Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh

Phần thứ nhất Mở đầu 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Có thể nói công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến thực phẩm, được Nhà nước rất quan tâm. Đó là việc thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng các nguyên liệu đầu vào thông qua các quá trình cơ - nhiệt - hoá và sinh học, tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ và đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, hầu hết các nước trê

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thế giới đều bắt đầu công nghiệp hoá bằng phát triển công nghiệp chế biến. Vì công nghiệp chế biến cho phép sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, nó là nhân tố hết sức quan trọng kích thích nền kinh tế tăng trưởng nhanh và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, đồng thời thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Công nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh là một bộ phận của công nghiệp chế biến nói chung, nó được phát triển mạnh mẽ trên thế giới do ứng dụng tiến bộ khoa học trong công nghệ đông lạnh. Hơn nữa thuỷ sản là một ngành cung cấp những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao (tỷ lệ đạm cao) như tôm, cá, cua, ghẹ, ba ba… mà Việt Nam là nước có lợi thế rất lớn về nguồn lợi thuỷ sản, với 3260 km2 thềm lục địa và 2 triệu km2 mặt nước. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, để thực sự trở thành nền kinh tế mũi nhọn, tăng tốc độ phát triển và ổn định cần phải có sự đóng góp không nhỏ của tất cả các đơn vị kinh tế trong ngành, đặc biệt là các công ty chế biến. Chính vì vậy, công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh cũng như các đơn vị chế biến khác của nước ta hiện nay làm sao phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và nâng cao được hiệu quả kinh doanh là một việc làm hết sức cần thiết. Do vậy, các công ty cần phải luôn phân tích, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình để tìm ra mặt hạn chế và cách khắc phục những điểm yếu còn tồn tại. Bên cạnh đó, công ty phải tìm cách khai thác có hiệu quả tiềm năng nguồn lực, thế mạnh của mình trong sản xuất kinh doanh. Để đánh giá hiệu quả kinh tế và tìm các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm - Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn khi đánh giá hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. - Phân tích hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh. - Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả, hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh. 1.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu - Phạm vi không gian Đề tài được nghiên cứu tại công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân - Yên Hưng - Quảng Ninh. - Pham vi thời gian Thu thập số liệu, phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm (2003, 2004, 2005). Phần thứ hai Cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế 2.1. cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế 2.1.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế Qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình tái sản xuất trải qua các giai đoạn T – H – SX – H’ – T’. Doanh nghiệp dùng tiền mua vật tư, thiết bị, công nghệ, kết hợp với sức lao động tạo ra hàng hoá; bán hàng hoá đi thu tiền với mục đích thu được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra ban đầu. Như vậy, quá trình sản xuất kinh doanh chính là sự phối hợp toàn diện, thống nhất của nhiều giai đoạn, kết quả thực hiện ở mỗi giai đoạn đều ảnh hưởng đến kết quả của cả quá trình. Qua quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh, hiệu quả mà doanh nghiệp đem lại bao gồm nhiều mặt: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tập chung nghiên cứu hiệu quả kinh tế. Tác giả Thái Bá Cẩn cho rằng: “việc phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế và tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế là vấn đề rất khó khăn phức tạp về lý luận cũng như thực tiễn chưa giải quyết triệt để”. Có quan điểm cho rằng: Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế. Quan điểm này không phù hợp bởi vì cùng một kết quả sản xuất nhưng với hai mức chi phí khác nhau thì hiệu quả cũng khác nhau. Có quan điểm cho rằng: Hiệu quả kinh tế được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc tổng thu nhập quốc dân. Hiệu quả sẽ cao khi nhịp độ tăng cao. Quan điểm này chưa đúng, bởi vì các yếu tố bên trong và bên ngoài nền kinh tế có ảnh hưởng khác nhau. Có quan điểm lại cho rằng: hiệu quả kinh tế là thước đo độ hữu ích của sản phẩm. Quan điểm này không thuyết phục vì giá trị sử dụng của mỗi sản phẩm khác nhau tuỳ thuộc vào công dụng của sản phẩm đó và nhu cầu của người sử dụng đối với sản phẩm. Không thể so sánh các sản phẩm khác nhau nếu chỉ căn cứ vào giá trị sử dụng của chúng. Quan điểm khác cho rằng: Trong lĩnh vực SXKD, ở bất kỳ phạm vi nào, các nhà sản xuất đều tìm cách huy động và kết hợp các yếu tố đầu vào sao cho chi phí ở mức nhỏ nhất và giá trị sản phẩm sản xuất là cao nhất. Mọi quá trình sản xuất đều liên quan mật thiết đến hai yếu tố cơ bản, đó là chi phí và kết quả thu được từ chi phí đó. Quan điểm khác cho rằng: Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra với phần chi phí các yếu tố nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó được xét cả về so sánh tương đối và tuyệt đối, cũng như xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó. Với các hệ thống quan điểm trên đây chúng ta xét thấy khái niệm về hiệu quả kinh tế chưa được đầy đủ và toàn diện. Do vậy, cần có khái niệm bao quát hơn, chính xác hơn: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế liên quan đến sản xuất hàng hoá. Hiệu quả kinh tế biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa kết quả đạt được với lượng chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó: với một nguồn lực nhất định làm thế nào để tạo ra được nhiều sản phẩm nhất hoặc tạo ra lượng sản phẩm nhất định với chi phí bỏ ra ít nhất. Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực. 2.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh tế Bản chất của HQKT xuất phát từ mục đích của sản xuất và sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đó là sự thoả mãn ngày càng tăng về nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. Đánh giá kết quả sản xuất là đánh giá về mặt số lượng, giá trị sản phẩm sản xuất ra đã thoả mãn được nhu cầu của xã hội hay không, còn đánh giá hiệu quả sản xuất tức là xem xét tới mặt chất lượng của quá trình sản xuất đó. Nói đến hiệu quả kinh tế chúng ta không thể không xem xét tới công trình nghiên cứu của Farrell (1957) trình bày rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế. Khi nghiên cứu hoạt động kinh tế của các nhà sản xuất ngang tài ngang sức và tiêu biểu nhưng lại đạt kết quả khác nhau do cách kinh doanh khác nhau và như vậy thì chỉ có thể ước tính đầy đủ hiệu quả kinh tế theo nghĩa tương đối. Để giải thích kết luận này ông phân biệt hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân bổ và hiệu quả kinh tế. - Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency): Là khả năng tác động của kỹ thuật nhằm thu được kết quả sản xuất tối đa, với yếu tố đầu vào xác định, trong điều kiện sản xuất nhất định. Hiệu quả kỹ thuật mang tính xã hội, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. - Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency): Là việc nghiên cứu cách thức tổ chức quản lý khoa học để với các yếu tố đầu vào cố định, người sản xuất có thể thu được lợi nhuận tối đa, có xem xét tới yếu tố đầu vào, đầu ra. Hiệu quả kinh tế = hiệu quả kỹ thuật U hiệu quả phân bổ Ta thấy hiệu quả kỹ thuật chỉ liên quan đến những đặc tính của sản xuất vật chất, mục đích này phổ biến thích hợp với mọi hệ thống kinh tế, nó mang tính chất xã hội. Hiệu quả phân bổ liên quan đến yếu tố tổ chức quản lý sản xuất nhằm đạt mục đích kinh tế của người sản xuất có lợi nhuận tối đa. 2.1.3. Các quan điểm về hiệu quả kinh tế Có rất nhiều quan điểm về hiệu quả kinh tế, song bản chất chung của hiệu quả kinh tế chính là sự so sánh giữa kết quả sản xuất thu được với chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Người ta có thể quy về ba hệ thống quan điểm sau: Hệ thống quan điểm thứ nhất: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó trong một thời gian nhất định. Công thức: H = Q – K Trong đó: H - Hiệu quả kinh tế Q - Kết quả đạt được K - Chi phí sản xuất bỏ ra Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế được thể hiện bằng số tuyệt đối. Hệ thống quan điểm thứ hai: Hiệu quả kinh tế là tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí sản xuất bỏ ra để đạt được kết quả đó. Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế được thể hiện bằng số tương đối. Công thức: Q K H = (1a); H = (1b) K Q Hệ thống quan điểm thứ ba: Hiệu quả kinh tế là tỷ lệ phần tăng thêm của kết quả so với phần tăng thêm của chi phí. Công thức: ∆Q ∆K H = (2a); H = (2b) ∆K ∆Q Trong đó: ∆Q – Phần tăng thêm của kết quả ∆K – Phần tăng thêm của chi phí Theo quan điểm này, các nhà kinh tế chỉ quan tâm đến hiệu quả của phần mở rộng, phần tăng thêm của sản xuất trong kỳ. Quan điểm này không đề cập đến mức chi phí ban đầu đã bỏ ra cũng như kết quả đã thu được tương ứng với mức đầu tư đó. Mỗi hệ thống quan điểm trên đều có những ưu và nhược điểm nhất định. Hệ thống quan điểm thứ nhất cho biết kết quả một cách cụ thể, chính xác, phản ánh quy mô khối lượng rõ ràng, song chưa phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực, chưa nghiên cứu kết quả đạt được trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố đầu vào (với cùng kết quả như nhau nhưng sử dụng nguồn lực khác nhau thì hiệu quả kinh tế cũng khác nhau), chưa rút ra được bản chất và xu hướng kinh doanh. Hệ thống quan điểm thứ ba cho phép phân tích so sánh giữa mức độ tăng trưởng của kết quả và mức tăng thêm của chi phí biến đổi, phản ánh được trình độ sử dụng nguồn lực song không phản ánh được quy mô sử dụng nguồn lực, chưa cho biết kết qủa bằng số liệu cụ thể có sức thuyết phục. Nếu chỉ sử dụng quan điểm thứ ba thì có thể doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế nhưng toàn xã hội lại không đạt hiệu quả kinh tế vì nguồn lực bị khan hiếm, bị giới hạn. Quan điểm này thường được áp dụng khi phân tích hiệu quả đầu tư theo chiều sâu hay áp dụng các biện pháp thâm canh để lựa chọn phương án cho phù hợp. Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước: Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế liên quan đến sản xuất hàng hoá, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, phản ánh chất lượng của các hoạt động SXKD, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực trong sản xuất. Khi phân tích hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh người ta phải kết hợp các hệ thống quan điểm với nhau, trong đó các doanh nghiệp thường chú trọng sử dụng hệ thống quan điểm thứ hai (H = Q/K). H > 1 chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có lãi, H càng lớn có nghĩa là hiệu quả kinh tế càng cao. 2.1.4. Hiệu quả kinh tế trên quan điểm kinh tế học sản xuất Xã hội chịu sự chi phối bởi quy luật khan hiếm nguồn lực, thực tế các nguồn lực như đất đai, lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên... khan hiếm. Trong khi đó nhu cầu của xã hội tăng nhanh cả về số lượng, chất lượng. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tiết kiệm nguồn lực, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực nói chung, trước hết mỗi quá trình sản xuất phải lựa chọn đầu vào tối ưu. Khi đề cập tới hiệu quả các nguồn lực, thông thường người ta nói tới hiệu quả kinh tế về việc sử dụng các nguồn lực đó. Hiệu quả sản xuất đã được nhiều học giả bàn tới như Farrell (1957), Schultz (1964), Rizzo (1979), Ellis (1993). Các học giả đều đi đến thống nhất là phải phân biệt rõ ba khái niệm cơ bản về hiệu quả : Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency) Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency) Hiệu quả kinh tế (Economic Efficiency) Khi bàn về lý thuyết về hiệu quả sản xuất như Farell (1957) đã đưa ra hiệu quả của một doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận cấu thành. Một là hiệu quả kỹ thuật, phản ánh khả năng của doanh nghiệp tối đa hoá sản lượng đầu ra với một lượng đầu vào và công nghệ nhất định. Hai là hiệu quả phân bổ, phản ánh khả năng của doanh nghiệp sử dụng đầu vào ở quy mô tốt nhất với mức giá và công nghệ sản xuất nhất định. Khi hãng đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ thì sẽ đạt HQKT. Xác định hiệu quả kỹ thuật đã đạt được của doanh nghiệp sẽ giúp chúng ta đi đến quyết định nên thay đổi công nghệ sản xuất hay tiếp tục nâng cao hiệu quả kỹ thuật để nâng cao sản lượng đầu ra. Hiệu quả kỹ thuật rất quan trọng trong phát triển sản xuất, đặc biệt ở những nước đang và chậm phát triển, các nước có nguồn lực khan hiếm, ít có cơ hội phát triển và phát triển công nghệ mới là cực kỳ khó khăn. ở các nước này có thể nâng cao lợi ích kinh tế bằng cách nâng cao hiệu quả kỹ thuật mà không cần đầu tư thêm nguồn lực hay phát triển công nghệ mới. 2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh Thông qua quá trình tổ chức sản xuất, đáp ứng nhu cầu về hàng hoá dịch vụ cho xã hội, mục tiêu của các doanh nghiệp là tìm kiếm sự chênh lệch giữa kết quả và chi phí (chính là lợi nhuận). Trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh, hiệu quả kinh tế đồng nghĩa với lợi nhuận. Muốn đạt lợi nhuận tối đa, người ta cần quan tâm đến các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu, là mục tiêu của mọi nền sản xuất bởi vì: - Bản chất của hiệu quả là nâng cao năng suất lao động xã hội, tiết kiệm mọi hao phí lao động cần thiết. Tiết kiệm hao phí lao động là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất xã hội. - Các nguồn lực bị giới hạn và ngày càng khan hiếm, trong khi nhu cầu của xã hội ngày càng cao, đòi hỏi sử dụng nguồn lực phải khoa học, hiệu quả. Hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có hiệu quả, doanh nghiệp mới có điều kiện để đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp, mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh tế trong SXKD là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, có ý nghĩa sống còn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất kinh doanh dưới cái nhìn tổng quát nó phản ánh mối quan hệ tương quan giữa chi phí bỏ ra cho đầu vào và kết quả thu được ở đầu ra. Đồng thời phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt hiệu quả mong muốn. Để có được kết quả như ý muốn, tất cả các công ty, doanh nghiệp phải tính đến các yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến kết quả của mình. Đó có thể là yếu tố ngay trong bản thân doanh nghiệp nhưng cũng có thể là các tác động từ bên ngoài cụ thể như sau: 2.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp Ta chỉ xét đến những doanh nghiệp, công ty làm ăn vì mục đích kinh tế, sự tồn tại và phát triển của chúng phụ thuộc trực tiếp vào phương tiện và con người sử dụng phương tiện đó và hơn cả là sự kết hợp các yếu tố này với nhau. Các yếu tố đó gồm: lao động, nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ của ban quản trị… Mỗi sự thay đổi của các yếu tố đó có thể có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất của đơn vị, doanh nghiệp đó. * Nhân tố lao động Lao động là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Lao động trong doanh nghiệp là toàn bộ đội ngũ lao động với trình độ tay nghề và năng lực cá nhân riêng. Vai trò tích cực của người lao động trong doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng tiếp thu tay nghề cùng với ý thức chấp hành kỷ luật lao động cũng như khả năng của người lao động trong việc phân công công việc vào chế độ tiền lương, thưởng cho lao động của doanh nghiệp. Chất lượng lao động là yếu tố quyết định đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, nó liên quan đến sức khoẻ và sự gắn bó của người lao động với doanh nghiệp. Chất lượng lao động phụ thuộc vào trình độ thành thạo tay nghề của công nhân (số công nhân ở từng bậc thợ, số công nhân đã qua đào tạo, số công nhân có trình độ cơ khí hoá, tự động hoá…) của doanh nghiệp. Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ tiến bộ rất nhanh, đòi hỏi chất lượng lao động không ngừng được tăng lên, lao động phải có văn hoá, có tri thức, nắm bắt được khoa học kỹ thuật, trình độ lành nghề, phải thường xuyên nâng cao trình độ thì mới có thể điều khiển máy móc trang thiết bị hiện đại, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, phục vụ nhu cầu sản xuất hàng hoá để xuất khẩu. Chất lượng lao động còn phụ thuộc vào trình độ quản lý, cách thức tổ chức sản xuất của bộ máy gián tiếp. Tóm lại, người lao động và chất lượng lao động của họ sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển hoặc kéo doanh nghiệp thụt lùi… Chính sách quản lý lao động phải động viên, khuyến khích người lao động đem hết khả năng, sức lực cống hiến cho doanh nghiệp. Nếu làm tốt doanh nghiệp sẽ tạo được đội ngũ lao động có trình độ và chất lượng cao, qua đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật – công nghệ Nhân tố này có ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện tới hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó quyết định quy mô sản xuất, năng suất lao động, chiến lược sử dụng các nguồn lực sản xuất. Công nghệ được hiểu là tất cả các phương thức, những quá trình áp dụng khoa học kỹ thuật để chuyển hoá các nguồn lực sản xuất, là tập hợp các quá trình sử dụng các yếu tố, điều kiện nhằm mục đích tạo ra sản phẩm với chất lượng tốt nhất với giá cả phù hợp. Quyết định về công nghệ phải phù hợp với từng giai đoạn của quá trình sản xuất, phù hợp với trình độ và năng lực của những người trực tiếp sử dụng công nghệ nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. * Lựa chọn và tổ chức các yếu tố đầu vào Đây là yếu tố có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp chế biến. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có nguồn đầu vào chủ yếu là nguyên liệu chính, đây là công việc đầu tiên của các nhà kinh doanh. Yêu cầu cơ bản đặt ra là phải cung cấp đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại nguyên liệu cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh. Việc cung cấp đầy đủ, đúng tiến độ, đúng nhu cầu của nơi sản xuất sẽ góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiếp tục duy trì và thu hút khách hàng hơn nữa. Cung cấp đúng, đủ và đảm bảo chất lượng của nguyên liệu sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch sản xuất. Đối với công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh, do đặc thù của hoạt động sản xuất kinh doanh là chế biến hàng xuất khẩu nên nguyên liệu đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguyên liệu chính dùng cho sản xuất là thuỷ, hải sản như tôm, cá, mực... nên công ty phải hết sức chú ý đến vấn đề thu mua và bảo quản nguyên liệu do những yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm mà Bộ y tế ban hành. Như vậy, việc thu mua nguyên liệu, bảo quản chúng một cách tối ưu, việc tổ chức các phương án xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu, việc kiểm tra chất lượng nguyên liệu... là những nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Thông tin và văn hoá trong doanh nghiệp Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự trao đổi thông tin qua lại giữa những người trực tiếp lãnh đạo với các bộ phận, phòng ban, các phân xưởng sản xuất sẽ truyền đi những thông tin có liên quan đến hoạt động của bộ phận mình. Văn hoá trong doanh nghiệp bao gồm: Các quan hệ ứng xử giữa các thành viên, các bộ phận, các cấp bậc trong doanh nghiệp và các triết lý kinh doanh, các thói quen hoạt động, đạo đức kinh doanh. Chúng tạo lên một môi trường hoà đồng, gắn kết khuyến khích người lao động làm việc có trách nhiệm, có hiệu quả và cùng hướng tới mục đích chung của doanh nghiệp. Thực tế chứng tỏ doanh nghiệp nào xây dựng được môi trường thông tin kịp thời, nhanh và mối quan hệ tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh sẽ không ngừng tăng lên. 2.3.2. Nhóm nhân tố khách quan tác động tới hiệu quả kinh tế Nền kinh tế nói chung, mỗi một doanh nghiệp nói riêng, chịu sự tác động rất nhiều từ những nhân tố khách quan, doanh nghiệp chỉ có thể thích nghi mà không thể kiểm soát và quản lý được, những nhân tố này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, đến hiệu quả kinh tế. Cụ thể do các nhân tố: * Điều kiện tự nhiên Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động có mục đích của con người, địa bàn hoạt động trải rộng trên toàn bộ lãnh thổ. Khí hậu thời tiết có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất kinh doanh của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp và tác động đến HQKT. Ngày nay do sự tàn phá dữ dội của con người, môi trường tự nhiên và hệ sinh thái biến động xấu. Do vậy, khí hậu thời tiết có nhiều biến đổi không tuân theo quy luật như quy luật mưa, nắng, bão, lũ... * Môi trường kinh tế Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều phát triển kinh tế mở, theo xu hướng toàn cầu hoá. Do vậy, sự biến động của kinh tế thế giới sẽ tác động đến kinh tế mỗi nước và ngược lại. Tuy nhiên, sự biến động của kinh tế mỗi nước tác động đến kinh tế thế giới mạnh hay yếu lại phụ thuộc vào vị thế kinh tế của nước đó trong hệ thống kinh tế thế giới. Ví dụ nền kinh tế Mỹ, nền kinh tế giữ vị trí số một thế giới, sau sự kiện ngày 11/9/2001, kinh tế Mỹ biến động ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của thế giới nói chung. Sự biến động này tác động trước hết đến xuất - nhập khẩu và gây biến động giá ở một số thị trường hàng hoá trên thế giới, như vậy tác động đến kết quả và HQKT của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp. ê Trạng thái kinh tế của kinh tế thế giới và kinh tế trong nước: Sự vận hành của mỗi nền kinh tế chi phối bởi quy luật chu kỳ kinh doanh. Biểu hiện ở ba trạng thái đó là: Kinh tế thịnh vượng, kinh tế cân bằng tối ưu và kinh tế suy thoái. Thời kỳ kinh tế thịnh vượng toàn bộ nền kinh tế nói chung, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp nói riêng phát triển nhanh. Do vậy, HQKT ngành và các doanh nghiệp cao, ngược lại nền kinh tế ở vào thời kỳ suy thoái sản xuất đình đốn, giá cả biến động. Do vậy, quy mô sản xuất của các doanh nghiệp giảm, kết quả và HQKT thấp. * Môi trường chính trị và pháp luật Đây là nền tảng để quy định các yếu tố khác nhau của môi trường kinh doanh và môi trường sản xuất kinh doanh. Quan điểm đường lối chính trị sẽ tạo cơ hội hoặc là cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống pháp lý gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các chính sách chế độ, các quy định pháp luật về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều có tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường chính trị, luật pháp ổn định lành mạnh sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn trong cơ chế thị trường hiện nay. Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều tổ chức nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế hỗn hợp, thể chế tư nhân và Nhà nước cùng tham gia quản lý và điều tiết nền kinh tế, tư nhân điều tiết theo cơ chế “bàn tay vô hình”, Nhà nước điều tiết bằng luật lệ, thể chế và các chính sách kinh tế vĩ mô. Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Việt Nam đã đổi mới cơ chế quản lý chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (kinh tế chỉ huy) sang nền kinh tế thị trường có quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực chất đây là mô hình kinh tế hỗn hợp. Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế bằng các luật lệ, chính sách trước hết là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế đối ngoại... Các chính sách này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới sản xuất. Như vậy, ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh tế của các ngành và các doanh nghiệp. Ngoài ra Chính Phủ có thể can thiệp trực tiếp đến giá cả và tiêu dùng bằng cách áp đặt giá trần, giá sàn, chính sách tiền lương... Do vậy, sẽ làm thay đổi chi phí sản xuất và HQKT. * Môi trường kỹ thuật công nghệ Bao gồm các nhân tố: Khoa học kỹ thuật, phát minh sáng chế, thành tựu và tiến bộ kỹ thuật. Chúng ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến chất lượng và giá bán của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường như vậy chúng đã tác động tới thị trường, tới nhà sản xuất, tới khách hàng, tới quá trình sản xuất kinh doanh và vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các ảnh hưởng của môi trường kỹ thuật công nghệ còn thể hiện khá rõ trong lĩnh vực thu thập, xử lý, lưu trữ truyền đạt thông tin kinh tế – xã hội phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. * Yếu tố giá cả trên thị trường Trong kinh tế thị trường giá cả luôn biến động, khi giá cả thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và HQKT của mỗi doanh nghiệp. Khi nói đến giá cả trên thị trường, chúng ta phải đề cập tới giá các yếu tố đầu vào và giá sản phẩm đầu ra. Trên thị trường giá các yếu tố đầu vào tăng sẽ làm cho chi phí sản xuất tăng, chi phí sản xuất tăng sẽ làm cho kết quả và HQKT của doanh nghiệp giảm. Mặt khác khi giá sản phẩm đầu ra tăng, kích thích sản xuất của doanh nghiệp phát triển, kết quả và HQKT cũng tăng. Ngoài ra trong chiến lược phát triển kinh tế mở, tỷ giá hối đoái thay đổi cũng ảnh hưởng đến kết quả và HQKT của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt những ngành, những doanh nghiệp sử dụng nhiều yếu tố đầu vào từ nguồn nhập khẩu, hoặc sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu. Tóm lại: Trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vấn đề quan trọng ở đây là mỗi doanh nghiệp phải nhận thức đúng đắn các nhân tố này, lợi dụng mặt tích cực, hạn chế tác động tiêu cực làm chủ thời cơ kinh doanh sẽ đạt kết quả và HQKT cao đứng vững trên thương trường. 2.4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả SXKD của doanh nghiệp đều xoay quanh chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng nhất. Mục tiêu cơ bản, quan trọng nhất của doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều xoay quanh lợi nhuận, hướng đến lợi nhuận, tất cả vì lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp, bao hàm nhiều mối liên hệ. Nếu chỉ phân tích chỉ tiêu này thì không thể thấy rõ những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận. Vì vậy, khi nghiên cứu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, người ta cần kết hợp nghiên cứu mối quan hệ giữa lợi nhuận với các chỉ tiêu về doanh thu (kết quả) và chi phí, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí cũng chính là các nhân tố chi phối lợi nhuận. 2.4.1. Một số chỉ tiêu sử dụng khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh Doanh thu (Doanh thu tiêu thụ sản phẩm): Là toàn bộ số tiền thu về bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng dịch vụ được xác định tiêu thụ trong kỳ. Doanh thu là chỉ tiêu quan trọng, phản ánh hoạt động SXKD của doanh nghiệp được thị trường chấp nhận. Doanh thu thuần: Là toàn bộ doanh thu của doanh nghiệp, sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ bao gồm: giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại, hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Doanh thu thuần phản ánh số thu bán hàng thực tế mà doanh nghiệp thu được. Tổng doanh thu: Là số tổng cộng của doanh thu sản phẩm + Thu hoạt động tài chính + Thu hoạt động khác. Chi phí của doanh nghiệp: Là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra trong một thời gian nhất định, để thực hiện hoạt động SXKD của mình. Người ta phân chia chi phí theo từng loại hoạt động, theo nội dung kinh tế, theo khoản mục và địa điểm phát sinh, theo phạm vi phát sinh chi phí. Chi phí SXKD của doanh nghiệp được chia thành các loại: chi phí khả biến và chi phí bất biến; chi phí quản lý và chi phí sản xuất chung; chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí của doanh nghiệp cấu tạo nên giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Giá thành sản phẩm: Là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản phẩm. TR Công thức: Z = Q Trong đó: Z – Giá thành sản xuất đơn vị sản phẩm TC – Tổng chi phí sản xuất sản phẩm Q – Số lượng sản phẩm sản xuất ra Với chất lượng sản phẩm xác định, giá bán thị trường của sản phẩm không thay đổi thì giá thành đơn vị sản phẩm tỷ lệ nghịch với hiệu quả kinh tế, giá thành càng thấp thì hiệu quả càng cao và ngược lại. Giá thành là thước đo mức chi phí tiêu hao phải bù đắp, là căn cứ quan trọng để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Giá thành còn là công cụ để kiểm soát tình hình quản lý tài chính, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức, kỹ thuật. Lợi nhuận: Là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình SXKD. Lợi nhuận là chỉ tiêu cụ thể nhất, rõ ràng nhất hiệu quả SXKD của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp. Công thức: TPr = TR – TC Trong đó: TPr – Lợi nhuận TR – Tổng doanh thu TC – Tổng chi phí Lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá chất lượng của toàn bộ hoạt động SXKD, khẳng định khả năng cạnh tranh, bản lĩnh của doanh nghiệp trong nền kinh tế vốn dĩ đầy bất trắc và khắc nghiệt. Lợi nhuận còn là nguồn tích luỹ cơ bản để tái đầu tư và đầu tư mở rộng tại doanh nghiệp. Lợi nhuận là nguồn cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Trong phạm vi nền kinh tế, lợi nhuận có ý nghĩa xã hội rất lớn: Nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư, khuyến khích tiêu dùng, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, quyết định quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội. Vì vậy, tạo ra lợi nhuận là chức năng duy nhất của doanh nghiệp, lợi nhuận là chỉ tiêu vừa phản ánh kết quả và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. 2.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh * Doanh thu/Lao động: Phản ánh số tiền thu bán hàng bình quân cho một lao động làm việc tại doanh nghiệp trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Đây chính là chỉ tiêu tính năng suất lao động bình quân năm (NSLĐ BQ) theo doanh thu. * Doanh thu/Vốn sản xuất: Phản ánh bình quân một đồng vốn sản xuất (bao gồm cả Vốn cố đinh và Vốn lưu động), trong._. một thời kỳ nhất định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. - Doanh thu/Vốn cố định: Phản ánh một đồng vốn cố định trong một thời gian nhất định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. - Doanh thu/Vốn lưu động: Phản ánh một đồng vốn lưu động trong một thời gian nhất định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. * Lợi nhuận/Doanh thu: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với tổng doanh thu trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: cứ mỗi đồng doanh thu trong một năm tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận Tsdt = Doanh thu bán hàng * Lợi nhuận/Chi phí: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với chi phí sản xuất sản phẩm, phản ánh cứ một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận Tz sx = Tổng chi phí sản xuất * Lợi nhuận/Vốn sản xuất: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận đạt được với tổng số vốn bình quân trong kỳ (bao gồm vốn cố định bình quân và vốn lưu động bình quân). Phản ánh bình quân một đồng vốn bỏ ra trong kinh doanh thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận Tsv = Vốn sản xuất bình quân - Lợi nhuận/Vốn cố định: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận với số vốn cố định bình quân trong năm. Phản ánh một đồng vốn cố định trong một năm tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận Tvcđ = Vốn cố định bình quân - Lợi nhuận/Vốn lưu động: Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận và số vốn lưu động bình quân trong năm, phản ánh một đồng vốn lưu động trong một năm tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận Tvlđ = Vốn lưu động bình quân 2.5. cơ sở thực tiễn của đề tài 2.5.1. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới Thuỷ sản là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao (tỷ lệ đạm cao), nó đóng vai trò quan trọng đối với đời sống, sự tồn tại và phát triển của con người. Nhìn chung nhu cầu về dinh dưỡng trên thế giới ngày một tăng vì vậy để đáp ứng nhu cầu đó, xuất khẩu thuỷ sản đang là chiến lược của những nước có tiềm năng kinh tế biển. Nếu xét trên bình diện toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới tăng mạnh qua các năm. Năm 1985 giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới đạt 17 tỷ USD; năm 1990 là 35,8 tỷ USD; năm 1994 đạt đến 47 tỷ USD và trong vài năm gần đây kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên thế giới đã đạt trên 60 tỷ USD. Điều đó cho thấy nhu cầu về thuỷ sản của thế giới không ngừng được nâng cao. Trong số 10 nước dẫn đầu thế giới về nuôi trồng thuỷ sản, thì có tới 8 nước châu á. Đứng đầu thế giới về nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản vẫn là Trung Quốc, xếp thứ hai là ấn Độ, Inđônexia và Việt Nam giữ vị trí thứ tư. 2.5.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản ở Việt Nam Tính đến năm 2006, cả nước đã có 439 nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu, trong đó có 171 doanh nghiệp được xếp vào danh sách xuất khẩu vào thị trường EU, 300 doanh nghiệp áp dụng quy trình quản lý chất lượng sản phẩm theo HACCP đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Mỹ, 222 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm vào Hàn Quốc, 295 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào Trung Quốc... Những con số đó cho thấy sự trưởng thành của công nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cả về quy mô công nghệ, kỹ thuật và trình độ quản lý. Các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam đã đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đã tiếp cận, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm khắt khe nhất của thị trường quốc tế. Từ những thành tựu trong hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản cộng với sự chuyển biến mạnh mẽ của các doanh nghiệp đã tạo nên thành tích to lớn trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản của nước ta. Hiện nay, thuỷ sản Việt Nam đã có mặt tại 105 nước và vùng lãnh thổ. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,47 tỷ USD; năm 2001 đạt 1,76 tỷ USD; năm 2003 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã vượt 2,5 tỷ USD; năm 2004 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,4 tỷ USD; năm 2005 đạt 2,65 tỷ USD, tăng 10,38% so với 2004. Phần thứ ba Tổng quan về địa bàn và phương pháp nghiên cứu 3.1. Tổng quan về địa bàn 3.