Lời mở đầu
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) nói riêng có nhiều chuyển biến rõ rệt, đạt được thành tựu đáng khích lệ. Sự linh hoạt của nền kinh tế thị trường trong các lĩnh vực nội thương, ngoại thương đã có những bước tiến đáng kể và mang lại cho hoạt động thương mại của cả nước một
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp đẩy mạnh kinh doanh Nhập khẩu tại Công ty XNK Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sắc thái khác hẳn so với thời kỳ bao cấp. Trong hoàn cảnh mới, không chỉ các doanh nghiệp tư nhân mà các doanh nghiệp Nhà nước cũng phải chấp nhận cạnh tranh, thực hiện hạch toán kinh doanh độc lập để vượt qua thách thức, đủ sức tồn tại và ngày càng phát triển.
Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh khốc liệt là một việc không hề đơn giản đối với một đơn vị kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đã quen với sự bao cấp của Nhà nước. Đứng trước tình hình đó nhiều doanh nghiệp đã không trụ nổi và bị phá sản, nhưng có nhiều doanh nghiệp khác không chỉ đứng vững trong nền kinh tế thị trường mà còn đưa ra nhiều biện pháp hữu hiệu làm tăng doanh thu hàng năm cho doanh nghiệp, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên, góp phần thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nước nhà. Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co) là một trong những doanh nghiệp đó. Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Đài tiếng nói Việt Nam hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực cung cấp thiết bị vật tư thông tin dùng trong phát thanh-truyền hình và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong những năm qua Công ty đã luôn luôn phát triển và tạo uy tín tốt đối với các bạn hàng trong và ngoài nước, và hoạt động nhập khẩu đã góp phần không nhỏ vào sự thành công này của Công ty. Doanh thu bán hàng nhập khẩu hàng năm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của Công ty (63%) do đó nhập khẩu là một lĩnh vực thật sự quan trọng của Công ty. Trong những năm qua Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu luôn luôn nỗ lực để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình góp phần thúc đẩy sự phát triển đi lên của Công ty.
Để đánh giá chính xác tình hình và vai trò hoạt động nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin tôi đã chọn đề tài:"Một số biện pháp đẩy mạnh kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co)" làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung chuyên đề thực tập ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận gồm có 3 phần:
Phần I: Một số vấn đề cơ bản về kinh doanh nhập khẩu ở các doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co)
Phần III: Một số biện pháp đẩy mạnh kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co).
Trong quá trình nghiên cứu và trình bầy đề tài này tôi được sự giúp đỡ tận tình về tư liệu và ý kiến trao đổi của các thầy cô, các bác, các cô chú trong Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo khoa thương mại trường Đại học kinh tế quốc dân đã trang bị cho tôi những kiến thức cần thiết, cảm ơn các bác, các cô chú trong công ty EMI.Co đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, tôi xin được bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Tiến sỹ Phan Tố Uyên, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện nghiêm túc bài chuyên đề tốt nghiệp này.
Do hạn chế về khả năng bản thân và thời gian nghiên cứu, chuyên đề của tôi chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Hà nội 3 - 5 - 2003
Sinh viên
Nguyễn Minh Hoà.
Phần I
Một số vấn đề cơ bản về kinh doanh nhập khẩu ở các doanh nghiệp.
I. Khái quát về hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhập khẩu.
1.1. Khái niệm.
Nhập khẩu là khâu cơ bản của hoạt động ngoại thương. Có thể hiểu nhập khẩu là sự mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước hoặc tái sản xuất nhằm thu lợi nhuận. Nhập khẩu không chỉ là hoạt động mua bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền kinh tế có tổ chức bên trong và bên ngoài. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay xu hướng liên kết toàn cầu và khu vực làm cho mức độ ảnh hưởng, tác động của từng quốc gia đối với nhau và của từng khu vực kinh tế thế giới ngày càng tăng.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là hoạt động mua bán giữa các quốc gia, vì vậy nó phức tạp hơn mua bán trong nước do phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia nhập khẩu không dễ dàng khống chế được: Mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn,thị trường rộng lớn khó kiểm soát, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ thường là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải chuyển qua biên giới cửa khẩu của quốc gia khác nhau, hoạt động buôn bán phải tuân theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như địa phương.
Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là đạt được kết quả cao từ việc nhập khẩu vật tư, hàng hoá, thiết bị… phục vụ cho quá trình sản xuất, tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống trong nước, nâng cao năng suất lao động bảo vệ các ngành sản xuất ở trong nước, giải quyết sự khan hiếm ở thị trường nội địa. Nhập khẩu còn đảm bảo sự phát triển ổn định những ngành kinh tế mũi nhọn của các nước khi mà khả năng sản xuất trong nước chưa đảm bảo nguyên liệu đầu vào, tạo những năng lực mới cho sản xuất, khai thác thế mạnh so sánh quốc gia mình kết hợp hài hoà có kết quả nhập khẩu và cán cân thanh toán.
1.2. Đặc điểm.
Nhập khẩu là hoạt động buôn bán giữa các nước trên thế giới. Hoạt động buôn bán tuân theo luật pháp quốc tế, những tập quán thông lệ quốc tế, giao dịch buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành khâu thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo kết quả cao nhất, phục vụ đầy đủ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Thương mại quốc tế có quan hệ trực tiếp đến quan hệ chính trị các nước nhập khẩu và các nước xuất khẩu. Hoạt động nhập khẩu là cơ hội để doanh nghiệp của các nước khác nhau thiết lập mối quan hệ buôn bán làm ăn lâu dài. Do nhập khẩu là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước, vì vậy nó thường xuyên bị chi phối bởi các chính sách luật pháp của mỗi quốc gia và luật pháp quốc tế. Nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu thông qua các công cụ như: Chính sách thuế, hạn ngạch,… và bằng các văn bản pháp luật, qui định danh mục hàng hoá được phép nhập khẩu và không được phép nhập khẩu.
2.Vai trò của hoạt động nhập khẩu.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước.
Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Làm được như vậy sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc dân về sức lao động, vốn, cơ sở vật chất, tài nguyên và khoa học kỹ thuật. Như vậy, nhập khẩu thể hiện mối quan hệ không thể thiếu được giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, vai trò nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Nhập khẩu bổ xung kịp thời những mất cân đối kinh tế, đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu. Điều này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu.
Để phát huy vai trò của hoạt động nhập khẩu cần phải:
- Mở rộng, khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước.
- Coi trọng kết quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu: nghĩa là kinh doanh nhập khẩu không chỉ chạy theo mục đích lợi nhuận mà bỏ qua mục đích kinh tế xã hội.
- Đảm bảo các nguyên tắc của hoạt động ngoại thương và quan hệ kinh tế với nước ngoài. Trong hoạt động nhập khẩu cần phải chú ý tạo uy tín không chỉ với các nước trong khu vực mà với cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng cùng có lợi.
3. Các hình thức nhập khẩu.
3.1. Nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu được hình thành giữa một bên là doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp đó uỷ thác cho một doanh nghiệp khác có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác được hưởng phần trăm thù lao do hai bên thoả thuận gọi là phí uỷ thác.
Trong hoạt động nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn và không phải xin hạn nghạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để giao dịch với bạn hàng nước ngoài.
Khi nhận nhập khẩu uỷ thác thì doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập:
- Một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài gọi là hợp đồng ngoại thương.
- Một hợp đồng giữa bên uỷ thác nhập khẩu với bên nhập khẩu (nhận uỷ thác) được gọi là hợp đồng nội thương.
Khi tiến hành nhận uỷ thác thì đại diện các doanh nghiệp xuất nhập khẩu (XNK) chỉ được tính kim ngạch XNK chứ không được tính doanh số và không phải tính thuế giá trị gia tăng (VAT).
3.2. Nhập khẩu trực tiếp.
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp (hay nhập khẩu tự doanh) là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong nước và nước ngoài tính toán đầy đủ các chi phí, chính sách, luật pháp của quốc gia cũng như luật pháp quốc tế.
Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu tự doanh:
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải chịu trách nhiệm toàn bộ các hoạt động của mình. Vì vậy đòi hỏi phải có sự xem xét kỹ lưỡng mọi vấn đề từ khâu nghiên cứu thị trường đầu vào, đầu ra cho đến khâu ký kết thực hiện hợp đồng, rồi đến bán hàng thu tiền về…Trong hợp đồng nhập khẩu này doanh nghiệp phải tự bỏ vốn và phải cân nhắc kỹ lưỡng các khoản thu chi để đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi.
- Trong hình thức nhập khẩu này thông thường doanh nghiệp chỉ cần lập một hợp đồng ngoại thương để giao dịch với bên nước ngoài. Còn các hợp đồng bán hàng trong nước thì sau khi hàng về sẽ lập sau hoặc bán với hình thức khác nhau như bán buôn.
- Trong nhập khẩu tự doanh thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu được tính kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hoá thì được tính doanh số và chịu thuế gía trị gia tăng.
3.3. Nhập khẩu liên doanh.
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp. Các doanh nghiệp phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động nhập khẩu phát triển theo chiều hướng các bên (hai bên) cùng có lợi, cùng phân chia lỗ lãi tuỳ theo trách nhiệm của mỗi bên.
Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu liên doanh:
- Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi tiêu thụ hàng hoá thì chỉ được tính doanh số trên giá trị hàng hoá nhập khẩu theo tỷ lệ vốn góp của mình và đồng thời chịu mọi khoản thuế trên phần doanh số đó.
- Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp phải lập hai hợp đồng: Một hợp đồng ngoại thương mua hàng với nước ngoài và một hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp khác.
- So với hình thức nhập khẩu tự doanh thì nhập khẩu liên doanh các doanh nghiệp ít phải chịu rủi ro hơn bởi vì mỗi doanh nghiệp tham gia liên doanh chỉ phải góp một phần vốn nhất định. Quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên chỉ được phân bổ dựa trên phần vốn góp đó. Nếu có rủi ro xẩy ra thì rủi ro sẽ được san sẻ cho các bên và như thế các doanh nghiệp thành viên phải chịu phần rủi ro ít hơn. Việc phân chia chi phí, lỗ lãi giữa các doanh nghiệp cũng được dựa trên phần vốn góp và các thoả thuận giữa các bên với nhau.
3.4. Nhập khẩu để tái xuất.
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà để xuất khẩu sang một nước khác (nước thứ ba) nhằm thu lợi nhuận. Những hàng hoá nhập khẩu này không được qua xử lý hay chế biến ở nước tái xuất. Do vậy nhập khẩu để tái xuất luôn thu hút ba nước cùng tham gia đó là: nước nhập khẩu, nước tái xuất và nước xuất khẩu.
Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu tái xuất:
- Hàng hoá không cần phải chuyển qua nước tái xuất mà có thể được chuyển thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu (nước thứ ba), hoặc gọi là phương thức chuyển khẩu, nhưng tiền trả phải do người tái xuất thu của người nhập khẩu và chỉ giữ lại phần chênh lệch giữa số tiền xuất khẩu và số tiền nhập khẩu.
- Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép mối bạn hàng nhập khẩu và bạn hàng xuất khẩu để đảm bảo sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí đã bỏ ra để tiến hành hoạt động.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất nhập khẩu.
- Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng: Một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng nhập khẩu là cơ sở để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Không phải chịu thuế xuất nhập khẩu đối với mặt hàng kinh doanh nhưng phải chịu thuế giá trị gia tăng.
Trong hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C) để đảm bảo thanh toán.
3.5. Nhập khẩu đổi hàng.
Hoạt động nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu. Đây là hình thức gắn liền với xuất khẩu, thanh toán ở đây là thanh toán bằng hàng hoá.
Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu đổi hàng:
- Hoạt động nhập khẩu đổi hàng này rất có lợi bởi vì cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành đồng thời hai hoạt động nhập và xuất do vậy có thể thu lãi từ cả hai hoạt động này.
- Hàng hoá xuất nhập tương đương nhau cả về mặt giá trị, giá cả và điều kiện giao hàng.
