công ty đã làm được đó là: sử dụng rộng rãi công nghệ rửa muối tại đồng và để đưa chất lượng muối đạt tiêu chuẩn của các nước tiên tiến (nồng độ NaCl >98% -99%) và đồng bộ hoá từ khâu kết tinh, bảo quản, vận chuyển. Đối với muối tinh chế sử dụng phương pháp bốc hơi chân không để nấu muối, hạn chế đi đến xoá bỏ phương pháp bốc hơi nồi hở và nấu trực tiếp vừa tốn năng lượng ảnh hưởng tới môi trường. Sử dụng các dây chuyền nghiền, trộn, rửa, sấy khô hiện đại.
Đặc biệt năm 1997, Tổng Công ty đã hoàn thành dây chuyền bao gói tự động, tự động cân, đóng góp phần đảm bảo chất lượng giảm bớt gánh nặng cho người lao động.
II. Những giảI pháp nhằm kết hợp hàI hoà giữa nhiệm vụ xã hội và nhiệm vụ kinh doanh.
1. Chính sách quản lý của Nhà nước .
ở các chương trên cho thấy để Tổng Công ty kết hợp hài hoà hai nhiệm vụ kinh doanh và xã hội cần phải có sự hỗ trợ từ các chính sách quản lý của Nhà nước. Thực chất nhiệm vụ xã hội mà Tổng Công ty phải thực hiện đó là nhiệm vụ Nhà nước giao phó. Tổng Công ty Muối là công cụ vĩ mô để Nhà nước thực hiện các chỉ tiêu xã hội. Vì vậy trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội cần phải có sự trợ giúp tích cực vào cơ chế, chính sách quản lý. Đặt vấn đề ra như trên không có nghĩa là Tổng công ty Muối sẽ ỷ lại hoàn toàn vào Nhà nước hoặc sẽ nghiêm chỉnh đến cứng nhắc khi thực hiện kế hoạch cuả Nhà nước. Các chính sách quản lý Nhà nước đã có phần ưu ái Tổng Công ty hơn so với các thành phần kinh tế khác, hỗ trợ để Tổng Công ty luôn giữ vai trò chủ đạo trong nghành muối.
Chính sách tài chính:
- Để bình ổn giá cả trên thị trường muối, Nhà nước cần quy định một mức giá trần về muối. Bởi vì đề phòng khi giá quá cao gây nên các cơn sốt muối, thì Tổng công ty và người sản xuất bị thiệt hại nhiều nhất. Khi giá cao kéo dài, Tổng công ty bán với giá thị trường nhưng giá mua vào cũng cao do đó lợi nhuận thấp, vì thế Nhà nước cần hỗ trợ một lượng vốn để Tổng công ty có thể mua khi có nhu cầu.
- Đối với muối Iốt bán cho các tỉnh miền núi, Nhà nước tiếp tục hỗ trợ cước phí vận chuyển, tiền công trộn Iốt, bao bì để dân cư miền núi có thể mua với mức giá thấp hơn ở đồng bằng.
- Ngân sách dành cho phổ cập muối Iốt tạI miền núi nên giao trực tiếp cho các địa phương quản lý hoặc các cơ sở sản xuất muối Iốt quản lý. Giao trực tiếp ngân sách như vậy sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tại địa phương nhanh chóng điều hoà được cung cầu tại thị trường đó, giảm bớt những thủ tục phiền hà, thời gian vô ích khi các đơn vị thành viên đi xin kinh phí.
-Nguồn thu ngân sách từ ngành muối cần được tái đầu tư để lại để phát triển nghề muối trong các trường hợp như :
a. Trợ giúp dân gặp thiên tai, trợ giúp giá khi họ thu hoạch quá nhiều làm cho mất giá, cũng như trợ giá để khuyến khích người làm muối xuất khẩu và làm muối công nghiệp.
b. Đầu tư cải tạo xây dựng các đồng muối, cơ giới hoá và hiện đại hoá ngành muối .
Các đề nghị cụ thể về các chính sách tài chính Nhà nước là:
- Vốn: Nhà nước nên cấp đủ số tiền để mua đủ số lượng Muối mà Nhà nước yêu cầu. Tổng công ty Muối phải dự trữ khoản vốn mà Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp, nên tính theo giá hiện thời tránh tình trạng giá thay đổi qua nhiều năm. Ngoài hỗ trợ vốn cho dự trữ Nhà nước còn phải hỗ trợ xây dựng các công trình xây dựng cơ bản. cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống.