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Công ty Nằm trên một vùng đất giàu truyền thống lịch sử, nơi diễn ra những chiến công hiển hách của cha ông ta, cách đây hơn 700 năm tại thị trấn Quảng Yên – huyện Yên Hưng – tỉnh Quảng Ninh đã diễn ra ba trận đánh Bạch Đằng lịch sử của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh đuổi quân Nguyên Mông khiếp hồn bạt vía, giữ yên bờ cõi. Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân được thành lập tháng 2/1999 và đến tháng 12/1999 bắt đầu đi vào hoạt động, tiền thân ban đầu là xí nghiệp vừa và nhỏ mới đầu chỉ có 100 cán bộ công nhân viên trực tiếp và gián tiếp sản xuất. Cho đến nay, công ty đã phát triển và tăng thêm số cán bộ công nhân viên lên tới 382 người. Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân có trụ sở nằm trên đường 10, xã Yên Giang – huyện Yên Hưng – tỉnh Quảng Ninh, trên khu đất rộng 20.000 m2. Phía Bắc giáp quốc lộ 10. Phía Nam giáp sông Bạch Đằng. Phía Đông giáp quần đảo Hà Nam, Cát Bà, Cát Hải. Phía Tây giáp Hải Phòng. Với vị trí như vậy, rất thuận lợi cho việc thu mua, chế biến, tiêu thụ thuỷ hải sản của Công ty, tạo điều kiện cho Công ty ngày càng phát triển. Tên giao dịch của Công ty: HATACO Hoạt động của Công ty thuộc ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, có đặc điểm khác với nhiều doanh nghiệp khác là sử dụng kết quả ngành nuôi trồng làm nguyên liệu đầu vào để chế biến nên sản xuất của công ty chịu ảnh hưởng khá lớn vào kết qủa của ngành nuôi trồng thuỷ sản. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty là thu mua, chế biến, xuất – nhập khẩu thuỷ sản, chế biến thức ăn cho tôm, kinh doanh công cụ đánh bắt như lưới, vó... 3.1.2. Bộ máy tổ chức và lao động của Công ty Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân là một doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng. Công ty cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước một số mặt hàng thực phẩm có chất lượng cao,đó là thuỷ hải sản đông lạnh. Do đặc điểm của công ty là vừa chế biến, vừa tiêu thụ nên đòi hỏi công tác quản lý phải bố trí một cách hợp lý để phù hợp với tình hình hoạt động SXKD mới đạt hiệu quả cao. Nhận thức được tầm quan trọng của bộ máy quản lý nên công ty đã nghiên cứu và bố trí tương đối hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý sản xuất của công ty. Qua sơ đồ 1 ta thấy cơ cấu tổ chức quản lý sản xuất của công ty gồm 2 bộ phận chính. - Bộ phận quản lý gồm: Hội đồng quản trị, Giám đốc, Phó giám đốc và các phòng ban. - Bộ phận sản xuất gồm: Phân xưởng chế biến và phân xưởng cơ điện lạnh. Nhiệm vụ, chức năng của mỗi bộ phận như sau: - Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông bầu ra, nhiệm kỳ hai năm một lần, gồm có 3 người, có nhiệm vụ xây dựng chiến lược kinh doanh, định hướng đầu tư, tổ chức bộ máy trong công ty. - Giám đốc phụ trách chung, có nhiệm vụ chỉ đạo điều hành bộ máy tổ chức sản xuất theo định hướng đã được Hội đồng quản trị phê duyệt, là người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp trước cơ quan Nhà nước. HĐQT Chủ tịch HĐQT Các Phó giám đốc Giám đốc điều hành Phòng Kinh doanh Phòng Tổ chức hành chính Phòng kế toán Phân xưởng chế biến Phân xưởng cơ điện lạnh Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy quản lý sản xuất của Công ty Ghi chú: + Quan hệ chỉ đạo trực tiếp + Quan hệ phối hợp - Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật chế biến có chức năng chỉ đạo kỹ thuật từ khâu thu mua nguyên liệu, bảo quản nguyên liệu, chế biến và bảo quản thành phẩm. Có nhiệm vụ xây dựng quy trình, cải tiến kỹ thuật chế biến và xây dựng hệ thống định mức kỹ thuật trong chế biến - Phòng kinh doanh + Có nhiệm vụ kết hợp với phó giám đốc thu mua nguyên liệu, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng phục vụ cho chế biến, xác định phương thức thu mua hợp lý, tổ chức vận chuyển nhanh, thanh toán gọn đảm bảo uy tín cho công ty. Mặt khác, nghiên cứu khảo sát vùng nguyên liệu tham mưu cho giám đốc xây dựng kế hoạch thu mua nguyên liệu và chế biến của công ty. + Thực hiện tiêu thụ sản phẩm, ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, tổ chức vận chuyển đảm bảo quá trình tiêu thụ sản phẩm tiến hành nhanh chóng, kịp thời; thăm dò khai thác thị trường, thông tin giá cả, xác định nhu cầu thị trường để tham mưu cho giám đốc xây dựng kế hoạch sản xuất. - Phòng kế toán Có nhiệm vụ tổ chức công tác hạch toán kế toán – thống kê theo quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý của công ty, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời tình hình tài sản, tiền vốn, kết quả SXKD và đề xuất những những biện pháp quản lý tài chính nhằm nâng cao hiệu quả SXKD, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, cán bộ công nhân viên và các cổ đông. - Phòng Tổ chức hành chính có chức năng đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người lao động, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch công tác, bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất theo nhiệm vụ SXKD của công ty để đạt được hiệu quả cao, quy hoạch đội ngũ cán bộ, đào tạo, tuyển dụng cán bộ, xây dựng nội quy, quy chế SXKD, thực hiện các chế độ về lương, BHXH, BHYT… Đồng thời trực tiếp giám sát lao động trong quá trình sản xuất của công ty để có mức thưởng, phạt hợp lý, đảm bảo thực hiện tốt luật lao động. - Phân xưởng chế biến có nhiệm vụ thực hiện chế biến thuỷ sản theo quy trình đã định và đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có chất lượng tốt. - Phân xưởng cơ điện lạnh có nhiệm vụ cung cấp nước đá, duy trì hoạt động máy móc đảm bảo điều kiện cho phân xưởng chế biến hoạt động. Cả phân xưởng chế biến và phân xưởng cơ điện lạnh đều có ban quản đốc, bộ phận KCS và thống kê phân xưởng. Nhìn chung, công ty sử dụng mô hình tổ chức quản lý theo kiểu trực tuyến, hợp lý và khoa học, phù hợp với đặc điểm SXKD của công ty, xoá bỏ khâu trung gian, phân công rõ trách nhiệm, thực sự phát huy hiệu quả lao động của mỗi cá nhân và của từng phòng ban, phân xưởng. 3.1.3. Tình hình lao động của Công ty Lao động là yếu tố năng động nhất của nguồn lực, đồng thời là yếu tố đầu vào không thể thiếu đối với sản xuất. Do vậy, công tác quản lý và bố trí nhân lực được lãnh đạo công ty rất quan tâm. Lao động được sắp xếp sử dụng hợp lý, đúng khả năng trình độ của người lao động, tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động, hiệu suất công tác, giảm chi phí lao động sống trong mỗi đơn vị sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Hoạt động chủ yếu của công ty là thu mua và chế biến các sản phẩm thuỷ hải sản dưới dạng đông lạnh, do đó lao động của công ty có đặc điểm rất khác biệt so với lao động của các doanh nghiệp khác. - Có nhiều công việc nặng nhọc: Thu mua nguyên liệu ở các cảng, công việc thu mua thường vào ban đêm đòi hỏi phải làm việc vào buổi đêm, cần nam giới có sức khoẻ tốt, nhanh nhẹn, xốc vác. - Có khâu công việc cần sự khéo léo, nhanh nhẹn song vẫn phải cẩn thận như sơ chế, chế biến, đóng gói… rất phù hợp với lao động nữ. Bảng 1: Tình hình lao động của Công ty qua 3 năm (2003 – 2005) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 So sánh (%) SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) SL (người) CC (%) 04/03 05/04 BQ Tổng số lao động 317 100,00 400 100,00 382 100,00 126,18 95,50 109,77 I. Theo hình thức tuyển dụng + Lao động hợp đồng ngắn hạn 218 68,77 301 75,25 284 74,35 138,07 94,35 114,13 + Lao động hợp đồng dài hạn 99 31,23 99 24,75 98 25,65 100,00 98,98 99,49 II. Trình độ chuyên môn + Đại học và cao đẳng 10 3,15 11 2,75 11 2,88 110,00 100,00 104,88 + Trung cấp 8 2,52 10 2,50 9 2,35 125,00 90,00 106,07 + Công nhân kỹ thuật 14 4,42 14 3,50 15 3,93 100,00 107,14 103,51 + Lao động phổ thông 285 89,91 365 91,25 347 90,84 128,07 95,06 110,34 III. Tính chất công việc + Lao động trực tiếp 275 86,75 358 89,50 343 89,79 130,18 95,81 111,68 + Lao động gián tiếp 42 13,25 42 10,50 39 10,21 100,00 92,85 96,36 Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính của công ty Qua bảng 1 cho thấy: Trong 3 năm (2003 - 2005), lao động của công ty có sự biến động rõ rệt. Bình quân mỗi năm lao động tăng 9,77%. Năm 2003 có 317 người, năm 2004 có 400 người tăng so với năm 2003 là 26,18% (tăng 83 người). Nhưng năm 2005 so với năm 2004 tổng số lao động của công ty lại giảm 4,5% cụ thể giảm 18 lao động và chỉ còn 382 người. Xét theo tính chất công việc: Lao động trực tiếp của công ty liên tục tăng, bình quân mỗi năm tăng 11,68%, làm cho cơ cấu lao động trực tiếp từ 86,75% (năm 2003) tăng lên 89,50% (năm 2004) và tăng lên tới 89,79% (năm 2005). Tỷ trọng lao động gián tiếp có xu hướng giảm từ 13,25% (năm 2003) xuống còn 10,50% (năm 2004) và xuống 10,21% (năm 2005). Điều đó chứng tỏ công ty chú trọng bố trí lao động vào các khâu sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm, lao động gián tiếp giảm cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. Điều này phù hợp với cơ chế mới và phù hợp với việc chuyển đổi bộ máy quản lý theo hướng chuyên tinh gọn nhẹ. Những tháng có khối lượng công việc lớn cần thực hiện giao hàng theo tiến độ kế hoạch, công ty huy động hết lực lượng lao động hiện có, kể cả lao động gián tiếp xuống phân xưởng cùng sản xuất với công nhân. Xét theo trình độ chuyên môn của lao động: Lao động có trình độ đại học và cao đẳng của công ty nhìn chung biến động không đáng kể. Năm 2003 là 3,15%; năm 2004 là 2,75% và xuống 2,88% vào năm 2005. Lao động có trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuật có sự biến động nhẹ, bình quân trong 3 năm tăng lần lượt là 6,07% và 3,51%. Lao động phổ thông chiếm phần lớn trong tổng số lao động, chiếm 89,91% năm 2003, chiếm 91,25 năm 2004 và 90,84% năm 2005. Xét theo hình thức tuyển dụng: Lao động của công ty có sự biến động tương đối vì số lao động hợp đồng ngắn hạn chiếm 70%, còn lại 30% là lao động hợp đồng dài hạn nên sự gắn bó của công nhân với công ty chưa thật sâu sắc. Công ty cần có những chế độ và phương pháp quản lý thích hợp đối với công nhân để tạo cho công nhân có sự gắn bó lâu dài với công ty. Qua tìm hiểu công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân chúng tôi nhận thấy: + Công ty luôn quan tâm đến việc đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên thông qua việc tổ chức đào tạo tại chỗ, thi tay nghề, cử các lao động trẻ có khả năng tiếp thu tốt đi học các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn. + Công ty thực hiện hình thức trả lương khoán với hệ thống định mức khoán cụ thể cho từng công việc, khuyến khích người lao động tích cực hoàn thành nhiệm vụ bằng cách trả lương theo số lượng và chất lượng sản phẩm hoàn thành, có bình xét thi đua hàng tháng. Đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty cũng không ngừng được nâng cao cùng với sự phát triển của sản xuất. Các chế độ BHXH, BHYT, bảo hộ lao động và các chế độ khác như nghỉ ngày lễ tết, ốm đau thai sản... công ty đều thực hiện theo chế độ hiện hành của Nhà nước. 3.1.