- Bên xuất khẩu cũng là bên nhập khẩu.
- Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập và kim ngạch xuất.
- Biện pháp để đảm bảo thực hiện hợp đồng: Có thể dùng thư tín dụng đối ứng (Recipocal letter of credit), qui định phạt về việc giao thiếu hay giao chậm.
4. Các yêu cầu cơ bản trong hoạt động nhập khẩu.
Các yêu cầu cơ bản trong hoạt động nhập khẩu để phù hợp với lợi ích của xã hội cũng như trong các doanh nghiệp đó là:
+ Thứ nhất, sử dụng vốn nhập khẩu kết quả đem lại kết quả kinh tế cao.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, việc mua bán với các nước đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng ngoại tệ tự do, không còn các khoản vay để nhập siêu, không còn ràng buộc theo nghị định thư như trước. Do vậy, các hợp đồng nhập khẩu đều phải dựa trên lợi ích và kết quả để quyết định. Đồng thời, nhu cầu nhập khẩu để công nghiệp hoá và phát triển kinh tế rất lớn. Tiết kiệm và kết quả là vấn đề rất cơ bản của một quốc gia, cũng như của mỗi doanh nghiệp. Thực hiện nguyên tắc này cũng có ý nghĩa là đòi hỏi các doanh nghiệp phải:
- Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước.
- Sử dụng vốn tiết kiệm, bảo đảm những vật tư, thiết bị chủ yếu có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp với giá cả có lợi, nhanh chóng phát huy tác dụng đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
+ Thứ hai, nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại.
- Trong nhập khẩu thiết bị và chuyển giao công nghệ phải đi theo phương châm đón đầu, đi thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại. Cần tranh thủ công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại cho ngành công nghệ then chốt có tác động đến toàn bộ hoặc đại bộ phận nền kinh tế quốc dân như điện tử, tin học, liên lạc viễn thông, chế tạo máy… và cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu.
- Nhập khẩu phải hết sức chọn lọc, tuyệt đối không nhập những công nghệ lạc hậu mà các nước đang tìm cách thải ra.
+ Thứ ba, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩu.
Trong điều kiện sản xuất hiện nay ở nước ta, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, chất lượng tốt hơn. Nhưng nếu ỷ lại vào nhập khẩu thì sẽ không mở mang được sản xuất thậm chí còn làm cho sản xuất trong nước bị trì trệ. Chính vì lẽ đó, cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời kỳ để mở mang sản xuất, vừa đáp ứng nhu cầu nội địa về số lượng và chất lượng, vừa tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài. Tuy nhiên không nên bảo hộ sản xuất trong nước với bất cứ giá nào.
5. Một số nhân tố tác động đến kết quả kinh doanh nhập khẩu.
5.1. Chính sách luật pháp trong nước và quốc tế.
Chính sách luật pháp trong nước có tác động không nhỏ đến kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu, như các chính sách tài chính tín dụng ưu đãi các nhà nhập khẩu sẽ tạo điều kiện cho họ nắm bắt được cơ hội trong kinh doanh nhập khẩu, quay vòng vốn và thu được lợi nhuận. Việc thay đổi tỷ lệ lãi suất và thuế nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến kết quả nhập khẩu. Các chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước sẽ khuyến khích sản xuất hàng nhập khẩu, do vậy làm giảm kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu muốn thu lợi từ việc bán hàng nhập khẩu, nhưng sẽ lại mang kết quả kinh doanh cho toàn bộ xã hội, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, phát huy được tiềm năng sản xuất của mình.
5.2. Thị trường.
ở thị trường nhập khẩu (xuất khẩu) hoạt động bán hàng với những nét đặc trưng riêng như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh…Vì vậy, trong quá trình tìm kiếm thu thập và xử lý thông tin hữu ích cho việc soạn thảo chương trình và ra quyết định thích hợp cho hoạt động kinh doanh, nghiên cứu thị trường nhập khẩu cần: xem xét thị trường tiêu thụ như dung lượng thị trường, tình hình biến động giá cả, phong tục tập quán…Ngoài ra, khi thâm nhập vào thị trường nhập khẩu cần phải xem xét các điều kiện có liên quan như chính trị, luật pháp (quan hệ giữa hai nước, hàng rào thuế quan và phi thuế quan…), điều kiện về kinh tế (thu nhập quốc dân, cơ sở hạ tầng, tỷ giá hối đoái…), điều kiện về môi trương vật chất (địa lý, khí hậu, địa hình…) ảnh hưởng đến vận chuyển, phân phối hàng hoá. Và phải quan tâm đến sự biến động của thị trường, cụ thể như:
5.2.1. Sự cạnh tranh.
Cạnh tranh trong toàn bộ ngành sản xuất trong nước và cạnh tranh với đối thủ nước ngoài. Do nếu có nhiều doanh nghiệp cùng tham gia nhập khẩu một loại mặt hàng và tiêu thụ trên cùng một thị trường thì doanh thu của các doanh nghiệp là rất khác nhau và sự cạnh tranh sẽ rất cao.
Khi có nhiều doanh nghiệp nhập khẩu cùng quan tâm nhập khẩu đến một loại hàng hoá, giá cả nhập khẩu của hàng nhập khẩu có thể tăng lên làm tăng các khoản chi phí, như vậy làm giảm kết quả kinh doanh. Mặt khác, các nhà sản xuất nước ngoài hay các Công ty nước ngoài khi thâm nhập vào thị trường nội địa cũng sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Vì họ cũng cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng mẫu mã, uy tín … Và nếu họ đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng thì họ sẽ thành công.
5.2.2. Lạm pháp.
Khi lạm pháp xẩy ra làm mất gía đồng tiền trong nước và làm cho tỷ giá tăng lên. Như vậy, thì bất lợi cho việc nhập khẩu. Mặt khácđối với doanh nghiệp khi giá cả trong nước tăng lên, chi phí sản xuất mua ở thị trường trong nước trở lên đắt hơn, dẫn đến chi phí đầu vào tăng lên. Giả sử chi phí đầu vào tăng lên nhưng nhỏ hơn sự tăng doanh thu thì doanh thu doanh nghiệp nhập khẩu này vẫn có thể có được kết quả kinh doanh. Còn ngược lại, nếu chi phí đầu vào tăng nhanh hơn doanh thu thì mặc dù có thu được kết quả cao hơn thì doanh nghiệp vẫn hoạt động không có kết quả kinh doanh.
5.3. Thuế nhập khẩu.
Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nước để quản lý. Thuế nhập khẩu phản ánh chính sách phát triển của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ thông qua việc điều chỉnh thay đổi mức thuế suất cho các nhóm hàng hoá trên cơ sở khuyến khích, bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, bảng thuế nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ ra cho doanh nghiệp biết mặt hàng nào được khuyến khích kinh doanh, tiêu dùng mà còn là một bộ phận cấu thành chi phí, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh. Tất nhiên cho đến thời điểm này, bảng thuế nước ta vẫn chưa được hoàn thiện vì thế có một thực tế thuế nhập khẩu thấp hơn thuế doanh thu làm cho các doanh nghiệp sản xuất gặp khó khăn, giá hàng sản xuất lớn hơn giá hàng nhập khẩu khi có thuế rất nhiều.
Bảng thuế nhập khẩu cũng có ý nghĩa nhất định trong quá trình lựa chọn đối tác của các doanh nghiệp. Cũng như các nước khác trên thế giới bảng thuế nhập khẩu của Việt Nam cũng phân biệt thuế suất cho từng khu vực khác nhau ví dụ như các nước trong khối ASEAN được hưởng thuế suất ưu đãi (thường từ 0-5%). Bởi vậy khi lựa chọn đối tác các doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc đến "lợi nhuận" nhờ thuế này.
Bảng thuế nhập khẩu do Bộ tài chính ban hành có tác dụng kiểm soát, hạn chế hàng nhập khẩu. Đối với hàng hóa nhập khẩu mà trong nước sản suất được hay hàng hoá không khuyến khích tiêu dùng, bảng thuế nhập khẩu sẽ tăng lên. Ngược lại, với hàng hoá công nghệ thiết bị dây chuyền hay hàng hóa khuyến kích tiêu dùng sẽ được hưởng chế độ thuế ưu đãi (thường từ 0-5%).
5.4. Danh mục các mặt hàng hạn chế nhập hay cấm nhập, các danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu quản lý theo ngành.
Danh mục hàng hoá cấm xuất nhập khẩu do Chính phủ phê duyệt trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ thương mại sau khi đã bàn thống nhất với Bộ kế hoạch - đầu tư và các Bộ ngành liên quan.
Các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu luôn phải thường xuyên theo dõi và nắm vững mặt hàng kinh doanh nào được phép kinh doanh. Có rất nhiều hàng hoá nhập khẩu đem lại lợi nhuận cao nhưng nếu đã thuộc danh mục hàng cấm nhập hay hạn chế nhập thì các doanh nghiệp đều phải hạn chế hay ngừng kinh doanh hàng hoá đó. Nếu không doanh nghiệp sẽ vi phạm pháp luật hay bị rút giấy phép kinh doanh.
Bên cạnh danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu, các hàng hoá nhập khẩu phải tuân theo quản lý của ngành theo quyết định số 46/2001/QD-TTg của thủ tướng Chính phủ đã quy định Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành và nguyên tắc áp dụng Danh mục này trong từng lĩnh vực quản lý chuyên ngành .Ví dụ như với ngành truyền thông tại mục số IV và V của quyết định có nêu:
- IV. Máy phát sóng, thiết bị thu phát và truyền dẫn vô tuyến, các loại tổng đài, nhập khẩu theo Quy chế hướng dẫn của Tổng cục bưu điện.
- V. Các ấn phẩm văn hoá, tác phẩm mỹ thuật Nhà nước quản lý , tác phẩm điện ảnh, thiết bị đặc biệt, băng hình có ghi chương trình, xuất nhập khẩu theo Quy chế hướng dẫn của Bộ văn hoá - Thông tin.
Tóm lại, các công cụ chính sách của Nhà nước đều nhằm tạo điều kiện pháp lý cho các doanh nghiệp kinh doanh có kết quả và nhằm điều chỉnh hành vi hoạt động của các doanh nghiệp sao cho phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Đôi khi, một vài công cụ có thể hạn chế mặt hàng kinh doanh hiệu của doanh nghiệp này, nhưng xét về tổng thể mỗi quyết định, chính sách của Nhà nước đều dựa trên lợi ích của toàn xã hội chứ không phải chỉ dựa trên một hoặc một vài doanh nghiệp. Bởi vậy, các doanh nghiệp phải nắm vững được các chính sách, khả năng áp dụng để có thể tạo cho mình điều kiện kinh doanh thuận lợi nhất.
5.5. ảnh hưởng của nhóm yếu tố thuộc tiềm năng của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp đã chọn cho mình ngành nghề kinh doanh nào thì doanh nghiệp nên nắm bắt lựa chọn những mặt hàng phù hợp đáp ứng được yêu cầu của thị trường để tiến hành kinh doanh nhập khẩu. Nếu doanh nghiệp chọn đúng thì sẽ mang lại kết quả kinh tế cao, còn nếu doanh nghiệp lựa chọn không phù hợp thì sẽ không đạt kết quả kinh tế hoặc đạt được nhưng thấp.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh. Vì doanh nghiệp rất cần có vốn để tiến hành kinh doanh, cùng với các hoạt động tài chính với các dòng luân chuyển tiền tệ phát sinh trong quá trình kinh doanh nhập khẩu. Như vậy, nếu doanh nghiệp làm ăn có kết quả sẽ tạo cho doanh nghiệp có tiềm năng kinh tế cao tạo đà cho kinh doanh phát triển tốt hơn.
Cơ sở vật chất kỹ thuật: Để tăng năng suất lao động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản xuất thì doanh nghiệp phải có cơ sở vật chất tốt phù hợp để phục vụ cho qúa trình sản xuất. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố hết sức quan trọng trong tạo ra tiềm năng trong sản xuất, tăng kết quả kinh doanh.
