Chương I
NHữNG Lý LUậN CƠ BảN Về CÔNG TáC ĐấU THầU.
Khái niệm cơ bản về đấu thầu.
1 Khái niệm : Đấu thầu là một phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua (Người gọi thầu hay chủ đầu tư) báo giá cả và các điều kiện trả tiền, sau đó người mua sẽ chọn mua (Xét thầu) của người báo giá rẻ nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn cả với những điều kiện mà người mua đã nêu. Từ đó chúng ta có những khái niệm về:
*Đấu thầu: Là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được những yêu cầu của bên mời
39 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp đẩy mạnh công tác đấu thầu tại Tổng Công ty xây dựng Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu.
*Bên mời thầu: Là chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ đầu tư có dự án cần đấu thầu.
*Nhà thầu: Là tổ chức kinh tế có đủ điều kiện và có tư cách pháp nhân để tham gia đấu thầu, nhà thầu có thể là cá nhân trong trường hợp đấu thầu tuyển chọn tư vấn.
*Xét thầu: Là quá trình phân tích, đánh giá các hồ sơ dự thầu để xét chọn bên trúng thầu.
2. Các nguyên tắc, hình thức và phương thức đấu thầu:
Trên thực tế đấu thầu không phải là một thủ tục thuần túy mà đây là một công nghệ hiện đại, một hệ thống giải pháp cho những vấn đề không thể bỏ qua trong sự phối hợp giữa các chủ thể trực tiếp liên quan đến quá trình xây dựng và cung ứng thiết bị mà mục đích là đảm bảo cho quá trình này thực hiện với kết quả tối ưu, xét theo quan điểm tổng thể: Tối ưu về chất lượng kỹ thuật và tiến độ, tối ưu về tài chính, đồng thời hạn chế tối đa những diễn biến gây căng thẳng về quan hệ và phương hại uy tín của các bên hữu quan. Vì vậy đấu thầu đòi hỏi các bên tham gia đấu thầu phải tuân thủ nghiêm túc tất cả các phương thức, hình thức và nguyên tắc mà đôi khi vẫn bị xem nhẹ hoặc bỏ qua .
2.1 Những nguyên tắc trong đấu thầu:
*Nguyên tắc cạnh tranh với các điều kiện ngang nhau: Mỗi cuộc đấu thầu đều phải được thực hiện với sự tham gia của một số nhà thầu có đủ năng lực để hình thành một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra với các đơn vị ứng thầu và thông tin cung cấp cho họ phải ngang bằng nhau, nhất thiết không có sự phân biệt đối xử.
* Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ: Các nhà thầu phải nhận được đầy đủ các tài liệu đấu thầu với các thông tin chi tiết, rõ ràng và có hệ thống quy mô, khối lượng quy định, quy cách, yêu cầu về chất lượng của công trình hay hàng hóa dịch vụ cần cung ứng, về tốc độ và điều kiện thực hiện.
* Nguyên tắc đánh giá công bằng: Các hồ sơ đấu thầu phải được đánh giá một cách không thiên vị theo cùng một chuẩn mực và cùng được đánh giá bởi một hội đồng xét thầu có đủ năng lực và phẩm chất. Lý do “được chọn” hay “ bị loại” phải được giải thích đầy đủ để tránh sự ngờ vực.
* Nguyên tắc trách nhiệm phân minh: Không chỉ các nghĩa vụ, quyền lợi của các bên liên quan được đề cập và chi tiết hóa trong hợp đồng, mà phạm vi trách nhiệm của mỗi bên ở từng phần việc đều phải được phân định rạch ròi.
Nguyên tắc “ba chủ thể”: Thực hiện dự án theo thể thức đấu thầu luôn có sự biến động đồng thời của ba chủ thể: Chủ công trình, nhà thầu và kỹ sư tư vấn. Trong đó kỹ sư tư vấn hiện diện như một nhân tố đảm bảo cho Hợp đồng luôn được thực hiện nghiêm túc đến từng chi tiết. Đồng thời kỹ sư tư vấn cũng là nhân tố hạn chế tối đa với những mưu toan thông đồng thỏa hiệp gây thiệt hại cho những người chủ đích thực của dự án .
* Nguyên tắc bảo lãnh, bảo hành, và bảo hiểm thích đáng…
Chính sự tuân thủ các nguyên tắc nói trên đã đưa đấu thầu trở thành một phương thức tối ưu cho các chủ đầu tư.
2.2 Hình thức tổ chức đấu thầu:
Để lựa chọn hình thức đấu thầu cho từng dự án cần thẩm tra những ngưỡng tiền tệ và các điều khoản có thể áp dụng bằng cách tham khảo luật đấu thầu mua sắm hiện hành .
Các hình thức cạnh tranh thường có các tính chất sau:
Thứ nhất: Thực hiện đấu thầu cạnh tranh đối với hàng hóa hay công trình có:
- Giá trị hợp đồng lớn
- Yêu cầu được xác định rõ ràng và
- Có nhiều nhà cung ứng tiềm năng.
Thứ hai: Đấu thầu hạn chế đối với hàng hóa và công trình:
- Chỉ có một số ít các nhà cung cấp hay ứng thầu đủ tư cách và điều kiện để thực hiện hợp đồng
- Chứng minh được nguyên nhân ngoại lệ khác không tuân thủ thủ tục đấu thầu cạnh tranh, và
- Thủ tục đấu thầu giống như thủ tục đối với đấu thầu cạnh tranh quốc tế với một ngoại lệ là yêu cầu phải quảng cáo.
Thứ ba: Đấu thầu cạnh tranh quốc gia đối với hàng hóa hay công trình:
- Có giá trị hợp đồng thấp
- Cạnh tranh ở địa phương hay trong nước đó đủ mạnh
- Các yêu cầu được xác định rõ ràng
- Bản chất hay thiết kế của công trìng là thu hút nhiều lao động, và
Công trình nằm rải rác theo vùng địa lý hay trải theo thời gian.
2.3 Phương thức áp dụng:
* Đấu thầu một túi hồ sơ( một phong bì): Khi dự thầu theo phương thức này nhà thầu cần nộp những đề xuất kỹ thuật, tài chính và giá thầu, cùng các điều kiện khác trong một túi hồ sơ chung.
* Đấu thầu hai túi hồ sơ(hai phong bì): Nhà thầu cần nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong hai túi hồ sơ riêng biệt nhưng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ về đề xuất kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá. Nhà thầu được xếp hạng nhất về kỹ thuật sẽ được xem xét tiếp túi hồ sơ đề xuất về tài chính. Trường hợp nhà thầu không đáp ứng được các nhu cầu về tài chính và các điều kiện của hợp đồng thì bên mời thầu sẽ xem xét, xin ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư để mời nhà thầu tiếp theo.
* Đấu thầu hai giai đoạn: Phương thức này áp dụng cho những dự án lớn, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc dự án thuộc dạng chìa khóa trao tay.
+ Giai đoạn thứ nhất: Các nhà thầu nộp đề xuất kỹ thuật và phương án tài chính sơ bộ(chưa có giá) để bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chính thức chuẩn bị và nộp đề xuất kỹ thuật của mình.
+ Giai đoạn thứ hai: Các nhà thầu tham gia giai đoạn thứ nhất nộp đề xuất kỹ thuật đã được bổ xung hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất đầy đủ các điều kiện về tài chính, tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá hợp đồng để đánh giá và xếp hạng.
* Chào hàng cạnh tranh: Phương thức này chỉ áp dụng cho những gói thầu có quy mô nhỏ và đơn giản. Mỗi gói thầu phải có ít nhất ba bản chào giá của ba nhà thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu của bên mời thầu. Nhà thầu đáp ứng yêu cầu và có giá bỏ thầu được đánh giá thấp nhất sẽ được xem xét trao hợp đồng.
* Giao thầu trực tiếp: Là phương thức chọn nhà thầu có độ tin cậy cao để xem xét thương thảo hợp đồng. Phương thức này chỉ được áp dụng với những gói thầu có quy mô nhỏ dưới 500 triệu VN đồng và các gói thầu được Thủ tướng Chính phủ cho phép chỉ định mời thầu. Trường hợp nhà thầu chỉ định không đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu thì chủ đầu tư có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư để chọn nhà thầu khác.
* Tự làm: Chủ đầu tư sử dụng lực lượng của mình để thực hiện khối lượng xây lắp được giao. Trường hợp này chỉ áp dụng với các công trình sửa chữa cải tạo có quy mô nhỏ, công trình chuyên ngành đặc biệt.
* Mua sắm trực tiếp: Phương thức này được áp dụng trong trường hợp bổ xung hợp đồng cũ đã thực hiện xong(dưới một năm) hoặc hợp đồng đang thực hiện với điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hóa hoặc khối lượng công việc mà trước đó đã được tiến hành đấu thầu, nhưng phải đảm bảo không được vượt mức giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã ký trước đó.
