Lời nói đầu
Một quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển đòi hỏi phải đẩy mạnh các hoạt động đầu tư. Có đẩy mạnh hoạt động đầu tư mới tận dụng hết các tiềm lực kinh tế, thúc đẩy mọi hoạt động của nền kinh tế đi lên. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, thế giới đang có xu hướng khu vực hoá toàn cầu hoá thì các hoạt động đầu tư trong và ngoài nước càng trở nên sôi động. Đó là thuận lợi lớn đối với một nước đi sau, chậm phát triển như nước ta trong việc thu hút các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, r
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp chủ yếu để Nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
út ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đối với một doanh nghiệp, việc mở cửa nền kinh tế, tăng cường các hoạt động đầu tư của đất nước đã đem lại nhiều thuận lợi lớn trong việc mở rộng hoạt động sản xuất cũng như mở rộng thị trường. Đồng thời cũng đặt doanh nghiệp trước nhiều thách thức mới do cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đầu tư có hiệu quả, tức là làm thế nào để hoạt động đầu tư vừa mang lại lợi ích vừa phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước?
Mỗi hoạt động đầu tư có rất nhiều đặc điểm và sự phức tạp về mặt kỹ thuật lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định. Do vậy, một công cuộc đầu tư muốn đạt hiệu quả đòi hỏi phải có một sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Sự chuẩn bị này thể hiện ở việc soạn thảo dự án bao gồm việc tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế - kĩ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội pháp lý... có liên quan đến quá trình thực hiện dự án. Tuy nhiên thực tế cho thấy, mỗi hoạt động đầu tư chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi nó được thẩm định một cách khách quan trên tất cả các phương diện.
Thẩm định dự án là một khâu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, công tác thẩm định càng được chuẩn bị tốt thì các quyết định đầu tư càng trở nên đúng đắn và dự án đảm bảo đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên trên thực tế, còn rất nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện công tác này. Vì vậy hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Trong phạm vi chuyên đề này em xin nêu ra một số biện pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội.
Chuyên đề này có kết cấu 3 phần:
Lời nói đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về dự án và thẩm định dự án
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội
Chương 3: Một số biện pháp chủ yếu nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội
Kết luận
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Phạm Thị Thêu, và của các cán bộ phòng thẩm định kinh tế - kỹ thuật Cục đầu tư phát triển Hà Nội trong quá trình em hoàn thành chuyên đề này.
Với những kết quả bước đầu đạt được trong luận văn này em rất mong có được điệu kiện để hoàn thiện tiếp, nhằm cụ thể hoá các biện pháp để có thể áp dụng trong thực tế công tác của Cục đầu tư phát triển Hà Nội nói riêng và của các cơ quan làm nhiệm vụ thẩm định dự án nói chung hiện nay.
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về dự án và thẩm định dự án đầu tư
I) Dự án đầu tư
1) Khái niệm về đầu tư
Đầu tư với một nghĩa rộng nhất là sự bỏ ra và hi sinh những cái gì đó ở hiện tại (như tiền, trí tuệ, sức lao động...) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành và của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng.
Như vậy ta có thể hiểu đầu tư trên hai quan điểm:
Theo quan điểm của chủ đầu tư: Đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh để từ đó thu được vốn lớn hơn số vốn đã bỏ ra thông qua lợi nhuận.
Theo quan điểm của xã hội (quốc gia): Đầu tư là hoạt động bỏ vốn phát triển để từ đó thu được hiệu quả kinh tế - xã hội vì mục tiêu phát triển quốc gia.
Khái niệm dự án đầu tư
Một quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển đòi hỏi phải đẩy mạnh các hoạt động đầu tư. Có đẩy mạnh hoạt động đầu tư mới tận dụng được hết các tiềm lực của nền kinh tế, thúc đẩy mọi hoạt động của nền kinh tế đi lên. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đầu tư có hiệu quả, tức là làm thế nào để hoạt động đầu tư vừa mang lại lợi ích cho nhà đầu tư, vừa phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước? Có thể khẳng định rằng đầu tư theo dự án là điều kiện cần, quan trọng để đảm bảo một công cuộc đầu tư thành công, hiệu quả.
Ta hãy xem xét các khái niệm về dự án đầu tư:
Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ, tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những hiệu quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết qủa kinh tế, tài chính trong thời gian dài
Trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ cho dự án. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt, là khâu đầu tiên trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.
Về mặt nội dung: Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
Như vậy dự án đầu tư phản ánh toàn bộ các vấn đề về thị trường, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, xây dựng, tổ chức thi công, xây lắp, khả năng thu hồi vốn và sinh lời của hoạt động đầu tư. Tất cả các vấn đề đó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vận hành, khai thác và hiệu quả thực tế của hoạt động đầu tư. Vì vậy việc tìm kiếm và lựa chọn đầu tư, việc phân tích các thông tin cần thiết liên quan đến sản phẩm của dự án, việc đề ra cách tổ chức quản lý dự án.... cần phải thực hiện một cách nghiêm túc và khoa học. Dự án được thiết lập phải có mục tiêu và phương tiện huy động phù hợp và sát thực với tình hình thực tế.
Vai trò của dự án đầu tư
Dự án đầu tư có vai trò to lớn về mọi mặt đối với nền kinh tế. Đó là:
- Dự án đầu tư giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong phát triển
Trước đổi mới, trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp của một nền kinh tế chỉ huy, Việt Nam không có thị trường tài chính. Mọi nguồn vốn đều tập trung vào tay Nhà nước để phân phối theo kế hoạch cho từng dự án đầu tư và từng xí nghiệp. Khi công cuộc đổi mới kinh tế bắt đầu diễn ra từ năm 1986 thì các nguồn vốn được giải phóng và dâng lên mạnh mẽ ở tất cả các khu vực. Nếu như năm 1989, tỉ lệ đầu tư của nền kinh tế chỉ đạt 8,9% GDP thì đến năm 1991, tỉ lệ đầu tư là 15% GDP, tỉ lệ tiết kiệm là 10,1% GDP. Tiết kiệm và đầu tư đều tăng mạnh ở cả hai khu vực Nhà nước và tư nhân. Chính phủ đã chuyển mạnh từ cơ chế đầu tư bằng vốn ngân sách đối với các doanh nghiệp Nhà nước có tính chất bao cấp sang tín dụng đầu tư, mở rộng liên doanh, liên kết, thu hút vốn trong nước và vốn nước ngoài. Do đó chính phủ đã tập trung hơn nguồn vốn của ngân sách Nhà nước cho phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội. Đầu tư của khu vực tư nhân được hình thành và hoạt động có hiệu quả phần lớn ở quy mô vừa và nhỏ nhưng cũng có một số doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, thu hút nhiều lao động. Bộ mặt nền kinh tế đã thay đổi một cách cơ bản và phát triển theo chiều hướng tích cực về mọi mặt. Tình hình huy động vốn đầu tư và mức đầu tư trong những năm qua được thể hiện qua biểu sau:
Biểu 1: Đầu tư và tiết kiệm ở Việt Nam trong thời gian qua
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
Đầu tư/GDP (%)
25.5
27.3
27.9
27.6
23.6
Tiết kiệm/GDP(%)
16.9
17.0
16.7
20.1
17.0
Qua số liệu trên cho thấy rằng nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả nhất định trong việc thúc đẩy các hoạt động đầu tư, huy động nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn 1991 - 2003, mức tiết kiệm và đầu tư trong GDP tăng mạnh, tốc độ tăng trưởng thời kỳ này tương đối cao và ổn định. Năm 2003 có tỉ lệ đầu tư/ GDP là 27,3%, tiết kiệm/ GDP là 17,0% và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong suốt thời kỳ qua là 12,7%, tỉ lệ lạm phát dưới hai con số là 9,5%.Tuy nhiên nếu xét toàn cảnh nền kinh tế và so sánh tình hình đầu tư của nước ta với các nước trong khu vực ta thấy rằng mức tích luỹ và đầu tư của Việt Nam còn rất thấp. Tích luỹ của nền kinh tế hạn hẹp, mức tiết kiệm (% trên GDP) gần như không tăng và chịu lệ thuộc một phần vào lượng kiều hối bên ngoài. Tốc độ vốn đầu tư bình quân hàng năm tăng nhanh từ 7,8% ở thời kỳ 1986 - 1990 lên 28,3% thời kỳ 1991 - 2003 đã giảm còn khoảng 15% suốt hai năm 2004 - 2005 và năm 2006 vẫn tiếp tục xu hướng giảm. Thực tế đã cho thấy vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ở Việt Nam tuy đã có những kết quả ban đầu nhưng vẫn còn là một lĩnh vực nóng bỏng và là một thách thức lâu dài đối với quá trình phát triển của Việt Nam. Do đó cần phải có những chính sách thúc đẩy đầu tư phù hợp để tăng cường việc phát huy mọi tiềm năng về vốn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Dự án đầu tư tác động đến quan hệ cung cầu về sản phẩm và dịch vụ trên thị trường, cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng trong xã hội.