Thực tế cho thấy, nếu doanh nghiệp nào đầu tư mua sắm các thiết bị hiện đại, thực hiện chuyển giao công nghệ sản xuất và hệ thống thiết bị hiện đại, làm chủ được yếu tố kỹ thuật thì sẽ phát triển được sản xuất kinh doanh, đạt được kết quả kinh doanh cao. Như vậy, doanh nghiệp sẽ tạo được lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp cùng ngành và có khả năng phát triển cao hơn.
Trình độ lao động: Người quản lý doanh nghiệp cũng như các cán bộ công nhân viên phải có năng lực quản lý, có trình độ tay nghề. Bởi vì điều này có tác động tới kết quả sản xuất kinh doanh, thể hiện năng suất lao động của doanh nghiệp. Nếu trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm trong công việc của người lao động cao, tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh thì sẽ nâng cao được kết quả kinh doanh.:
5.6. ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng.
Hệ thống tài chính ngân hàng có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ có hệ thống tài chính ngân hàng mà các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng được cung cấp vốn đầu tư, bảo lãnh, có thể vay vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt kịp thời cơ kinh doanh.:
5.7. ảnh hưởng của văn hoá và ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Do mỗi nước thì có một nền văn hoá khác với nền văn hoá của các nước khác. Do mỗi nền văn hoá thì có các phong tục tập quán gắn với thị hiếu khác nhau cho nên nhu cầu về hàng hoá cũng khác nhau. Và mỗi một quốc gia đều phải nhập khẩu các hàng hoá để bổ xung hay thay thế cho tiêu dùng, hay nhập khẩu để phục vụ sản xuất loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu thị hiếu tiêu dùng trong một giai đoạn nhất định. Do vậy việc nghiên cứu phong tục tập quán, thị hiếu sẽ quyết định kết quả bán hàng của nhà nhập khẩu và như vậy nó cũng quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được tiến hành hoạt động trên phạm vi toàn thế giới. Vì vậy, giao thông vận tải và thông tin liên lạc là cần thiết và không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Sự phát triển của hệ thống giao thông vận tải là điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá, bốc dỡ hàng hóa…kịp thời đưa hàng hoá để nắm bắt các cơ hội kinh doanh. Còn hệ thống thông tin liên lạc phát triển sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, trao đổi công việc nhanh chóng, trợ giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được các thông tin cần thiết kịp thời, góp phần làm tăng kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
II. Nội dung hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở các doanh nghiệp.
1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập điều tra tổng hợp số liệu thông tin về các yếu tố cấu thành thị trường, tìm hiểu qui luật vận động và những nhân tố ảnh hưởng đến thị trường ở một thời điểm hoặc một thời gian nhất định trong lĩnh vực lưu thông để từ đó xử lý các thông tin, rút ra những kết luận và hình thành những quyết định đúng đắn cho việc xây dựng chiến lược kinh doanh.
Do mỗi doanh nghiệp đều hoạt động trên một hay một vài thị trường và lựa chọn cho mình thị trường mục tiêu. Nên bất kể hoạt động trong thị trường nào thì những hiểu biết về môi trường, điều kiện hoạt động, ngành hàng…thông qua nghiên cứu thị trường cũng là công tác đầu tiên và quan trọng.
ý nghĩa của công tác nghiên cứu thị trường đối với doanh nghiệp là nhằm giải đáp các vấn đề sau:
- Đâu là thị trường có triển vọng nhất đối với sản phẩm của doanh nghiệp hoặc lĩnh vực nào phù hợp nhất đối với những hoạt động của doanh nghiệp.
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường là bao nhiêu.
- Cần có chiến lược, chính sách như thế nào để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường; cần có biện pháp cải tiến như thế nào về quy cách mẫu mã, chất lượng, bao bì, ký mã hiệu, quảng cáo…
Kết quả nghiên cứu thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới mọi quyết định trong các khâu của quá trình sản xuất và có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của doanh nghiệp.
2. Tìm và lựa chọn đối tác nhập khẩu.
Trong khi nghiên cứu và lựa chọn đối tác nhập khẩu, doanh nghiệp phải xem xét trên các mặt khả năng số lượng, chất lượng, kì hạn đã đặt ra để có chi phí mua nhỏ nhất. Việc tìm và lựa chọn người bán thích hợp phải đảm bảo đạt được các nguyên tắc trong nhập khẩu và đảm bảo an toàn cho sản xuất tiến hành liên tục không bị gián đoạn do những trục trặc xẩy ra từ phía người bán.
Trên thị trường ngày nay có rất nhiều người bán. Với một mặt hàng cụ thể doanh nghiệp có thể tìm thấy rất nhiều người bán ở các địa điểm khác nhau và đều có khả năng cung cấp đạt chất lượng mặt hàng mà doa._.nh nghiệp yêu cầu, gía cả cung cấp như nhau… Khi lựa chọn đối tác nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải có sự cân nhắc giữa việc nhập khẩu của một số người cung cấp hay nhập khẩu của một người cung cấp.
Nếu doanh nghiệp tập trung mua của một người bán thì có một số thuận lợi như: tập trung luồng tiền tệ đi ra từ phía doanh nghiệp, giảm cước vận chuyển, thiết lập được mối quan hệ mật thiết giữa người bán, dễ theo dõi tiến độ thực hiện…Tuy nhiên khi sử dụng chính sách mua hàng của một người bán, doanh nghiệp sẽ hạn chế phân tán rủi ro dẫn đến khó đảm bảo an toàn và có thể xẩy ra tình huống phụ thuộc.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp mua hàng của nhiều nhà cung cấp thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong theo dõi tiến độ cung ứng do có nhiều luồng hàng cung cấp, thanh toán phức tạp và có thể làm tăng chi phí do luồng hàng hoá từ nhiều nơi khác nhau vận chuyển về làm tăng chi phí vận chuyển, giao nhận, chi phí chuyển tiền… Bên cạnh đó thì có một số thuận lợi như: thích hợp với lượng yêu cầu nhỏ; tạo nên sự cạnh tranh giữa những người cung cấp để tìm ra những điều kiện mua thuận lợi nhất; có khả năng đảm bảo do lượng hàng cung cấp được phân tán do có nhiều đầu mối khác nhau đồng thời phòng ngừa sự trục trặc từ phía người bán gây gián đoạn trong cung ứng, nếu người bán này giao hàng chậm thì có hàng hóa của người khác thay thế do vậy tránh được gián đoạn trong sản xuất kinh doanh…
Trong quá trình nghiên cứu và tìm đối tác để nhập khẩu thì việc xác định thông tin về người bán là việc làm rất quan trọng. Doanh nghiệp có thể khai thác thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua hoạt động giao dịch thực tế với người bán, thông qua các hoạt động triển lãm hay quảng cáo, thông qua internet…
3. Lựa chọn phương thức giao dịch.
Cùng với việc trao đổi mua bán hàng hoá, phương thức giao dịch nhập khẩu ngày nay càng xuất hiện dưới nhiều hình thức với nhiều nội dung phong phú. Dựa trên nhu cầu, khả năng và điều kiện của mình doanh nghiệp lựa chọn các hình thức giao dịch cho phù hợp.
3.1. Giao dịch thông thường.
Phương thức giao dịch thông thường có đặc điểm là hàng hoá được bán trực tiếp từ người bán sang người mua, hành vi mua và hành vi bán tách rời nhau, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ và hàng hoá được di chuyển qua biên giới.
Giao dịch trực tiếp có lợi thế là lợi nhuận thu được không bị chia sẻ và giúp cho doanh nghiệp có quan hệ trực tiếp với khách hàng. Nhờ tiếp cận trực tiếp với khách hàng nên có khả năng thu thập xử lý thông tin khi có biến động trên thị trường do đó doanh nghiệp có hướng giải quyết thích hợp với những thay đổi của thị trường.
Tuy nhiên giao dịch trực tiếp đòi hỏi doanh nghiệp phải tập trung vào rất nhiều khâu trong qúa trình sản xuất kinh doanh từ tiếp cận thị trường, nghiên cứu, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Điều này dẫn đến việc dàn trải các nguồn lực của doanh nghiệp cũng có nghĩa khả năng tích tụ tập trung vào một thế mạnh nào đó của doanh nghiệp bị giảm đi.
3.2. Giao dịch qua trung gian.
Giao dịch qua trung gian có đặc điểm là việc mua bán không diễn ra trực tiếp giữa người bán và người mua mà phải qua một người trung gian. Người trung gian được hưởng thù lao dưới hai hình thức là hoa hồng hay chênh lệch giá theo thoả thuận của các bên. Người trung gian nhận phần hoa hồng ở người bán hoặc có khi nhận thù lao của cả bên mua và bên bán.
Người trung gian phổ biến trên thị trường thường là đại lý và môi giới đại lý là tư nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác và đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý. Trong phương thức này chúng ta thường gặp những hình thức đại lý như đại lý uỷ thác, đại lý hoa hồng, đại lý cung tiêu, đại lý ký gửi…Người môi giới là một thành phần trung gian, nhiều khi rất quan trọng vì không phải lúc nào các bên đại lý, nhà sản xuất, người mua đều có thể nắm bắt được kịp thời nhu cầu thị trường và sự biến động của nó. Người môi giới làm nhiệm vụ gặp cả người mua và người bán giải quyết những ách tắc trong quá trình mua bán, tạo điều kiện mua bán cho cả hai bên được thuận lợi. Môi giới là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được người mua hoặc người bán uỷ thác tiến hành mua hoặc bán hàng hoá hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không được đứng tên của người uỷ thác, không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người uỷ thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng. Quan hệ giữa người uỷ thác và người môi giới dựa trên sự uỷ thác từng lần, chứ không dựa vào hợp đồng dài hạn.
3.3. Giao dịch buôn bán đối lưu.
Đặc điểm của phương thức này là xuất khẩu phải kết hợp trực tiếp với nhập khẩu, người mua đồng thời là người bán. Hành vi mua và bán gắn liền nhau cùng một lúc, lượng giá trị hàng hoá dịch vụ trao đổi có giá trị tương đương, phương tiện thanh toán không dùng tiền mà dùng hàng hóa để trao đổi, giá tri sử dụng được lấy làm mục đích để trao đổi. Sự cân bằng trong trao đổi đối lưu hàng hoá được đặc biệt quan tâm, sự cân bằng đó thể hiện ở những khía cạnh mặt hàng, giá cả, tổng giá trị và điều kiện trao đổi. Hình thức giao dịch này thường gặp trong các khâu kinh tế có thoả thuận hiệp tác bền chặt và lâu dài như các khối CEP trước khia đây và khối SNG ngày nay.
3.4. Giao dịch tái xuất.
Tái xuất là sự tiếp tục xuất khẩu ra nước ngoài những hàng trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch theo kiểu này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất. Tái xuất có thể thực hiện bằng một trong hai hình thức:
- Chuyển khẩu, trong đó hàng hóa đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu.
- Tái xuất là hình thức trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu.
3.5. Đấu giá quốc tế.
Đấu giá quốc tế là một phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một số nơi nhất định, tại đó sau khi xem hàng hóa những người đến mua tự do cạnh tranh giá và cuối cùng hàng hóa sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất.
3.6. Đấu thầu quốc tế.
Đấu thầu quốc tế là một phương thức giao dịch đặc biệt mà trong đó người mua (người gọi thầu) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán (người dự thầu) báo giá mình muốn bán. Sau đó, người mua sẽ chọn mua của người báo giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả với những điều kiện đã nêu.
3.7. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá.
Sở giao dịch hàng hóa là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định. Người ta mua bán các loại hàng hóa có khối lượng lớn, có tính chất đồng loại, có phẩm chất có thể thay thế được cho nhau. Sở giao dịch hàng hoá thể hiện tập trung quan hệ cung cầu về một mặt hàng giao dịch trong một khu vực ở một thời điểm và là một tài liệu tham khảo trong việc xác định giá quốc tế.