*Mua sắm đặc biệt: Phương thức này được áp dụng với các ngành hết sức đặc biệt mà nếu như không có những quy định riêng thì không thể đấu thầu được. Cơ quan quản lý ngành phải xây dựng quy trình thực hiện đảm bảo các mục tiêu của Quy chế đấu thầu và có ý kiến thỏa thuận của Bộ kế hoạch và đầu tư để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
II.Thể thức, trình tự đấu thầu và ý nghĩa của công tác đấu thầu trong xây dựng cơ bản.
Thể thức và trình tự đấu thầu:
Sơ tuyển các ứng thầu:
1. Mời nhà thầu dự sơ tuyển
2. Phát và nộp các tài liệu dự sơ tuyển
3. Phân tích các số liệu dự sơ tuyển, lựa chọn và thông báo danh sách các ứng thầu.
B. Thể thức nhận và nộp đơn thầu:
4. Văn kiện đấu thầu
5. Phát văn kiện đấu thầu
6. Các ứng thầu đi thăm công trường (nếu cần)
7. Sửa đổi, bổ sung văn kiện đấu thầu
8. Thắc mắc của các ứng thầu, cách thức xử lý
Nộp và nhận đơn thầu.
C. Mở và đánh giá các đơn thầu:
10. Mở đơn thầu
11. Đánh giá đơn thầu
12. Ký hợp đồng giao thầu.
2. Vai trò và ý nghĩa của công tác đấu thầu trong xây dựng cơ bản.
* Đối với chủ đầu tư: Công tác đấu thầu đem lại cho chủ đầu tư một sự lựa chọn tối ưu đối với các nhà thầu tham gia vào công việc thi công xây dựng công trình. Giúp cho chủ đầu tư tìm được một nhà sản xuất có đủ điều kiện và năng lực tạo ra sản phẩm đạt chất lượng như sự mong đợi của chủ đầu tư.
Về lợi ích kinh tế: Thông qua công tác đấu thầu chủ đầu tư sẽ giảm được đến mức tối đa chi phí xây dựng thông qua giá bỏ thầu giữa các nhà thầu.
Qua công tác đấu thầu chủ đầu tư được toàn quyền quyết định khi đưa ra các điều kiện thông qua hồ sơ mời thầu, do đó chỉ những nhà thầu có khả năng đáp ứng các điều kiện đó mới có thể tham gia đấu thầu và phải chịu trác nhiệm đối với mọi điều kiện đó cũng như trách nhiệm pháp lý đối với hồ sơ dự thầu của mình khi tham gia đấu thầu. Đây là điều kiện đảm bảo cho quá trình thực hiện hợp đồng của nhà thầu sau khi thắng thầu và thực hiện hợp đồng. Hạn chế đến mức tối đa những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Có sự ràng buộc lẫn nhau giữa chủ đầu tư và nhà thầu, điều này có lợi cho chủ đầu tư trong quá trình thực hiện hợp đồng.
* Đối với nhà thầu: Hình thức đấu thầu trong xây dựng cơ bản tạo nên một thị trường cạnh tranh bình đẳng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Để tham gia vào thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải năng động và có khả năng về trình độ, năng lực chuyên môn, đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, năng động luôn tiếp cận và cọ sát với thị trường, đội ngũ công nhân có chuyên môn và tay nghề cao, khả năng áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật và máy móc thiết bị thi công đồng bộ, hiện đại đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Thực hiện hợp đồng xây dựng thông qua hình thức đấu thầu là động lực mạnh mẽ giúp cho các nhà thầu trong nước tham gia vào thị trường mang tính cạnh tranh quốc tế, là điều kiện để các doanh nghiệp xây dựng Việt nam có đủ điều kiện và cơ hội hội nhập với khu vực và thế giới.
* Đối với nền kinh tế: Hoạt động đấu thầu trong xây dựng cơ bản sẽ đem lại cho nền kinh tế những sản phẩm có chất lượng cao đem lại hiệu quả kinh tế cho các nhà đầu tư, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc gia.
Tạo động lực cho sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước.
Tạo nên một mặt bằng mới về cơ sở hạ tầng kỹ thuật với công nghệ tiên tiến hiện đại, từ đó tạo nên một tư duy mới trong xã hội hiện đại theo mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
chương II
Thực trạng trong hoạt động đấu thầu tại
Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội
I- Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty .
1. Sự ra đời : Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, do đường lối chính sách của Nhà nước và chủ trương phát triển của ngành xây dựng đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn trong xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ các mục tiêu kinh tế chính trị quốc gia. Ngày 11/12/1982 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Xây dựng và chủ trương chính sách hiện hành của Nhà nước.
Tiền thân của Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội là 5 doanh nghiệp nhà nước hợp nhất thành hệ thống doanh nghiệp với quy mô lớn hơn có bộ máy quản lí chung, kết hợp với các phòng ban chức năng tham gia quản lí điều hành mọi hoạt động của các đơn vị thành viên hoạt động trong cùng hệ thống đó là :
- Công ty xây dựng số 1 .
- Công ty xây dựng số 3 .
- Công ty xây dựng số 11 .
- Nhà máy bê tông đúc sẵn Hà Nội .
- Xí nghiệp mộc Bạch đằng .
Trụ sở của Tổng Công ty đặt tại 57 Quang Trung, TP.Hà Nội.
Trong số các đơn vị này thì Công ty xây dựng số 1 là lực lượng chủ chốt làm nòng cốt cho bộ máy lãnh đạo Tổng Công ty, bởi công ty đã có một bề dầy kinh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, là đơn vị đã từng đảm nhiệm những công trình quan trọng mang tính quốc gia. Được thành lập từ năm 1958, khi đó Công ty xây dựng số 1 mang tên là Công ty kiến trúc khu nam Hà Nội.
2. Quá trình phát triển: Bề dày lịch sử của Tổng công ty được gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển của công ty xây dựng số 1 với hơn 40 năm hoạt động trong ngành xây dựng. Hiện nay Tổng công ty là 1 trong số những doanh nghiệp đầu ngành xây dựng hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Với 22 đơn vị thành viên nằm rải rác từ miền Bắc, miền Trung vào đến miền Nam, cụ thể:
Công ty xây dựng số 1 Công ty xây dựng số 2
Công ty xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh
Công ty xây dựng số 4
Công ty xây dựng số 6
Công ty xây dựng số 34
Công ty kinh doanh vật tư và xây dựng
Công ty thi công cơ giới và xây lắp
Công ty lắp máy điện nước và xây dựng
Công ty từ vấn đầu tư và thiết kế xây dựng
Công ty xây dựng và trang trí nội thất Bạch Đằng
Công ty bê tông xây dựng Hà nội
Công ty phát triển kỹ thuật xây dựng
Công ty xây dựng Tây Hồ
Công ty xây dựng số 34
Công ty cơ khí và xây lắp
Công ty xây dựng K2 tại TP.Thanh Hoá
Công ty xây dựng đô thị và khu công nghiệp Quảng Ngãi
Công ty xây dựng Quốc tế
Ban quản lý DA Làng quốc tế Thăng Long
Trường công nhân kĩ thuật và bồi dưỡng nghiệp vụ xây dựng tại TP Hà nội
- Trường công nhân kĩ thuật và bồi dưỡng cán bộ xây dựng tại TP.Vinh.
Phạm vi hoạt động kinh doanh :
- Hoạt động xây dựng :
+ Nhà ở và nhà cao tầng
+ Cơ sở hạ tầng xây dựng
+ Các công trình giao thông
+ Các công trình thuỷ lợi.
- Hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng
+ Sản xuất gạch xây dựng, gạch tuynen
+ Bê tông đúc sẵn, bê tông thương phẩm
+ Các loại vật liệu khác phục vụ cho xây dựng công trình.
- Trong lĩnh vực tư vấn :
+ Thiết kế
+ Khảo sát
+ Kiểm định chất lượng
+ Chuyển giao công nghệ
+ Nghiên cứu khoa học
- Trong lĩnh vực đầu tư và kinh doanh:
+ Kinh doanh bất động sản
+ Đầu tư các dự án liên doanh liên kết kinh tế
+ Kinh doanh xuất nhập khẩu.
3- Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đấu thầu
3.1.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý (phụ lục1)
3.2 Cơ cấu lao động của doanh nghiệp:
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên sử dụng là 24.143 người, số lượng cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty có trong danh sách là 8.481 người, trong đó :
* Cơ quan Tổng công ty : 110 người, trong đó :
- Quản lí điều hành : 6 người
- Tiến sĩ + thạc sĩ : 2 người
- Kĩ sư : 80 người
- Cử nhân kinh tế, tài chính, kế toán : 15 người
- Phiên dịch : 3 người
* Toàn Tổng công ty : 1.438 người có bằng cấp đại học trở lên, trong đó :
- Giáo sư- tiến sĩ : 2 người
- Tiến sĩ, thạc sĩ : 21 người
- Kiến trúc sư : 94 người
- Kĩ sư : 1.342 người
Do tính chất công việc của Ngành xây dựng nên số lượng lao động thời vụ tương đối lớn, phụ thuộc vào từng công trình.