Theo quy luật của kinh tế thị trường vận động có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các dự án đầu tư sẽ cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ với nhãn hiệu mới, kiểu cách mới, chất lượng và giá thành hợp lý, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. Đây là hệ quả tất yếu của việc huy động tiềm năng về vốn đầu tư, việc tăng năng lực sản xuất và dịch vụ để kích thích sản xuất phát triển, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nguời lao động...
- Dự án đầu tư là phương tiện để chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế
Các dự án đầu tư đặc biệt là các dự án đầu tư mới có vai trò to lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Dự án đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, khai thác các thế mạnh về nguồn lực và điều kiện tự nhiên sinh thái của từng vùng. Một cơ cấu đầu tư hợp lý và các chính sách ưu đãi tương ứng sẽ giúp các vùng kinh tế kém phát triển thoát khỏi đói nghèo, giảm khoảng cách so với những vùng có mức phát triển cao của cả nước.
Trong “ Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010” đã khẳng định vai trò của hoạt động đầu tư như sau: “Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế dưới tác động của cơ chế thị trường được Nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy bằng chương trình đầu tư dựa vào nguồn vốn tập trung”
- Dự án đầu tư tác động đến tăng cường khả năng khoa học và công nghệ
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ thì trình độ công nghệ của Việt Nam nói chung hiện nay là rất thấp, công nghệ Việt Nam đang lạc hậu so với các nước phát triển khoảng 50 - 100 năm. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc, thiết bị hiện tại lạc hậu từ 2 - 4 thế hệ so với thế giới và được hình thành chắp vá từ nhiều nguồn. Các chỉ tiêu chủ yếu như mức tiêu hao nhiên liệu, vật liệu thường lớn gấp 1,5 -2 lần so với mức chung của thế giới. Giá thành sản phẩm cao, do nhiều yếu tố, nhưng trước hết là do công nghệ sử dụng lạc hậu dẫn đến giá trị của sản phẩm thấp, khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Cũng do sự bất cập của công nghệ nên năng suất lao động rất thấp, tỉ lệ sản phẩm hỏng cao (năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% mức trung bình của thế giới). Trình độ công nghệ thấp cũng dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường do bản thân công nghệ và do sản phẩm mà nó tạo ra, vì thế chi phí không chỉ của riêng doanh nghiệp mà của xã hội phải bỏ ra để khắc phục ô nhiễm môi trường là lớn.
Việt Nam đang trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, các hoạt động đầu tư diễn ra sôi động, số lượng các dự án ngày càng nhiều, yêu cầu của người tiêu dùng cũng ngày một cao hơn. Để đảm bảo tính khả thi của các dự án đầu tư cần thiết phải đảm bảo đầu tư các trang thiết bị công nghệ thích hợp, sản phẩm của dự án phải đáp ứng được các yêu cầu về kỹ, mĩ thuật, chất lượng và cạnh tranh được trên thị trường. Việt Nam cần phải có chính sách công nghệ và định hướng công nghệ trong thời gian tới để tăng cường trình độ công nghệ của mình và đáp ứng được đòi hỏi của tình hình đầu tư trong thời kỳ mới.
4) Chu trình của dự án đầu tư
Dự án đầu tư được xây dựng và phát triển trong một quá trình gồm nhiều giai đoạn riêng biệt song gắn bó chặt chẽ với nhau và đi theo một tiến trình lôgic được gọi là chu trình dự án.Có nhiều cách phân chia chu trình dự án nhưng ở đây để tiện cho việc phân tích, ta phân chia thành 5 giai đoạn là: xây dựng dự án, thực hiện dự án, vận hành dự án, đánh giá sau thực hiện dự án và kết thúc dự án.
4.1. Giai đoạn xây dựng dự án
4.1.1 - Nghiên cứu cơ hội đầu tư
Nghiên cứu cơ hội đầu tư là giai đoạn đầu tiên trong chu trình dự án. Đây là những ý tưởng ban đầu được hình thành trên cơ sở phát hiện những lĩnh vực có nhiều tiềm năng để đầu tư, từ đó hình thành sơ bộ các ý đồ đầu tư. Trên thực tế, ý đồ về một dự án mới có thể xuất phát từ các nguồn sau:
Từ chiến lược phát triển ngành hay chiến lược phát triển kinh tế quốc dân
Thông qua việc phát hiện các nguồn tài nguyên, nhân lực, vật liệu chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Dự án có thể được đề xuất để đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng ở thị trường trong nước và nước ngoài còn chưa được thoả mãn.
ý đồ của dự án có thể nảy sinh từ yêu cầu khắc phục những khó khăn và trở ngại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội do thiếu các điều kiện vật chất cần thiết.
Trên cở sở các ý đồ đầu tư khác nhau được hình thành và đề xuất, cần tiến hành nghiên cứu chi tiết hoá, lựa chọn ra những ý đồ dự án có triển vọng nhất (phương án tối ưu) để tiến hành chuẩn bị và phân tích trong giai đoạn tiếp theo. Việc xác định và sàng lọc các ý đồ dự án có ảnh hưởng quyết định đến quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án sau này.
4.1.2 - Nghiên cứu tiền khả thi
Khi xác định sơ bộ được ý đồ, mục tiêu, phương tiện của dự án, ta có thể tiến hành nghiên cứu sơ bộ về các yếu tố cơ bản của dự án như: Quy mô, công nghệ, công suất thiết kế, thiết bị, nhu cầu về vốn cũng như tổ chức thực hiện dự án. Trong giai đoạn này người ta cũng xác định các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả dự án để làm cơ sở cho việc xem xét, lựa chọn dự án.
Kết quả nghiên cứu tiền khả thi là cơ sở cho việc quyết định tiếp tục hoặc chấm dứt việc nghiên cứu dự án ở bước tiếp theo.
4.1.3 - Nghiên cứu khả thi
Nghiên cứu khả thi dự án đầu tư là giai đoạn nghiên cứu chi tiết và toàn diện các yếu tố của dự án trên mọi phương diện: Kỹ thuật, tổ chức quản lý, thể chế xã hội, thương mại, tài chính, kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này phải thu thập đầy đủ những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu về thị trường, môi trường tự nhiên, các nguồn nguyên vật liệu, các chính sách có liên quan của chính phủ, các đặc điểm kinh tế - văn hoá - xã hội của dân cư trong vùng.