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty 3.1.4.1. Cơ sở hạ tầng của Công ty Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân được xây dựng trên diện tích 20.000 m2. Trong đó diện tích nhà xưởng sản xuất là 3.032 m2. Cơ sở hạ tầng khác phục vụ cho chế biến gồm các hệ thống thiết bị truyền dẫn bao gồm một trạm biến thế 560 KVA phục vụ cho công ty hoạt động. Ngoài nhu cầu về điện, nước cũng là một yếu tố quan trọng, đặc biệt đối với doanh nghiệp hoạt động chế biến thuỷ sản. Hệ thống cấp thoát nước của công ty gồm 2 trạm bơm với công suất 20 m3/h đáp ứng không những tốt về số lượng mà cả về chất lượng góp phần đảm bảo, nâng cao vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản phẩm của công ty. 3.1.4.2. Điều kiện máy móc phục vụ chế biến của Công ty Ngay từ khi mới thành lập (2/1999), ngoài hệ thống máy móc đã có từ trước công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân đã đầu tư thêm một số hệ thống máy móc thiết bị đồng bộ ngoại nhập để phục vụ tốt nhất cho quá trình chế biến thuỷ sản của công ty. Hệ thống máy móc và dây truyền phục vụ cho chế biến của công ty được thể hiện qua bảng 2. Qua bảng 2 ta thấy: Mặc dù công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân là một công ty nhỏ nhưng hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất tương đối hiện đại và đầy đủ. Ngoài việc sản xuất đá phục vụ cho chế biến còn phải phục vụ cho việc thu mua và bảo quản nguyên liệu. Đây chính là đặc trưng của ngành chế biến thuỷ sản. - Máy sản xuất đá, hiện nay công ty có 2 máy sản xuất đá, máy đá vẩy với công suất là 10 tấn/ngày, máy đá tấm với công suất là 7 tấn/ngày phục vụ cho quá trình bảo quản nguyên liệu và sản xuất. Tuy nhiên vào những tháng mùa vụ, sản xuất cần rất nhiều đá, 2 máy sản xuất đá của công ty làm việc hết công suất vẫn không đủ phục vụ. Để khắc phục tình trạng này, công ty phải mua đá của công ty thuỷ sản (II), thậm chí phải mua cả của dân để đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. - Phòng tiền đông: Thuỷ hải sản sau khi được sơ chế, phân loại sẽ được đưa vào phòng tiền đông để giữ cho nguyên liệu được tươi. Công ty có một phòng tiền đông với công suất là 10 tấn. - Tủ đông: Sản phẩm sau khi được phân loại theo kích cỡ, đóng gói được đưa vào tủ đông để làm đông lạnh. Hiện nay, công ty có 2 loại tủ đông. + 2 Tủ đông Plate, với công suất mỗi tủ là 760 kg/h. + 1 tủ đông IQF có công suất là 500 kg/h đảm bảo chất lượng thành phẩm. - Kho trữ: Công ty có 2 kho trữ với thể tích kho trữ (I) là 70 tấn, kho trữ (II) là 200 tấn. Đảm bảo cho quá trình bảo quản thành phẩm trước khi tiêu thụ. Bảng 2: Cơ sở vật chất phục vụ chế biến STT Tên thiết bị ĐVT Số lượng Công suất 1 Máy đá vẩy Cái 1 10 tấn / ngày 2 Máy đá tấm Cái 1 7 tấn / ngày 3 Phòng tiền đông Cái 1 10 tấn 4 Tủ đông Plate Cái 2 760 kg / h 5 Tủ đông IQF Cái 1 500 kg / h 6 Kho trữ 1 Cái 1 70 tấn 7 Kho trữ 2 Cái 1 200 tấn 8 Máy hút chân không Cái 1 5 m3 / h 9 Hệ thống điều hoà nhiệt độ Cái 1 9000 BTU 10 Hệ thống điều hoà không khí Cái 1 216000 Kcal / h 11 Máy xay đá Cái 2 2 tấn / h 12 Lò hơi Cái 1 350 kg / h 13 Máy xay Cái 2 50 kg / h 14 Máy trộn Cái 2 50 kg / h Nguồn : Phòng Kế toán của công ty 3.1.5. Tình hình nguồn vốn của Công ty Vốn là yếu tố không thể thiếu đối với bất cứ doanh nghiệp nào khi hoạt động SXKD. Nó là một trong những yếu tố cơ bản trong SXKD. Do vậy, tạo nguồn vốn, quản lý và sử dụng vốn là một trong những nội dung nhằm đảm bảo cho quá trình SXKD tiến hành liên tục và đạt hiệu quả kinh tế cao. Tình hình biến động vốn và sử dụng vốn của công ty 3 năm qua được thể hiện qua bảng 3. Bảng 3: Tình hình sử dụng vốn của Công ty qua 3 năm (2003 – 2005) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 So sánh (%) Giá trị (1000đ) Cơ cấu (%) Giá trị (1000đ) Cơ cấu (%) Giá trị (1000đ) Cơ cấu (%) 04/03 05/04 BQ Tổng nguồn vốn 7.749.235 100,00 5.721.463 100,00 5.932.242 100,00 73,83 103,68 87,49 I. Nợ phải trả 5.825.679 75,18 3.765.550 65,81 3.956.111 66,69 64,64 105,06 82,41 1. Nợ ngắn hạn 3.305.857 56,75 1.243.082 33,01 2.606.798 65,89 37,60 209,70 88,79 2. Nợ dài hạn 2.329.575 39,99 2.219.880 58,95 1.200.000 30,33 95,29 54,06 71,77 3. Nợ khác 190.247 3,26 302.588 8,04 149.313 3,78 159,05 49,35 88,59 II. Nguồn vốn chủ sở hữu 1.923.556 24,82 1.955.913 34,19 1.976.131 33,31 101,68 101,03 101,35 1. Nguồn vốn SXKD 1.883.111 97,90 1.889.132 96,59 1.939.990 98,17 100,32 102,69 101,49 2.Các quỹ khác 40.445 2,10 66.781 3,41 36.141 1,83 165,12 54,12 94,53 Nguồn: Phòng Kế toán của công ty Qua bảng 3 ta thấy: Tổng nguồn vốn của công ty năm 2003 là 7.749.235 nghìn đồng. Trong đó gồm vốn chủ sở hữu là 1.923.556 nghìn đồng, chiếm 24,82% tổng nguồn vốn của công ty; nợ phải trả là 5.825.679 nghìn đồng, chiếm 75,18% tổng nguồn vốn của công ty. Nợ phải trả của công ty phần lớn là nợ ngắn hạn 3.305.857 nghìn đồng, chiếm 56,75% nợ phải trả; nợ dài hạn chiếm 39,99% nợ phải trả, tức là 2.329.575 nghìn đồng; nợ khác chiếm 3,26% tương đương với 190.247 nghìn đồng. Nguồn vốn chủ sở hữu chủ yếu là nguồn vốn SXKD chiếm 97,90%; các quỹ khác chiếm 2,10% nguồn vốn chủ sở hữu. Như vậy, trong cơ cấu nguồn vốn năm 2003, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 24,82% còn lại 75,18% là nợ phải trả. Điều đó cho thấy công ty phải vay số vốn lớn, kể cả vay ngắn hạn cũng như dài hạn, chi phí tiền lãi phải trả là khá lớn, sẽ ảnh hưởng đến kết quả SXKD. Năm 2004, tổng nguồn vốn của công ty giảm 26,17% so với năm 2003 chỉ còn 5.721.463 nghìn đồng. Mặt khác nợ phải trả của công ty giảm tương đối nhiều so với năm 2003. Năm 2004, nợ phải trả của công ty chỉ còn 3.765.550 nghìn đồng, bằng 64,64% so với năm 2003. Trong cơ cấu nợ phải trả chủ yếu là nợ dài hạn chiếm 58,95%, nợ ngắn hạn so với năm 2003 giảm 62,4%, chiếm 33,01% nợ phải trả của công ty. So với năm 2003, nguồn vốn chủ sở hữu của công ty tăng 1,68%, trong đó nguồn vốn SXKD tăng 0,32%, các quỹ tăng 165,12%. Năm 2005, tổng nguồn vốn của công ty tăng so với năm 2004 là 3,68%. Trong đó nợ phải trả tăng 5,06%, vốn chủ sở hữu tăng 1,03%. Xét trong cơ cấu nợ phải trả của công ty năm 2005 thì nợ ngắn hạn tăng hơn 2 lần so với năm 2004 chiếm 65,89% tổng nợ phải trả, nhưng nợ dài hạn của công ty lại giảm 45,94%, chiếm 30,33% tổng nợ phải trả. Qua phân tích cho thấy tổng nguồn vốn của công ty có sự biến động mạnh qua các năm. Vì nợ phải trả của công ty bình quân qua 3 năm giảm 17,59%, trong đó nợ dài hạn liên tục giảm qua các năm, bình quân giảm 28,23%. Về nguồn vốn chủ sở hữu của công ty luôn tăng qua các năm, bình quân qua 3 năm tăng 1,35%. Điều này cho thấy công ty hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhưng tổng nguồn vốn của công ty còn có sự biến động giảm (chưa bảo toàn được vốn). Vì vậy, công ty cần có các biện pháp quản lý sử dụng vốn một cách có hiệu quả hơn. Một số nhận xét sau khi nghiên cứu tình hình cơ bản của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân. - Công ty có vị trí rất thuận lợi, nằm trên trục đường chính nối Hải Phòng với Quảng Ninh, mặt bằng của công ty rất rộng 20.000 m2. Thị trường cung cấp nguyên liệu dồi dào, tiết kiệm được chi phí vận chuyển nguyên liệu. - Công ty có nguồn lao động tương đối ổn định. Cán bộ quản lý dày dạn kinh nghiệm trong thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản đông lạnh. - Từ khi thành lập đến nay, công ty đã đáp ứng được nhu cầu thị trường về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm và công ty hoạt động đạt hiệu quả. - Sản phẩm chủ yếu của công ty là tôm, mực, cá đông lạnh và các chế phẩm từ tôm và mực. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là xuất khẩu sang Nhật, Trung Quốc và những đô thị lớn ở trong nước. 3.1.6. Tình hình tài sản của Công ty Để tiến hành hoạt động SXKD, các doanh nghiệp, đơn vị cần phải có tài sản bao gồm tài sản lưu động (TSLĐ) và tài sản cố định (TSCĐ), để đảm bảo đầy đủ nhu cầu về tài sản là vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho quá trình SXKD được tiến hành liên tục và có hiệu qủa. Tình hình tài sản và cơ cấu tài sản của công ty được thể hiện qua bảng 4. Bảng 4: Tình hình tài sản của Công ty qua 3 năm (2003 - 2005) Chỉ tiêu 2003 2004 2005 So sánh (%) Giá trị (1000đ) Cơ cấu (%) Giá trị (1000đ) Cơ cấu (%) Giá trị (1000đ) Cơ cấu (%) 04/03 05/04 BQ Tổng tài sản 7.749.235 100,00 5.721.463 100,00 5.932.242 100,00 73,83 103,68 87,49 I. TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn 2.906.519 37,51 2.721.699 34,39 3.306.242 55,73 93,64 121,48 106,65 1.Tiền 680.750 23,42 936.039 34,39 1.303.764 39,43 137,50 139,28 138,39 2. Các khoản phải thu 1.627.534 55,99 1.292.638 47,49 1.430.401 43,26 79,42 110,66 93,75 3. Hàng tồn kho 295.823 10,18 362.197 13,31 550.323 16,64 122,44 151,94 136,39 4. TSLĐ khác 302.412 10,41 130.825 4,81 21.754 0,67 43,26 16,63 26,82 II. TSCĐ và Đầu tư dài hạn 4.842.716 62,49 2.999.764 52,43 2.626.000 44,27 61,94 87,54 73,63 1. TSCĐ 4.835.716 99,86 2.992.764 99,77 2.619.000 99,73 61,89 87,51 73,59 2. Đầu tư dài hạn 7.000 0,14 7000 0,23 7000 0,27 100,00 100,00 100,00 Nguồn: Phòng Kế toán của công ty Qua bảng 4 thấy: Tổng giá trị tài sản của công ty năm 2004 so với năm 2003 giảm 26,17% nhưng năm 2005 so với năm 2004 lại tăng 3,68%. Bình quân 3 năm giảm 12,51%. Tài sản cố định (TSCĐ): Nhìn chung những năm qua tài sản của công ty luôn biến động giảm cả về giá trị và tỷ trọng. Năm 2003, TSCĐ và Đầu tư dài hạn chiếm 62,49% tổng giá trị tài sản của công ty. Năm 2004 so với năm 2003 giảm 38,06% và chiếm 52,43% tổng giá trị tài sản; so với năm 2004, TSCĐ và Đầu tư dài hạn năm 2005 giảm 12,46%, chiếm 44,27% tổng giá trị tài sản của công ty. Sở dĩ có sự giảm mạnh như vậy là do trong 3 năm công ty chưa được đầu tư, trang bị, đổi mới máy móc nhưng trong quá trình hoạt động công ty vẫn phải trích khấu hao để trả nợ. Tài sản lưu động (TSLĐ) và Đầu tư ngắn hạn của công ty những năm qua có sự biến động mạnh. Năm 2003 tài sản lưu động chiếm 37,51% tổng giá trị tài sản của công ty. Năm 2004 so với năm 2003 tài sản lưu động của công ty giảm 6,36% nhưng về tỷ trọng tăng, chiếm 34,39% tổng tài sản của công ty. Năm 2005 so với năm 2004 tài sản lưu động của công ty tăng cả về giá trị và tỷ trọng (tăng 21,48%) chiếm 55,73% tổng giá trị tài sản của công ty, bình quân 3 năm tài sản lưu động của công ty tăng 6,65%. Nhưng trong cơ cấu tài sản lưu động các khoản phải thu chiếm 55,99% trong tài sản lưu động (năm 2003), năm 2004 so với năm 2003 giảm 20,58% chiếm 47,49% tài sản lưu động, năm 2005 so với năm 2004 tăng 10,66% chiếm 43,26% tài sản lưu động của công ty. Như vậy, công ty bị chiếm dụng khá nhiều vốn trong tổng tài sản. Điều này đòi hỏi công ty phải có các biện pháp phù hợp để làm sao giảm bớt được các khoản phải thu trong thời gian tới. Qua phân tích cho thấy tài sản cố định của công ty biến động giảm qua các năm, điều này cho thấy công ty còn bị hạn chế trong việc đổi mới công nghệ. Tài sản của công ty có sự biến động tăng, giảm qua các năm, nhưng về tỷ trọng thì tăng dần qua các năm. Điều này cho thấy công ty từng bước chủ động về vốn trong sản xuất kinh doanh. 3.2. Phương pháp nghiên cứu 3.2.1. Phương pháp nghiên cứu 3.2.1.1. Phương pháp thống kê kinh tế: Đây là phương pháp được dùng phổ biến trong nghiên cứu hoạt động kinh tế – xã hội. Thực chất của phương pháp này là tổ chức điều tra thu thập tài liệu trên cơ sở quan sát số lớn, tổng hợp và hệ thống hóa các tài liệu đã thu thập được bằng các biện pháp phân tổ thống kê, biểu đồ thống kê. Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê như phân tích mức độ hiện tượng, phương pháp so sánh, phương pháp chỉ số để nêu bật tình hình biến động về hiện tượng kinh tế. 3.2.1.2. Phương pháp phân tích kinh doanh: Dựa vào tài liệu đã thu thập về tình hình SXKD của công ty trong thời gian 3 năm, tính toán và phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế, phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả kinh tế. 3.2.1.3. Phương pháp dự tính, dự báo: Dựa trên cơ sở phân tích thực trạng và tốc độ phát triển hiện tại, dựa trên các tiềm năng về nguồn lực (thị trường, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động) để dự kiến xu hướng, tốc độ biến động về hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp trong tương lai. 3.2.2. Phương pháp cụ thể 3.2.