Đặc điểm của lao động trong môi trường xây dựng cơ bản luôn luôn có sự biến động về số lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh, lao động được huy động theo từng công trình, hạng mục công trình, tiến độ thi công, khả năng đáp ứng về vốn sản xuất, việc giải ngân đối với các dự án, khả năng tập kết các nguồn nguyên vật liệu, thiết bị máy móc phục vụ cho quá trình sản xuất từ đó xác định số lượng lao động cần thiết cho từng công trình hay hạng mục công trình trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong môi trường xây dựng quá trình sản xuất kinh doanh không ổn định, lực lượng lao động phải thường xuyên di chuyển theo các công trình, điều kiện làm việc thường vấp phải rất nhiều khó khăn và thiếu thốn phải khắc phục như làm việc ngoài trời trong môi trường luôn luôn bị ô nhiễm, điều kiện ăn ở, sinh hoạt khó khăn, tạm bợ do đó việc áp dụng các biện pháp an toàn và công tác triển khai bảo hộ lao động trong sản xuất là cực kì quan trọng.
Để đạt được mục tiêu kinh doanh của Tổng công ty đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ chuyên trách có nghiệp vụ chuyên môn, có trình độ, năng lực, có khả năng phát huy cao độ trong công việc và nhạy bén với thông tin từ thị trường. Với mục tiêu tạo nhiều cơ hội để doanh nghiệp tham gia dự thầu với tư cách là nhà thầu chính có đủ năng lực đảm nhận các công trình chất lượng cao và tạo ra công ăn việc làm cho người lao động trong doanh nghiệp, ổn định, phát triển doanh nghiệp và nâng cao thu nhập cho người lao động.
3.3 Cơ cấu tài chính.
Tổng công ty đã thực hiện chế độ hạch toán tổng hợp tự chủ tài chính trong kinh doanh phù hợp với luật doanh nghiệp của Nhà nước và các quy định khác của pháp luật và điều lệ của Tổng công ty.
- Vốn điều lệ của Tổng công ty gồm có :
+ Vốn Nhà nước giao tại thời điểm thành lập Tổng công ty
+ Vốn Nhà nước đầu tư bổ xung
+ Phần lợi nhuận sau thuế được trích đầu tư bổ xung theo luật định
+ Các nguồn vốn khác ...
+ Các loại quỹ : Quỹ đầu tư phát triển, nghiên cứu khoa học và đào tạo, quỹ dự trữ tài chính, quỹ khen thưởng phúc lợi.
Mức tăng trưởng bình quân hàng năm về vốn kinh doanh là 14% tính đến thời điểm 01/01/2000 vốn kinh doanh của Tổng công ty là 184,4 tỉ đồng trong đó :
- Vốn lưu động : 53,4 tỉ đồng
- Vốn cố định : 135 tỉ đồng
- Vốn huy động từ các nguồn khác: 673 tỉ đồng
- Vốn vay ngân hàng : 244,8 tỉ đồng
II- Thực trạng trong hoạt động đấu thầu của Tổng công ty xây dựng Hà Nội.
1- Hoạt động đấu thầu ở nước ta hiện nay.
Việc tiếp cận với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đã đi vào ổn định nhất là từ khi nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đối với các dự án đầu tư xây dựng, quy chế đấu thầu trong nước và quốc tế nó đã mở ra một môi trường kinh doanh lành mạnh có sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu, các thành phần kinh tế trong môi trường kinh doanh. Đấu thầu xây dựng đã tỏ rõ ưu thế đối với chủ đầu tư trong việc lựa chọn cho mình một nhà thầu có uy tín, có trình độ năng lực và sự đáp ứng đầy đủ của các nhà thầu đối với các yêu cầu đặt ra của chủ đầu tư.
Đối với thị trường xây dựng ở nước ta hiện nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực hồi năm 1997 đến nay tuy nền kinh tế các nước trong khu vực đã dần được phục hồi nhưng mức độ ảnh hưởng của nó vẫn còn nặng nề do đó việc thu hút các nguồn vốn đầu tư đối với nền kinh tế chưa đạt được như mong muốn, điều đó cũng góp phần ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước nhất là các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng.
Vì vậy để giành cho mình một hợp đồng xây dựng các doanh nghiệp đang phải tìm mọi cách để giảm chi phí xây dựng trong giá thành với chính sách giá thầu thấp nhằm tìm ra lối thoát cho những khó khăn hiện nay.
1.1 Đối với các dự án đầu tư bằng vốn trong nước.
Các dự án sử dụng vốn đầu tư trong nước thường mang tính chuyên ngành, quy mô thường không lớn được chủ đầu lập ra và được các cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án tiền khả thi, dự án khả thi. Những nhà thầu tham gia đấu thầu dự án là những nhà thầu trong ngành chuyên môn, số lượng nhà thầu tham gia thường hạn chế trong khoảng từ 5 đến 7 nhà thầu tham dự trong một gói thầu hoặc một dự án. Đây là một hình thức phát huy nội lực của các doanh nghiệp tronh ngành đó cũng như việc tạo ra các cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước có khả năng cọ sát với thị trường cạnh tranh, tạo cơ hội việc làm cho người lao động.
Hiện nay Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2000/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP với mục tiêu thể chế hoá quan điểm đổi mới của Đảng " Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực..." , " Tháo gỡ những trở ngại về thể chế và các thủ tục hành chính và gây trở ngại cho đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp ". Đây là cơ sở đổi mới trong đầu tư và xây dựng nhằm phát huy và huy động mọi nguồn lực kinh tế xã hội cho đầu tư phát triển, tăng cường quản lý những khâu thiết yếu, chống lãng phí thất thoát vốn đầu tư, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi và phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở.
1.2 Đối với các dự án đầu tư bằng vốn nước ngoài.
Các nước và các tổ chức tài chính quốc tế khi tiến hành cấp vốn đầu tư cho các dự án tại Việt nam thường kèm theo các điều kiện mà theo đó phải có một số đặc quyền đối với họ tại Việt nam về một vấn đề nào đó liên quan đến chính trị, kinh tế và đem lại cho họ lợi ích đáng kể. Vì vậy để đảm bảo cho quyền lợi của mình nhất là trong các dự án đầu tư và xây dựng mà Chính phủ đã ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, quy chế đấu thầu nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào quá trình xây dựng các dự án đó. Qua đó các dự án có vốn đầu tư từ nước ngoài phải được đưa ra đấu thầu rộng rãi có sự tham gia của các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế dưới các hình thức liên doanh liên kết đối vối các dự án lớn, phức tạp mà phía Việt nam không có khả năng độc lập tham gia bởi sự hạn chế khả năng về công nghệ, máy móc thiết bị… . Những trường hợp như vậy các nhà thầu Việt nam sẽ tham gia với tư cách là các nhà thầu phụ.
Các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài thường tập trung ở một số hình thức như : 100% vốn nước ngoài ;Viện trợ không hoàn lại ;Vốn vay ưu đãi của các tổ chức quốc tế ;Vốn liên doanh .
- Công trình có 100% vốn đầu tư từ nước ngoài chủ đầu tư thường chỉ định các nhà thầu của chính nước mình. Riêng công trình thuộc vốn nhà nước của quốc gia đó thực hiện các dự án xây dựng các công trình ngoại giao thường có đấu thầu tại chính quốc do cơ quan quản lý vốn chủ trì đồng thời chỉ gọi thầu đối với các doanh nghiệp của nước sở tại có công trình đầu tư.
- Các công trình sử dụng vốn đầu tư không hoàn lại : Tuy Nhà nước ta coi khoản vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài vào Việt nam là nguồn vốn thuộc hệ thống vốn ngân sách nhưng việc sử dụng nguồn vốn này là do những quy định hoặc điều kiện của nước viện trợ, do đó dự án sẽ được đấu thầu hoặc chỉ định thầu tại nước cấp vốn viện trợ. Các nhà thầu của nước được cấp vốn viện trợ chỉ được tham gia với tư cách nhà thầu phụ thuộc hoặc thuê theo hợp đồng. Ví dụ: Vốn ODA Nhật bản - Nhà thầu thi công: Công ty TODA ( 100% ) vốn nước ngoài tại Việt nam.
- Vốn vay ưu đãi của các tổ chức quốc tế: Trong trường hợp này Nhà nước có thể coi như nguồn vốn ngân sách khi Nhà nước đứng ra cho vay để thực hiện các dự án hoặc Nhà nước đứng ra bảo lãnh vay cho các tổ chức thực hiện dự án và Nhà nước quản lý nguồn vốn đó. Nhưng khi thực hiện đấu thầu thì thường vẫn bị ràng buộc bởi các điều kiện của các tổ chức đứng ra cho vay khống chế. Điều này thường gây nên những bất lợi đối với các nhà thầu trong nước. Mặt khác nó tạo điều kiện thuận lợi hoặc ưu thế cho các nhà thầu được sự quan tâm hoặc có mối quan hệ với tổ chức tài chính đó.
