Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không AIRSERCO

LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, để tồn tại và phát triển, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải lấy mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh làm phương châm hành động. Chỉ có doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả mới có đủ thực lực để cạnh tranh trên thị trường. Ngành Hàng không là một trong những ngành kinh tế quan trọng, then chốt của mọi nền kinh tế quốc dân. Do đó, việc nghiên cứu thực trạng hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành Hàng không là rấ

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không AIRSERCO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t quan trọng, cần phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các các doanh nghiệp này. Theo mục tiêu đó, trong quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không AIRSERCO, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không AIRSERCO” làm đề tài thảo luận cho bài báo cáo chuyên đề tốt nghiệp của mình với hy vọng góp một phần bé nhỏ vào lý luận và phương pháp xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung. Đề tài trình bày khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Phân tích thực trạng, phương hướng hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không AIRSERCO, từ đó tìm ra những tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Trên có sở đó, chuyên đề đưa ra một số giải pháp đối với Tổng Công ty Hàng không và với các cơ quan Nhà nước nhằm tháo gỡ khó khăn, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Chuyên đề lấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong 3 năm gần đây 2004 – 2006 làm đối tượng nghiên cứu Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề án bao gồm 3 chương: Chương I: Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không AIRSERCO. Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Cổ phần cung ứng dịch vụ Hàng không. CHƯƠNG I: NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH LÀ NHIỆM VỤ CƠ BẢN VÀ LÂU DÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG QUAN NIỆM CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Khái niệm hiệu quả kinh doanh Mặc dù có sự thống nhất cho rằng phạm trù hiệu quả kinh tế phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh tế, song có rất nhiều quan niệm khác nhau về hiệu quả kinh tế đứng trên những góc độ nghiên cứu khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Có thể kể ra đây một vài đại diện: Nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith cho rằng: “ Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa”. Ở đây hiệu quả đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quan niệm này không phản ánh được bản chất của kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vì doanh thu có thể tăng do tăng chi phí, mở rộng các nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan niệm này chung có cùng hiệu quả. Có quan điểm khác cho rằng: “ Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hóa mà không xắt giảm sản lượng một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó”. Thực chất của quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế sao cho tối ưu nhất và không thể có mức nào cao hơn. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế học khác lại quan niệm rằng: “ Hiệu quả kinh tế là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí kinh doanh”. Quan niệm này đã biểu hiện được mối quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu hao. Nhưng quan niệm này mới chỉ đề cập đến hiệu quả kinh tế của phần tăng thêm chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất. Hơn nữa xét trên quan điểm triết học Mác – Lênin thì sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ rang buộc hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ. Do đó, tồn tại quan niệm “ Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số kết quả đầu vào và chi phí bỏ ra để được kết quả đó”. Quan niệm này gắn kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố. Từ những quan niệm cơ bản trên về hiệu quả kinh tế ta có thể khẳng định hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Hiện nay, thông thường để đánh giá hiệu quả kinh doanh người ta thường so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra của một quá trình sản xuất. Nếu gọi H là hiệu quả kinh doanh ta có: Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra Chi phí đầu vào Kết quả đầu ra được đo bằng các chi tiêu như giá trị tổng sản lượng, doanh thu thuần, lợi nhuận thuần,…còn chi phí đầu vào bao gồm lao động, đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu và vốn vay. Cách đánh giá này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng một số vốn đã bỏ ra để thu được kết quả cao hơn khi H > 1. Khi H càng lớn thì chứng tỏ quá trình sản xuất kinh doanh càng đạt hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng có thể tính bằng cách so sánh nghịch đảo như sau: Hiệu quả kinh doanh = Chi phí đầu vào Kết quả đầu ra Công thức này phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào, nó cho biết để có được một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết mấy đơn vị chi phí ( hoặc vốn) ở đầu vào. Bản chất của hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế Hiện nay ở nước ta kinh doanh thương mại quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII nhấn mạnh: “ Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khă năng xuất khẩu các mặt hangh đã qua chế biến sau, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ”… Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mố quan tâm hàng đàu của bất kỳ nền sản xuẩt nào nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh tế trở thành một vấn đề cấp bách vì: Nâng cao hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế là một nhân tố quyết định để chúng ta tham gia vào phân công lao động quốc tế, thâm nhập thị trường nước ngoài. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế còn là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện quy luật tiết kiệm. Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách làm đa dạng hóa hoặc làm tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân và mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ tranh thủ được lợi thế so sánh trong trao đổi với nước ngoài, tạo thêm quỹ cho quá trình tái sản xuất trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân trong nước. Hiệu quả kinh tế - xã hội mà chủ yếu được thẩm định bởi thị trường chính là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Xét về mặt lý luận, nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế là góp phần đắc lực thúc đẩy nhanh năng suất lao động xã hội và tăng thu nhập quốc dân có thể sử dụng, qua đó tạo thêm nguồn tích lũy cho sản xuất và nâng cao mức sống trong nước. Nhưng thực tế xác định một cách chính xác hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế đối với nền kinh tế nói chung thường khó khăn, vì tác động của nó phải thông qua nhiều khu vực, nhiều công đoạn, nhiều tổ chức thực hienj khác nhau và chịu ảnh hưởng không ít của nhiều yếu tố sản xuất và phí sản xuất đan chéo nhau. Nhưng yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán lại đòi hỏi phải xác định được hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế đối với nền kinh tế quốc dân và của từng doanh nghiệp. Do đó chúng ta sẽ đi nghiên cứu những biểu hiện khác nhau của hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp thương mại quốc tế qua cách phân loại hiệu quả kinh tế trong phần tiếp theo đây. Phân loại hiệu quả kinh tế trong kinh doanh thương mại quốc tế Trong công tác quản lý , phạm trù hiệu quả kinh tế của kinh doanh thương mại quốc tế được biểu hiện ở những đặc trưng, ý nghĩa cụ thể nào khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mạo quốc tế theo những tiêo thức khác nhau có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý thương mại. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu, mức hiệu quả và xác đình những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế. Có thể phân hiệu quả kinh tế thành các loại sau: Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động kinh tế của từng dpanh nghiệp xuẩt nhập khẩu. Biểu hiện chung của hiệu quả cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt được. Hiệu quả kinh tế - xã hội mà kinh doanh thương mại quốc tế đem lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của hoạt động thương mại quốc tế vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích lũy ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đới sống của nhân dân… Trong quản lý kinh doanh thương mại quốc tế, các doanh nghiệp không những cần tính toán để đạt được hiệu quả của nền kinh tế - xã hội đối với nền kinh tế quốc dân. Trong chiến lược kinh tế - xã hội đến năm 2010 của nước ta đã xác định: “ Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển”. Giữa hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội có mối quan hệ nhân quả và tá động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp. Tuy vậy, có thể có những doanh nghiệp xuất nhập khẩu không đảm bảo được hiệu quả ( bị lỗ) nhưng nền kinh tế vẫn thu được hiệu quả. Tuy nhiên, tình hình thua lỗ của doanh nghiệp nào đó chỉ có thể chấp nhần trong những thời điểm nhất định do những nguyên nhân khách quan mang lại. Các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội vì đó chính là tiền đề và điều kiền cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Nhưng để doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội chung chủa nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cũng cần có những chính sách đản bảo kết hợp hài hòa giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp và cá nhân người lao động. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là thu được lợi nhuận tối đa. Do đó, doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường để ra các quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và với chi phí là bao nhiêu. Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong những điều kiện cụ thể về nguồn tài nguyên, trình độ trang bị kỹ thuật, trình đọ tổ chức quản lý lao động, quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trướnganr phẩm của mình với một chi phí cá biệt nhất định với mục đích thu được lợi nhuận lớn nhất. Suy cho cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội. Nhưng tại mỗi doanh nghiệp mạ chúng ta cần đánh giá hiệu quả thì chi phí đó lại được thể hiện dưới dạng những chi phí cụ thể như: chi phí nguyên vật liệu, chi phí lao động sống, chi phí hao mòn máy móc thiết bị, chi phí ngoài sản xuất… Đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động xuất nhập khẩu không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên đây, nhưng cũng cần thiết phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí nhằm giúp cho người quản lý tìm được các biện pháp giảm chi phí cá biệt của doanh nghiệp nhằm tăng lợi nhuận kinh tế. Nguồn gốc hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế chính là từ kết quả và chi phí sản xuất trong nước. Khi một nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, có thể phát triển sản xuất hàng hóa với chi phí thấp để đáp ứng nhu cầu của bản thân và cũng để xuất khẩu. Đồng thời, nước đó có thể nhập khẩu sản phẩm cần thiết mà việc tự sản xuất tốn kém hơn. Kết quả là nhờ kinh doanh thương mại quốc tế các chi phí chung ( chi phí sản xuất) để sản xuất ra một khối lượng hàng hóa được sử dụng trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng cá nhân sẽ thấp hơn khi ta bố trí sản xuất chủ yếu bằng sức lực riêng. Nói cách khác, chi phí sản xuất trong nước là cơ sở hiệu quảcuar các loại chi phí cấu thành. Các đơn vị sản xuất kinh doanh là nơi trực tiếp sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất, vì vậy bản thân các đơn vị sản xuất kinh doanh này phải quan tâm xác định những biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả toàn diện trên các yếu tố của quá trình tái sản xuất. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh Trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích cơ bản sau: Một là: Đánh giá trình đọ sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình tái sản xuất kinh doanh Hai là: Để phân tích, lý giải về kinh tế các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn một phương án tối ưu. Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Chẳng hạn, tính toán mức lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí sản xuất (giá thành), hoặc từ một đồng vốn bỏ ra… Người ta xác đình hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một thương vụ nào đó, để biết được với những chi phí bỏ ra sẽ thu được những lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó đi đến quyết định có nên bỏ ra chi phí hay không cho thương vụ đó. Vì vậy, trong công tác quản lý kinh doanh, bất kỳ công việc gì đòi hỏi phải bỏ ra chi phí, dù với một lượng lớn hay nhỏ cũng đều phải tiến hành tính toán hiệu quả tuyệt đối. Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau. Nói cách khác, hiệu quả so sánh chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án. Mục đích chủ yếu của việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của các phương án để từ đó cho phép lựa chọn một phương án có hiệu quả cao nhất. Mỗi phương án đòi hỏi một lượng đầu tư vốn, lượng chi phí khác nhau, thời gian thực hiện và thời gian thu hồi vốn đầu tư cũng khác nhau. Vì vậy muốn đạt được hiệu quả kinh tế cao, nhà quản trị không đơn thuần đề ra một phương án, mà phải vận dụng mọi sự hiểu biết để đưa ra nhiều phương án khác nhau, rồi so sánh hiệu quả kinh tế của các phương án đó để chọn ra một phương án tối ưu nhất. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh trong kinh doanh thương mại quốc tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, song chúng lại có tính độc lập tương đối. Việc xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả so sánh. Nghĩa là, trên cơ sở những chỉ tiêu tuyệt đối của tững phương án, ngưới ta so sánh hiệu quả tuyệt đối ấy của các phương án khác nhau. Mức chênh lệch chính là hiệu quả so sánh. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh với động cơ là tìm kiếm lợi nhuận. Trong cơ chế thị trường, thì lợi nhuận là mục tiêu kinh doanh, là động lực kinh tế để doanh nghiệp cũng như mỗi người lao động không ngừng sử dụng hợp lý tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh. Thật vậy, để cung cấp hàng hóa dịch vụ cho nhu cầu thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp đã phải bỏ ra những chi phí nhất định. Họ phải thuê đất đai, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ. Họ muốn hàng hóa và dịch vụ của mình được bán với giá cao để bù đắp lại những chi phí đã bỏ ra. Nếu xét về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh chính là khoản chênh lệch giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra, và nâng cao hiệu quả kinh doanh nghĩa là tăng khoản chênh lệch này lên tối đa trong điều kiện cho phép. Vậy có thể thấy được hiệu quả kinh doanh chính là chỉ tiêu biểu hiện mục tiêu thực hiện và nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là công cụ để thực hiện mục tiêu. Nếu xét về mặt định tính thì hiệu quả kinh doanh biểu hiện chất lượng đạt được mục tiêu, nó phản ánh trình đọ của lực lượng sản xuất bao gồm tất cả các khâu, các bộ phận và từng cá nhân riêng lẻ của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh về mặt định tính tức là nâng cao trình độ khai thác, quản lý và sử dụng các nguồn lực trong sản xuất, đảm bảo sự tăng trưởng về mặt lượng gắn liền với sự phát triển về chất. Đây chính là lý do cho việc phát triển bền vững của doanh nghiệp trong xu hướng chung. Nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là nhân tố thúc đẩy khả năng cạnh tranh trong kinh doanh của doanh nghiệp. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận cạnh tranh. Thị trường càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp lại càng khốc liệt hơn, đó là sự cạnh tranh về chất lượng, giá cả, các dịch vụ hậu mãi… Với mục tiêu là phát triển, thì cạnh tranh là một nhân tố làm doanh nghiệp mạnh lên và cũng là nhân tố làm doanh nghiệp thất bại. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp đều phải chiến thắng trong cạnh tranh. Để thực hiện điều này thì tất yếu doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng hàng hóa dịch vụ với giá cả hợp lý. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng khối lượng, chất lượng hàng bán… và là hạt nhân cơ bản của sự thắng lợi trong cạnh tranh. Và doanh nghiệp cạnh tranh nhau tức là không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP Hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó lien quan đến tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Muốn đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết doanh nghiệp phải xác định được các nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định nhân tố ảnh hưởng, ảnh hưởng như thế nào và mức độ, xu hướng tác động là nhiệm vụ của bất cứ nhà kinh doanh nào. Nói đến nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh thì trước hết doanh nghiệp phải xác định được các nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định nhân tố ảnh hưởng, ảnh hưởng như thế nào và mức độ, xu hướng tác động là nhiệm vụ của bất cứ nhà kinh doanh nào. Nói đến nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có rất nhiều, nhưng chúng ta có thể chia làm hai nhóm chính: nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp và nhóm nhân tố ngoài doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải có biện pháp tác động lên các yếu tố một cách hợp lý, có hiệu quả, làm cho doanh nghiệp này càng phát triển tốt hơn, phát huy tốt hơn các nhân tố tích cực và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhân tố bên trong doanh nghiệp Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì nó phải có một hệ thống cơ sở vật chất, con người, đây chính là nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp. Trong guồng máy hoạt động chung của doanh nghiệp, mỗi nhân tố đóng một vai trò nhất định, mà thiếu nó thì toàn bộ hệ thống sẽ hoạt động kém hiệu quả hay ngừng hoạt động. Dưới đây là một số nhân tố ảnh hưởng chính đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Vốn kinh doanh Ngày nay, nói đến kinh doanh thì nhân tố đầu tiên được quan tâm chính là vốn, đây là yếu tố nền tảng cho một hoạt động kinh doanh bắt đầu. Vốn kinh doanh là một trong những tiềm năng quan trọng nhất của doanh nghiệp, là một trong những điều kiện để xếp doanh nghiệp vào loại có quy mô lớn, trung bình hay nhỏ. Vốn kinh doanh bao giờ cũng là cơ sở để hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Nó vốn là một chất keo để chắp nối, dính kết các quá trình và quan hệ kinh tế. Vốn kinh doanh kà điều kiện, khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, là cơ sở để tạo ra lợi nhuận. Thiếu vốn cho kinh doanh sẽ làm giảm hiệu quả do không tận dụng được lợi thế quy mô, các thời cơ, cơ hội. Tuy nhiên, thiếu vốn là vấn đề mà các doanh nghiệp luôn luôn gặp phải. Đứng trên góc độ của nhà kinh doanh thì cách thức giải quyết sẽ là tối đa hóa lợi ích trên cơ sở vốn hiện có. Bộ máy tổ chức, quản lý và lao động Với khả năng lao động và sang tạo thì nhân tố con người được đánh giá là nhân tố nòng cốt cho sự phát triển. Một đội ngũ công nhân viên tốt là cơ sở để doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tuy vậy, mỗi cá nhân người lao động nếu đặt ngoài sự phân công lao động sẽ lại là một nhân tố làm giảm hiệu quả kinh doanh, để khắc phục điều này là sự ra đời của bộ máy tổ chức, quản lý. Bộ máy tổ chức, quản lý có hiệu quả là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Sự