3.8. Giao dịch tại hội chợ và triển lãm.
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời gian và ở một địa điểm cố định trong một thời gian nhất định. Tại đó người bán đem trưng bầy hàng hóa của mình và tiếp xúc với người mua để ký hợp đồng mua bán.
Triển lãm là nơi trưng bầy, giới thiệu những thành tựu của một nền kinh tế hoặc của một ngành kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật…tại đây người ta trưng bầy các hàng hoá nhằm mục đích quảng cáo để mở rộng khả năng tiêu thụ. Triển lãm không chỉ là nơi trưng bầy giới thiệu hàng hoá, mà còn là nơi thương nhân hoặc tổ chức kinh doanh tiếp xúc giao dịch, ký kết hợp đồng mua bán. Triển lãm và hội chợ có thể mang tính chất địa phương hay quốc tế.
3.9. Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi tắt là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là tiền gia công). Ngày nay, gia công quốc tế là hình thức khá phổ biến trong hoạt động ngoại thương của nhiều nước.
4. Đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng.
Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp khác. Trong quá trình đó họ thường phải tiến hành đàm phán, thương lượng với nhau. Thực chất của thương lượng và đàm phán là kỹ thuật mặc cả giữa các đối tượng tham gia để đi tới thoả thuận mà các bên có thể chấp nhận được dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi. Các yêu cầu đối với nguyên tắc đàm phán:
- Lấy lợi ích của tất cả các bên tham gia làm nền tảng cho sự thương lượng.
- Trong quá trình thương lượng, đàm phán phải có thái độ tôn trọng coi trọng ý kiến của nhau.
- Phải hết sức lưu ý đến đặc điểm tâm lý truyền thống, văn hóa, giáo dục của các bên để có cách xử lý tế nhị trong quá trình thương lượng.
- Phải có quan điểm rõ ràng khi nẩy sinh bất đồng trong quá trình thương lượng, đàm phán để cùng nhau giải quyết để đi đến mục tiêu.
4.1. Đàm phán và chuẩn bị ký kết.
Chuẩn bị đàm phán và ký kết hợp đồng là khâu quan trọng trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Quá trình chuẩn bị ký kết hợp đồng là bước tiếp theo của việc:
- Nghiên cứu tình hình thị trường của các nước và khu vực cũng như thị trường của mặt hàng định nhập khẩu. Kết quả của nghiên cứu thị trường thực tế chi phối hầu hết toàn bộ hoạt động nhập khẩu từ khâu lựa chọn phương thức giao dịch, thanh toán đến quyết định giá cả. Nếu doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới, mặt hàng lần đầu tiên tiến hành nhập khẩu thì phải chuẩn bị từ đầu và phải tìm hiểu cặn kẽ thị trường mới sẽ đàm phán.
- Lựa chọn hình thức đàm phán thường có các hình thức đàm phán như: đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện tín, đàm phán bằng việc gặp gỡ trực tiếp. Sau khi đã có sự chuẩn bị công việc đàm phán sẽ được tiến hành qua các bước:
+ Gửi yêu cầu với các điều kiện kỹ thuật, chất lượng, tiêu chuẩn cụ thể.
+ Người bán chào giá cho hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu và các điều kiện giao dịch khác.
+ Hai bên mặc cả giá và các điều kiện giao dịch.
+ Hai bên chấp nhận và xác định giá.
Kết quả của đàm phán, đồng ý thoả thuận là hai bên sẽ ký hợp đồng nhập khẩu. Tương ứng với phương thức giao dịch trực tiếp thì sử dụng hợp đồng xuất nhập khẩu trực tiếp, còn giao dịch qua trung gian sẽ sử dụng hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu.
Nội dung của quá trình đàm phán là các điều kiện liên quan tới quá trình nhập khẩu gồm:
- Số lượng hàng nhập khẩu.
- Chất lượng, quy cách hàng nhập khẩu.
- Khả năng đảm bảo chất lượng an toàn khi sử dụng.
- Giá cả, đồng tiền và phương thức thanh toán.
- Thời gian địa điểm giao hàng.
- Phương thức vận chuyển giao nhận.
- Trách nhiệm của các bên, toà án giải quyết tranh chấp.
4.2. Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sơ đồ 1: Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Xin giấy phép nhập khẩu
Mở L/C khi khách yêu cầu
Nhận hàng
Mua bảo hiểm hàng hoá
Khiểu nại về hàng hoá
Giao cho khách hàng
Làm thủ tục thanh toán
Thuê tàu
Làm thủ tục hải quan
Đôn đốc bên bán giao hàng
Kiểm tra hàng hoá
5. Các hình thức thanh toán chủ yếu.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng thì thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của của giao dịch thương mại quốc tế. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng chủ yếu 3 phương thức thanh toán sau:
5.1. Phương thức chuyển tiền.
Là phương thức mà theo đó bên nhập khẩu (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Phương thức này thường được áp dụng khi nhận xong hàng hoá hoặc là sau khi nhận được chứng từ gửi tiền hàng. Số tiền được chuyển dựa vào giá trị của hoá đơn thương mại hoặc kết quả của việc nhận hàng về số lượng và chất lượng để quy ra số tiền phải chuyển. Phương thức chuyển tiền bằng thư chậm hơn chuyển tiền bằng điện. Phương thức chuyển tiền không áp dụng trong thanh toán hàng xuất khẩu với nước ngoài vì dễ bị người mua chiếm dụng vốn.
5.2. Phương thức nhờ thu.
Là một phương thức thanh toán trong đó người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ cho khách hàng uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra.
Các loại nhờ thu:
- Nhờ thu phiếu trơn: Là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào thu hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
- Nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng gửi kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng.
5.3. Phương thức tín dụng chứng từ.
Phương thức này là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Thư tín dụng thương mại là một công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ. Thư tín dụng (L/C) là một chứng thư (điện hoặc ấn chi), trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với nội dung cuả L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng , nó hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán , nhưng sau khi được thiết lập nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán.
III. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh nhập khẩu.
1. Chỉ tiêu tổng hợp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí kinh doanh, thuế, các khoản khác hoặc giữa thu nhập và chi phí lưu thông.
Lợi nhuận là mục đích kinh doanh doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng phải lấy lợi nhuận làm mục đích hoạt động và sự tồn tại của mình, lợi nhuận được tạo ra khi doanh thu lớn hơn chi phí. Lợi nhuận là chỉ tiêu bảng hiện kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
LN = TR - TC
Trong đó:
LN : Tổng lợi nhuận thu được.
TR : Tổng doanh thu.
TC : Tổng chi phí.
Có thể nhận thấy, lợi nhuận là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, là nguồn gốc của tái sản xuất mở rộng kinh doanh và là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người lao động nâng cao kết quả kinh doanh trên cơ sở của chính sách phân phối hợp lý và đúng đắn. Tuy nhiên, công thức trên không phản ánh chính xác chất lượng của hoạt động kinh doanh cũng như tiềm lực để nâng cao kết quả kinh doanh và không so sánh được kết quả kinh doanh giữa các kỳ với nhau. Vì vậy, để đánh giá một cách toàn diện hơn về kết quả kinh doanh ta dùng công thức sau:
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh doanh = --------------------------
Chi phí đầu vào
Sau khi đã tính toán tổng lợi nhuận, doanh nghiệp cần xác định mức doanh lợi để phân tích kết quả kinh doanh. Hiện nay có 3 cách tính mức doanh lợi.
- Cách tính thứ nhất:
LN
Mức doanh lợi = --------
VKD
Trong đó:
VKD: Vốn kinh doanh.
LN: Lợi nhuận.
Chỉ tiêu này cho biết kết quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Một đồng vốn kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu càng cao chứng tỏ vốn kinh doanh bỏ ra càng có kết quả.
- Cách thứ hai:
LN
Mức doanh lợi = ------
DS
Trong đó:
DS: Doanh số bán thực hiện.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh số bán thực hiện mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc chỉ ra cho doanh nghiệp thấy kinh doanh những mặt hàng nào, thị trường nào mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
- Cách thứ ba:
LN
Mức doanh lợi = -------
TC
Chỉ tiêu này cho thấy kết quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Một đồng chi phí kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Chỉ tiêu mức doanh lợi là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá kết quả kinh doanh mà các doanh nghiệp thường dùng.
2. Chỉ tiêu bộ phận:
Ngoài việc sử dụng các chỉ tiêu tổng hợp, trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh chúng ta cần áp dụng một số chỉ tiêu bộ phận để đánh giá và xác định chính xác hơn. Bởi vì hoạt động của doanh nghiệp phải sử dụng nhiều yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh. Những yếu tố cơ bản đó là nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh.
Ln
Dn = ------- * 100%
Cn
Trong đó:
Dn : Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận về bán hàng nhập khẩu.
Cn : Tổng chi phí nhập khẩu bằng ngoại tệ được chuyển đổi theo đồng Việt Nam.
Lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = --------------------
Doanh thu
Doanh thu
Tỷ suất doanh thu theo vốn kinh doanh = ----------------------
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu và tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu cho biết tỷ lệ bao nhiêu đồng lợi nhuận thu được trên một đồng chi phí bỏ ra để nhập khẩu và doanh thu. Còn tỷ suất doanh thu theo vốn kinh doanh cho biết tỷ lệ bao nhiêu doanh thu thu được trên một đồng vốn kinh doanh. Đây cũng chính là 3 chỉ tiêu chủ yếu được dùng để đánh giá kết quả kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại nói chung và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng.
3. Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu:
Trong hoạt động nhập khẩu, kết quả kinh doanh được thể hiện bằng số bản tệ thu được do nhập khẩu còn chi phí nhập khẩu lại thể hiện bằng ngoại tệ. Vì vậy cần phải tính tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu, để trên cơ sở đó biết được phải chi ra bao nhiêu ngoại tệ để có được một đồng bản tệ.
DT nk (bằng bản tệ)
Hnk = ----------------------------
CP nk (bằng ngoại tệ)
Trong đó:
Hnk : Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu.
DTnk : Doanh thu do nhập khẩu mang lại.
CPnk : Chi phí bằng ngoại tệ cho nhập khẩu (gồm cả chi phí vận chuyển từ cửa khẩu tới nơi tiêu thụ).
4. Chỉ tiêu đánh giá kết quả sử dụng lao động:
- Năng suất lao động bình quân của một lao động:
DT TN
W = --------- hoặc W = --------
LĐbq LĐbq
Trong đó:
W : Năng suất lao động bình quân của một lao động trong kỳ.
DT : Doanh thu (Doanh số bán) thực hiện trong kỳ.
TN : Tổng thu nhập.
LĐbq : Tổng số lao động bình quân của doanh nghiệp trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho thấy trung bình một lao động của doanh nghiệp thực hiện được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ hoặc bao nhiêu đồng thu nhập trong kỳ.
- Lợi nhuận bình quân tính cho một lao động (LNlđ) :
Lợi nhuận trong kỳ
LNlđ =-----------------------------------------------------
Tổng số lao động bình quân trong kỳ
- Năng suất lao động của nhân viên nhập khẩu:
Doanh số nhập khẩu
W = --------------------------------------------------------------
Số lao động tham gia quá trình nhập khẩu
Chỉ tiêu này cho thấy kết quả tổ chức hoạt động của các bộ phận tham gia vào quá trình nhập khẩu. Năng suất lao động càng cao càng chứng tỏ sự hợp lý trong bộ máy quản lý, trình độ chuyên môn tay nghề của người lao động càng cao.
5. Chỉ tiêu đánh giá kết quả sử dụng vốn kinh doanh.
- Hệ số kết quả sử dụng vốn kinh doanh:
Lợi nhuận
Doanh lợi theo vốn kinh doanh = --------------------
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này phản ánh sức sản xuất kinh doanh của vốn, chỉ tiêu càng cao chứng tỏ vốn kinh doanh càng có kết quả.