Những điều kiện kèm theo có thể là :
+ Sử dụng tư vấn nước ngoài để quản lý dự án và tổ chức đấu thầu;
+ Yêu cầu đối với các nhà thầu bằng những chỉ tiêu cao như phải có năng lực tài chính đủ mạnh, có kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm thực hiện dự án cấp tương đương ...
- Dự án đầu tư bằng vốn liên doanh: Các bên liên doanh được thành lập và hoạt động ở Việt nam thông thường được đầu tư theo hình thức góp vốn theo tỷ lệ mà phần vốn góp của các thành viên phía đối tác nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn thường là 70% tổng vốn đầu tư và được góp vào liên doanh bằng cơ sở vật chất như máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ, các khoản vốn lưu động ... trong khi đó phía Việt nam trong liên doanh chỉ có bất động sản và nguồn nhân công ... do đó việc điều hành lãnh đạo Công ty liên doanh đều do phía nước ngoài nắm giữ và có quyền quyết định. Điều này đã trở thành bất lợi đối với các nhà thầu trong nước trong công tác đấu thầu bởi việc chủ đầu tư ( do phía nước ngoài khống chế ) đưa ra điều kiện đấu thầu quốc tế hạn chế và các nhà thầu được tham gia đã được chủ đầu tư lựa chọn gói dự thầu. Để tham gia dự thầu các dự án thường các nhà thầu trong nước phải tìm cách liên doanh với các nhà thầu nước ngoài dưới hình thức liên doanh dự thầu hoặc thầu phụ.
2. Tình hình thực hiện công tác đấu thầu của Tổng Công ty xây dựng Hà Nội.
Từ những năm 1990 việc gia tăng các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt nam nhất là vào các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, hạ tầng đô thị và khu công nghiệp.
Là một doanh nghiệp hàng đầu trong ngành xây dựng Tổng công ty xây dựng Hà nội đã tham gia thi công nhiều công trình dân dụng, công nghiệp đường giao thông, các công trình văn hoá thể thao và các công trình ngoại giao ... với nhiều hình thức: Thầu chính, thầu phụ, liên doanh liên kết đối với các nhà thầu trong và ngoài nước để dự thầu các công trình lớn đòi hỏi kỹ thuật và công nghệ cao. Khi mới tiếp cận với hình thức đấu thầu quốc tế các dự án bằng vốn nước ngoài đòi hỏi phải có những yêu cầu kỹ mỹ thuật cao, một số công nghệ mà ở Việt nam chưa có, chưa được tiếp cận do đó để ký được hợp đồng xây dựng tại các công trình đó doanh nghiệp phải tham gia với tư cách thầu phụ cho các nhà thầu xây dựng nước ngoài. Tiêu biểu cho hình thức này là một số công trình như: Nhà ở khu thương mại DAEHA 15 tầng ( thầu phụ cho DAEWOO - Hàn quốc ); Tháp trung tâm 25 tầng ( thầu phụ cho Công ty xây dựng SSangyong - Hàn quốc ); Nhà máy lắp ráp xe máy Hon da ( thầu phụ cho Công ty HAZAMA - Nhật bản ).
Với hình thức này Tổng công ty có điều kiện tiếp cận với các biện pháp xử lý kỹ thuật và công nghệ mới tiên tiến của thế giới, tiếp cận với máy móc thiết bị hiện đại và có cơ hội đầu tư trang bị máy móc hiện đại cho doanh nghiệp, trang bị kiến thức khoa học kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật và người lao động trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Bên cạnh hình thức trên Tổng công ty còn áp dụng hình thức liên doanh liên kết với các nhà thầu trong và ngoài nước, tạo thế mạnh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng tham gia dự thầu thành công. Hình thức liên doanh có ưu điểm là các đối tác có thể phát huy được thế mạnh của mình đối với phần việc của mình đảm nhận. Ví dụ như dự án xây dựng nhà máy xi măng Nghi sơn được thực hiện bởi liên doanh giữa TCT XDHN- SHIMIZU- TCT VINACONEX. TCT đã thành lập được một số công ty liên doanh như GAMVICO, ECON-HACC, VIC, COFEC. Đây là những doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân độc lập, có khả năng tham gia đấu thầu các dự án có quy mô lớn và áp dụng hình thức đấu thầu quốc tế rộng rãi. Với hình thức này đòi hỏi phải có một môi trường đầu tư lớn và vấn đề phát triển của quốc gia mà theo đó có nhiều dự án lớn được thực hiện, ngược lại khi nền kinh tế suy giảm như thời gian vừa qua sẽ là khó khăn đối với các liên doanh nói riêng và cả các doanh nghiệp trong nước nói chung. Điều đó có thể hiểu được tại sao hiện nay các nhà thầu trong nước và cả các nhà thầu nước ngoài khi tham gia đấu thầu đã đưa ra mức giá bỏ thầu rất thấp điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng và tiến độ thi công các công trình trong thời gian tới, đòi hỏi nhà nước cần có những biện pháp can thiệp cần thiết nhằm đảm bảo cho chất lượng công trình.
Các hoạt động chủ yếu trong công tác đấu thầu của Tổng công ty được thực hiện thông qua những vấn đề cơ bản sau:
2.1.Quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu.
2.1.1 Xác định yêu cầu dự án và cơ hội của doanh nghiệp để xác định xem có nên tham gia dự thầu hay không đối với một dự án.
-Xác định năng lực tài chính và khối lượng công việc để chuẩn bị hồ sơ sơ
tuyển.
- Phân tích các nguồn tài chính
- Phân tích các nguồn lực: máy móc, thiết bị có phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật không
- Xem xét loại hình công việc cần phải tiến hành
- Vị trí của công trình có phù hợp với khả năng đáp ứng của doanh nghiệp
- Tìm hiểu về chủ đầu tư: Về danh nghĩa, phong cách làm việc, sự hiểu biết dự án, sự công bằng trong hồ sơ mời thầu.
- Quyết định lập hồ sơ thầu khi có đủ thông tin cần thiết và có cơ sở để thắng thầu.
2.1.2 Lập chương trình dự án
2.1.3 Thu thập thông tin về các khoản chi phí
2.1.4 Nghiên cứu dự án
2.1.5 Chuẩn bị cho công tác lập dự án
2.1.6 Xác định tổng chi phí
2.1.7 Báo cáo của người lập dự án cho cấp trên
2.1.8 Điều chỉnh giá hồ sơ thầu.
Việc chuẩn bị hồ sơ dự thầu được tiến hành với các nội dung chủ yếu theo mẫu của hồ sơ mời thầu do chủ đầu tư yêu cầu thường bao gồm:
- Đơn dự thầu
- Tư cách pháp nhân của nhà thầu
- Năng lực nhà thầu
- Thuyết minh biện pháp thi công
- Tổ chức thi công
- Giá dự thầu
- Các bản vẽ biện pháp thi công
- Phụ lục .
Chuẩn bị hồ sơ đấu thầu là một công việc đặc biệt quan trọng đối với nhà thầu đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực tham gia vào quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu nhất là trong việc bóc tách khối lượng công việc trong bảng tiên lượng của hồ sơ mời thầu và việc tính toán giá bỏ thầu để đảm bảo cho chất lượng công trình và tiến độ thi công công trình nhà thầu phải đưa ra được các biện pháp thi công hợp lý, phải tìm kiếm được các nguồn nguyên, nhiên vật liệu phù hợp với yêu cầu của kết cấu công trình, đồng thời phải thuận lợi trong khâu vận chuyển đảm bảo tiến độ thi công và giảm tối thiểu các khoản chi phí để hạ giá thành xây lắp.
2.2 Nộp hồ sơ dự thầu
Sau khi hồ sơ dự thầu đã được chuẩn bị đầy đủ, nhà thầu( TCT ) niêm phong bản gốc và mỗi bản sao của hồ sơ đấu thầu vào 1 phong bì và bỏ vào 1 phong bì ngoài, đánh dấu rõ vào các phong bì" Bản gốc" hay" Bản sao" sau đó phải đánh dấu và niêm phong cẩn thận. Ghi địa chỉ nơi nhận hồ sơ vào mỗi phong bì trong và phong bì ngoài: Tên dự án; Số của thư mời thầu và thời hạn mở thầu. Hồ sơ dự thầu phải được nộp tới địa chỉ của chủ đầu tư theo quy định trong thư mời thầu trước thời hạn hết hạn nộp hồ sơ mời thầu, thông thường thời hạn này là trước khởi điểm mở thầu 30 phút .