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu Tài liệu thứ cấp: Đây là nguồn tài liệu có vị trí rất quan trọng, là nguồn tài liệu không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Tài liệu này thu thập được chủ yếu thông qua sách báo, niên giám thống kê, các báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng kết, đặc biệt là nguồn tài liệu lưu trữ của bộ phận thống kê kế toán, bộ phận kinh doanh, tổ chức hành chính, các tài liệu ở công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân, các tài liệu về chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong chế biến thực phẩm. Tài liệu sơ cấp: Tài liệu này thu thập được thông qua điều tra thực tiễn tình hình sản xuất ở phân xưởng, phương thức tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý ở công ty. 3.2.2.2. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là một trong những phương pháp cơ bản của phân tích thống kê. Đây là phương pháp được sử dụng lâu đời và phổ biến nhất thông qua việc đối chiếu, so sánh các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hoá có cùng nội dung, một tính chất tương tự để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu. Trên cơ sở đó đánh giá các mặt phát triển hay kém phát triển, hiệu quả hay kém hiệu quả để tìm ra các giải pháp tối ưu trong từng trường hợp. Tóm lại: Qua việc sử dụng tổng hợp các phương pháp trên, nêu bật một cách cụ thể, rõ ràng bản chất hiệu quả kinh tế ở công ty trong 3 năm (2003 – 2005), nhận thức rõ ràng những ưu điểm và nguyên nhân tồn tại, dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tới, trên cơ sở căn cứ khoa học đề xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế ở doanh nghiệp. Phần thư tư Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1. Thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty qua 3 năm (2003 – 2005) 4.1.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật trong chế biến thuỷ sản đông lạnh 4.1.1.1. Đặc điểm của hoạt động chế biến thuỷ sản đông lạnh - Nguyên liệu chính dùng để chế biến là thuỷ hải sản tươi sống hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn cung cấp ở thị trường trong nước. Số lượng, chất lượng, giá cả nguyên liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Do đặc điểm của nguyên liệu là những sinh vật sống, quá trình thu mua phải ăn khớp nhịp nhàng với quá trình sản xuất (nguyên liệu không thể dự trữ với quy mô lớn và thời gian lâu như là sản xuất các sản phẩm khác), cho nên số lượng nguyên liệu thu mua phải căn cứ vào khả năng sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. + Chất lượng nguyên liệu có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Do vậy, nguyên liệu phải được tuyển chọn kỹ trước khi đưa vào sản xuất. + Giá cả nguyên liệu lên xuống hàng ngày, theo từng vùng, từng mùa vụ khai thác đòi hỏi doanh nghiệp cần thường xuyên thăm dò khảo sát để xác định giá thu mua sát với giá thị trường. - Công nghệ chế biến thuỷ sản có ảnh hưởng rất quan trọng đến kết quả và hiệu quả SXKD. Công nghệ tiến bộ góp phần nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), mẫu mã chủng loại sản phẩm đa dạng phong phú, chi phí chế biến thấp. Công nghệ lạc hậu thì VSATTP không đảm bảo, mẫu mã đơn điệu, chi phí chế biến cao, hiệu quả SXKD thấp. - Về mặt tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản có đặc điểm: Tiêu thụ trong nước phụ thuộc rất lớn vào tập quán tiêu dùng của người Việt Nam (chủ yếu tiêu thụ sản phẩm tươi sống). Sản phẩm thuỷ sản đã qua chế biến mới chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong thực phẩm tiêu dùng trong nước, tập trung ở các đô t._.nh doanh để từ đó đưa ra các biện pháp. 4.2.1.2. Cơ sở thực tiễn 4.2.1.2.1. Những thuận lợi của Công ty Ngành thủy sản là một trong những ngành được Chính phủ xếp vào ngành kinh tế mũi nhọn, ngành kinh tế quan trọng của Đảng và Nhà nước. Được sự quan tâm đầu tư về vốn, khoa học, kỹ thuật cho vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến đặc biệt là chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu đã có vai trò tích cực đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nói chung và công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân nói riêng. Thứ nhất: Công ty đã hình thành được vùng nguyên liệu rộng lớn, thường xuyên, tương đối vững chắc nằm trên địa bàn các huyện trong tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng (công ty có trụ sở đặt tại đường 10 của huyện Yên Hưng nối Hải Phòng với Quảng Ninh). Ngành nuôi trồng thuỷ sản bắt đầu đi theo hướng sản xuất hàng hoá, tập trung với quy mô lớn tạo nguồn nguyên liệu dồi dào phục vụ cho chế biến và xuất khẩu. Do khoảng cách thu mua gần nên chi phí thu mua giảm, là cơ sở để giảm giá thành. Nhìn chung công tác tổ chức thu mua của công ty linh hoạt, tương đối chặt chẽ, giám sát được cả số lượng và chất lượng nguyên liệu, phục vụ kịp thời nhu cầu sản xuất. Hiện nay các vùng nguyên liệu được sự quan tâm của Chính phủ đầu tư, ngư dân mạnh dạn đổi mới phương thức, mở rộng diện tích nuôi trồng và bước đầu đã mang lại hiệu quả, sản lượng tăng qua các năm tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hoạt động. Thư hai: Công ty làm quen với thị trường xuất khẩu được 4 năm nay (mặc dù công ty mới đi vào hoạt động được 7 năm). Thị trường xuất khẩu đóng vai trò chủ đạo, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh với bốn mặt hàng chính là tôm đông lanh, cá đông lạnh, ghẹ đông lạnh và thuỷ sản khác đông lạnh, chiếm từ 75 - 80% tổng sản lượng và doanh thu tiêu thụ. Trong đó thị trường Nhật Bản và Trung Quốc là thị trường xuất khẩu hiện nay tương đối ổn định và vững chắc, đạt hiệu quả kinh tế cao. Thị trường nội địa chiếm khoảng 15 – 20% sản lượng và doanh thu, đảm bảo sản xuất liên tục, giải quyết việc làm, tăng hiệu quả SXKD. Thứ ba: Công ty thực sự là doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, bù đắp được chi phí và có lãi, mặc dù các chỉ tiêu hiệu quả có xu hướng giảm. Công ty có đội ngũ cán bộ công nhân đoàn kết, đồng lòng. Công nhân có đội ngũ kỹ thuật có tay nghề khá. Công tác quản lý và sử dụng lao động đã được đổi mới và đi vào nề nếp. Trình độ và kinh nghiệm tổ chức quản lý của cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp khá cao, năng động, sáng tạo, kỷ luật, biết giữ chữ “tín” trên thương trường, đã tạo cho doanh nghiệp thế và lực mạnh. 4.2.1.2.2. Những mặt còn tồn tại, khó khăn và thách thức Thứ nhất: Khó khăn về chất lượng và giá cả nguyên liệu đầu vào. Nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta chưa đi vào sản xuất tập chung chuyên môn hoá cao, còn mang tính chất tận dụng. Người dân nuôi trồng thuỷ sản với quy mô nhỏ, do vậy chưa thật sự quan tâm đến con giống. Những tồn tại nói trên của nuôi trồng thuỷ sản đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng, giá thành của thuỷ sản, là nguyên nhân dẫn đến giá thu mua nguyên liệu cao. Một số vùng đã bắt đầu tập trung đầu tư trong nuôi trồng thuỷ hải sản nhưng trình độ và năng suất chưa cao so với khu vực và thế giới. Mặc dù là một đơn vị chế biến nằm gần vùng nguyên liệu nhưng những năm qua công ty vẫn gặp khó khăn lớn nhất là thiếu nguyên liệu do vùng nguyên liệu của công ty trong vài năm đạt sản lượng không cao. Mặt khác, công ty luôn phải cạnh tranh gay gắt về giá và số lượng nguyên liệu với các công ty và xí nghiệp chế biến thuỷ sản khác. Doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt với công ty nhất là: Công ty chế biến thuỷ sản II. Đây là một công ty đã tồn tại và đã khẳng định được chỗ đứng của mình trên thương trường.Vì vậy, công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân chưa chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho chế biến. Thứ hai: Chất lượng của sản phẩm thuỷ hải sản chế biến phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chất lượng nguyên liệu đầu vào, tình trạng kỹ thuật của công nghệ chế biến, công tác quản lý chất lượng tại doanh nghiệp. Hiện nay, công tác kiểm tra giám sát chất lượng nguyên liệu, kiểm tra quá trình sản xuất còn có sơ hở dẫn đến tỷ lệ sản phẩm loại II gia tăng, ảnh hưởng đến giá bán và lợi nhuận. Thứ ba: Công ty ở trong tình trạng thiếu vốn sản xuất, cả vốn cố định và vốn lưu động. Tình trạng thiếu vốn làm cho đầu tư manh mún, chắp vá, không đồng bộ, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng, giá thành sản phẩm. Sản phẩm chế biến dưới dạng đông lạnh nên giá trị thấp. Mặt hàng chưa thật sự phong phú, chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của thị trường xuất khẩu và trong nước. Điều này cũng đồng nghĩa với việc hàng thuỷ hải sản đông lạnh chịu áp lực cạnh tranh khốc liệt ngay cả với các doanh nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Doanh nghiệp còn thiếu vốn lưu động để chủ động thu mua, dự trữ hợp lý. Số lãi phải trả cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng là khá lớn, làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn cũng giảm đi. Thứ tư: Về cơ sở vật chất, máy móc thiết bị của công ty phần lớn không còn mới và đã lạc hậu do phần nửa máy móc của công ty là của xí nghiệp chế biến thuỷ sản chuyển sang (tiền thân của công ty là xí nghiệp chế biến thuỷ sản), chỉ một phần máy móc là công ty mua mới nên hiệu quả làm việc của máy móc chưa cao. Thứ năm: Nước Việt Nam ta nói chung và công ty nói riêng gia nhập thị trường khu vực và thế giới khi sự cạnh tranh đã rất gay gắt. Do vậy, đòi hỏi công ty cần phải có những điểm nổi bật, nổi trội so với các công ty khác về chất lượng cũng như giá cả sản phẩm để đánh bại những công ty trước. Sản phẩm của công ty phần lớn là được xuất khẩu sang hai thị trường lớn là Nhật Bản và Trung Quốc ( chiếm 75 – 80% sản lượng sản xuất). Điều đó đặt ra những rủi ro tiềm tàng trong khi việc mở rộng thị trường mới còn nhiều khó khăn. 4.2.1.2.3. Định hướng của Công ty Từ thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh trong những năm qua công ty đã đề ra hoạt động trong những năm tới. - Phát huy lợi thế, khai thác tiềm năng và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với nhà cung cấp nguyên liệu để tăng cường sản xuất nhằm đạt sản lượng và giá trị sản lượng cũng như các chỉ tiêu khác đề ra. - Vừa tổ chức sản xuất, vừa đầu tư mở rộng trang thiết bị để đạt tiêu chuẩn nhà máy đủ điều kiện xuất khẩu vào thị trường EU. Thị trường xuất khẩu được xác định là thị trường chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng và tổng doanh thu tiệu thụ sản phẩm, cần tăng nhanh cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Công ty cần nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên tất cả các mặt chất lượng, chủng loại và giá cả. Củng cố thị trường xuất khẩu truyền thống: Nhật Bản, Trung Quốc đồng thời cố gắng mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường EU. Tiếp tục củng cố thị trường nội địa, coi thị trường nội địa là bộ phận không thể thiếu được trong hoạt động SXKD của Công ty, góp phần tăng doanh thu, tăng hiệu quả kinh tế trên cơ sở khai thác tốt hơn cơ sở vật chất, lực lượng lao động, là chỗ dựa vững chắc cho hoạt động xuất khẩu. - Nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, từng bước đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng thị trường khó tính và mở rộng khai thác thị trường nội địa. - Quản lý tốt hoạt động thu mua, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng nguyên liệu đầu vào, xác định giá cả thu mua hợp lý, sát với giá thực tế nhằm tiết kiệm chi phí nguyên liệu. - Sử dụng vốn một cách hợp lý, tăng nhanh vòng quay của vốn, tiết kiệm chi phí, tổ chức quản lý lao động tốt nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả SXKD của công ty. 4.2.2. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động SXKD của Công ty Từ phân tích thực trạng hiệu quả SXKD của công ty trong 3 năm (2003 - 2005) và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả SXKD, căn cứ định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới. Chúng tôi xin đề ra một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả SXKD trong thời gian tới. * Biện pháp 1: Giữ vững và mở rộng thị trường Thị trường là nơi tiêu thụ sản phẩm, giải quyết “đầu ra” cho sản phẩm nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Thị trường là yếu tố quan trọng có ý nghĩa sống còn đối với mọi doanh nghiệp. Vấn đề tìm kiếm thị trường, tìm kiếm bạn hàng là mối quan tâm thường xuyên và liên tục, là cuộc cạnh tranh quyết liệt để tồn tại. Giữ vững và mở rộng thị trường là mục tiêu của bất cứ doanh nghiệp nào. Doanh nghiệp có thể tổ chức sản xuất, sản phẩm đạt chất lượng, giá bán phù hợp nhưng nếu thị trường không có nhu cầu hoặc nhu cầu thấp thì doanh nghiệp cũng không thể tồn tại được lâu dài. Để thực hiện mục tiêu này, công ty cần thực hiện các công việc sau: - Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là việc tìm hiểu nhằm xác định rõ nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm, về thu nhập, thị hiếu của người tiêu dùng ở từng thị trường. Đây là công việc quan trọng đặt nền móng đầu tiên cho hoạt động marketing và là kim chỉ nam cho các hoạt động xúc tiến thương mại. Qua nghiên cứu thị trường, công ty nắm bắt nhu cầu của khách hàng ở từng thị trường, từ đó mới có kế hoạch sản xuất và tiêu thụ, đồng thời cũng giúp công ty nắm bắt được thị trường nào là thị trường quan trọng hiện tại, thị trường nào là thị trường tiềm năng, từ đó xây dựng chiến lược về thị trường trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Để làm tốt công tác nghiên cứu thị trường, công ty cần thực hiện một số công việc sau: + Đầu tư thích đáng cả kinh phí và nhân lực cho công tác nghiên cứu thị trường. Dành nhiều thời gian, cử những cán bộ có trình độ chuyên môn về thị trường để nghiên cứu, phân tích, đánh giá, trên cơ sở đó đưa ra chiến lược thị trường, dự tính dự báo tình hình tiêu thụ sát hợp. + Không ngừng nâng cao trình độ của nhân viên marketing bằng cách cử đi tập huấn, công tác trong và ngoài nước. + Tăng cường các hoạt động quảng cáo, thăm dò, xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức: Trên báo chí, ti vi, tham gia các hội chợ triển lãm kinh tế kỹ thuật trong và ngoài nước, mở trang Web quảng cáo sản phẩm và tìm kiếm bạn hàng trên Internet. + Trao đổi, thăm dò ý kiến của khách hàng đối với sản phẩm với nhiều hình thức như phỏng vấn trực tiếp, phát phiếu điều tra. - Xây dựng kế hoạch thị trường từ năm 2006-2010. Với cơ cấu thị trường hiện tại, công ty cần xác định rõ thị trường chính là thị trường xuất khẩu, từ 70-80% sản lượng và giá trị kim ngạch của công ty do xuất khẩu trực tiếp đem lại. Trong thị trường xuất khẩu, quan trọng nhất là thị trường Nhật Bản và Trung Quốc. Công ty cần có nhiều biện pháp để mở rộng các thị trường khác: Thị trường Malaixia, Lào... và đặc biệt là thị trường EU có nhu cầu tiềm năng rất lớn. Bên cạnh thị trường xuất khẩu, công ty cần chú ý tới việc mở rộng thị trường nội địa. Thực sự những năm qua, công ty chưa quan tâm đúng mức đến thị trường trong nước. Chỉ khi đáp ứng đủ hợp đồng xuất khẩu, công ty mới bố trí sản phẩm tiêu thụ trong nước. Công tác quảng cáo, chào hàng, thăm dò nhu cầu để khai thác thị trường nội địa còn hạn chế, trong khi thu nhập của người dân ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu đô thị ngày càng cao, chất lượng, mẫu mã và chủng loại sản phẩm của công ty chưa đáp ứng được. Căn cứ vào tình hình tiêu thụ thực tế trong thời gian vừa qua, dự tính nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thuỷ hải sản đông lạnh trong thời gian tới, công ty xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm theo thị trường, thể hiện qua bảng 13. Bảng 13: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm theo thị trường đến năm 2010 Thị trường 2005 2008 2010 Sản lượng (kg) Cơ cấu (%) Sản lượng (kg) Cơ cấu (%) Sản lượng (kg) Cơ cấu (%) 1. Nhật Bản 119.011 41,87 200.000 40,00 220.000 31,43 2. Trung Quốc 100.064,24 35,21 130.000 26,00 200.000 28,57 3. Lào 10.000 2,00 20.000 2,86 4. Malaixia 15.000 3,00 30.000 4,28 5. EU 20.000 4,00 45.000 6,43 6. Thị trường XK khác 25.000 5,00 80.000 11,43 7. Thị trường nội địa 65.124,76 22,92 100.000 20,00 105.000 15,00 Tổng cộng 284.218 100,00 500.000 100,00 700.000 100,00 Nguồn: Phòng Kinh doanh của công ty * Biện pháp 2: Xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng Qua việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng làm cho hiệu quả SXKD có xu hướng giảm là giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, giá thành sản xuất sản phẩm xuất bán cao. Muốn giảm giá nguyên liệu đầu vào Công ty cần phải nghiên cứu thị trường và ký kết hợp đồng lâu dài với các nhà buôn tại các cảng Cát Bà, Cát Hải để chủ động về nguyên liệu trong sản xuất. * Biện pháp 3: Đổi mới công nghệ chế biến Công nghệ chế biến có ảnh hưởng quyết định đến năng suất, chất lượng, hình thức mẫu mã sản phẩm. Công nghệ chế biến của nước ta hiện nay còn yếu. Sự lạc hậu về thiết bị đi kèm với sự lạc hậu về công nghệ đã khiến cho nhiều doanh nghiệp trong đó có công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân mới dừng ở chỗ xuất khẩu sản phẩm sơ chế, giá trị thặng dư thấp. Hiện nay, doanh nghiệp cần phải đầu tư thêm trang thiết bị và công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất để chế biến những sản phẩm có chất lượng cao. Để có thể nâng cao hiệu quả SXKD thì trong thời gian tới, công ty cần thực hiện các công việc sau: + Thay thế dây chuyền cơ khí bằng dây chuyền tự động, đảm bảo sản xuất theo chu trình khép kín, có năng suất cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở tất cả các khâu, các công đoạn của sản xuất. + Thay thế các dụng cụ bằng sắt như bàn ghế sắt, khay đựng thuỷ sản đã hỏng bằng những thiết bị i nốc không gỉ, chịu được môi trường nước hợp vệ sinh. + Mua thêm thiết bị cân điên tử để đóng gói sản phẩm nhanh chóng, chính xác. + Sửa chữa và lắp đặt thêm hệ thống chiếu sáng trong phân xưởng sản xuất. + Về lâu dài, phấn đấu đến năm 2010, công ty cần đầu tư một dây chuyền công nghệ hiện đại, sản xuất thức ăn chín đóng hộp. * Biện pháp 4: Đầu tư vốn phát triển sản xuất Trong thời gian tới, để đáp ứng đủ vốn cho sản xuất, công ty cần thực hiện các biện pháp huy động tất cả các nguồn vốn tự có. - Huy động triệt để nguồn vốn tự có: Tăng nhanh nguồn vốn chủ sở hữu là con đường cơ bản lâu dài của mọi doanh nghiệp bao gồm nguồn vốn kinh doanh và các quỹ. Nguồn vốn kinh doanh được bổ sung bằng cách huy động vốn đóng góp của cổ đông. Các quỹ được hình thành trên cơ sở phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp. Công ty cần có biện pháp sử dụng hiệu quả nguồn vốn chủ sở hữu bằng cách: giảm lượng hàng tồn kho, giảm số dư công nợ bằng phương thức thanh toán phù hợp để tăng vòng quay của vốn lưu động. Đối với vốn cố định, cần sử dụng hết công suất TSCĐ, khấu hao nhanh để đổi mới thiết bị công nghệ. Tích cực khai thác nguồn vốn trong thanh toán như vốn ứng trước của khách hàng thông qua thu tiền đặt cọc khi ký kết hợp đồng, các khoản phải trả trong phạm vi cho phép. - Nguồn vốn vay: Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Những năm tới nhu cầu về vốn vay của công ty sẽ rất lớn. Vốn là khách hàng thường xuyên, lâu năm, có tín nghiệm cao trong thanh toán, công ty cần khai thác triệt để các khoản vay của Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. - Huy động vốn thông qua đầu tư liên doanh, liên kết với bạn hàng và khách hàng. Qua đó thu thập thông tin để mua sắm thiết bị hiện đại, tiếp thu công nghệ phù hợp nhu cầu tiêu dùng trước mắt và lâu dài trên cơ sở ký kết hợp đồng mua thiết bị và hoàn trả bằng chính các sản phẩm do thiết bị đó sản xuất ra. * Biện pháp 5: Hoàn thiện việc tổ chức lao động của Công ty Việc tổ chức hợp lý lao động trong công ty là vấn đề hết sức cần thiết nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, khuyến khích lao động sáng tạo, hăng hái phấn đấu, nhiệt tình trong công việc nhằm nâng cao năng suất lao động. Bảng 1 cho thấy đội ngũ cán bộ chưa được chú trọng đào tạo cho lắm, cụ thể: Qua 3 năm cán bộ có trình độ đại học chỉ tăng có 1 người, công nhân kỹ thuật bình quân 3 năm tăng 3,51%. Xét trên mức độ tổng thể theo hình thức tuyển dụng thì lao động hợp đồng ngắn hạn của công ty chiếm trên dưới 70% tổng số lao động của công ty; về trình độ lao động phổ thông chiếm 89,91% - 91,25% tổng số lao động của công ty. Điều này cho thấy về mặt tư tưởng công nhân không ổn định do điều kiện làm việc chỉ phục vụ cho công ty trong khoảng thời gian hợp đồng, về trình độ nhiều công nhân chưa được đào tạo cơ bản, điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất lao động, hiệu quả kinh tế của công ty. Biểu 11 cho thấy năng suất lao động của công ty theo doanh thu bình quân tăng 25,76%. Với quan điểm luôn từng bước nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề kỹ thuật của lực lượng lao động, tạo sự tin tưởng gắn bó của họ đối với công ty, từ đó nâng cao được hiệu quả kinh tế, năng suất lao động, tiền lương công nhân, lợi nhuận... Đòi hỏi công ty phải có các giải pháp về tổ chức lao động. - Công ty cần bổ sung lao động có tay nghề, trình độ vào những vị trí thích hợp trong sản xuất. Công ty cần tiếp tục mở các lớp tập huấn, thực hành tay nghề nhằm giúp người lao động rút ra được kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh và áp dụng kinh nghiệm trong thực tế sản xuất. Từng bước nâng cao mức lương của người lao động theo công việc, trình độ, tay nghề kỹ thuật. Xây dựng các quỹ khen thưởng, khuyến khích sáng tạo trong học tập, lao động của toàn thể công nhân viên trong công ty một cách phù hợp, xứng đáng. Chăm sóc chu đáo sức khoẻ, đời sống cho người lao động như kiểm tra giám sát sức khoẻ định kỳ, hỗ trợ kịp thời khi họ gặp khó khăn, bệnh tật... Tổ chức công tác tuyên truyền, xây dựng phong trào thi đua trong lao động. Xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm nội quy của công ty. Tóm lại, công ty cần xây dựng đội ngũ lao động có nghiệp vụ vững vàng, có tay nghề kỹ thuật cao, xây dựng tinh thần đoàn kết giữa các phòng ban và phân xưởng, luôn nâng cao năng lực lãnh đạo, thường xuyên quán triệt, thực hiện đúng Chỉ thị, Nghị định, Quyết định của Đảng và Chính phủ, tuân thủ theo pháp luật. * Biện pháp 6: Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành thành phẩm Để đạt được hiệu quả kinh tế trong kinh doanh công ty cần tìm cách hạ giá thành thành phẩm, nhưng không được làm ảnh hưởng đến chất lượng thành phẩm, để có được điều đó công ty phải làm sao để giảm bớt được chi phí trong cơ cấu giá thành. Trong thu mua: Để giảm được chi phí cố định/đơn vị sản phẩm công ty phải tăng cường công tác thu mua, phát triển vùng nguyên liệu, đẩy mạnh sản xuất. Qua thực tế tìm hiểu nguồn nguyên liệu đầu vào của công ty chưa được chủ động, sản lượng thu mua không đủ để khai thác hết công suất của máy móc thiết bị. Để giải quyết tốt khâu thu mua công ty cần: + Công ty luôn phải đổi mới phương thức thu mua, điều tiết giá cả hợp lý thu hút các nhà cung cấp nguyên liệu. + Công ty xây dựng các mối quan hệ tốt, hợp đồng chặt chẽ với các nhà cung cấp trong và ngoài tỉnh. Trong