kết hợp yếu tố sản xuất không phải là tự phát như quá trình tự nhiên mà là kết quả của hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, có điều khiển của con người, vì vậy mà hình thành bộ máy tổ chức có hiệu quả là một đòi hỏi để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nghệ thuật kinh doanh Nghệ thuật kinh doanh là việc sử dụng có hiệu quả nhất các phương pháp, các tiềm năng, các cơ hội và các kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu đề ra của doanh nghiệp. Nghệ thuật kinh doanh đảm bảo cho doanh nghiệp luôn tồn tại và phát triển. Đó là việc sử dụng các tính năng của bản thân doanh nghiệp cũng như của người khác, các cơ hội, các phương pháp, thủ đoạn kinh doanh có thể để bỏ ra chi phí ít, thu lại được nhiều, che giấu những điểm mạnh, điểm yếu của người khác, giải quyết nhanh ý đồ của doanh nghiệp mà không lôi kéo các đối thủ mới vào cuộc, bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển lâu dài. Mạng lưới kinh doanh Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, mỗi doanh nghiệp cần phải mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình, vì mạng lưới kinh doanh là cách thức để doanh nghiệp có thể tiêu thụ được sản phẩm của mình. Có tiêu thụ được sản phẩm thì mới thực hiện được kết quả kinh doanh và thực hiện lợi nhuận. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ cho phép doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, tăng doanh số bán và lợi nhuận. Mạng lưới kinh doanh phù hợp sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiện nay tình hình thị trường biến động và cạnh tranh ngày càng gay gắt, mỗi doanh nghiệp cần phải năng động sang tạo và tìm ra cái mới, cái cần và ngày càng hoàn thiện mạng lưới kinh doanh để thích nghi trong cơ chế thị trường và đưa doanh nghiệp ngày càng đi lên. Đòn bẩy kinh tế trong doanh nghiệp Việc doanh nghiệp sử dụng các hình thức trách nhiệm vật chất, thưởng phạt nghiêm minh sẽ tạo ra động lực cho người lao động nỗ lực hơn trong phần trách nhiệm của mình, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tối đa tiềm năng lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi bộ phận phát huy đầy đủ quyền chủ động sang tạo trong sản xuất kinh doanh. Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp Ngoài các nhân tố thuộc doanh nghiệp thì hệ thống nhân tố ngoài doanh nghiệp cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì tất yếu phải chịu sự tác động và tuân theo các quy luật của thị trường nếu không tất yếu sẽ bị đào thải. Thị trường tác động đến kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các nhân tố sau: + Cầu về hàng hóa + Cung về hàng hóa + Cạnh tranh Cạnh tranh càng gay gắt có nghĩa là doanh nghiệp càng phải khó khăn và vất vả để tồn tại phát triển. Ngoài ra, cạnh tranh còn dẫn đến giảm giá bán, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trở nên khó khăn. Tập quán dân cư và mức độ thu nhập bình quân Đây là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải nắm bắt và nghiên cứu thu nhập của dân cư va những tập quán tiêu dùng để làm sao phù hợp với sức mua, thói quen tiêu dùng ở mức giá cả chấp nhận được. Bởi những yếu tố này tác động một cách gián tiếp lên quá trình sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mối quan hệ và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường Đây là giá trị vô hình của doanh nghiệp, nó tác động đến sự thành bại trong nâng cao hiệu quả kinh doanh. Sự tác động đó là phi lượng hóa mà chúng ta không thể tính toán hay đo đạc bằng các phương pháp định lượng. Quan hệ, uy tín của doanh nghiệp sẽ cho phép mở rộng các cơ hội kinh doanh, mở rộng những đầu mối làm ăn và từ đó, doanh nghiệp sẽ có quyền lựa chọn những gì có lợi cho mình. Hơn thế nữa, quan hệ và uy tín sẽ cho phép doanh nghiệp có ưu thế trong việc tiêu thụ, vay vốn hay mua chịu hàng hóa… Kỹ thuật công nghệ Phân tích yếu tố khoa học kỹ thuật giúp doanh nghiệp nhận thức được các thay đổi về mặt công nghệ và khả năng ứng dụng của nó vào doanh nghiệp. Hướng nghiên cứu có thể bao gồm những yếu tố sau: Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Tiến bộ kỹ thuật và khả năng ứng dụng trong hoạt động kinh doanh. Chiến lược phát triển kỹ thuật và công nghệ của đất nước. Chính trị và pháp luật Hoạt động kinh doanh phải luôn tuân theo các quy định của pháp luật. Luật pháp là quy tắc của cuộc chơi kinh doanh mà ai vi phạm sẽ bị xử lý. Luật pháp ngăn cấm mọi người kinh doanh bất hợp pháp, trốn thuế, buôn lậu… song nó cũng bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia kinh doanh. Yếu tố chính trị là thể hiện sự điều tiết bằng pháp luật của Nhà nước đến các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp phải phân tích, dự đoán về chính trị và luật pháp cùng xu hướng vận động của nó bao gồm: Sự ổn đình về chính trị đường lối ngoại giao. Sự cân bằng các chính sách của Nhà nước. Vai trò, chiến lược phát triển của Đảng và Chính phủ. Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ. Sự phát triển và quyết định bảo vệ người tiêu dùng. Hệ thống luật, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành. Điều kiện tự nhiên Doanh nghiệp phải đi nghiên cứu môi trường tự nhiên, gồm các nhân tố: Nhân tố thời tiết, khí hậu, mùa vụ: Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến quy trình, tiến độ kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng đồ uống giải khát, hàng nông sản, thủy hải sản… Với những điều kiện thời tiết, khí hậu và mùa vụ nhất định thì các doanh nghiệp phải có chính sách cụ thể phù hợp với điều kiện đó. Và khi yếu tố này không ổn định sẽ làm mất ổn định hoạt động kinh doanh và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên: Nhân tố này chủ yếu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một khu vực có nhiều tài nguyên với trữ lượng lớn và có chất lượng tốt sẽ ảnh hưởng và tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp khai thác. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất nằm trong khu vực này mà có nhu cầu đến tài nguyên, nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhân tố vị trí địa lý: Đây là nhân tố không chỉ tác động đến lợi thế của doanh nghiệp mà còn tác động đến các mặt khác trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: Giao dịch vận chuyển, sản xuất,… các mặt này cũng tác động đến hiệu quả kinh doanh bởi sự tác động lên các chi phí tương ứng. 2.3. Điều kiện và mối quan hệ cần phải đảm bảo trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh Hiệu quả và việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh có một vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy việc nghiên cứu, nhận thức và có phương pháp đúng đắn trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh là một điều hết sức cần thiết. Đánh giá đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh cho phép doanh nghiệp tìm ra những hạn chế, những khó khăn và những thành công, thuận lợi của mình trong quá trình hoạt động, từ đó đề ra những định hướng đúng đắn cho chiến lược phát triển trước mắt cũng như trong lâu dài của doanh nghiệp nhằm thực hiện những mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau: Quan điểm thứ nhất: Doanh nghiệp phải kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế cá biệt của doanh nghiệp và của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp luôn phải coi trọng cả hai loại hiệu quả này nhưng cũng tùy vào từng doanh nghiệp, từng thời điểm cụ thể mà coi trọng hiệu quả này hơn loại hiệu quả kia. Việt Nam cũng như các doanh nghiệp nằm trong hệ thống ngành phục vụ lợi ích công cộng thì luôn phải đặt hiệu quả kinh tế chính trị xã hội lên hiệu quả kinh tế cá biệt của bản thân họ. Quan điểm thứ hai: Doanh nghiệp phát triển trong sự thống nhất giữa các nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước mà trước hết thể hiện ở việc thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc các đơn hàng mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp bởi vì đó là điều kiện để đảm bảo phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp là một tế bào xã hội, là một thành phần của nền kinh tế quốc dân, do đó trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển của mình, doanh nghiệp không được đặt mình nằm ngoài quỹ đạo phát triển của nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Những nhiệm vụ kinh tế và chính trị mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải quyết định việc kinh doanh những loại hàng hóa và dịch vụ cần, nền kinh tế cần Quan điểm thứ ba: Đảm bảo tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hieuj quả kinh doanh, tức là nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội của ngành, địa phương và của bản thân doanh nghiệp. Khi đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh, phải coi trọng tất cả các lĩnh vực, các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, phải xem xét một cách đầy đủ các mối quan hệ tác động qua lại của tổ chức, các lĩnh vực trong một hệ thống theo những mục tiêu đã xác định. Quan điểm thứ tư: Bảo đảm tính thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá hiệu quả kinh doanh và khi đề ra những biện pháp, nhiệm vụ nâng cao hiệu quả phải xuất phát từ những đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội của ngành, địa phương và của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Chỉ có như vậy, những chiến lược, phương án kinh doanh, những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mới có tính khả thi, đồng thời tránh được những rủi ro trong kinh doanh. Yêu cầu này đòi hỏi phải nâng cao tính khoa học trong công tác kế hoạch hóa của doanh nghiệp. Đồng thời, những mục tiêu kế hoạch đó phải xuất phát từ những yêu cầu thị trường, đáp ứng tôus đa nhu cầu đó, trên cơ sở khai thác triệt để các nguồn nhân lực tiềm tàng của doanh nghiệp, ha._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7748.doc