Hồ sơ nộp sau thời điểm hết hạn nộp hồ sơ dự thầu được coi là hồ sơ nộp muộn, theo quy định về hạn chót nộp hồ sơ đấu thầu do đó sẽ bị bác bỏ. Để tránh xảy ra trường hợp này Tổng công ty thường phải chuẩn bị hồ sơ trong khoảng thời gian ngắn nhất để đảm bảo hoàn tất hồ sơ sớm, chuẩn bị kế hoạch, thu xếp phương tiện nhằm đảm bảo đưa hồ sơ tới địa chỉ trước hạn nộp hồ sơ.
2.3 Thực hiện thi công theo hợp đồng
Được thể hiện thông qua sơ đồ tổ chức thi công được lập trong hồ sơ dự thầu.
- Giám đốc dự án chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc Tổng công ty về mọi mặt có liên._. quan đến thi công và chất lượng công trình, có toàn quyền quyết định trên công trình, là người điều hành bộ máy tổ chức thi công. Giám sát chất lượng, quan hệ giao dịch với chủ đầu tư và tổ tư vấn thiết kế.
Các bộ phận giúp việc giám đốc dự án chịu trách nhiệm các công việc theo chuyên môn, báo cáo thường xuyên các công việc với giám đốc dự án và đề xuất phương hướng giải quyết.
Các mối quan hệ giữa Tổng công ty và việc quản lí ngoài hiện trường: Giám đốc dự án báo cáo trực tiếp với Tổng giám đốc doanh nghiệp và các bộ phận chức năng, kiểm tra chất lượng, kĩ thuật thi công kinh tế dự toán, văn phòng, bố trí cán bộ tại Tổng công ty và hiện trường thường xuyên theo dõi và giúp việc cho giám đốc dự án để ra các quyết định kịp thời nhằm ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa những sai sót trong quá trình thi công.
Mặc dù các công trình bị phân tán rộng, đa dạng về quy mô và thể loại nhưng vẫn được thực hiện tốt đảm bảo được các yêu cầu của dự án, việc tổ chức mặt bằng xây dựng hợp lý. Các biện pháp thi công được lập và thực hiện một cách hợp lý, khoa học, tiết kiệm nhân công, tiết kiệm chi phí và phù hợp với điều kiện hiện có của Tổng công ty. Nhiều biện pháp thi công các công trình có độ phức tạp lớn đã được thiết lập một các khoa học, được tính toán cụ thể và đơn giản hoá các bước thực hiện tạo điều kiện cho người lao động có thuận lợi trong công việc của mình. Các biện pháp thi công luôn được đưa ra trên cơ sở lựa trọn các phương pháp tối ưu được thuyết trình cụ thể và so sánh với nhau.
Việc thi công tại các công trình có mặt bằng chật hẹp, có độ phức tạp cao, nhiều công trình ngầm và nhà cao tầng như trong địa bàn thành phố Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh đòi hỏi phải có những biện pháp thi công phù hợp, an toàn nhưng đòi hỏi phải đảm bảo được tiến độ thi công và chất lượng công trình .Để đảm bảo tiến độ trong sản xuất Tổng công ty phải áp dụng nhiều biện pháp mang tính chiến lược như tổ chức lắp đặt trạm trộn bê tông ngay tại hiện trường nhằm cung cấp bê tông tại chỗ, thúc đẩy tiến độ thực hiện thi công các dự án lớn như: Công trình nhà máy xi măng Nghi sơn, Nhiệt điện Phả lại...
Trang bị các loại máy móc thiết bị thí nghiệm gọn nhẹ tại hiện trường đảm bảo độ chính xác của các mẫu tại các trung tâm thí nghiệm của Doanh nghiệp, nhất là đối với những công trình ở quá xa.
3. Các chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả đấu thầu
3.1 Năng lực tài chính của Tổng Công ty.
Để chứng tỏ thế mạnh của Tổng công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là trong hoạt động đấu thầu, thể hiện trong hồ sơ dự thầu các công trình xây dựng thì các chỉ tiêu năng lực tài chính cũng là 1 nhân tố quan trọng khẳng định vị thế của mình trên thị trường và khả năng đáp ứng mọi yêu cầu đối với chủ đầu tư khi thực hiện các hợp đồng. Năng lực tài chính của Tổng công ty được thể hiện từ bộ máy quản lí tài chính của Tổng công ty với chế độ kế toán mới được áp dụng công nghệ hiện đại quản lí theo mạng với tốc độ sử lí thông tin chính xác, kịp thời đối với tình hình hoạt động tài chính của tất cả các thành viên của toàn Tổng công ty giúp cho bộ máy lãnh đạo Tổng công ty có những quyết định chính xác, kịp thời và khả năng huy động vốn tài chính nội bộ hỗ trợ cho những công trình có khó khăn cần giải quyết, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại các đơn vị trong toàn Tổng công ty.
Việc tuân thủ các công tác tài chính theo chế độ quản lí tài chính quốc gia đảm bảo cho các hoạt động tài chính của Tổng công ty có hiệu quả, an toàn có cơ hội bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước giao, đảm bảo các nguồn thu cho ngân sách hàng năm và thu nhập của người lao động.
Công tác hạch toán kế toán được quản lí giám sát chặt chẽ đảm bảo thực hiện tốt trong hạch toán các chi phí chống lãng phí và những khoản chi tiêu không hợp lí tại các đơn vị thành viên của Tổng công ty. Giải quyết nhanh chóng các thủ tục thanh toán đối với các đơn vị và các đối tác trong hoạt động tài chính với mục tiêu tăng khả năng quay vòng vốn kinh doanh, hạn chế việc chiếm dụng vốn gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có mối quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng và ngân hàng, có khả năng huy động các nguồn vốn cho những dự án lớn trong thời gian ngắn đảm bảo thực hiện tiến độ thi công các công trình.
(Xem bảng báo cáo tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong biểu…,phần phụ lục)
3.2 Công tác tính giá dự toán dự thầu
Công tác tính giá dự toán dự thầu được tính theo phương pháp chung là xác định đơn giá dự thầu làm cơ sở kết hợp với khối lượng công tác xây lắp công trình do bên mời thầu cung cấp để tính giá dự thầu xây lắp công trình . Đây là một trong sưưố các tiêu chuẩn quan trọng quyết định trong việc xét trúng thầu các công trình xây dựng . Đây là vấn đề mà bộ phận kỹ thuật luôn phải quan tâm xem xét đa ra biện pháp thực hiện.
Giá dự thầu công trình được xác định theo công thức :
n
Gdt = ồ Qi Đgi
i=1
Trong đó :
Qi : Khối lượng công tác xây lắp thứ i do bên mời thầu cung cấp trên cơ sở bảng tiên lượng được bóc ra từ bản vẽ thiết kế kỹ thuật hoặc bản vẽ thi công .
Đgi : Đơn giá dự thầu công tác xây lắp thứ i do nhà thầu tự lập ra theo hướng dẫn chung về lập giá xây dựng trên cơ sở điều kiện cụ thể của mình và giá cả thị trường theo mặt bằng giá được ấn định trong hồ sơ mời thầu .
n : Số lượng công tác xây lắp do chủ đầu tư xác định lúc mời thầu .
Các thành phần tạo nên giá dự thầu gồm có :
* Chi phí trực tiếp ( Ttt) = Chi phí vật liệu ( VL ) + Chi phí nhân công ( NC ) + chi phí máy thi công ( MXD ) .
* Chi phí chung ( C )
* Lãi dự kiến của nhà thầu ( L )
* Thuế ( VAT ) (T)
Ta có đơn giá dự thầu : D gi = ( VL + NC + MXD ) + C + L + T
Ngoài ra còn có thể tính thêm hệ số trượt giá ( K trg) và yếu tố rủi ro. ( Krr )
Dgi = ĐG dth ( 1+ Ktrg + Krr )
3.3 Năng lực kỹ thuật, quản lý chất lượng công trình
* Năng lực kỹ thuật: Với đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi chuyên môn, giầu kinh nghiệm trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm cùng với việc áp dụng các ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào quá trình thi công đã giúp cho Tổng công ty trở thành một doanh nghiệp xây dựng hàng đầu đóng tại địa bàn Hà Nội và khu vực phía Bắc.
Hàng năm doanh nghiệp đề ra kế hoạch nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong xây dựng và đã hoàn thành được một số đề tài khoa học cấp bộ như phòng thí nghiệm tiêu chuẩn, nghiên cứu chế tạo hệ thống lọc thu hồi Bentonite, xác định biến dạng của đất bằng phương pháp tấm nén phẳng...
Ngoài ra Tổng công ty đã chú trọng tới đầu tư máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình thi công tại công trường làm tăng năng lực sản xuất của người lao động đồng thời giảm thiểu các khoản chi phí không cần thiết gây lãng phí do vấn đề sử dụng công nghệ cũ lạc hậu. Đảm bảo cho chất lượng công trình theo yêu cầu kỹ thuật đề ra.