chế biến: Công ty cần phải xây dựng, điều chỉnh lại các định mức kinh tế, kỹ thuật, các chế độ khoán để phù hợp với người lao động làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm cụ thể: + Giảm sự tiêu hao nguyên liệu, giảm chi phí về nguyên liệu… trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Tận dụng triệt để, hợp lý các công cụ, dụng cụ trong quá trình sản xuất. + Giảm sự lãng phí của việc sử dụng điện, nước vào trong sản xuất + Đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị để tiết kiệm chi phí. - Trong quản lý, tiêu thụ: + Tiết kiệm chi phí trong quản lý, bán hàng. + Khen thưởng hợp lý cho nhân viên quản lý có thành tích sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Phần thứ năm Kết luận và kiến nghị 5.1. Kết luận 1. Phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm là hướng đi đúng đắn được thể hiện trong Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều này khẳng đinh phương hướng sản xuất của công ty hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của đất nước. Công ty có thuận lợi là nằm trong vùng nguyên liệu hết sức dồi dào. 2. Kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy quy mô của doanh nghiệp không ngừng được mở rộng: Tổng sản lượng tiêu thụ trong 3 năm 2003 – 2005 tăng bình quân 4,97%/năm; doanh thu tiêu thụ tăng bình quân 37,81%/năm, trong đó sản lượng và kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng chiếm 75 – 80% tổng sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp. 3. Mặt hàng của công ty là: tôm đông lạnh, cá đông lạnh, ghẹ đông lạnh và thuỷ sản khác đông lạnh. Thị trường xuất khẩu chiếm 75 – 80% sản lượng, trong đó hai thị trường xuất khẩu chính của công ty là Nhật Bản và Trung Quốc. Thị trường nội địa tiêu thụ từ 15 -20% sản lượng, tập trung ở các thành phố, các khu công nghiệp… Công ty không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng, song chủ yếu là sản phẩm sơ chế, chưa có dây truyền sản xuất thức ăn chín, nên tỷ suất lợi nhuận còn thấp. 4. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thực sự đạt hiệu quả kinh tế. Năm 2003 mức lợi nhuận đạt 25.471,3 nghìn đồng; năm 2004 đạt 116.895,6 nghìn đồng; năm 2005 đạt 22.905,7 nghìn đồng. Đây là mức lợi nhuận tương đối cao so với các doanh nghiệp địa phương đóng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Hàng năm, ngoài nộp thuế giá trị gia tăng, thuế đất, công ty còn nộp một khoản thuế thu nhập doanh nghiệp tương đối cho Nhà nước. Không chỉ thu được hiệu quả kinh tế, hoạt động của công ty còn đạt hiệu quả xã hội (đảm bảo việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân), giữ vệ sinh môi trường. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả SXKD trong 3 năm có xu hướng giam do nhiều nguyên nhân: - Tốc độ tăng của doanh thu thấp hơn tốc độ tăng của chi phí, xuất phát từ giá nguyên liệu đầu vào trong vài năm gần đây tăng. Đây là nguyên nhân khách quan lớn nhất làm giảm hiệu quả SXKD. - Hiệu quả sử dụng vốn giảm do chi phí nguyên liệu, chi phí chế biến, chi phí vay vốn tăng cao. - Công ty chú trọng nhiều đến thị trường xuất khẩu, chưa quan tâm đúng mức đến mặt hàng và thị trường nội địa. Nguyên nhân chủ quan này làm giảm doanh thu tiêu thụ, giảm lợi nhuận. - Bộ máy của công ty tuy đã được sắp xếp bố trí lại theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, song còn có nơi, có chỗ, việc bố trí cán bộ chưa thật hợp lý, gây lãng phí lao động. Cán bộ kỹ thuật được đào tạo chuyên sâu còn thiếu và còn yếu. Lao động phổ thông chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ cao. - Công tác quản lý sản xuất, quản lý tài chính, quản lý chất lượng sản phẩm đã được nâng cao so với trước, song còn chưa đạt so với yêu cầu, tỷ lệ sản phẩm loại II có xu hướng tăng. 5. Các biện pháp cần thực hiện: - Giữ vững và mở rộng thị trường: giữ vững thị trường xuất khẩu hiện có, tăng cường quảng bá, tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường khác như Singapore, Lào, Campuchia, EU, cần quan tâm đúng mức tới thị trường nội địa. - Xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, đảm bảo chất lượng, giảm giá thành thuỷ hải sản nguyên liệu đưa vào chế biến. - Tăng cường đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ. - Thực hiện kiểm tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. - Hoàn thiện bộ máy quản lý, nâng cao trình độ cho lao động ở công ty: tiếp tục sắp xếp bộ máy quản lý gọn nhẹ hơn nữa, phân rõ chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận. Phấn đấu đến năm 2010 có 20% lao động có trình độ đại học và cao đẳng, 60% lao động được đào tạo trung cấp và sơ cấp. Tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ kỹ thuật chuyên sâu về chế biến thực phẩm, về điện lạnh. Cần đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận có đủ năng lực và trình độ quản lý điều hành doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới. 5.2. kiến nghị Với thời gian hạn hẹp, quy mô đề tài rộng, tôi đã cố gắng nghiên cứu tham khảo tài liệu, tìm hiểu thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Quảng Ninh để đưa ra những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Các biện pháp chắc chắn còn có nhiều hạn chế và không đầy đủ. Tuy vậy, tôi thấy các biện pháp đã nêu mang tính cơ bản và khả thi nên mạnh dạn đề nghị công ty nghiên cứu áp dụng đồng thời có một số kiến nghị đối với cơ quan, hữu quan : Đối với Nhà nước Trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là xu hướng tất yếu, cạnh tranh trên thị trường càng trở lên quyết liệt hơn, Nhà nước cần có cơ chế chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp: + Hỗ trợ về hiệp định thương mại cấp Chính phủ với các nước, tạo điều kiện thuận lợi cho xúc tiến thương mại để doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài. + Hoạch định chiến lược nhất quán về xuất khẩu thuỷ hải sản, phù hợp với mục tiêu lâu dài của đất nước: tiếp tục thực hiện ưu đãi về thuế xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ hải sản nhằm giải quyết tốt đầu ra cho sản phẩm của thuỷ hải sản. + Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ: có biện pháp hỗ trợ về vốn bằng cách cho vay với lãi suất ưu đãi từ 8 - 10 năm từ Quỹ đầu tư phát triển, khuyến khích doanh nghiệp tích cực đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ. - Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn + Thành lập các Hiệp hội xuất khẩu thuỷ hải sản để tăng cường trao đổi thông tin, hiệp tác, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các doanh nghiệp, tránh xảy ra tình trạng tranh chấp thị trường, thiệt hại đến doanh nghiệp xuất khẩu và kim ngạch của đất nước. + Tập huấn cho cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật, không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh. Đối với Công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân + Có chính sách và cơ chế thu mua nguyên liệu hợp lý trên cơ sở ký kết hợp đồng, tạo điều kiện thanh toán nhanh gọn, tiết kiệm chi phí thu mua, chi phí vận chuyển, làm giảm giá thành nguyên liệu đầu vào. + Củng cố và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, tăng cường quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, giảm tối đa tỷ lệ sản phẩm hỏng, coi chất lượng là chìa khoá giữ vững và mở cửa thị trường. + Bố trí bộ phận marketing nằm trong phòng kinh doanh nhằm nghiên cứu biến động của thị trường, phân công quản lý khai thác cụ thể thị trường xuất khẩu, thị trường nội địa. + Có biện pháp quản lý nhằm tiết kiệm triệt để chi phí điện nước, chi phí bán hàng, chi phí quản lý thông qua việc xây dựng và hoàn thiện hơn nữa hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật trong nội bộ doanh nghiệp. + Bố trí lao động khoa học, hợp lý, có chế độ thưởng phạt rõ ràng thông qua việc sử dụng quỹ khen thưởng, phúc lợi để động viên mọi người hăng hái, nhiệt tình, trách nhiệm trong công việc. + Trên cơ sở đầu tư thiết bị công nghệ mới, từng bước đa dạng hoá các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, thâm nhập vào thị trường EU và các thị trường khác, giảm bớt rủi ro khi phụ thuộc nhiều vào thị trường Nhật Bản và Trung Quốc. Tài liệu tham khảo Nguyễn Tấn Bình (2004), Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh. Thái Bá Cẩn (1999), “Một số suy nghĩ về quan điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế trong điều kiện ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Tài chính, tháng 11/1989. Công ty Cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh, Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh năm (2003 – 2005). Công ty Cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh, Báo cáo tình hình thu mua nguyên liệu 3 năm (2003 – 2005). Công ty Cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh, Sổ theo dõi lao động của Công ty 3 năm (2003 – 2005). Công ty Cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh, Báo cáo tình hình xuất khẩu sản phẩm 3 năm (2003 – 2005). Nguyễn Sinh Cúc (2003), “Tiêu thụ nông lâm sản theo hợp đồng – thực trạng và triển vọng”,Tạp chí Kinh tế phát triển, tháng 2/2003. Phạm Thị Mỹ Dung (2000), Phân tích kinh tế doanh nghiệp, Giáo trình bộ môn kế toán, trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Phạm Văn Được và Đặng Kim Cương (1997), Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB Thống kê, Hà Nội. Hà Thị Huệ (2003), Thực trạng và những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh của Công ty xuất khẩu thuỷ sản II Quảng Ninh, Báo cáo tốt nghiệp cử nhân kinh tế, trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Bùi Thị Thanh Hiền (2002), Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm thịt đông lạnh, Báo cáo tốt nghiệp cử nhân kinh tế, trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Nguyễn Trung Kiểm (1997), Một số vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty chế biến thực phẩm xuất khẩu tỉnh Nam Định, Báo cáo tốt nghiệp cử nhân chính trị, Học viện Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. Hoàng Ngọc Tuấn (2003), Những thuận lợi và khó khăn đối với xuất khẩu Việt Nam năm 2003, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, tháng 1/2003. đặng Thuý Phượng (2000), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội. Quản lý chất lượng sản phẩm theo chỉ tiêu ISO 9002 của Công ty Cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân. Lê Thụ (1993), Định giá và tiêu thụ sản phẩm, NXB Thống kê Hà Nội. Lời cảm ơn Để thực hiện và hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự hướng dẫn giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Phúc Thọ, người đã hết lòng hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này. Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú, các anh, chị trong công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng – Quảng Ninh. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Cuối cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn vô hạn đến gia đình mình, bạn bè, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt vật chất cũng như tinh thần trong suốt bốn năm vừa qua để tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2006 Sinh viên: Nguyễn Thị Thuỳ Linh Lớp : Kinh tế 47A Danh mục các chữ viết tắt BHYT Bảo hiểm y tế BHXH Bảo hiểm xã hội CBCNV Cán bộ công nhân viên DN Doanh nghiệp NSLĐ Năng suất lao động NSLĐ BQ Năng suất lao động bình quân SP Sản phẩm SX Sản xuất SXKD Sản xuất kinh doanh TSCĐ Tài sản cố định TSLĐ Tài sản lưu động VCĐ Vốn cố định VLĐ Vốn lưu động VSATTP Vệ sinh an toàn thực phẩm XK Xuất khẩu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5314.doc
Tài liệu liên quan