Nghiên cứu khả thi còn được gọi là lập luận chứng kinh tế kỹ thuật, là bước nghiên cứu dự án đầy đủ nhất, có nhiệm vụ tạo cơ sở để chấp thuận hay bác bỏ dự án cũng như để xác định một phương án tốt nhất trong số các phưong án còn lại. Nghiên cứu khả thi đúng như tên gọi của nó, nhằm chứng minh khả năng thực hiện của dự án về tất cả mọi phương diện có liên quan. Chuẩn bị tốt và kỹ lưỡng quá trình này sẽ làm giảm những khó khăn trong giai đoạn thực hiện dự án cũng như cho phép đánh giá đúng đắn hơn tính hiệu quả và khả năng thành công của dự án.
4.1.4 - Thông qua dự án (duyệt và thẩm định dự án)
Giai đoạn này thường được thực hiện với sự tham gia của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức tài chính và các thành phần tham gia dự án nhằm xác minh lại toàn bộ những kết luận đã được đưa ra trong quá trình chuẩn bị và phân tích dự án, trên cơ sở đó thông qua hay bác bỏ dự án. Dự án sẽ được thông qua và đưa vào thực hiện nếu nó được chứng minh là có tính khả thi. Ngược lại trong trường hợp còn có những bất hợp lý trong thiết kế dự án thì tuỳ theo mức độ, dự án có thể được yêu cầu sửa đổi hay buộc phải xây dựng lại hoàn toàn.
4.2. Giai đoạn thực hiện dự án
Thực hiện dự án là giai đoạn triển khai thực hiện dự án. Giai đoạn này bao gồm một loạt các quá trình kế tiếp hoặc xen kẽ nhau từ khi thiết kế đến khi đưa dự án vào vận hành khai thác.
Thực hiện dự án là kết quả của một quá trình chuẩn bị và phân tích kỹ lưỡng. Song trong thực tế rất ít khi dự án được tiến hành hoàn toàn đúng như hoạch định. Nhiều dự án đã không đảm bảo được tiến độ thời gian và chi phí dự kiến, thậm chí một số dự án đã phải thay đổi thiết kế ban đầu do giải pháp kỹ thuật không thích hợp hay do thiếu vốn... Nói chung những rủi ro buộc hoạt động đầu tư khó thực hiện theo như kế hoạch là các khó khăn về tài chính, các hạn chế về mặt quản lý, các vấn đề kỹ thuật phát sinh thường xuyên trong quá trình thực hiện dự án và do các biến động chính trị tác động không tốt đến quá trình triển khai dự án.
4.3. Giai đoạn vận hành dự án đầu tư
Giai đoạn vận hành dự án đầu tư được xác định từ khi chính thức đưa dự án vào vận hành, khai thác cho đến khi kết thúc dự án. Đây là giai đoạn thực hiện các hoạt động theo chức năng của dự án và quản lý các hoạt động đó theo kế hoạch đã dự tính. Giai đoạn vận hành dự án có thể tiến hành ngay cả trong giai đoạn thực hiện. Có thể chia giai đoạn thực hiện dự án thành những thời kỳ nhỏ hơn, chẳng hạn, thời kỳ thứ nhất là thi công xây dựng các công trình cơ sở, sau khi hoàn thành XDCB dự án chuyển sang thời kỳ phát triển. Trong thời kỳ này, dự án bắt đầu sinh lợi và trả dần những khoản nợ trong thời kỳ đầu. Thời kỳ thứ ba bắt đầu khi dự án đạt tới sự phát triển toàn bộ, nói cách khác các công trình đầu tư ban đầu đã sử dụng hết công suất và kéo dài tới khi dự án chấm dứt hoạt động.
4.4. Giai đoạn đánh giá sau thực hiện dự án
Đánh giá sau thực hiện dự án thực chất là việc phân tích đánh giá các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của dự án trong giai đoạn vận hành, khai thác. Việc đánh giá này nhằm hiệu chỉnh các thông số kinh tế - kỹ thuật đảm bảo mức đã được dự kiến trong nghiên cứu khả thi trên cơ sở phát hiện và tìm biện pháp đảm bảo các thông số vận hành của dự án. Đồng thời tìm kiếm các cơ hội phát triển, mở rộng hoặc điều chỉnh các yếu tố của dự án cho phù hợp với tình hình thực tế để đảm bảo hiệu quả của dự án. Dựa vào các kết quả phân tích, các cơ quan có thẩm quyền đánh giá quá trình vận hành, khai thác dự án để có quyết định đúng đắn về sự cần thiết kéo dài hoặc chấm dứt thời hạn hoạt động của dự án.
4.5 Giai đoạn kết thúc dự án
Đây là giai đoạn tiến hành các công việc cần thiết để chấm dứt hoạt động của dự án (thanh toán công nợ, thanh lý tài sản và hoàn thành các thủ tục khác)
Quá trình nghiên cứu, soạn thảo một dự án đầu tư được thực hiện theo từng giai đoạn rất cẩn thận nhưng không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Do đó, chúng ta cần phải có một quy trình thẩm định dự án thích hợp nhằm phát hiện ra những sai sót để có biện pháp khắc phục, đảm bảo tính khả thi của dự án.
Giai đoạn 1
Xây dựng dự án
Biểu 3: Chu trình phát triển của một dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư
Nghiên cứu khả thi
Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu cơ hội đầu tư
Giai đoạn 5: Kết thúc dự án
Giai đoạn 4: Đánh giá sau thực hiện dự án
Giai đoạn3: Vận hành khai thác dự án
Chạy thử, nghiệm thu
Đào tạo CB -CNV kỹ thuật, quản lý
Kí kết hợp đồng, đấu thầu
Thiết kế kỹ thuật
Giai đoạn 2: Thực hiện dự án
II) Thẩm định dự án đầu tư
Khái niệm thẩm định dự án
Mỗi một hoạt động đầu tư đều có rất nhiều đặc điểm và sự phức tạp về mặt kỹ thuật lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định. Do vậy trước khi quyết định hoặc chấp thuận việc thực hiện một dự án, cấp có thẩm quyền cần phải đánh giá toàn diện nội dung dự án xem dự án có thực sự có lợi nhuận không, có đáp ứng được các mục tiêu phát triển chung của quốc gia hay không. Nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào. quá trình xem xét đánh giá dự án nhằm đạt được các mục tiêu nói trên được gọi là thẩm định dự án đầu tư.
Ta hãy xem xét hai cách khái niệm sau:
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án, từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư là hoạt động chuẩn bị dự án, được thực hiện bằng kỹ thuật phân tích dự án đã được thiết lập để ra quyết định đầu tư, thoả mãn các yêu cầu thẩm định của Nhà nước.
Như vậy, thẩm định dự án là khâu nằm trong quá trình chuẩn bị dự án nhưng tách biệt với khâu soạn thảo dự án. Thực chất của việc thẩm định dự án là kiểm tra đánh giá toàn diện nội dung của dự án trên cơ sở các tiêu chuẩn, quyết định, định mức của cơ quan quản lý Nhà nước, các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Từ đó có các kết luận về tính khả thi của dự án để làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Sự cần thiết phải thẩm định dự án
Hiện nay, đang có nhiều vấn đề đặt ra trong việc lập và quản lý dự án lớn, đây là một bài toán tổng thể phức tạp nhưng cần thiết phải giải quyết. Trong sự phát triển tiếp theo của quản lý các dự án ở thập niên 70, sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ nổi lên hai đặc điểm: Một là số lượng cũng như mức độ các rủi ro về kinh tế (nguồn nguyên liệu cạn kiệt, khan hiếm...) xã hội (thất nghiệp gia tăng, lạm phát cao... ) chính trị (không ổn định...) đã đưa vào dự án các mô hình xác suất thống kê cho phép tính đến độ bất định của các dữ kiện. Hai là cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ tin học (máy tính điện tử và các phần mềm tương ứng) người ta đã tiến hành mô phỏng để so sánh nhiều phương án khác nhau (làm nhiều tính toán đơn giản thay vì một tính toán duy nhất nhưng phức tạp như trước đây). Giai đoạn thập niên 80 đánh dấu bằng sự hình thành ngày càng nhiều các dự án kinh tế vi mô và các dự án khu vực với sự tham gia cùng một lúc của nhiều quốc gia trong đó có dự án liên kết giữa các nước công nghiệp phát triển. Cuối cùng trong việc lập, phân tích, quản lý dự án những năm gần đây nổi lên một số vấn đề mới như làm thế nào để nâng cao chất lượng các dự án mang tính chất nghiên cứu phát triển, chú trọng đến các vấn đề định tính như: đặc điểm văn hoá, ảnh hưởng môi trường sinh thái, giải quyết công ăn việc làm...