- Hệ số đảm nhiệm vốn kinh doanh:
Vốn kinh doanh
Hệ số đảm nhiệm vốn kinh doanh = -------------------------------------
Doanh thu tiêu thụ (trừ thuế)
Phần II:
Thực trạng kinh doanh nhập khẩu tại công ty xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin (EMI.Co).
I. Khái quát về công ty EMI.Co.
1. Quá trình thành lập và phát triển của Công ty EMI.Co.
Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co )thành lập ngày 28 tháng 7 năm 1969 với tên đầu tiên là Công ty cung ứng vật tư thông tin, trực thuộc Tổng cục thông tin lúc đó.
Sau khi thống nhất đất nước, vào năm 1976 công ty được chuyển sang cho Uỷ ban phát thanh và truyền hình quản lý với tư cách là cơ quan chủ quản và đổi tên thành Công ty vật tư kỹ thuật. Khi Nhà nước ban hành quyết định QĐ/213/TC ngày 20 tháng 5 năm 1987 thành lập Bộ văn hoá thông tin, Công ty lại được chuyển về trực thuộc Bộ văn hoá thông tin.
Cuối năm 1990, trước yêu cầu cấp bách về phát triển ngành Phát thanh và Truyền hình nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền. Xét thấy việc nhập khẩu vật tư kỹ thuật, thiết bị truyền thanh, truyền hình và thông tin qua việc uỷ thác nhập khẩu cho Bộ thương mại là không còn phù hợp với tình hình phát triển của ngành, gây cản trở cho tiến độ đổi mới và hiện đại hoá ngành Phát thanh và Truyền hình, ngày 12 tháng 12 năm 1990, Bộ văn hoá thông tin đã ban hành quyết định QĐ/461/TC cho phép Công ty được quyền XNK trực tiếp các loại thiết bị đồng bộ, các loại vật tư, linh kiện điện kỹ thuật chuyên dùng cho ngành Phát thanh Truyền hình.
Năm 1993, Công ty được thành lập lại theo Nghị định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ). Theo giấy phép kinh doanh số 108252, do trọng tài kinh tế thành phố Hà Nội cấp ngày 29/4/1993. Tại thời điểm thành lập này Công ty có tổng số vốn kinh doanh ban đầu là: 2.552.800.000 đồng. Trong đó:
- Vốn cố định: 1.510.300.000 đồng
- Vốn lưu động: 1.042.500.000 đồng
Tổng số cán bộ công nhân viên lúc ban đầu là 35 người, 100% số cán bộ công nhân viên của công ty thuộc biên chế Nhà nước.
Cũng trong năm1993, xét chức năng nhiệm vụ của Công ty vật tư kỹ thuật, theo đề nghị của Vụ tổ chức cán bộ, Giám đốc công ty đã ban hành Quyết định số 1826/TC - QĐ đổi tên công ty thành Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin với tên giao dịch tiếng anh là: Equipment And Materials of information Import - export Company (EMI.Co).
Tiếp sau đó, ngày 24 tháng 3 năm 1994, căn cứ các quyết định và công văn có liên quan, Công ty được chuyển giao sang Đài tiếng nói Việt Nam quản lý. Từ đó tới nay Công ty trực thuộc Đài tiếng nói Việt Nam.
Trong các năm tiếp theo, nhằm mở rộng phạm vi và ngành nghề kinh doanh của mình Công ty đã lần lượt thành lập được các đơn vị kinh tế trực thuộc sau:
- Chi nhánh của Công ty tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Trung tâm tiếp thị và thông tin quảng cáo.
- Xí nghiệp sản xuất, lắp đặt thiết bị và kinh doanh phát thanh truyền hình.
- Trung tâm chuyển giao công nghệ, điện tử tin học, thông tin.
Như vậy, sau hơn 30 năm hoạt động và phát triển, hiện nay Công ty EMI.CO được xác định như sau:
Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin, tên viết tắt là EMI.Co là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Đài tiếng nói Việt Nam, mã số: 1201, 0703, 0704. Công ty là đơn vị sản xuất kinh doanh hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản tiền Việt Nam và tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng, có trụ sở đặt tại số 5A phố Thi Sách - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
-Tổng số cán bộ công nhân viên là 243 người, trong đó:
Biên chế Nhà nước 125 người.
Hợp đồng dài hạn 28 người.
Hợp đồng ngắn hạn, thời vụ 90 người.
- Tổng nguồn vốn: 144.000.000.000 đồng, trong đó:
Vốn chủ sở hữu: 29.600.000.000 đồng.
Vốn kinh doanh: 27.000.000.000 đồng.
Tài sản lưu động: 80.200.000.000 đồng.
Tài sản cố định: 7.200.000.000 đồng.
Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên (1998 - 2002): 1.800.000 đồng/người/tháng.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin.
2.1. Chức năng.
- Căn cứ phương hướng và nhiệm vụ của Bộ văn hoá thông tin, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh toàn diện nhằm phục vụ yêu cầu củng cố, phát triển sự nghiệp thông tin đại chúng trong cả nước.
- Được XNK trực tiếp các loại thiết bị, vật tư, linh kiện đồng bộ phục vụ nhu cầu trang thiết bị lại và hiện đại hóa ngành phát thanh, truyền hình và thông tin đại chúng, điện tử - điện lạnh - hàng may mặc - hàng tiêu dùng và phương tiện vận tải.
- Tổ chức khai thác mọi tiềm năng trong kinh doanh, liên doanh, sản xuất liên kết với các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để tăng cường khả năng sản xuất kinh doanh của Công ty, đẩy mạnh xuất khẩu thu ngoại tệ đáp ứng yêu cầu cần nhập khẩu.
- Tổ chức sản xuất, lắp ráp, sửa chữa, bảo hành những thiết bị vật tư của ngành và xã hội.
- Kinh doanh dịch vụ khách sạn và lữu hành.
- Khảo sát, thiết kế tư vấn cho các chương trình, dự án xây dựng liên quan đến ngành phát thanh, truyền hình và thông tin.
- Thực hiện dịch vụ xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
2.2. Nhiệm vụ.
- Kinh doanh hợp pháp, có kết quả và bảo toàn vốn. Công ty EMI.Co chỉ được phép thực hiện các chức năng như đã ký trong giấy phép đăng ký kinh doanh, phải am hiểu và tuân thủ pháp luật.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước: nộp ngân sách Nhà nước về các khoản thuế, lệ phí và các khoản phải nộp khác.
- Tiến hành kế toán hạch toán theo chế độ quy định và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính, tổ chức công tác kế toán khoa học và hợp lý.
- Ưu tiên sử dụng lao động trong nước và phải đảm bảo lợi ích cho người lao động theo quy định của Nhà nước.
- Hàng hoá Công ty kinh doanh phải đảm bảo chất lượng theo quy định, có chất lượng tốt. Tránh nhập khẩu, kinh doanh các hàng hoá kém phẩm chất làm ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng, làm mất uy tín của Công ty và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
2.3. Quyền hạn.
Với chức năng và quyền hạn trên Công ty có một số quyền hạn như:
- Được vay vốn tiền Việt Nam và ngoại tệ của ngân hàng Việt Nam và ngân hàng nước ngoài. Được huy động vốn trong nhân dân và các tổ chức kinh tế trong và nước ngoài phục vụ yêu cầu sản xuất kinh doanh phục vụ yêu cầu sản xuất kinh doanh. Công ty phải tự trang trả nợ vay, thực hiện đúng các quy định ngoại hối của Nhà nước.
- Được trực tiếp ký hợp đồng kinh tế với tất cả các tổ chức trong và ngoài nước thuộc các thành phần kinh tế kể cả các đơn vị khoa học kỹ thuật theo chức năng của mình, trong liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư; uỷ thác nhập khẩu trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, các bên cùng có lợi. Được mở rộng các cửa hàng mua bán các sản phẩm mà Công ty sản xuất kinh doanh.
- Được dự hội chợ, triển lãm các sản phẩm của Công ty ở trong nước và ngoài nước. Được mời khách nước ngoài vào hoặc cử cán bộ ra nước ngoài đàm phán ký kết hợp đồng, khảo sát thị trường, trao đổi nghiệp vụ…
- Được đặt các đại diện của Công ty trong nươc và ngoài nước theo qui định của Nhà nước Việt Nam và nước sở tại. Được thu thập và cung cấp các thông tin về kinh tế thị trường thế giới.
- Công ty được quyền ký hợp đồng lao động trực tiếp với những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu của công việc để làm việc có thời hạn lâu dài trong Công ty theo chế độ phân cấp quản lý theo luật định.
3. Bộ máy tổ chức của công ty.
Xét về mặt chức năng, Công ty được tổ chức thành 3 bộ phận: Ban giám đốc, các phòng nghiệp vụ và các đơn vị sản xuất kinh doanh. Cũng như các doanh nghiệp quy mô vừa khác trong cả nước, cơ cấu tổ chứcbộ máy của công ty được kết hợp bởi hai hình thức: trực tuyến - chức năng. Cơ cấu tổ chức bộ máy kiểu này rất linh động và có kết quả phù hợp với hoạt động kinh doanh đa dạng của Công ty.
Ban giám đốc:
- Giám đốc công ty: Vừa là người đại diện cho Nhà nước, vừa là người đại diện cho các cán bộ công nhân viên điều hành chung mọi hoạt động của Công ty, quản lý công ty theo chế độ 1 thủ trưởng có quyền quyết định và điều hành phương thức hoạt động của công ty theo chính sách và luật pháp của Nhà nước và nghị quyết của đại hội công nhân viên chức, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Đài tiếng nói Việt Nam về kết quả sản xuất kinh doanh hằng năm của Công ty.
- Các phó giám đốc: Là người giúp việc cho giám đốc, trực tiếp phụ trách các phòng ban, được uỷ quyền giải quyết các công việc của công ty khi giám đốc đi vắng. Công ty có 4 phó giám đốc: Phó giám đốc kiêm kế toán trưởng; Phó giám đốc kỹ thuật; Phó giám đốc kinh doanh xuất nhập khẩu; Phó giám đốc kinh doanh phụ trách chương trình đưa thông tin về cơ sở. Riêng phó giám đốc kiêm kế toán trưởng là người chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác kế toán của Công ty. Kế toán trưởng có quyền hạn nghĩa vụ theo qui định của cơ quan tài chính cấp trên và theo qui định của pháp luật.
Phòng kinh doanh:
- Tổng hợp theo dõi và phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty báo cáo cho ban giám đốc quản lý.
- Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính, thống kê các số liệu báo cáo Cục thống kê thành phố Hà Nội.
- Đàm phán trình giám đốc công ty ký hợp đồng xuất - nhập khẩu thiết bị vật tư và các ngành nghề kinh doanh của Công ty.
- Trực tiếp làm thủ tục với hải quan để tiếp nhận và bàn giao hàng hoá cho kho của Công ty.
Phòng tổ chức tổng hợp: Giúp giám đốc tổ chức bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Có nhiệm vụ quản lý bảo vệ lao động trong Công ty, tuyển dụng, đào tạo, tái đào tạo đội ngũ cán bộ cho Công ty, giải quyết chế độ cho người lao động, làm công tác văn thư lưu trữ, công tác hành chính của Công ty.
Phòng kế hoạch - tài vụ: Có trách nhiệm tổ chức công tác kế toán theo quy định của Nhà nước. Thực hiện kế hoạch tài chính, quản lý tài sản của công ty, thanh quyết toán vốn, lương và các chế độ khác cho công nhân viên và bạn hàng, đảm bảo về tài chính vốn cho sản xuất kinh doanh. Thực hiện chức năng giám sát thu nhận xử lý cung cấp thông tin về hoạt động kinh tế tài chính giúp ban giám đốc lập phương án kinh doanh tối ưu. Chịu trách nhiệm công tác quản lý tài chính trước giám đốc và cơ quan chủ quản cấp trên.