* Quản lý chất lượng công trình: Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Công tác quản lý kỹ thuật chất lượng công trình sản phẩm xây dựng và công tác bảo hộ lao động là một trong những nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp đó chính là yếu tố tạo nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty.Vì vậy ban lãnh đạo luôn quan tâm đúng mức tới công tác này, bố trí đúng người đúng việc vào bộ máy quản lý kỹ thuật chất lượng công trình và công tác bảo hộ lao động. Bằng những hình thức giám sát thi công chặt chẽ nhất là trên những công trình có tính phức tạp và quy mô lớn, kịp thời đặt ra những giải pháp kỹ thuật phù hợp, đảm bảo cho quá trình thi công đúng tiến độ không bị gián đoạn gây lãng phí. Đồng thời việc quản lý chặt chẽ thường xuyên của đội ngũ chuyên viên kỹ thuật đã tránh được những vi phạm trong quá trình thi công cũng như hạn chế được những sai sót trong khâu kỹ thuật từ đó đưa ra những giải pháp kỹ thuật tối ưu cho việc xử lý kỹ thuật tại công trình cũng như đối với hồ sơ dự thầu của Tổng công ty.
3.4 Các kinh nghiệm trong thi công công trình của Tổng Công ty.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng có rất nhiều kinh nghiệm đúc kết, cụ thể :
- Thời kì bao cấp :
+ Bảo tàng Hồ Chí Minh
+ Rạp xiếc Trung ương
+ Bệnh viện nhi Thuỵ Điển
+ Nhà máy nước
- Thời kì mở cửa :
+ Các khu nhà cao tầng
+ Công trình giao thông, thuỷ lợi
+ Các công trình thông tin, bưu điện, đường dây 500 KW, 35 KV ...
Tổng công ty đã thi công hàng trăm công trình trải rộng trên phạm vi toàn quốc đảm bảo chất lượng, đặc biệt là các công trình mang tính chất kỹ mĩ thuật cao khẳng định thế mạnh của Tổng công ty về chất lượng công trình.Tại Hà Nội, trên 80% công trình cao tầng do Tổng công ty thi công, tiêu biểu như khách sưưạn Daewoo Hà Nội, Meritus, Sheraton, Tháp trung tâm và nhiều công trình khác có sự tham gia hoàn thiện của Tổng công ty như Hà nội Tower, Sunset, River, Horison... Ngoài ra phải kể đến những dự án văn hoá, thể thao nổi tiếng có sự tham gia của Tổng công ty như Nhà hát lớn TP.Hà Nội, Công viên nước TP.Hồ Chí Minh; các công trình công nghiệp ở Miền Bắc như nhà máy ô tô Ford, Yamaha, Kính nổi Đáp Cầu ... tham gia với tư cách thầu chính, thầu phụ cho nhiều dự án đầu tư của nước ngoài ở Miền Nam như Water Park, Nhà máy thức ăn gia súc Biên Hoà... Ngày nay Tổng công ty đang tham gia thực hiện các dự án công nghiệp nặng với tư cách thầu chính hoặc thầu phụ. Trong 3 năm qua Tổng công ty đã có 36 công trình sản phẩm đạt huy chương vàng chất lượng cao và có 59 công trình đăng kí là công trình chất lượng cao.
( Tổng số năm kinh nghiệm trong công việc xây dựng chuyên dụng và danh sách các hợp đồng xây lắp do nhà thầu thực hiện trong lĩnh vực dân dụng, công nghiệp và thông tin trong biểu bảng số……phần phụ lục)
4- Đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty
4.1 Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh :
Trong những năm qua mặc dù có ảnh hưởng rất lớn từ những tác động bên ngoài do sự suy giảm kinh tế trên thế giới và sự mất ổn định tài chính trong khu vực Đông Nam á làm cho các nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị suy giảm nhưng ngành xây dựng nói chung và Tổng công ty xây dựng Hà Nội nói riêng vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ trong sản xuất kinh doanh đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp và cơ quan cấp trên giao cho.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu :
- Báo cáo thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu năm 2000 trong biểu…phần phụ lục) 4.2 Đánh giá chung .
*Ưu điểm: Qua kết quả năm 2000, mặc dù hoàn cảnh chủ quan và khách quan có nhiều khó khăn hơn năm trước, nhưng Tổng công ty xây dựng Hà Nội không những hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao, mà còn tăng trưởng và phát triển với tốc độ khá ổn định và cân đối. Nguyên nhân cơ bản là chúng ta đã tạo được nhất trí cao trong lãnh đạo Tổng công ty, giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên, sự hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị thành viên với nhau. Đồng thời đã khơi dậy được sức mạnh tiềm tàng và phát huy được nội lực của một Tổng công ty bao gồm nhiều đơn vị truyền thống.
- Qua mỗi năm phấn đấu, các đơn vị thành viên của Tổng công ty đã có những bước trưởng thành về quản lí, trình độ kĩ thuật và tay nghề của công nhân, trong nhiều khó khăn chung, ngoài việc thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch được giao thì các hoạt động khác như công tác đầu tư chiều sâu, cổ phần hoá, quản lí dự án, tiết kiệm ... cũng thu được kết quản khá. Đời sống cán bộ CNV được giữ vững, từng bước được cải thiện, uy tín của Tổng công ty ngày càng được củng cố và nâng cao trên thị trường xây dựng đầy biến động và cạnh tranh.
*Tồn tại : Hiện tại số lượng cán bộ kĩ thuật kinh tế có bằng cấp chiếm tỉ lệ tương đối cao nhưng việc sử dụng và tạo điều kiện cho đội ngũ này phát huy khả năng sẵn có góp phần thiết thực để thực hiện nhiệm vụ kinh tế chính trị của Tổng công ty còn thấp (hiện tại Tổng công ty có 1.428 người có trình độ đại học và trên đại học) bình quân bậc thợ của đội ngũ công nhân còn thấp 3,82 cần phải có chủ trương nâng cao trình độ công nhân để có nhiều công nhân có tay nghề cao.
- Trang thiết bị, nhất là trang thiết bị thi công các công trình công nghiệp, giao thông, hạ tầng còn thiếu nhiều, một số loại đã lạc hậu về kĩ thuật và chất lượng kém, nên không đáp ứng được yêu cầu sản xuất, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng các công trình, nhất là các công trình lớn.
- Trình độ tổ chức thi công ở các công trình lớn trong giai đoạn đầu còn thấp, lúng túng, hiệu quả chưa cao. Tác phong làm việc công nghiệp, việc chấp hành quy trình quy phạm, biện pháp thi công, biện pháp an toàn còn tuỳ tiện. Do lực lượng cán bộ trẻ chưa được tập huấn đầy đủ, tỉ lệ công nhân hợp đồng ngắn hạn lớn, nhưng việc quản lí từ khâu hợp đồng, đến khâu huấn luyện, khám sức khoẻ ... còn nhiều thiếu sót, sự quan tâm của các cấp từ Tổng công ty đến các xí nghiệp, đội trong lĩnh vực bảo hộ lao động chưa thiết thực và đầy đủ. Tất cả những nguyên nhân trên là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xẩy ra những vụ tai nạn lao động nghiêm trọng chết người trong năm 1999.
Công tác sáng kiến cải tiến kĩ thuật, hợp lí hoá sản xuất chưa trở thành phong trào quần chúng và mang lại hiệu quả cao.
Trong công tác tài chính nợ tồn đọng của các bên A còn nhiều, lượng vay ngân hàng lớn đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Một số đơn vị còn nợ bảo hiểm xã hội nhiều.
Tuy còn một số thiếu sót, nhược điểm nhưng những thành tích đạt được trong năm 2000 là cơ bản. Với những kết quả đó Tổng công ty đã đề nghị Nhà nước và Bộ xét tặng huân chương độc lập hạng III cho 2 Công ty, huân chương lao động hạng I cho 1 tập thể, huân chương lao động hạng III cho 7 tập thể và 9 cá nhân.
III- Đánh giá tổng quát tình hình thực hiện công tác đấu thầu tại Tổng Công ty.
3.1. Những điểm mạnh của công ty
Trong những năm qua, để tồn tại và phát triển, Tổng công ty xây dựng Hà nội đã có những biện pháp tính cực nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của mình
- Về nhân sự, công ty luôn coi trọng yếu tố con người, chú trọng đến tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, lựa chọn và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt, nâng cao trình độ tay nghề lao động để nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất.
- Trong quá trình sản xuất, công ty đã thường xuyên đầu tư mua sắm, nâng cấp và cải tiến kỹ thuật công nghệ, từng bước chuyển dịch cơ cấu, đa dạng hóa và chuyên môn hoá sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng và tăng lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác.