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gia là các công cuộc đầu tư có quy mô ngày càng lớn và tính đa dạng cao. Cạnh tranh trên thị trường trở nên gay gắt, khoảng thời gian mà mỗi sản phẩm trụ được trên thị trường ngày một ngắn. Vì vậy việc hình thành ý tưởng dự án, lập dự án cũng như quản lý tốt dự án trở thành một vấn đề hết sức bức thiết.
Mỗi doanh nghiệp thường phải tiến hành một lúc nhiều dự án liên quan, phụ thuộc lẫn nhau (dự án sản phẩm mới thường đi liền với nhu cầu thay đổi cơ cấu tổ chức, tin học hoá doanh nghiệp...) số lượng dự án nhiều, quy mô dự án cũng lớn lên và phức tạp hơn do sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ, nhiều dự án đòi hỏi phải có chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau cùng tham gia. Trong khi đó các dự án phải đứng trước những hạn chế về kinh tế như nguồn lực có hạn, những vấn đề về môi trường sinh thái, yêu cầu ngày càng cao của khách hàng... Những đòi hỏi ngày càng nghiêm khắc đó của thực tế buộc các nhà đầu tư phải quan tâm đến việc nghiên cứu tổ chức tối ưu toàn bộ quá trình chuẩn bị dự án và thực hiện dự án. Đồng thời đòi hỏi các nhà quản lý kinh tế phải có kiến thức, kinh nghiệm, phẩm chất... để đánh giá đúng đắn hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án để ra quyết định hợp lý về đầu tư hay quyết định cho vay, tài trợ cho dự án. Quá trình các nhà quản lý thực hiện các nhiệm vụ này chính là quá trình thẩm định dự án đầu tư.
Mặt khác, một dự án đầu tư cho dù được soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu thì vẫn mang ý kiến chủ quan của nhà đầu tư và sẽ có những sai sót nhất định trong việc nhìn nhận đánh giá các vấn đề của dự án. Dự án được lập thường không tránh khỏi tình trạng bỏ sót các yếu tố trong khi tính toán, tình trạng thiếu khách quan thiên về mục tiêu lợi nhuận mà coi nhẹ lợi ích của xã hội. Ngoài ra do chủ đầu tư hạn chế về nguồn thông tin, trình độ chuyên môn, quản lý cũng như phân tích tình hình thực tế của chủ đầu tư còn yếu nên dự án được lập ra chưa chắc đã thực sự khả thi, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường cũng như các mục tiêu phát triển của xã hội. Công tác thẩm định dự án nhằm làm rõ tính đúng đắn, hợp lý của dự án trên cơ sở phân tích một loạt các vấn đề có liên quan đến hiệu quả thực hiện dự án như mục tiêu của dự án, thị trường sản phẩm, kỹ thuật - công nghệ, khả năng tài chính của dự án... Như vậy, thẩm định dự án có một vai trò to lớn đối với chủ đầu tư, với Nhà nước và đối với các nhà tài trợ trong việc đảm bảo có một dự án thực hiện theo đúng kế hoạch, thu hồi đủ vốn ban đầu, có lãi và đáp ứng được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đối với chủ đầu tư, thẩm định dự án như là một quá trình kiểm tra đánh giá lại toàn bộ các phương diện của dự án dưới một cái nhìn khách quan hơn. Giả sử rằng, nếu lấy mục tiêu lợi nhuận tối đa để đi đến quyết định đầu tư ta sẽ dễ dàng so sánh giữa lợi nhuận có thể đạt được với chi phí đầu tư đã bỏ ra. Tuy nhiên vấn đề không hoàn toàn đơn giản nếu chúng ta chỉ xem xét một khía cạnh biểu hiện của hoạt động đầu tư là chi phí bỏ ra ở hiện tại nhưng lợi nhuận là những khoản tiền nhận được trong tương lai, thậm chí sau 15 năm hoặc 20 năm. Vấn đề đặt ra là so sánh như thế nào giữa chi phí đầu tư bỏ ra và lợi nhuận thu được? Đây chính là những vấn đề thuộc luận cứ khoa học của thẩm định dự án. Trên thực tế, sau khi thẩm định một dự án, bộ phận thẩm định sẽ có ý kiến đánh giá về dự án và có yêu cầu chủ đầu tư hoàn thiện bổ xung thông tin trong trường hợp dự án có thiếu sót hoặc có ý kiến bác bỏ đối với những dự án không đáp ứng được yêu cầu. Thông qua đó, chủ đầu tư sẽ xác định và lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất, rủi ro thấp nhất đồng thời loại bỏ được các phương án đầu tư không hiệu quả.
Công tác thẩm định dự án đầu tư không chỉ có ích đối với nhà đầu tư mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Nhà nước. Bởi lẽ, một doanh nghiệp khi có dự án đầu tư sẽ có rất nhiều mục tiêu cụ thể nhưng quy tụ lại vẫn là mục tiêu lợi nhuận. Khả năng sinh lời càng lớn thì càng hấp dẫn doanh nghiệp tham gia đầu tư. Vì vậy, khi lập dự án đầu tư, chủ đầu tư thường có khuynh hướng thiên về mục tiêu tạo ra nhiêu lợi nhuận cho mình mà không quan tâm đúng mức đến các lợi ích xã hội khác. Trách nhiệm của bộ phận thẩm định dự án là đánh giá dược tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, vùng lãnh thổ và của cả nước. Đặc biệt phải xác định được phần lợi ích mà dự án đóng góp cho xã hội và phần chi phí mà xã hội phải bỏ ra để từ đó xem xét khả năng sinh lợi của dự án trên phuơng diện xã hội. Từ đó có kết luận loại bỏ những dự án không có hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội hoặc hiệu quả thấp. Điều này sẽ đảm bảo các công cuộc đầu tư đều đóng góp vào lợi ích chung của xã hội, hoạt động đầu tư được tiến hành theo đúng mục tiêu và định hướng phát triển của đất nước.
Đối với các nhà tài trợ, các tổ chức ngân hàng, việc thẩm định dự án mang lại cho họ những thông tin về tính khả thi của dự án, giúp họ đánh giá được tình hình tài chính của chủ đầu tư và khả năng trả nợ của dự án.... Từ đó giúp họ ra quyết định nên hay không nên cho vay hoặc tài trợ cho dự án.
Như vậy, thẩm định dự án là cần thiết khách quan bắt nguồn từ đòi hỏi cần phải đẩy mạnh các hoạt động đầu tư phát triển, điều hoà các loại lợi ích trong xã hội, thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với mọi công cuộc đầu tư trong thời kỳ mới. Thẩm định dự án đầu tư có tác dụng đảm bảo lợi ích của chủ đầu tư, đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả cũng như đảm bảo sự trường tồn của doanh nghiệp. Thông qua thẩm định dự án sẽ giúp chủ đầu tư lựa chọn được phương án tốt nhất theo quan điểm tính khả thi của dự án. Ngoài ra còn giúp các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện sự điều tiết của mình trong đầu tư, đảm bảo sự cân đối giữa lợi ích kinh tế - xã hội của quốc gia với lợi ích của chủ đầu tư và giúp các định chế tài chính ra quyết định chính xác về cho vay hoặc tài trợ cho dự án.