- Bù lỗ: Trong trường hợp mua muối dự trữ tại thời điểm giá cao khi giá bị giảm nhanh thì Nhà nước nên tính toán để bù lỗ khoản chênh lệch này. Bù lỗ cho các khoản cước phí vận chuyển, bốc xếp cung cấp muối cho miền núi, bù lỗ do vận chuyển từ Nam ra Bắc để bình ổn giá cả . Nhà nước phải đảm bảo không chiếm dụng và không thu hẹp vốn kinh doanh của Tổng công ty .
- Thuế : Đưa thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất, các loại thuế kinh doanh khác, tăng thuế gián thu đối vơí các đối tượng sản xuất kinh doanh. Nhà nước phải xác định được thuế muối là nguồn ngân sách hỗ trợ đảm bảo quá trình tái đầu tư sản xuất muối. Cần thay đổi cách nhìn nhận trước đây không hề coi trọng nguồn thu thuế từ muối, không thực hiện đăng ký kinh doanh muối. Tất cả các đơn vị cá nhân kinh doanh muối phải nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước .
- Việc thu thuế đưa khấu hao về giá thành đẻ định giá bán, không loại trừ cho bất cứ đối tượng tiêu dùng nào để nhanh chóng đưa muối trở thành một loại hàng hoá có giá trị trên thị trường . Việc đánh thuế không nhằm mục đích giảm doanh thu của các doanh nghiệp kinh doanh muối. ý nghĩa của việc đánh thuế là nâng cao giá trị thương phẩm mặt hàng muối đồng thời tăng nguồn thu tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất .
Chính sách tín dụng:
- Để kinh doanh muối bình thường, không gây biến động cần tránh tình trạng ép giá của tư thương. Tư thương ép giá của người sản xuất khi tới mùa thu hoạch “giá hạ phải bán rẻ”. Để đảm bảo lợi ích cho người sản xuất đòi hỏi các doanh nghiệp muối Nhà nước có một số vốn lưu động cần thiết để mua số lượng dư thừa này .
- Tuy nhiên vốn lưu động của Tổng Công ty còn quá ít, vì thế Nhà nước cần có chính sách cấp vốn lưu động cho Tổng Công ty muối. Vì thực hiện nhiệm vụ xã hội của Tổng Công ty khi phổ cập muối Iốt rất khó khăn đòi hỏi phải có kinh phí lớn để tuyên truyền, giáo dục, quảng cáo... Bên cạnh đó việc vay vốn ngân hàng hiện nay, lãi xuất quá cao, vốn của Tổng Công ty hay bị ứ đọng do khách hàng trả chậm tiền. Đặc điểm của kinh doanh muối có tính chất mùa vụ. Khi mà Tổng công ty đã nhận định được nhu cầu sắp tới khan hiếm muối và phải mua muối ngay nhưng vì vốn không có nên doanh nghiệp đánh tuột mất thời cơ. Do đó đối với việc vay vốn ngân hàng Nhà nước có những quy chế rõ ràng để các tổ chức tín dụng ngân hàng Nhà nước có sự ưu tiên đáp ứng đủ vốn cho công ty, đồng thời Nhà nước cần phải có kế hoạch chỉ đạo các ngân hàng thương mại để các ngân hàng này sẵn sàng cung cấp tiền mặt cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên vay được bất cứ lúc nào với lãi suất thích hợp theo cơ chế hiện nay vay theo thế chấp, cầm cố thì các doanh nghiệp muối vay khó hơn.
2. Cần đảm bảo sự nhất quán trong kế hoạch điều động bình ổn giá của Tổng công ty .
Trong điều kiện sản xuất mùa vụ sút kém, giá muối tăng đột ngột cấn có sự chỉ đạo nhất quán trong kế hoạch điều động bình ổn giá cả. Nhà nước chỉ huy điều tiết các doanh nghiệp vận chuyển điều hoà sản lượng giữa các vùng. Tuy nhiên khi có sự bất ổn trên thị trường, cung vượt hoặc thấp hơn cầu thị Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn phải tính toán định mức thiếu hụt cụ thể để Tổng công ty có kế hoạch phù hợp để từ đó Tổng công ty sẽ điều động các công ty nào cần tham gia và số lượng bao nhiêu, thời hạn như thế nào, phải tránh không điều động ồ ạt dẫn đến tình trạng thị trường cần bổ xung lại dư thừa quá nhiều, giá cả giảm thấp hơn giá mua vào làm cho lỗ lớn.