Mạng lưới sản xuất và tiêu thụ hàng hoá gồm:
Một xí nghiệp sản xuất, lắp ráp, sửa chữa, bảo hành các thiết bị nghe nhìn (tivi, radio), các thiết bị Studio phát thanh - truyền hình và các thiết bị đồng bộ khác cho ngành phát thanh - truyền hình với dây chuyền công nghệ sản xuất lắp ráp trị giá trên 3 tỷ đồng, cùng với mặt bằng kho xưởng diện tích 6090 tại số 9 Lạc Trung - Hà Nội.
Một trung tâm chuyển giao công nghệ điện tử, tin học thông tin chuyên làm các nhiệm vụ chế thử, sản xuất, lắp ráp , lắp đặt, chuyển giao công nghệ và bảo hành máy phát thanh phát hình, máy phát FM c._. thống.
- Biết cung cấp các dịch vụ tốt nhất không doanh nghiệp nào có được của Công ty thành những khoản doanh thu lớn.
- Có khả năng tìm ra khe hở để lọt vào những thị trường rộng lớn hơn: tìm ra được những kẽ hở mà ở thị trường mục tiêu của doanh nghiệp chưa có ai quan tâm đến (thị trường ngách).
Thông qua hoạt động quảng cáo, tham gia hội chợ triển lãm Công ty EMI.Co sẽ tạo điều kiện cho khách hàng biết đến mình nhiều hơn, từ đó có thêm cơ hội trong kinh doanh. Công ty nên thành lập trang Web của mình trên Internet. Nhưng có một vấn đề mà không phải doanh nghiệp nào cũng chấp nhận nổi, đó là chi phí dành cho quảng cáo ngày càng trở nên tốn kém. Nhất là đối với doanh nghiệp Việt Nam do vốn kinh doanh hạn hẹp, mà Công ty EMI.Co không phải là ngoại lệ, nên dẫn tới hoạt động quảng cáo không thường xuyên, ít phát huy được hiệu quả. Để khắc phục điểm yếu này Công ty EMI.Co nên áp dụng biện pháp mà các doanh nghiệp Nhật Bản đã áp dụng thành công đó là : việc biến mỗi cán bộ công nhân viên của mình trở thành một kênh quảng cáo về mọi hoạt động của Công ty, đặc biệt về hoạt động XNK và những lợi thế kèm theo. Đồng thời đưa ra chế độ ưu đãi như trích phần trăm tiền thưởng cho những người có công thiết lập mối quan hệ. Việc áp dụng biện pháp này sẽ có hai lợi ích là vừa tạo điều kiện cho nhân viên tham gia hoạt động kinh doanh, vừa đỡ tốn kém một phần chi phí mà vẫn đưa thông tin tới khách hàng.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh nhập khẩu.
2.1. Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng và bạn hàng.
"Buôn có bạn, bán có phường" vì vậy Công ty EMI.Co cần thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng và bạn hàng trong cũng như ngoài nước để có thể hưởng ưu đãi về thanh toán hoặc liên doanh, liên kết làm đại lý cho các hãng. Tạo ra sự sẵn có của hàng nhập khẩu hoặc được bạn hàng cấp tín dụng nhập khẩu cho mình. Ngoài ra khi đã có uy tín trên thị trường sẽ có thêm nhiều cơ hội kinh doanh. Ví dụ như Công ty EMI.Co đã nhập khẩu thiết bị lưu trữ âm thanh, hình ảnh cho Nhạc viện Hà Nội, Nhạc viện thành phố Hồ Chí Minh, trường đại học Sân khấu Điện ảnh…những khách hàng mà trước đây rất xa lạ.
Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty, yêu cầu vốn kinh doanh là rất lớn và phải huy động trong thời gian ngắn, nên phải vay vốn của các tổ chức ngân hàng là tất yếu. Quan hệ của Công ty với ngân hàng ảnh hưởng quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn của Công ty. Công ty EMI.Co là một doanh nghiệp Nhà nước nên có ưu thế về vốn tự có, và việc vay vốn của ngân hàng không khó khăn, nên ít khi gặp khó khăn về vốn. Trong thời gian tới, Công ty được giao chỉ tiêu nhập khẩu thiết bị vật tư tương đối lớn nên vấn đề vay vốn cần phải chú trọng. Hiện nay, các thủ tục cho vay vốn còn rườm rà, mất nhiều thời gian, mặt khác Công ty nếu thanh toán cho khách hàng bằng thư tín dụng (L/C) viết bằng tiếng Anh và phải qua ngân hàng xét duyệt, có khi phải sử chữa nhiều lần làm phát sinh thêm chi phí. Do đó, việc Công ty quan hệ tốt với các ngân hàng sẽ làm cho ngân hàng tạo điều kiện và giải quyết các công việc nhanh nhất có thể cho Công ty.
2.2. Tăng cường liên doanh liên kết trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Xây dựng và phát triển quan hệ ổn định lâu dài trong buôn bán, trao đổi tiến tới phát triển quan hệ liên kết, liên doanh trong sản xuất kinh doanh mặt hàng dân dụng và chuyên dụng trong nước và mặt hàng máy phát hình công suất vừa và nhỏ. Công ty cần tập trung vào liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, điều này phù hợp với chiến lược đa dạng hoá kinh doanh của Công ty trên cơ sở nắm bắt được nhu cầu của thị trường. Đây là một giải pháp rất hữu ích trong việc huy động vốn cho kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Trong danh mục kêu gọi đầu tư liên doanh với nước ngoài thời kỳ 2001 - 2010 thì sản xuất thiết bị bảo vệ và cảnh báo điện tử, mở rộng sản xuất TVRO, anten vệ tinh xếp thứ 25 và 27.
Hiện nay, Công ty EMI.Co chưa có nhu cầu liên doanh liên kết, nhưng trong những năm tới xu hướng và nhu cầu thiết bị phát thanh sẽ biến đổi nhiều. Khi đó Công ty nên có quan hệ liên doanh liên kết như vậy sẽ giúp Công ty phát huy các thế mạnh của mình cũng như tận dụng tiềm năng của các bên tham gia liên doanh liên kết. Mặt khác, một số đối thủ cạnh tranh mới có khả năng xuất hiện và ra nhập ngành sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Nên quan hệ liên doanh liên kết với các bạn hàng khác sẽ giúp Công ty EMI.Co đẩy lùi các đối thủ mới này, giữ vững thị phần của mình.
Ngoài ra khi tham gia liên doanh liên kết Công ty sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc với các nguồn vốn của nước ngoài. Sử dụng vốn ngoại tệ có khả năng chuyển đổi cao sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn do lãi xuất thấp, khả năng thanh toán cao, đơn giản hoá thủ tục và các khâu trung gian thanh toán.
3. Tìm và lựa chọn đối tác nhập khẩu thích hợp.
Trong tương lai, thị trường Nhật Bản vẫn là thị trường tiềm năng và có triển vọng nhất của Công ty EMI.Co. Các thị trường có khả năng sử dụng phương thức giao dịch trực tiếp là thị trường Nhật Bản, EU, Hàn Quốc. Khi lựa chọn đối tác nhập khẩu trên các thị trường có khả năng giao dịch trực tiếp này, Công ty EMI.Co cần lựa chọn hãng sản xuất theo các tiêu chuẩn sau:
- Có uy tín trên thị trường ngành hàng điện tử viễn thông, có quan hệ hợp tác với các tổ chức thương mại trong nước. Trong kinh doanh, uy tín là cái đảm bảo chất lượng sản phẩm của Công ty EMI.Co. Đối với các hãng sản xuất lớn như Thomcast, NEC, Sony có uy tín cao trên thị trường, chất lượng sản phẩm của họ rất đảm bảo đối với bất kỳ người tiêu dùng nào.
- Thiết bị của hãng sản xuất có khả năng mở rộng và thích ứng cao với các sản phẩm của các hãng khác tức công nghệ sản phẩm là tương tự. Trong kỹ thuật thì tính đồng bộ được đánh giá cao, tuy nhiên do điều kiện hạn chế về ngân sách của khách hàng, họ phải lựa chọn một bộ phận riêng lẻ của hãng khác có giá rẻ hơn. Ví dụ, khách hàng có thể mua Camera của hãng Ikegami có tính năng hoạt động rất tốt nhưng họ lại chọn thiết bị dựng của Sony do giá thành rẻ hơn, kỹ thuật thì tương tự như Ikegami (thấp hơn ở một vài chức năng ít sử dụng). Do đó khả năng tương thích của các thiết bị được đặc biệt coi trọng.
- Có khả năng cung cấp dịch vụ hậu mãi lâu dài, điều này có ý nghĩa rất lớn trong cung cấp linh kiện thay thế hay hỏng. Nếu hãng sản xuất không có tiềm lực và khả năng tài chính lớn, họ chỉ xuất hiện trên thị trường trong một thời gian ngắn, không có khả năng cung cấp các linh kiện thiết bị hay hỏng hoặc khi thay thế một loại thiết bị họ sẽ không có khả năng thực hiện các dịch vụ hậu mãi bảo hành với sản phẩm cũ đã mua.
Còn thị trường Mỹ vẫn được coi là thị trường khó khăn do sự hạn chế, kiểm soát công nghệ, sự khác biệt văn hoá, thời gian, tâm lý ngại ngần giao dịch với doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác thiết bị nhập khẩu của Công ty EMI.Co được sản xuất tại Mỹ lại chiếm tỷ trọng đáng kể (75% máy phát thanh cung cấp cho các đài địa phương là sản phẩm của Mỹ). Do tâm lý e ngại nên các hãng sản xuất thiết bị phát thanh - truyền hình chuyên dụng của Mỹ thường sử dụng trung gian để phân phối sản phẩm của mình. Vì vậy, để nhập khẩu thiết bị do Mỹ sản xuất, Công ty EMI.Co nên giao dịch với nhà phân phối trung gian của họ. Đối với những nhà phân phối này Công ty phải lựa chọn ra được đối tác phân phối thích hợp, hay kênh phân phối ngắn nhất từ nhà sản xuất tới người bán trực tiếp.
Người phân phối trung gian của ngành hàng phát thanh - truyền hình chủ yếu tập trung ở Singapore và Hồng Kông. Dễ nhận thấy người bán Singapore có hiểu biết rộng hơn về đặc tính kỹ thuật công nghệ của hàng hoá. Khi lựa người chọn trung gian, Công ty EMI.Co phải tìm hiểu thông tin về quan hệ của họ đối với nhà sản xuất, tình hình hoạt động của họ và chất lượng dịch vụ của họ. Tốt nhất nên lựa chọn nhà trung gian là đại lý chính của hãng sản xuất của Singapore nhằm có được sự hỗ trợ nhanh và nhiều nhất về kỹ thuật, dịch vụ hậu mãi.
Việc lựa chọn đối tác rất quan trọng trong điều kiện đối thủ mới gia nhập ngành có sự ủng hộ của các nhà sản xuất. Để giảm bớt nguy cơ cạnh tranh, làm suy yếu khả năng của các đối thủ này thì Công ty EMI.Co nên liên kết với hãng sản xuất để trở thành đại lý độc quyền. Trong trường hợp đó Công ty EMI.Co cần xác định được nhẵn mác mà mình là đại lý độc quyền sẽ là xu thế sử dụng tất yếu trên thị trường mục tiêu của mình.
4. Giải pháp tổ chức thực hiện kinh doanh nhập khẩu hợp lý.
4.1. Lựa chọn phương án kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tận dụng hết thời cơ mà thị trường tạo ra trong khả năng của mình và phải linh động với những thay đổi của thị trường. Do vậy để kinh doanh hiệu quả thì Công ty cần phải lựa chọn phương án kinh doanh đúng đắn, kết hợp chặt chẽ cả mục tiêu trung, ngắn hạn và dài hạn, giảm sự phụ thuộc vào sự biến động của thị trường, thích ứng nhanh với sự biến động của môi trường kinh doanh.
4.2.Lựa chọn phương thức kinh doanh nhập khẩu thích hợp.