Mục đích thẩm định dự án
Mục đích của việc thẩm định dự án tuỳ theo cơ quan (hoặc cá nhân) thẩm định có sự khác nhau. Ví dụ: Trong trường hợp doanh nghiệp là nhà đầu tư, thẩm định dự án trước hết để kiểm tra khả năng sinh lời về mặt tài chính cho doanh nghiệp mình, trong khi đó đối với một cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước việc thẩm định dự án để xem xét ra quyết định về chủ trương đầu tư đồng thời cũng đánh giá các tác động của dự án đầu tư đến chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội để có biện pháp phòng ngừa hoặc hạn chế hậu quả; hoặc xem xét để có biện pháp hỗ trợ như miễn thuế, cấp giấy phép ... cho dự án trong quá trình thực hiện.
Với phương châm đồng thời lấy hiệu quả chung của nền kinh tế và hiệu quả riêng của doanh nghiệp làm mục đích, công tác thẩm định dự án phải nhằm các mục tiêu sau:
Có quyết định chủ trương bỏ vốn đầu tư đúng đắn, có cơ sở, đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư.
Phát hiện và bổ xung thêm các biện pháp đảm bảo tính khả thi cao cho việc triển khai thực hiện dự án, hạn chế giảm bớt các yếu tố rủi ro.
Tạo ra căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm vốn đầu tư trong quá trình thực hiện.
Có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư của dự án cũng như khả năng hoàn vốn hoặc khả năng trả nợ của dự án và chủ đầu tư.
Rút ra kinh nghiệm và bài học để phục vụ tốt các yêu cầu nghiệp vụ chung về thẩm định dự án.
Các yêu cầu khi thẩm định dự án
Khi thẩm định dự án đầu tư, cán bộ thẩm định cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Phải nắm vững chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, của ngành kinh tế, của địa phương và các quy định, luật pháp về quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và xây dựng của Nhà nước. Trong một số trường hợp, các kiến thức về thương mại đầu tư quốc tế cũng hết sức quan trọng.
Cần có hiểu biết thực tế về bối cảnh, điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án và tình hình, trình độ kinh tế chung của đất nước, của địa phương.
Phải biết xác định và kiểm tra được các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật quan trọng của dự án, đồng thời phải thường xuyên xây dựng, đúc kết, thu thập các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật tổng hợp để phục vụ cho việc thẩm định dự án.
Phải nắm được tình hình sản xuất kinh doanh, các số liệu về tài chính của doanh nghiệp và các quan hệ kinh tế - tài c._.hính - tín dụng của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, các ngân hàng và ngân sách nhà nước. Biết cách khai thác số liệu trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để phân tích hoạt động chung của doanh nghiệp, từ đó có thêm căn cứ vững chắc để ra quyết định phù hợp.
Nghiên cứu một cách khách quan, khoa học và toàn diện về nội dung dự án và tình hình tổng thể của chủ dự án, có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia trong và ngoài ngành.
Tiến hành thẩm định kịp thời theo đúng thời gian quy định để sớm rút ra các kết luận cần thiết. Công tác thẩm định phải được tiến hành theo quy trình hợp lý vừa phát huy được trí tuệ tập thể, vừa khoa học, tránh gây phiền hà cho chủ đầu tư.
Phương pháp thẩm định dự án
Để đảm bảo các dự án đầu tư được thẩm định đầy đủ và chính xác cần phải có phương pháp thẩm định khoa học kết hợp với các kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy. Ta cũng cần phải phân biệt chức năng của cơ quan lập dự án với chức năng của bộ phận thẩm định dự án: Cán bộ làm công tác thẩm định không làm lại toàn bộ công việc của người lập dự án mà đi sâu tìm hiểu những nhược điểm, tồn tại của dự án để có ý kiến về việc có nên đầu tư cho dự án hay không, hoặc đề xuất những nội dung cần bổ xung, điều chỉnh đối với dự án trước khi tiếp tục thẩm định.
Trong thực tế, người ta thường sử dụng các phương pháp thẩm định sau:
5.1- Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp phổ biến và đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh với các dự án đã và đang xây dựng hoặc đang hoạt động trên một số chỉ tiêu sau:
Tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng, tiêu chuẩn về cấp công trình do Nhà nước quy định hoặc điều kiện tài chính mà dự án có thể chấp nhận được
Tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị trong quan hệ với chiến lược đầu tư công nghệ của quốc gia, quốc tế.
Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đòi hỏi.
Định mức về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu, nhân công, tiền lương, chi phí quản lý... của ngành.
Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư của dự án.
Một điều cần lưu ý trong tiến hành phương pháp so sánh là các chỉ tiêu dùng để tiến hành so sánh phải được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án và doanh nghiệp. Cần hết sức tranh thủ ý kiến của các cơ quan chuyên gia (kể cả các thông tin trái ngược) để tránh khuynh hướng so sánh máy móc, cứng nhắc.
5.2- Phương pháp phân tích độ nhạy
Cơ sở của phương pháp phân tích độ nhạy là dự kiến một số tình huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai như vượt chi phí đầu tư, sản lượng đạt thấp, giá các chi phí đầu vào tăng và giá tiêu thụ sản phẩm giảm, có thay đổi về chính sách thuế theo hướng bất lợi... khảo sát tác động của những yếu tố đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoà vốn của dự án.
Mức độ sai lệch của các bất trắc thường được chọn từ 8 đến 10% và nên chọn các yếu tố tiêu biểu, dễ gây ra tác động xấu đến lợi nhuận của dự án để xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án vững chắc và có độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại, cần phải xem lại khả năng phát sinh bất trắc để đề xuất, kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hay hạn chế. Nói chung biện pháp này nên được áp dụng đối với các dự án có hiệu quả cao hơn mức bình thường nhưng có nhiều yếu tố thay đổi do khách quan. Với sự trợ giúp của kỹ thuật tin học, phương pháp này cũng dễ thực hiện hơn và là một phương pháp đáng chú ý để sử dụng.
- Phương pháp triệt tiêu rủi ro
Dự án đầu tư là một tập hợp các tính toán dự kiến trong tương lai và thời gian từ khi thực hiện dự án đến khi đi vào khai thác, hoàn vốn thường rất dài, do đó sẽ có nhiều rủi ro phát sinh ngoài ý muốn chủ quan. Để đảm bảo tính vững chắc và có hiệu quả của dự án, người ta thường xác định một số loại rủi ro có thể xẩy ra để có các biện pháp kinh tế hoặc hành chính thích hợp nhằm hạn chế thấp nhất tác động của rủi ro hoặc phân tán bớt rủi ro cho các đối tượng có liên quan đến dự án.
Bảng 2: Các loại rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro
Loại rủi ro
Biện pháp hạn chế rủi ro
I) Giai đoạn thi công - thực hiện dự án
1. Rủi ro chậm tiến độ thi công
Đấu thầu/ chọn thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
2. Rủi ro vượt tổng vốn đầu tư
Hợp đồng một giá, giá cố định hoặc các diều kiện về phát sinh giá cả khối lượng phải được ấn định.