III. Những kiến nghị khác đối với Nhà nước .
1. Phương án sắp xếp lại để tổ chức của Tổng Công ty Muối Việt Nam.
Trong những năm qua khâu tổ chức, quản lý của Tổng công ty còn rất nhiều yếu kém. Trong nội bộ Tổng công ty luôn xảy ra tình trạng cạnh tranh giữa các đơn vị thành viên, vô hình chung đã làm thiệt hại tới hiệu quả kinh doanh chung.
Chính vì vậy việc sắp xếp lại tổ chức Tổng Công ty Muối là rất cần thiết phải được thực hiện trong thời gian ngắn nhất.
Phương châm xây dựng lại tổ chức của Tổng công ty Muối theo kiểu một tập đoàn kinh tế, trong đó Tổng Công ty (văn phòng) đóng vai trò nòng cốt đưa ngành muối trở thành nghành công nghiệp mạnh trong 5-10 năm tới và các công ty con là các doanh nghiệp thành viên có thể cạnh tranh với Tổng công ty trên thị trường, thực hiện phương hướng phát triển chung tuân theo sự quản lý chỉ đạo của Tổng công ty .
Theo mô hình này các doanh nghiệp thành viên sẽ hoạt động theo sự phân đoạn thị trường, không gây ảnh hưởng như chèn ép phá giá lấn nhau. Các công ty này sẽ tuân thủ nguyên tắc có cạnh tranh, nhưng không làm thiệt chung tới lợi ích của toàn Tổng công ty. Mô hình tổ chức Tổng công ty Muối được trình bày như sau (Xem sơ đồ trang sau).
* Các kiến nghị với nhà nước:
a. ở các khu vực sản xuất của dân:
- Nhà nước sớm ban hành điều lệ thành lập hợp tác xã muối theo hướng sản xuất dịch vụ, hỗ trợ vốn cho các gia đình khó khăn. Có chính sách ưu đãi để dân làm muối vay vốn của hợp tác xã, để khai hoang phục vụ cải tạo đồng muối, đầu tư thiết bị.
b. Bảo đảm sản xuất muối phục vụ sản xuất trong nước tiến tới hạn chế nhập khẩu:
- Thống nhất quản lý vào một mốc các xí nghiệp muối công nghiệp và xuất khẩu hiện có. Đẩy mạnh xây dựng đòng muối theo quy hoạch các đồng muối này phải có quy mô lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
- Tăng thuế nhập khẩu muối
c) Hỗ trợ vốn cho Tổng công ty và các đơn vị thành viên
Để tiến tới mô hình tập đoàn, Tổng công ty và các công ty con phảI có địa bàn hoạt động sản xuất , kinh doanh nhất định. Vì thế đòi hỏi Nhà nước hỗ trợ một số vốn ban đầu, đầu thực hiện tổ chức lại. Để tập đoàn hoạt động hiệu quả thì Nhà nước chỉ can thiệp quản lý hệ thống doanh nghiệp công ích còn lại là hệ thống các xí nghiệp muối xuất khẩu và các xí nghiệp muối công nghiệp thì kinh doanh tự do.
Bên cạnh đó Nhà nước cần tạo điều kiện để Tổng công ty muối tiếp nhận thiết bị công nghệ tiên tiến vào ngành muối Việt Nam. Muốn cho guồng máy tổ chức mới hoạt động có hiệu quả thì Tổng công ty phải luôn tìm mọi cách để nâng cao lợi nhuận bằng việc cải tiến công nghệ nâng cao chất lượng.
2- Nhà nước có hỗ trợ giúp trong việc mở rộng thị trường .
* Đối với sản xuất trong nước: Nhà nước cần chú trọng vào ngành công nghiệp chế biến muối, và các sản phẩm được chế biến từ muối. Với các sản phẩm chế biến muối có chất lượng cao sẽ rễ ràng thâm nhập vào thị trường trong nước và xuất khẩu để mở rộng thị trường trong nước Tổng công ty đã tìm cách đa dạng hoá mặt hàng như bột canh Iốt, mắm Iốt, các sản phẩm phục vụ công nghiệp hàn Thiếc, Thạch cao, nước ót. . . Tuy nhiên các ngành này rất cần sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước tăng cường khả năng xuất khẩu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
* Đối với thị trường nước ngoài : Nhà nước cần giảm thuế xuất khẩu muối để kích thích người sản xuất giúp các doanh nghiệp muối đưa các sản phẩm tham gia vào các hội chợ quốc tế.
3- Nhà nước đầu tư phát triển hệ thống thông tin thị trường muối.