- Cơ chế chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, được sự đánh giá đúng mức của lãnh đạoTổng công ty đối với bộ phận Marketing của doanh nghiệp và tầm quan trọng trong hoạt động đấu thầu của các công trình xây lắp. Ngay từ những dự án đầu tiên được thực hiện theo phương thức đấu thầu tại Việt nam Tổng công ty đã chủ trương thành lập một đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiên cứu triển khai các hoạt động trong lĩnh vực này đến nay đã đem lại nhiều kết quả khả quan cho mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
Từ việc làm quen với hình thức đấu thầu của các công trình xây dựng đến nay các cán bộ chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực đấu thầu đã có được nhiều kinh nghiệm quý báu để thực hiện mục tiêu của mình trong từng hồ sơ mời thầu, có khả năng phân tích đánh giá các dự án, các gói thầu, phân tích thị trường, các đối thủ cạnh tranh, thế mạnh và điểm yếu của mình đối với các dự án từ đó có thể đánh giá tầm quan trọng của dự án và khả năng tham gia của doanh nghiệp đối với dự án đó để đi đến quyết định nên hay không nên tham gia đấu thầu dự án đó, với tư cách gì để đảm bảo hiệu quả cuối cùng là thắng thầu với tỷ lệ cao và có lãi.
Việc thực hiện thi công tại các công trình từ kết quả đấu thầu đã làm thay đổi theo hướng thuận lợi cho nhà quản lý về cơ cấu tổ chức thực hiện thi công tạo nên hiệu quả thực sự trong thi công công trình, các cán bộ, nhân viên và người lao động làm việc thực sự gắn bó với trách nhiệm được giao. Công việc hàng ngày được kết hợp nhịp nhàng và có hiệu quả cao hơn. Góp phần không nhỏ vào việc giảm thiểu các khoản chi phí do lãng phí thời gian lao động không hợp lý và chờ đợi giữa các khâu và các loại hình công việc trong quá trình thi công.
Thay đổi cách suy nghĩ và nhìn nhận của cán bộ công nhân viên và người lao động về công việc của mình với tư cách nhà thầu, tất cả mọi thành viên khi tham gia sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ theo hợp đồng đã ký kết với chủ đầu tư, do đó có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng đối với từng vị trí, từng bộ phận tham gia, hạn chế được sự chồng chéo trong quản lý điều hành công việc. Đảm bảo mọi hoạt động như chất lượng công trình, kỹ thuật thi công, tiến độ, công tác bảo hộ lao động, an toàn, phòng chữa cháy nổ... phát huy năng lực và nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
Qua hoạt động đấu thầu bộ phận chuyên môn đã có được nhiều kinh nghiệm trong việc nghiên cứu mở rộng thị trường, phát huy tối đa khả năng của mình, phân tích và tìm hiểu các thị trường mới, tạo cơ hội phát triển mở rộng thị trường. Hiện nay bằng với khả năng thực tế và uy tín của mình Tổng công ty đã xâm nhập được vào thị trường các tỉnh phía Bắc, đã dự thầu và thắng thầu tại: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng, Phú Thọ, Hà Tây, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh ... và một số công trình tại Lào.
Khả năng thiết lập các mối quan hệ tốt đối với các cơ quan nhà nước, các bộ ngành, tạo cơ hội tham gia dự thầu các dự án mà chủ đầu tư là những tổ chức duy nhất và các dự án đầu tư bằng vốn nước ngoài tài trợ, với các dự án nh Dự án xây dựng Nhà máy Xi măng Hoàng Mai, Nhà máy Xi măng Nghi Sơn, một số nhà máy điện như Phú Mỹ, Na Dương. Các dự án cấp thoát nước tại Hà nội và một số tỉnh lân cận, các dự án xây dựng quốc lộ, đường giao thông thuỷ lợi như: xây dựng Đường Hồ Chí Minh, đường nội bộ trong khu công nghiệp ... các dự án có vốn đầu tư từ các nguồn ODA, WB, ADB ...
- Liên doanh liên kết với các nhà thầu trong và ngoài nước để tham gia đấu thầu các công trình lớn mà khả năng tự bản thân doanh nghiệp không thể đáp ứng được yêu cầu của các chủ đầu tư đối với các dự án sử dụng vốn nước ngoài.
- Kết quả thực hiện công tác đấu thầu tại Tổng công ty năm 2000: tổng số lần tham gia đấu thầu của toàn Tổng công ty là 1329 công trình, trúng thầu 378 công trình với giá trị đạt được là1.914 tỷ, tỷ lệ trúng thầu là 37% trong đó giá trị công trình trúng thầu với tư cách Tổng công ty chiếm 46,7% trong giá trị trúng thầu chung.
3.2. Tồn tại.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được trong công tác đấu thầu tại Tổng công ty còn tồn tại một số vấn đề khiến cho kết quả của công tác hiện nay đang trên đà đi xuống so với trước đây.
- Mặc dù Tổng công ty đã có một bộ phận cán bộ chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực này có trình độ cao, có năng lực và khả năng thực hiện công việc với cường độ cao trong nhiều giờ liên tục nhưng số lượng những cán bộ này còn qúa ít do đó nhiều khi không đáp ứng được tất cả những yêu cầu của thị trường đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu tại các đơn vị thành viên, hiện nay do phải hoạt động độc lập từ các đơn vị cơ sở đối với các dự án nhỏ thường trực tiếp tham gia đấu thầu không cần lấy danh nghĩa của Tổng công ty do đó khả năng trúng thầu không cao.
- Đối với việc thu thập thông tin thị trường còn chưa được coi trọng do đó nguồn thông tin còn rời rạc, chưa hình thành hệ thống thu thập và xử lý thông tin đáp ứng khả năng nắm bắt thị trường trước những quyết định quan trọng trong việc tiến hành tham gia đấu thầu hay rút lui và việc phân tích tình hình hoạt động của các đối thủ cạnh tranh trong vấn đề này như thế nào để có những giải pháp đối phó linh hoạt.
- Việc tính giá dự thầu các công trình hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn do thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt mà mức giá cao trở thành một vấn đề cần quan tâm xem xét. Nhưng để có một mức giá hợp lý trong giai đoạn này cùng tồn tại với một chất lượng công trình đảm bảo và uy tín của doanh nghiệp thì các đơn vị sẽ phải xem xét vấn đề có hay không tham gia đấu thầu công trình đó. Và khi tham gia sẽ giải quyết được vấn đề gì.
- Về năng lực tài chính của Tổng công ty được xem là mạnh so với nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng điều đó cũng không đảm bảo chắc chắn sẽ đáp ứng được tất cả các dự án hiện đang chào thầu mà Tổng công ty có ý định tham gia nhất là các dự án lớn phức tạp và những đòi hỏi khắt khe của chủ đầu tư khi nguồn vốn được sử dụng có nguồn gốc từ nước ngoài. Để tham gia vào những công trình này doanh nghiệp phải thực hiện chính sách liên doanh liên kết với các nhà thầu lớn trong và ngoài nước, điều này dẫn đến việc phải chia sẻ quyền lợi đối với những đối tác của mình.
3.3. Nguyên nhân :
- Đối với lực lượng cán bộ chuyên môn ngoại trừ bộ phận trực tiếp hoạt động tại Tổng công ty là tương đối đầy đủ cán bộ phục vụ cho công tác tiếp cận thị trường và khả năng đáp ứng các yêu cầu trong việc hoàn tất thủ tục hồ sơ đấu thầu và tỏ ra có hiệu quả, còn lại những bộ phận trực thuộc các đơn vị thành viên phần nhiều là cán bộ trẻ mới ra trường tuy có sức khoẻ và hoạt động với cường độ cao song với họ cần phải có thời gian và thử thách mới có thể đúc rút được những kinh nghiệm cần thiết trong lĩnh vực đấu thầu các dự án.
- Trong quá trình thu thập thông tin hiện nay tại các doanh nghiệp cũng đã có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất nhưng mức độ còn chưa cao, chưa đảm bảo cho việc tiếp cận thông tin một cách có hệ thống, mặt khác hoạt động đấu thầu đối với các doanh nghiệp tuy không còn là mới mẻ nhưng thực tế các cán bộ chuyên môn cũng chưa nắm bắt được yêu cầu thiết thực của thông tin trong việc nắm bắt và xử lý thường nhật với mục tiêu quan trọng là tìm được nguồn để khai thác phân tích đánh giá các nguồn thông tin về các dự án đầu tư sẽ được tiến hành trong tương lai, các thông tin về các đối thủ cạnh tranh nhằm tìm ra các đối pháp đem lại hiệu quả kinh tế cho bản thân doanh nghiệp và hạn chế những rủi ro.