3. Cung cấp kỹ thuật
Hợp đồng đấu thầu trọn gói (kể cả chuyển giao công nghệ, sáng chế) bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
4. Rủi ro về tài chính
Các cam kết đảm bảo nguồn vốn của các bên cấp vốn
5. Rủi ro bất khả kháng
Mua bảo hiểm đầu tư, bảo hiểm xây dựng
II) Giai đoạn sau khi dự án đi vào hoạt động
1. Rủi ro về cung cấp các yếu tố đầu vào chủ yếu
Hợp đồng cung cấp dài hạn của các công ty cung ứng có uy tín và các nguyên tắc thoả thuận về giá mua bán.
2. Rủi ro về tiêu thụ sản phẩm
Hợp đồng bao tiêu dài hạn và các nguyên tắc thoả thuận về giá tiêu thụ
3. Rủi ro về tài chính
Có cam kết đảm bảo nguồn vốn tín dụng, mở L/C của các cơ quan cấp vốn
4. Rủi ro về quản lý điều hành
Đánh giá năng lực quản lý của doanh nghiệp hiện tại, có hợp đồng thuê quản lý (nếu cần).
5. Rủi ro bất khả kháng
Mua bảo hiểm tài sản, bảo hiểm kinh doanh
Trong thực tế, biện pháp phân tán rủi ro đơn giản nhất và quen thuộc nhất là bảo lãnh của ngân hàng, của doanh nghiệp uy tín khác và biện pháp thế chấp tài sản.
Nội dung cơ bản của thẩm định dự án đầu tư
Sau khi kiểm tra tính pháp lý và tính đầy đủ của các tài liệu cần thiết, việc thẩm định tài chính dự án được tiến hành theo các nội dung sau:
6.1- Phân tích sự cần thiết phải đầu tư
Với quan điểm mỗi dự án đầu tư là một mắt xích quan trọng trong chương trình phát triển kinh tế dài hạn, trung hạn của ngành, vùng lãnh thổ , việc phân tích sự cần thiết phải đầu tư phải trả lời được các câu hỏi sau:
Dự án có vị trí ưu tiên thế nào đến quy hoạch phát triển chung?
Dự án nếu được đầu tư sẽ đóng góp gì cho các mục tiêu: gia tăng thu nhập cho nền kinh tế và doanh nghiệp, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và cơ sở vật chất sẵn có, tạo công ăn việc làm, tăng thu (hoặc giảm chi) ngoại tệ...?
Biện pháp đánh giá cụ thể chính là phải nắm được động lực thúc đẩy sự hình thành ý đồ dự án, phát hiện những trường hợp chủ đầu tư chạy theo lợi ích trước mắt mà không quan tâm đúng mức đến các mục tiêu xã hội.
6.2 - Thẩm định dự án về phương diện thị trường
6.2.1 - Kiểm tra cân đối nhu cầu về sản phẩm của dự án
Tuỳ theo phạm vi tiêu thụ sản phẩm của dự án (trong vùng, trong toàn quốc hay xuất khẩu) cần cân đối về nhu cầu thị trường hiện tại tính theo thống kê trong một số năm và dự báo mức gia tăng trung bình hàng năm và khả năng đáp ứng của các nguồn cung cấp hiện có và xu hướng phát triển của các nguồn cung cấp. Từ đó đánh giá mức độ tham gia thị trường mà dự án có thể đạt được. Nếu kết quả phân tích cho thấy triển vọng thị trường chỉ mang tính nhất thời hay đang dần dần bị thu hẹp thì cần phải thận trọng trong việc xem xét đầu tư cho dự án.
- Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của dự án
Người thẩm định dự án cần phải đánh giá sản phẩm của dự án trên các mặt: ưu thế về chất lượng, giá thành, điều kiện lưu thông, tiêu thụ, kinh nghiệm và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ thị trường về sản phẩm và đánh giá kết quả thực tế về tiêu thụ sản phẩm (các hợp đồng về tiêu thụ sản phẩm đã thực hiện trong quá khứ, các kí kết khả năng trong tương lai...). Cần xem xét kỹ lưỡng tính pháp lý và khả năng thực thi hợp đồng vì trong thực tế, do nhiều lý do một số loại hợp đồng chỉ mang tính hình thức, không thể là căn cứ vững chắc để đánh giá thực chất của hợp đồng.
Đối với sản phẩm xuất khẩu cần phải phân tích thêm:
Tương quan giữa hàng xuất khẩu và hàng ngoại về chất lượng, hình thức bao bì, mẫu mã.
Khả năng giao hàng ổn định, đúng tiến độ, phương thức thanh toán và vận tải thuận tiện.
6.3- Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật
Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng
Người thẩm định dự án phải xem xét kỹ các vấn đề sau:
Vị trí của dự án phải được tối ưu hoá về:
- Tuân thủ các quy định về quy hoạch xây dựng và kiến trúc của địa phương và các quy định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền.
- Thuận lợi về điều kiện giao thông để vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, ra vào với phương tiện vận tải phù hợp, giá cước hạ.
- Gần nguồn cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu để xây dựng và phục vụ sản xuất cũng như gần các hộ tiêu thụ sản phẩm quan trọng.
- Hợp lý với việc đi lại của cán bộ, công nhân viên, tận dụng được các cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng có sẵn trong vùng để giảm chi phí.
- Các chất phế thải, nước thải nếu độc hại đều phải qua khâu xử lý và phải gần tuyến thải cho phép. Nếu công trình có khí thải độc hại và tiếng ồn lớn cần phải tránh xây dựng ở các khu dân cư.
Mặt bằng được chọn cũng cần đủ rộng để có thể phát triển trong tương lai phù hợp với tiềm năng phát triển của doanh nghiệp. Mặt bằng cũng không nên quá chật để đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh công nghiệp, phòng cháy, chữa cháy...
Việc đầu tư đòi hỏi xây dựng ở địa điểm mới cũng cần xem xét kỹ khả năng thực thi việc đền bù, giải phóng mặt bằng để có thể ước lượng tương đối đúng chi phí và thời gian thực hiện dự án.
- Xem xét việc lựa chọn hình thức đầu tư và công suất của dự án
Việc xem xét lựa chọn hình thức đầu tư và công suất của dự án nói chung là nhiệm vụ của chủ dự án và những nhà chuyên môn, người thẩm định dự án chỉ có nhiệm vụ xem xét, phát hiện vấn đề và trên cơ sở các kinh nghiệm và thông tin của mình để kiến nghị với chủ dự án.
Người thẩm định phải nghiên cứu kỹ lưỡng năng lực và điều kiện sản xuất hiện tại của doanh nghiệp mới có thể đề xuất được hình thức đầu tư thích hợp:
Khi công nghệ, thiết bị sản xuất hiện có đã tỏ ra lạc hậu, chất lượng và năng suất lao động đạt thấp hoặc chi phí sản xuất cao dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp thì cần phải có phương án đầu tư chiều sâu đổi mới trang thiết bị.
Khi các năng lực sản xuất sẵn có chưa đồng bộ, chưa phát huy hết công suất trang thiết bị, việc đưa ra phương án đầu tư bổ xung thêm thiết bị là một hướng đầu tư thích hợp, nếu thị trường đang và vẫn còn nhu cầu về sản phẩm.
Việc đầu tư mở rộng hoặc đầu tư mới nói chung chỉ nên đặt ra khi các năng lực sản xuất hiện có không đáp ứng được yêu cầu về số lượng sản phẩm và các hình thức đầu tư chiều sâu hoặc đầu tư bổ xung thiết bị không thực hiện được hoặc nếu thực hiện được thì cũng sẽ tốn kém và hiệu quả không cao.
Trong thẩm định dự án, công suất thực tế luôn được chọn để phân tích. Công suất thực tế là khả năng hoạt động trong các điều kiện sản xuất bình thường có tính đến các yếu tố chủ quan và khách quan như thời tiết, tính năng công nghệ, trình độ quản lý và vận hành, chế độ làm việc, thời gian bảo trì bảo dưỡng, điều kiện cung ứng vật tư, nguyên liệu...