Chính vì hệ thống thông tin thị trường còn nhiều vấn đề hạn chế, yếu và lộn xộn trong kinh doanh nên chưa có các dự báo, kế hoạch sát sao. Điều đó làm bỏ lỡ những cơ hội và không sao tránh được rủi ro trong kinh doanh Muối. Vì vậy Nhà nước cần có những biện pháp kịp thời phục vụ cho thị trường này.
Về mặt tổ chức cần phải có một bộ phận chuyên trách để thu thập nghiên cứu xử lý và cung cấp thông tin cung cầu giá cả và các vấn đề liên quan khác tới thị trường kể cả trong nước và nước ngoài, cụ thể là :
- Đầu tư kinh phí cho các thiết bị, phương tiện để hiện đại hoá hệ thống thông tin.
- Việc thu thập xử lý thông tin cà sử dụng thông tin về các vấn đề thị trường trong nước và quốc tế như cung cầu về Muối, giá cả muối cúng như cá dự báo khác về kế hoạch thực hiện giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý.
4- Chính sách mua muối của dân.
Do đặc điểm về thị trường muối, cung cầu giá cả luôn luôn biến động đột biến nên phải có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước quy định về muối bắt buộc các quốc doanh phải mua muối bằng một mức giá bằng hoặc trên giá để đảm bảo lợi ích người nông dân. Nhưng trong thực tế người sản xuất không bán được giá cao và do đó không được hưởng lợi ích nào mà Nhà nước dành cho. Bởi vì Tổng Công ty Muối và các đơn vị thành viên không đủ vốn để mua muối trực tiếp từ người sản xuất, thường xuyên phải mua qua trung gian với giá cao. Đặc biệt là các tỉnh phía Nam Công ty Muối III mua muối 100% qua trung gian. Do đó đối với chính sách giá muối Nhà nước nên sử dụng điều tiết thông qua trợ giá, giảm thuế cho người sản xuất Muối.
Nhà nước bù lỗ cho Tổng Công ty Muối thì phần lãi lại rơi vào túi tư thương do hưởng chênh lệch giá, còn nếu không bù lỗ thì một sỗ công ty dẫn tới phá sản. Do đó để nâng cao hiệu quả sử dụng Muối Nhà nước nên có những quy định ràng buộc người sản xuất và các . . . chặt chẽ muối từ khâu đầu vào, đầu ra cho tới tiêu thụ sản phẩm.
Kết luận
***
-Tóm lại qua quá trình tìm hiểu kết quả kinh doanh, phân tích tình hình kinh doanh tại Tổng công ty Muối vấn đề nổi bật mà Tổng công ty phải giải quyết trước mắt và lâu dài đó là vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh. Muốn tăng doanh thu, lợi nhuận, thực hiện tốt các chỉ tiêu xã hội Tổng công ty phảI khắc phục những hạn chế tồn tại trong tổ chức quản lý và trong quá trình kinh doanh, từ nghiên cứu thị trường cho tới tiêu thụ sản phẩm.
Khác hẳn với các thành phần kinh tế khác Tổng công ty có hai chức năng vô cùng quan trọng đó là kinh doanh, quản lý hệ thống doanh nghiệp Muối Nhà nước. Trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh thì nhiệm vụ đặt ra cho Tổng công ty phải hài hoà hai nhiệm vụ kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận và nhiệm vụ xã hội. Hai nhiệm vụ này hoàn toàn không tách biệt mà chúng bổ xung hỗ trợ và cùng tồn tại trong kế hoạch của Tổng công ty .
Trên thực tế để thực hiện các nhiện vụ có hiệu quả đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước . Nhà nước hỗ trợ vốn kinh doanh , thực hiện trợ cấp trợ giá muối Iốt cho miền núi . Nhà nước có những chủ trương quy định các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp muối vay với một lãi xuất thích hợp và rút ngắn thời gian làm các thủ tục rườm rà .Nhà nước hỗ trợ người sản xuất muối bằng cách đặt ra một khung giá thích hợp , bảo đảm lợi ích cho người sản xuất .
Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, Tổng công ty muối tự đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế . Đó là thực hiện cải tổ mô hình quản lý theo hướng tập đoàn kinh tế , kiến thiết một đội ngũ quản lý có năng lực, trình độ nhạy bén với biến động của thị trường . Đồng thời mở đi sâu nghiên cứu thị trường thực hiện các công tác marketing nắm bắt thị trường . . .
Trên cơ sở nghiên cứu những luận cứ khoa học việc tìm hiểu vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh muôí tác giả không tránh khỏi những thiếu sót .Vì vậy qua luận văn này chỉ nghiên cứu các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách khái quát nhất
**********************
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0074.doc