- Trong vấn đề quản lý và sử dụng vốn còn gặp khó khăn, do nhu cầu sử dụng vốn rất lớn mà nguồn vốn hiện có của doanh nghiệp trong thực tế không đủ bù đắp các chi phí cần thiết, mặt khác do sự chiếm dụng vốn của khách hàng trong quá trình thanh toán làm giảm tốc độ quay vòng vốn của doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp luôn luôn phải sử dụng một lượng vốn rất lớn từ việc vay ngân hàng và huy động từ các nguồn khác nên phải chịu gánh nặng của lãi suất tiền vay và giảm khả năng thanh toán và thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
- Công tác thực hiện thi công theo hợp đồng tuy có nhiều cố gắng để đảm bảo chất lượng và tiến độ thi công công trình nhưng vẫn còn hiện tượng cán bộ điều hành và người lao động chưa thực sự gắn bó với quyền hạn và trách nhiệm của mình do đó vẫn còn để xảy ra những sự cố không đáng có ảnh hưởng tới quá trình thực hiện thi công và uy tín của doanh nghiệp đối với thị trường nhất là vấn đề bảo hộ lao động và an toàn trong thi công để xảy ra những tai nạn đáng tiếc.
Chương iii
các giải pháp thúc đẩy hoạt động đấu thầu các công trình
xây dựng của Tổng công ty xây dựng Hà nội
trên thị trường trong tương lai.
Cùng với công cuộc phát triển kinh tế của đất nước, vấn đề tồn tại, phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường với mục tiêu quan trọng là mở rộng sản xuất kinh doanh theo đà phát triển chung của môi trường sản xuất kinh doanh trong nước, phải đảm bảo theo kịp và ngang bằng với các đối thủ cạnh tranh quốc tế tạo cơ sở vươn tầm với ra khỏi phạm vi quốc gia để thâm nhập vào thị trường các nước trong khu vực trong tương lai gần. Để có thể làm được điều đó trước mắt chúng ta cần phải có một cơ sở vững chắc từ nội bộ doanh nghiệp trong các vấn đề về cơ cấu bộ máy tổ chức điều hành, nguồn nhân lực, các bộ phận chuyên môn, các khả năng nội lực như năng lực tài chính, máy móc thiết bị, phương tiện kỹ thuật, truyền thống ...
Với những gì đã có và đã làm được trong thời gian vừa qua Tổng công ty xây dựng Hà nội cũng đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường trong nước, luôn đáp ứng được mọi nhu cầu của thị trường về chất lượng sản phẩm của mình. Tuy nhiên trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không phải lúc nào cũng thuận lợi tốt đẹp đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp mà bên cạnh đó cùng với bối cảnh chung của nền kinh tế có các nhân tố ảnh hưởng nhất định làm hạn chế khả năng phát huy thế mạnh của doanh nghiệp và trong tự bản thân doanh nghiệp cũng có những mặt hạn chế cần phải khắc phục, điều chỉnh để tự hoàn chỉnh mình thì mới có thể phát huy được hết khả năng và thế mạnh của mình. Để khắc phục những điểm hạn chế đó cần có một số giải pháp mà từ đó có thể nâng cao hiệu quả trong công tác đấu thầu của doanh nghiệp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
1. Công tác Marketing và tiếp cận thị trường.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoạt động của nó trên thị trường phụ thuộc rất nhiều vào sản phẩm của mình và cách thức phân phối của nhà sản xuất tới tay người tiêu dùng, vấn đề này biểu hiện thông qua các hoạt động tiếp cận thị trường và chính sách Marketing của doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược tổng thể có hệ thống chặt chẽ trong hoạt động Marketing.
Tổng công ty xây dựng Hà nội trải qua hơn 40 năm kinh nghiệm trong xây dựng-xây lắp các công trình quan trọng mang tầm quốc gia với đội ngũ kỹ thuật giỏi chuyên môn và một đội quân có trình độ tay nghề cao, thuần thục trong các thao tác và khả năng hoạt động với cường độ cao đã tạo cho doanh nghiệp một thế mạnh và uy tín mà không phải doanh nghiệp nào cũng có được. Từ khi chuyển đổi cơ chế, nền kinh tế thị trường yêu cầu doanh nghiệp muốn hoà nhập được thì phải có một đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi đáp ứng môi trường kinh doanh mới đó là bộ phận chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực Marketing. Đây là một bộ phận quan trọng đặc biệt đối với doanh nghiệp trong việc xác định kế hoạch chiến lược kinh doanh của toàn doanh nghiệp đòi hỏi người chủ doanh nghiệp phải có sự quan tâm thoả đáng. Nhằm thúc đẩy cường độ hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường tìm hướng cho những sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp. Những năm gần đây để hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực nhất là để đáp ứng nhu cầu đầu tư nước ngoài vào Việt nam trong công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một số loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh và việc chuyển giao công nghệ đã lần lượt được áp dụng tại thị trường Việt nam trong đó hoạt động đấu thầu là một trong những vấn đề được đề cập ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, sau khi Chính phủ ban hành Luật đầu tư nước ngoài và các hình thức đấu thầu được áp dụng đối với các dự án lớn và do các nhà thầu nước ngoài tham gia. Đây là một hoạt động cạnh tranh lành mạnh nhằm đảm bảo cho các nhà thầu có thể phát huy khả năng và thế mạnh của mình trong quá trình tạo ra sản phẩm, đồng thời là việc gánh vác trách nhiệm đối với khách hàng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như việc sử dụng sản phẩm của khách hàng thời gian sau đó. Điều này sẽ đem lại quyền lợi và sự yên tâm đối với sản phẩm của chủ đầu tư.
Thực tế hiện nay, nhìn chung tại các doanh nghiệp thì hoạt động Marketing vẫn chưa được chú trọng do đó bản thân nó còn có những hạn chế mà nếu ta không khắc phục sẽ dẫn đến tình trạng trì trệ đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp. Bộ phận chuyên môn của Tổng công ty hiện nay hoạt động trong lĩnh vực này cũng đã tạo thành một hệ thống từ cấp doanh nghiệp đến các đơn vị cơ sở là các công ty thành viên cũng đã có bộ phận chuyên trách hoạt động trên thị trường nhưng những hoạt động này chưa tỏ ra có hiệu quả cao bởi thực tế việc phân công trách nhiệm và cách thức hoạt động của bộ phận này còn nhiều bất cập, công việc được giao tràn lan như còn khoán trực tiếp cho các xí nghiệp, đội xây dựng tự làm hồ sơ dự thầu do đó dẫn đến việc không đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư.
Thông tin thị trường luôn đóng vai trò quan trọng, để tìm kiếm được thông tin cần phải có một hệ thống thông tin đồng bộ kết hợp chặt chẽ với nhau và có khả năng thu thập, xử lý thông tin chính xác, một đội ngũ nhân viên nhạy bén, năng động có khả năng kiểm soát được các thông tin và tìm kiếm các thông tin quan trọng từ phía khách hàng tạo cơ hội cho doanh nghiệp có thể tiếp cận được với khách hàng.
Tầm quan trọng của hoạt động Marketing còn thể hiện trong việc tiếp xúc, giao tiếp với các tổ chức Chính phủ, bộ ngành, các tổ chức quốc tế là những nhà đầu tư mà ở đó doanh nghiệp có cơ hội nắm bắt, tham gia với tư cách nhà thầu có uy tín và tiềm lực. Vấn đề này yêu cầu bản thân doanh nghiệp phải có chính sách quảng cáo tiếp thị mạnh mẽ gây được ấn tượng đối với các nhà đầu tư, đây cũng là chính sách quan trọng để mở rộng thị trường, tăng phạm vi hoạt động tạo thêm cơ hội nắm bắt thông tin và tìm kiếm thông tin.
Mục tiêu chiến lược mà doanh nghiệp đặt ra trong thời gian tới là mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng công trình và đa dạng hoá sản phẩm xây dựng ngoài những sản phẩm truyền thống mở ra các công trình giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước... đây là những sản phẩm có kết cấu khác so với sản phẩm truyền thống của doanh nghiệp trước đây do đó cần phải có chính sách bổ sung lực lượng cán bộ chuyên môn và các thông tin cần thiết khác giúp doanh nghiệp có thể thông hiểu về những sản phẩm này và có đủ khả năng cạnh trạnh đối với các đối thủ khác cùng tham gia.
Thực tế hiện nay các hoạt động đấu thầu các công trình xây dựng đã trở thành một hiện tượng phổ biến trên thị trường nhưng vấn đề đáng quan tâm đây là tính khách quan quan trọng trong quá trình thực hiện đấu thầu công trình, từ khi bắt đầu triển khai nghiên cứu khả thi dự án đến việc tiến hành lập hồ sơ mời thầu, dự thầu và xét thầu, thương lượng và ký kết hợp đồng xuất hiện những tiêu cực mà bản thân vấn đề này cũng đã có ảnh hưởng từ cơ chế xin cho, chỉ định thầu trước đây đã gây ra những trở ngại không nhỏ đến tính khách quan trong quá trình xem xét đánh giá các hồ sơ dự thầu và khả năng đảm bảo bí mật thông tin là việc khó thực hiện, đồng thời xuất hiện những hiện tượng tiêu cực như dự án mua dây cáp điện ở Hà nội, việc xét thầu tư vấn kỹ thu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34251.doc