Nghiên cứu về dây chuyền công nghệ và thiết bị lựa chọn.
Đối với điều kiện cụ thể của ta, công nghệ sản xuất được lựa chọn cho dự án phải là công nghệ đã qua kiểm chứng thực hành ở quy mô đại trà. Để xử lý vấn đề này cần thu thập, tích luỹ thông tin về kinh nghiệm của các nhà sản xuất có sản phẩm công nghiệp tương tự. Nếu là công nghệ lần đầu tiên áp dụng trong nước cần phải có ý kiến của cơ quan giám định công nghệ.
Việc áp dụng các công nghệ mới lạ thường mang tính rủi ro cao do đó các hợp đồng chuyển giao công nghệ hoặc điều khoản về chuyển giao công nghệ trong hợp đồng mua bán thiết bị phải rõ ràng, chặt chẽ về nội dung chuyển giao, trách nhiệm của bên chuyển giao về các mặt đào tạo huấn luyện, cử chuyên gia lắp đặt, vận hành thử, bảo hành chất lượng...
Kiểm tra tính đồng bộ về công suất của các thiết bị, các công đoạn sản xuất với nhau, mức độ tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng, tuổi thọ, yêu cầu sửa chữa. bảo dưỡng...
Đối chiếu danh mục thiết bị cần đầu tư với danh mục thiết bị hiện đang sản xuất của doanh nghiệp về số lượng, chủng loại, quy cách, khả năng hoạt động đồng bộ để triệt để tận dụng được các năng lực hiện có, tránh lãng phí.
Đối với loại thiết bị nhập khẩu, ngoài việc kiểm tra nội dung trên còn cần kiểm tra thêm các mặt:
Các điều khoản của hợp đồng nhập khẩu có đúng với luật và thông lệ ngoại thương không
Việc chấp hành đúng quy định của Thủ tướng chính phủ về việc quản lý các hợp đồng nhập khẩu thiết bị đầu tư bằng vốn Nhà nước.
Đối với việc nhập khẩu các thiết bị đã qua sử dụng (second-hand) cần phải chấp hành đúng chỉ thị của Nhà nước.
Kiểm tra về giải pháp xây dựng
Người thẩm định dự án đầu tư căn cứ vào yêu cầu công nghệ, các định mức tiêu chuẩn xây dựng loại dự án, nhu cầu xây dựng các hạng mục công trình và xuất phát từ yêu cầu tận dụng tối đa các hạng mục công trình xây dựng sẵn có, tiết kiệm vốn đầu tư và thời gian thi công để xác định các hạng mục công trình được ưu tiên để tập trung thi công dứt điểm để nhanh chóng đưa dự án vào hoạt động, phát huy sớm hiệu quả đầu tư.
Hiện nay chủ đầu tư có xu hướng đầu tư nặng về xây lắp mà không quan tâm đến khả năng vốn đầu tư và các điều kiện cần thiết khác để nhanh chóng đưa dự án vào sản xuất. Nếu không nghiên cứu, thẩm tra nội dung này sẽ dẫn đến hậu quả đầu tư lãng phí, ảnh hưởng xấu đến tiến độ thi công , gây ứ đọng vốn, giảm hiệu quả đầu tư của dự án.
Đánh gía về chương trình, tiến độ thực hiện dự án
Để có được số liệu hợp lý về chương trình sản xuất của dự án cần phân tích kỹ hệ số phát huy công suất của dự án trong những năm đầu hoạt động. Do độ dài thời gian từ khi dự án hoàn thành cho đến khi đạt công suất mong muốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại công nghệ, chất lượng chế tạo và lắp đặt thiết bị, kinh nghiệm và tay nghề của công nhân vận hành, khả năng điều hành sản xuất và cung ứng...nên cẩn trọng trong khi xác định hệ số (%) sử dụng công suất của dự án, tránh xu hướng đánh giá cảm tính, quá lạc quan dẫn đến có sự sai lệch lớn giữa dự kiến và mức độ sản xuất thực tế, gây khó khăn trong việc thực hiện cam kết vay, trả
6.4 - Thẩm định về phương diện tổ chức
Trong nhiều trường hợp, mức độ thành công hay thất bại của dự án không phải do yếu tố về thị trường hay kỹ thuật mà do chính năng lực tổ chức quản lý và tổ chức thực hiện của các cơ quan có liên quan đến việc thực hiện và vận hành dự án. Vì vậy đối với các dự án có yêu cầu đầu tư lớn và yêu cầu kỹ thuật cao, cần phải xem xét năng lực thực tế của các cơ quan có liên quan cũng như quan hệ phối hợp giữa họ, đó là: chủ dự án, các tổ chức thiết kế thi công, cung ứng thiết bị và nguyên vật liệu, đội ngũ công nhân kỹ thuật chịu trách nhiệm vận hành dự án.
6.5- Thẩm định về mặt tài chính của dự án
Thẩm tra việc tính toán xác định tổng vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn
Vốn đầu tư xây lắp: Vốn đầu tư xây lắp thường được ước tính trên cơ sở khối lượng công tác xây lắp và đơn giá xây lắp tổng hợp. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc xác định nhu cầu xây dựng hợp lý của dự án và mức độ hợp lý của suất vốn đầu tư được áp dụng so với kinh nghiệm đúc kết từ các dự án hoặc loại công tác xây lắp tương tự.
Vốn đầu tư thiết bị: Căn cứ vào danh mục thiết bị kiểm tra giá mua và chi phí vận chuyển, bảo quản theo quy định của Nhà nước về giá thiết bị, chi phí vận chuyển bảo quản cần thiết. Đối với loại thiết bị có kèm theo chuyển giao công nghệ mới thì vốn đầu tư thiết bị còn bao gồm cả chi phí chuyển giao công nghệ, mua bí quyết kỹ thuật, đào tạo huấn luyện, chuyên gia lắp đặt vận hành.
Chi phí khác: Các khoản mục chi phí này cần được tính toán, kiểm tra theo các quy định hiện hành của Nhà nước.
Trong thực tế, ngoài các yếu tố về vốn đầu tư nêu trên, cần lưu ý một số nội dung chi phí đầu tư cần kiểm tra, xác định gồm:
Nhu cầu vốn lưu động ban đầu (đối với dự án xây dựng mới) hoặc nhu cầu vốn lưu động bổ xung (đối với dự án mở rộng bổ xung thiết bị) để dự án sau khi hoàn thành có thể hoạt động bình thường. Tuỳ thuộc vào đặc điểm: về chu kỳ sản xuất lưu thông sản phẩm, khả năng thực tế về cung ứng vật tư, nguyên nhiên vật liệu kể cả nhu cầu dự trữ tồn kho hợp lý... nhu cầu vốn lưu động được xác định.
Chi phí thành lập: gồm các chi phí để mua sắm các loại vật dụng cần thiết không phải là tài sản cố định và các chi phí để hoạt động ban đầu( đối với các dự án du lịch, dịch vụ). Người ta thường thu hồi chi phí này thông qua việc khấu hao chi phí này trong một số năm hoạt động của dự án.
Chi phí trả lãi vay ngân hàng trong thời gian thi công của các dự án đầu tư xây dựng mới và chủ dự án không có nguồn trang trải thường được tính luôn vào chi phí đầu tư để khi dự án đi vào sản xuất mới hoàn trả.
Việc xác định đúng đắn mức vốn đầu tư của dự án là rất cần thiết. Trong khi thẩm định cần chú ý đến hai khuynh hướng thường gặp trong tính toán dự án:
Một là: Tính toán quá cao để tranh thủ vốn, gây lãng phí ứ đọng vốn và giảm hiệu quả đầu tư.