Hiện nay phương thức kinh doanh nhập khẩu chủ yếu của Công ty EMI.Co là nhập khẩu trực tiếp qua hợp đồng mua bán, gián tiếp qua hợp đồng uỷ thác, giao dịch tại hội chợ triển lãm…Việc sử dụng nhiều hình thức nhập khẩu như vậy giúp Công ty tận dụng khai thác được tất cả các dịch vụ của mình. Trong thị trường độc quyền cạnh tranh, Công ty EMI.Co có thể thực hiện thêm hình thức nhập khẩu qua các hợp đồng đại lý độc quyền bán hàng tại thị trường Việt Nam. Việc là đại lý độc quyền cho một nhãn mác sản phẩm nào đó sẽ giúp Công ty có thêm lợi thế thương mại.
Tuy nhiên khi lựa chọn thêm hình thức đại lý độc quyền, Công ty cũng cần phải lưu ý là các nhà sản xuất sản phẩm để hạn chế bớt cạnh tranh sẽ buộc Công ty không được kinh doanh những mặt hàng giống của một nhà sản xuất khác. Thực tế ngành hàng mục tiêu của Công ty là thiết bị phát thanh chuyên dụng của Công ty EMI.Co có nhiều hãng sản xuất, mỗi hãng chỉ khác biệt một chút về tính năng và tác dụng. Nên nếu chấp nhận yêu cầu chỉ được lựa chọn một nhãn mác, Công ty sẽ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh các sản phẩm của các hãng khác. Do đó, trước khi ký kết hợp đồng đại lý độc quyền với một hãng nào đó, Công ty EMI.Co cần nghiên cứu kỹ khả năng tiêu thụ của mặt hàng so với hàng hoá cạnh tranh khác, xu hướng sử dụng hàng hoá đó, đặc biệt phải lựa chọn đối tác phù hợp.
5. Nâng cao nghiệp vụ trong đàm phán và giải pháp tín dụng thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu.
5.1. Nâng cao nghiệp vụ trong đàm phán.
Khi đã thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường thì quá trình đàm phán ký kết hợp đồng sẽ có nhiều thuận lợi do Công ty EMI.Co đã xác định được các điểm mạnh, điểm yếu của đối tác giao dịch. Thương lượng đàm phán là quá trình phức tạp chịu sự tác động sâu sắc của yếu tố văn hoá. Vấn đề cốt lõi là phải xây dựng các mối quan hệ hợp tác lâu dài với nhau giữa các bên giao dịch. Để thương lượng, đàm phán thành công cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng các vấn đề trước khi đtôi ra đàm phán. Công ty EMI.Co cần xác định mục tiêu chiến lược của mình rõ ràng và phải dự tính được chiến lược của bên khia, cũng như các tình huống có thể xẩy ra để có thể phản ứng kịp thời.
Ngay từ khâu chuẩn bị đã phải có những giải pháp khác nhau để có thể sẵn sàng thay giải pháp này bằng giải pháp khác mà không phải đưa ra những điều kiện tiên quyết làm căng thẳng bầu không khí thương lượng. Khi có giải pháp bị gạt bỏ, Công ty dễ lâm vào tình trạng bị động bế tắc nếu không có những giải pháp hữu hiệu sẵn sàng thay thế. Đàm phán đi đến ký kết hợp đồng nhập khẩu của Công ty EMI.Co thực chất đều xoay quanh các vấn đề chính là thiết bị công nghệ, phương thức thanh toán, thời hạn và giá cả. Đối với từng yêu cầu và mục tiêu đặt ra, Công ty EMI.Co cần xác định yếu tố thiết bị công nghệ, giá cả là yếu tố tiên quyết không thể thay đổi và các yếu tố như phương thức thanh toán, dịch vụ đi kèm hàng hoá thiết bị…thì có thể thay đổi.
5.2. Giải pháp tín dụng thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu.
Vì hoạt động nhập khẩu của Công ty diễn ra trên phạm vi rộng lớn (toàn thế giới). Công ty EMI.Co nhập khẩu hàng hoá từ nhiều nước khác nhau, nên quá trình thanh toán khá phức tạp. Công ty cần tăng cường các biện pháp kiểm soát trong thanh toán. Hiện tại, Công ty EMI.Co đang sử dụng hai hình thức thanh toán chủ yếu là điện chuyển tiền (chiếm 81% giao dịch) và thư tín dụng (19%). Việc sử dụng các công cụ tín dụng trong thanh toán cũng là một giải pháp cho Công ty.
Về nguyên tắc, thanh toán bằng thư tín dụng có độ đảm bảo an toàn cao hơn so với điện chuyển tiền. Thanh toán bằng thư tín dụng chỉ dựa trên cơ sở các chứng từ mà bên bán (người xuất khẩu) xuất trình chứ không căn cứ vào hàng hoá họ gửi đi, các ngân hàng thì không có trách nhiệm với việc người mua đã nhận được hàng hoá hay chưa. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho mình, Công ty cần yêu cầu ngân hàng thanh toán thực hiện chi trả khi có chứng nhận chất lượng đạt tiêu chuẩn hàng hoá do các tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam phát hành. Chứng nhận này xác nhận chủng loại, chất lượng hàng hoá mà người bán đã gửi cho Công ty EMI.Co. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) nên sử dụng đối với các nhà cung cấp trung gian, những người không có quan hệ buôn bán thường xuyên và áp dụng khi Công ty EMI.Co có khả năng ứng vốn.
Bên cạnh đó để tránh tình trạng bên bán thông báo không có khả năng thực hiện hợp đồng khi thư tín dụng đã được mở, Công ty EMI.Co cần yêu cầu bên bán có cam kết với mình. Cam kết có thể là giấy tờ, là cam kết của ngân hàng bên bán, nhưng để đạt được hiệu quả cao thì yêu cầu bên bán đặt cọc 3 - 5% trị giá đơn hàng (khoản tiền này sẽ được trả lại cho bên bán khi các điều kiện ràng buộc các bên tham gia vào giao dịch được thoả mãn).
Đối với phương thức thanh toán điện chuyển tiền, Công ty nên hạn chế chỉ nên áp dụng với những nhà cung cấp mà Công ty EMI.Co đã có quan hệ mật thiết lâu dài và có độ tin tưởng cao. Và chỉ nên sử dụng điện chuyển tiền sau khi đã được thông báo hàng đã được chuyển lên tàu (để chuyển tới cảng nước nhập khẩu). Nếu không Công ty sẽ bị bên bán chiếm dụng vốn trong khoảng thời gian từ khi tiền chuyển từ tài khoản của Công ty đến tài khoản người thụ hưởng cho đến khi hàng được xếp lên tàu. Thời gian này càng kéo dài, Công ty càng bị chiếm dụng vốn lâu hơn. Khi sử dụng hình thức này, nên áp dụng hình thức chuyển tiền một lần để giảm chi phí.
Công ty nên áp dụng thêm hình thức thanh toán CDA (thanh toán khi xuất trình chứng từ) có nhiều hợp ưu điểm là nhận được tiền ngay khi xuất trình bộ chứng từ. Còn thanh toán bằng L/C và điện chuyển tiền thì Công ty phải mất một khoảng phí cho ngân hàng (thường là 0,15% giá trị hợp đồng).
Như vậy việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng trong thanh toán quốc tế cũng làm giảm áp lực và vốn kinh doanh, đặc biệt là nguồn ngoại tệ mạnh.
6. Nâng cao trình độ năng lực của cán bộ công nhân viên.
Vấn đề nhân lực luôn là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong sự tồn tại của bất kỳ doanh nghiệp nào. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đòi hỏi Công ty EMI.Co phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại thương mạnh, có đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời của nhu cầu thị trường quốc tế, qui mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước.
Hiện nay đa số người lao động đều ý thức được việc hoàn thiện nâng cao chất lượng lao động của mình. Tuy nhiên đối với khối cơ quan hành chính và một số doanh nghiệp công ích, doanh nghiệp Nhà nước thì ý thức học tập, nâng cao nghiệp vụ trong cán bộ nhân viên còn thấp. Việc chuẩn hoá đã được tiến hành ở các đơn vị, đối với một số doanh nghiệp kinh doanh như Công ty EMI.Co cần có sự đánh giá lại cán bộ của mình trong từng thời kỳ.
Công ty EMI.Co cần phải có chính sách đào tạo cán bộ cho từng thời kỳ và lâu dài. Các chính sách về nhân sự của Công ty phải chỉ ra được nếu mỗi cán bộ không tự hoàn thiện nghiệp vụ của mình họ sẽ bị đào thải, sử dụng các biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích, giáo dục ý thức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ trong mỗi cán bộ công nhân viên. Các chế độ chính sách của Công ty cũng ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của từng cán bộ công nhân viên, nên việc thưởng phạt công minh sẽ phát huy tác dụng sức mạnh của toàn thể cán bộ công nhân viên.
Để hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực xuất nhập khẩu ngoài việc Công ty EMI.Co phải khuyến khích cán bộ học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao kinh nghiệm đối với cán bộ nhân viên trực tiếp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, bổ xung thêm nguồn nhân lực có đầy đủ trình độ chuyên môn, thì Công ty cần tạo ra không khí hợp tác, đoàn kết nhất trí và nhiệt tình hăng say trong công việc. Chế độ lương bổng phải hợp lý tăng theo cấp độ, bằng cấp đảm bảo cho cán bộ tham gia xuất nhập khẩu có cuộc sống ổn định để họ toàn tâm toàn ý vào công việc.
Trong Công ty luôn tồn tại hai thế hệ là thế hệ người đi trước (thường là người giày dạn kinh nghiệm) và thế hệ mới trưởng thành ( thì năng động sáng tạo). Nên cần phải biết kết hợp hai nhóm này hoạt động để bổ xung cho nhau.
Hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng đòi hỏi các cán bộ phải giỏi ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh và ngôn ngữ thị trường (ngôn ngữ thị trường ở đây bao gồm cả đặc điểm tâm lý, thị hiếu, thói quen, các yếu tố văn hoá, lối sống…). Họ phải luôn theo dõi, ghi nhận và phân tích các thông tin có liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới, những thay đổi trong chính sách quản lý của Nhà nước có tác động đến ngành nghề kinh doanh. Để đáp ứng yêu cầu này Công ty cần thường xuyên cử cán bộ công nhân viên đi học các lớp đào tạo ngắn hạn chuyên ngành để củng cố nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ. Trong nội bộ Công ty cũng nên tổ chức các cuộc họp trao đổi kinh nghiệm, nêu ra ý kiến xây dựng Công ty. Và mỗi cán bộ tự đúc kết ra kinh nghiệm của mình sau mỗi thương vụ từ đó trao đổi với đồng nghiệp trong Công ty tạo nên bí quyết kinh doanh của Công ty mình.
7. Biện pháp giảm chi phí kinh doanh.
Để lợi nhuận của Công ty đạt được cao thì cần phải tăng doanh thu và giảm chi phí trong kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Các khoản mục chi phí của Công ty cũng còn bất hợp lý và còn phát sinh nhiều khoản lãng phí không thực sự cần thiết. Để hạn chế vấn đề này trong việc quản lý chi phí cho hoạt động nhập khẩu Công ty EMI.Co cần làm tốt một số việc sau: Đối với những đơn hàng nhỏ lẻ nên kết hợp với nhau để tránh lãng phí do khối lượng nhập khẩu ít mà lại nhập khẩu làm nhiều lần. Công ty nên ký hợp đồng nhập khẩu với giá trị lớn và thực hiện việc thanh toán nhanh để có thể thương lượng giảm chi phí và được hưởng chiết khấu do thanh toán nhanh. Và trong giao dịch đàm phán Công ty cũng nên lập kế hoạch chặt chẽ để tránh chi phí phát sinh do giao dịch nhiều lần.
8. Một số kiến nghị về quản lý Nhà nước đối với việc hoàn thiện nhập khẩu của Công ty EMI.Co.
Nhà nước có vai trò rất lớn trong việc đảm bảo cho các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Để các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả Nhà nước cần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, hệ thống chế độ chế độ luật pháp phải đồng bộ, các thủ tục đơn giản, gọn nhẹ, bộ máy quản lý là việc nghiêm túc, có hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thì các chính sách của Nhà nước như: chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu phải rõ ràng, đồng bộ, chặt chẽ và ổn định, các thủ tục hải quan nên được làm nhanh chóng, thống nhất.
- Cần có sự hỗ trợ đặc biệt về thông tin công nghệ cho doanh nghiệp. Hiện nay hầu hết doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, lựa chọn thông tin về thị trường, về bạn hàng do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong nguồn thông tin được doanh nghiệp Việt Nam đánh giá cao là nguồn thông tin có được từ các đại sứ quán, lãnh sứ quán Việt Nam tại nước ngoài. Tuy nhiên thông tin này còn rất hạn chế.
- Nhà nước cần có chính sách thuế cụ thể và ổn định đối với từng mặt hàng nhập khẩu. Hiện nay thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước, là công cụ thiết yếu để bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên mức thuế này còn nhiều bất hợp lý. Do hoạt động kinh doanh của Công ty EMI.Co chỉ chủ yếu nhập khẩu phục vụ ngành phát thanh - truyền hình nhưng lại hoạt động trong cơ chế thị trường. Mặt khác các công trình phát thanh - truyền hình thuộc về cơ sở hạ tầng. Chính vì vậy, các mặt hàng phục vụ ngành cần phải có sự ưu tiên về thuế nhập khẩu. Bởi đa số mặt hàng này hiện tại và trong một vài năm tới vẫn chưa có khả năng được sản xuất tại thị trường nội địa. Nhưng trên thực tế các mặt hàng này vẫn chịu thuế nhập khẩu cao (chỉ trừ một số mặt hàng chuyên dụng được miễn giảm thuế).
- Nhà nước cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lý xuất nhập khẩu, đặc biệt là thủ tục hải quan.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện cơ chế XNK, nhưng cho tới nay vẫn còn nhiều cơ quan quản lý đối với các doanh nghiệp trong ngành. Thủ tục hành chính còn rườm rà phức tạp, đặc biệt là thủ tục hải quan, đôi khi làm mất đi tính chủ động trong kinh doanh. Vì vậy cần chuyên môn hoá công tác hải quan.
Trên đây là một số kiến nghị tổng hợp từ thực tiễn kinh doanh tại Công ty EMI.Co, và những khó khăn vướng mắc từ phía chính sách Nhà nước cần xtôi xét điều chỉnh để tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực XNK. Những kiến nghị trên có hợp lý hay không phụ thuộc vào sự điều chỉnh vĩ mô từ phía Nhà nước và nhiệm vụ của các doanh nghiệp là thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước.
Kết luận
Sau hơn 15 năm chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Có thể nói rằng cơ chế thị trường đã mang lại một sức sống mới cho nền kinh tế nước ta. Để đứng vững trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh khốc liệt không hề đơn giản đối với một đơn vị kinh doanh. Đối với Công ty EMI.Co để kinh doanh có hiệu quả cần phải biết nắm bắt cơ hội và lựa chọn thời cơ tốt. Do Công ty kinh doanh trong thị trường chuyên ngành hẹp, sức mạnh độc quyền của nhà sản xuất, số lượng khách hàng tiêu thụ hàng ít thay đổi, khả năng và số lượng các doanh nghiệp khác gia nhập ngành ngày càng tăng. Nếu không thực hiện các biện pháp đẩy mạnh kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng, Công ty sẽ có khả năng mất dần khách hàng và thị phần hiện nay của mình.
Hiện nay Chính phủ Việt Nam dành cho ngành phát thanh - truyền hình một lượng đầu tư rất lớn. Hiện tại và trong tương lai ngành phát thanh - truyền hình sẽ trở thành phương tiện thông tin vui chơi giải trí quan trọng và là phương tiện tuyên truyền chủ yếu của Đảng và Nhà nước. Nhu cầu phát triển, nâng cấp trang thiết bị tại các Đài địa phương và trung ương ngày càng tăng và các doanh nghiệp trong ngành sẽ có càng nhiều cơ hội để phát triển. Để kinh doanh nhập khẩu đạt kết quả cao Công ty EMI.Co cần phải tiến hành đồng bộ các biện pháp về nhân lực, tài chính, phục vụ sau bán hàng, lựa chọn phương thức kinh doanh, đa dạng dịch vụ hậu mãi…nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Bên cạnh những biện pháp đổi mới trong bản thân Công ty EMI.Co cũng cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Các chính sách của Nhà nước về hoạt động nhập khẩu cũng cần đổi mới phù hợp với mục tiêu từng thời kỳ, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi.
Do thời gian thực tập có hạn và chưa có kinh nghiệm thực tế bản thân nên bản chuyên đề này hẳn sẽ có nhiều hạn chế. Tôi rất mong được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy, cô giáo, các chuyên viên xuất nhập khẩu cùng các bạn sinh viên để bài chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường ĐHKTQD, các thầy cô giáo khoa thương mại và các bác, cô chú ở Công ty EMI.Co. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Tiến sỹ Phan Tố Uyên.
Hà Nội 3 - 5 - 2003
Sinh viên
Nguyễn Minh Hoà.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Phần I. Một số vấn đề cơ bản về kinh doanh nhập khẩu ở các doanh nghiệp 3
I. Khái quát về hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường 3
1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhập khẩu 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Đặc điểm 4
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu 4
3. Các hình thức nhập khẩu 5
3.1. Nhập khẩu uỷ thác 5
3.2. Nhập khẩu trực tiếp 6
3.3. Nhập khẩu liên doanh 7
3.4. Nhập khẩu để tái xuất 7
3.5. Nhập khẩu đổi hàng 8
4. Các yêu cầu cơ bản trong hoạt động nhập khẩu 9
5. Một số nhân tố tác động đến kết quả kinh doanh nhập khẩu 10
5.1. Chính sách luật pháp trong nước và quốc tế 10
5.2. Thị trường 10
5.3. Thuế nhập khẩu 12
5.4. Danh mục các mặt hàng hạn chế nhập hay cấm nhập, các danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu quản lý theo ngành 12
5.5. ảnh hưởng của nhóm yếu tố thuộc tiềm năng của doanh nghiệp 13
5.6. ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng 14
5.7. ảnh hưởng của văn hoá và ảnh hưởng của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc 15
II. Nội dung hoạt động kinh doanh nhập khẩu ở các doanh nghiệp 15
1. Nghiên cứu thị trường 15
2. Tìm và lựa chọn đối tác nhập khẩu 16
3. Lựa chọn phương thức giao dịch 17
3.1. Giao dịch thông thường 17
3.2. Giao dịch qua trung gian 18
3.3. Giao dịch buôn bán đối lưu 19
3.4. Giao dịch tái xuất 19
3.5. Đấu giá quốc tế 19
3.6. Đấu thầu quốc tế 20
3.7. Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá 20
3.8. Giao dịch tại hội chợ và triển lãm 20
3.9. Gia công quốc tế 20
4. Đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng 21
4.1. Đàm phán và chuẩn bị ký kết 21
4.2. Quy trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu 22
5. Các hình thức thanh toán chủ yếu 23
5.1. Phương thức chuyển tiền 23
5.2. Phương thức nhờ thu 23
5.3. Phương thức tín dụng chứng từ 23
III. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh nhập khẩu 24
1. Chỉ tiêu tổng hợp 24
2. Chỉ tiêu bộ phận 26
3. Tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu 27
4. Chỉ tiêu đánh giá kết quả sử dụng lao động 27
5. Chỉ tiêu đánh giá kết quả sử dụng vốn kinh doanh 28
Phần II. Thực trạng kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co). 30
I. Khái quát về Công ty EMI.Co 30
1. Quá trình thành lập và phát triển của Công ty EMI.Co 30
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin 32
2.1. Chức năng 32
2.2. Nhiệm vụ 32
2.3. Quyền hạn 33
3. Bộ máy tổ chức của Công ty 34
4. Đặc điểm công nghệ thiết bị 38
5. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty 38
5.1. Ngành nghề kinh doanh 38
5.2. Mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Công ty hiện nay gồm 39
5.3. Thị trường tiêu thụ của Công ty 39
5.4. Đối thủ cạnh tranh của Công ty 40
6. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây 41
II. Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co) 44
1. Danh mục hàng nhập khẩu. 44
1.1. Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty 44
1.2. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của Công ty EMI.Co 44
2. Thị trường nhập khẩu của Công ty EMI.Co 50
3. Các hình thức nhập khẩu của Công ty EMI.Co 58
3.1. Nhập khẩu thông qua các hợp đồng mua bán trực tiếp 58
3.2. Nhập khẩu gián tiếp thông qua các hợp đồng uỷ thác 59
4. Thực trạng hoạt động nhập khẩu ở Công ty EMI.Co 62
4.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường và lập phương án kinh doanh 62
4.2. Ký hợp đồng nhập khẩu 64
4.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu 65
5. Kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty trong giai đoạn 1998 - 2002 68
III. Phân tích đánh giá kết quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty EMI.Co 69
1. Những đóng góp to lớn từ hoạt động nhập khẩu của Công ty EMI.Co đến việc thực hiện các dự án phát thanh - truyền hình 69
2. Kết quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty EMI.Co 72
2.1. Chỉ tiêu lợi nhuận nhập khẩu và tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu 73
2.2. Tỷ suất lợi nhuận tính trên doanh thu nhập khẩu của Công ty EMI.Co 74
2.3. Chỉ tiêu kết quả sử dụng lao động 75
2.4. Chỉ tiêu kết quả sử dụng vốn kinh doanh 77
3. Đánh giá chung về kết quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty EMI.Co 78
3.1. Những kết quả đạt được 78
3.2. Những khó khăn tồn tại chủ yếu trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty EMI.Co 80
3.3. Nguyên nhân của những tồn tại 83
Phần III. Một số biện pháp đẩy mạnh kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co) 86
I. Định hướng phát triển của ngành phát thanh và của Công ty EMI.Co 86
1. Định hướng phát triển ngành phát thanh 86
2. Định hướng phát triển của Công ty EMI.Co 87
2.1. Về mục tiêu 87
2.2. Về quy mô 88
2.3. Về nguyên tắc thực hiện 88
II. Một số biện pháp đẩy mạnh kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị Vật tư Thông tin (EMI.Co) 90
1. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường nhập khẩu 90
1.1. Tăng cường nghiên cứu và dự báo nhu cầu thiết bị, vật tư thông tin làm căn cứ cho kế hoạch nhập khẩu 92
1.2. Thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường 93
1.3. Củng cố và xây dựng quan hệ hợp tác chặt chẽ với các cơ quan tổ chức trong nước và quốc tế 93
1.4. Sử dụng biện pháp hỗ trợ như quảng cáo, tiếp thị, tham gia vào các hội thảo, hội nghị chuyên ngành, các triển lãm thường niên trong nước và quốc tế…….. 94
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh nhập khẩu 95
2.1 Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng và bạn hàng 95
2.2. Tăng cường liên doanh liên kết trong hoạt động xuất nhập khẩu 96
3. Tìm và lựa chọn đối tác nhập khẩu thích hợp 97
4. Giải pháp tổ chức thực hiện kinh doanh nhập khẩu hợp lý 99
4.1. Lựa chọn phương án kinh doanh 99
4.2. Lựa chọn phương thức kinh doanh nhập khẩu thích hợp 99
5. Nâng cao nghiệp vụ trong đàm phán và giải pháp tín dụng thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu 100
5.1. Nâng cao nghiệp vụ trong đàm phán 100
5.2. Giải pháp tín dụng thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu 100
6. Nâng cao trình độ năng lực của cán bộ công nhân viên 102
7. Biện pháp giảm chi phí kinh doanh 103
8. Một số kiến nghị về quản lý Nhà nước đối với việc hoàn thiện nhập khẩu của Công ty EMI.Co 104
Kết luận 106
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4304.doc