Hai là: Tính toán quá thấp để tranh thủ vốn đầu tư một cách giả tạo dẫn đến quyết định đầu tư sai lệch.
Kiểm tra việc tính toán giá thành - chi phí sản xuất
Trên cơ sở bảng tính giá thành đơn vị hoặc tổng chi phí sản xuất hàng năm của dự án cần đi sâu kiểm tra các mặt sau:
Tính đầy đủ các yếu tố chi phí giá thành sản phẩm. Đối với các yếu tố giá thành quan trọng cần xem xét sự hợp lý của các định mức sản xuất, tiêu hao, đơn giá... có so sánh các định mức và các kinh nghiệm từ các dự án đang hoạt động.
Kiểm tra cách tính và tỉ lệ khấu hao, phân bổ khấu hao từ giá trị đầu tư trong giá thành sản phẩm phù hợp với các quy định và hướng dânx của Nhà nước.
Kiểm tra chi phí nhân công trên cơ sở số lượng nhân công cần thiết cho một đơn vị sản phẩm và số lượng nhân công vận hành dự án.
Kiểm tra việc tính toán, phân bổ chi phí về lãi vay ngân hàng (kể cả lãi vay dài hạn, ngắn hạn) và giá thành sản phẩm.
Đối với các loại thuế của Nhà nước được phân bổ vào giá bán sản phẩm tuỳ loại tình hình sản xuất mà có sự phân tích, tính toán cho hợp lý.
Kiểm tra cơ cấu vốn và cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu vốn (theo công dụng xây lắp, thiết bị và chi phí khác) thường được coi là hợp lý nếu tỷ lệ đầu tư cho thiết bị cao hơn cho xây lắp. Đối với dự án đầu tư chiều sâu và mở rộng, tỉ lệ đầu tư thiết bị cần đạt là 60%. Tuy nhiên phải hết sức linh hoạt theo tính chất và điều kiện cụ thể của dự án (ví dụ: các dự án sản xuất nông nghiệp tỉ lệ thiết bị là không đáng kể) không nên quá máy móc áp đặt, nhưng trong trường hợp các dự án sản xuất công nghiệp có tỉ lệ vốn xây lắp và kiến thiết cơ bản khác cao cần phải được rà soát, tìm hiểu để có biện pháp giảm bớt quy mô và khối lượng xây lắp một cách đúng đắn và hợp lý.
Cơ cấu vốn bằng nội, ngoại tệ: Cần xác định đủ số vốn đầu tư và chi phí sản xuất bằng nội, ngoại tệ của dự án để có cơ sở quy đổi, tính toán hiệu quả. Mặt khác việc phân định này nhằm xác định được nguồn vốn ngoại tệ thích hợp để đáp ứng yêu cầu của dự án.
Phân tích cơ cấu nguồn vốn và khả năng đảm bảo nguồn vốn: Từ tình hình thực tế hiện nay là nhiều dự án đầu tư bằng nhiều nguồn vốn, khi thẩm định chỉ tiêu này cần chỉ rõ mức vốn đầu tư cần thiết từ từng nguồn vốn dự kiến để đi sâu phân tích tìm hiểu khả năng hiện thực của các nguồn vốn đó. Thông thường, một dự án có sức thuyết phục cao là chủ dự án chỉ phải huy động vốn bên ngoài không quá 50% tổng số vốn đầu tư cần thiết cho dự án. Có như vậy trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc sử dụng vốn mới được đề cao và rủi ro trong đầu tư mới được hạn chế.
Căn cứ vào thực tế các nguồn vốn đầu tư hiện nay cần quan tâm xử lý các nội dung để đảm bảo khả năng về nguồn vốn như sau:
Vốn tự bổ xung của doanh nghiệp: Cần kiểm tra phân tích tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để xác định số vốn tự bổ xung của doanh nghiệp có thể dành để đầu tư cho dự án hiện tại cũng như trong thời gian thực hiện dự án sau khi đã trích ra để trang trải các hoạt động cần thiết khác.
Vốn trợ cấp của ngân sách: Đối với các dự án được ngân sách hỗ trợ một phần vốn, cần xem xét các cam kết bảo đảm của các cấp có thẩm quyền đối với nguồn ngân sách (UBND tỉnh, thành phố, cơ quan tài chính...)
Vốn vay ngân hàng: Cần xem xét độ tin cậy về khả năng cho vay của ngân hàng đã cam kết cho vay
Doanh nghiệp vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả: Cần xem xét kỹ việc chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về vay vốn nước ngoài của các doanh nghiệp và xem xét kỹ các cam kết đã đạt được với phía nước ngoài cũng như khả năng thực tế để thực hiện cam kết đó. Cần quan tâm xem xét các điều kiện cho vay như lãi suất cố định hay thả nổi, các loại chi phí vay vốn, thời gian cho vay, thời gian ân hạn, phương thức và kỹ thuật chuyển vốn, hoàn trả vốn và lãi vay... có phù hợp với các điều kiện thực tế về pháp lý và kinh tế của dự án hay không.
Kiểm tra và xác định doanh lợi của dự án
Doanh lợi của dự án được xác định trên cơ sở chi phí sản xuất, giá bán buôn sản phẩm.
Cần chú ý phân biệt các chỉ tiêu:
Chỉ tiêu tổng sản lượng: Là giá trị của toàn bộ sản phẩm và dịch vụ dự kiến trong năm mà dự án có thể sản xuất hoặc cung cấp được.
Chỉ tiêu tổng doanh thu: Là giá trị sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ được trong năm theo dự kiến.
Lợi nhuận trước thuế: Là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất của các sản phẩm dịch vụ tiêu thụ
Lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận thuần): Là chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế trừ đi phần đóng thuế lợi tức theo tỉ lệ quy định.
6.6- Thẩm định về mặt kinh tế - xã hội của dự án
Mục đích của việc thẩm định kinh tế - xã hội là nhằm đánh giá dự án từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế để xác định xem việc thực hiện dự án có những đóng góp và những tác động gì vào việc cải thiện phúc lợi kinh tế quốc gia. Trong thẩm định hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án cần xem xét các vấn đề sau:
Vai trò của dự án trong chương trình phát triển kinh tế xã hội
Xem xét và đưa ra kết luận về các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế
Các kết quả về mặt kinh tế xã hội mà dự án đem lại
Các đề nghị ưu đãi mà dự án đầu tư có thể được hưởng phù hợp với quy chế chung của Nhà nước.
Những vấn đề mới phát sinh ngoài các quy định của luật pháp và chính sách của Nhà nước để từ đó có kiến nghị
Phân tích những khả năng rủi ro có thể xảy ra.
7) Hệ thống chỉ tiêu thẩm định hiệu quả tài chính dự án
Để xem xét nhu cầu và sự đảm bảo nguồn lực tài chính cho việc thực hiện các dự án đầu tư cũng như xem xét kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ hạch toán kinh tế của đơn vị, người ta phải sử dụng các chỉ tiêu tài chính để đánh giá.
Trong quá trình tổng hợp các chi phí có liên quan đến dự án và những lợi ích thu được từ dự án phải sử dụng đơn vị tiền tệ. Mà tiền lại có giá trị về mặt thời gian do tác động của nhiều yếu tố. Vì vậy khi so sánh, tổng hợp hoặc tính các chỉ tiêu bình quân của các khoản tiền phát sinh trong các thời gian khác nhau cần phải tính chuyển chúng về cùng một mặt bằng thời gian có thể là đầu năm ( quý, tháng ) hoặc cuối năm ( quý, tháng ).
Công thức cơ bản để tính chuyển:
Fv=Pv (1+r)n
Trong đó:
(1+r)n - Là hệ số tính kép để tính chuyển các khoản tiền từ giá trị ở mặt bằng thời gian hiện tại về mặt bằng thời gian tương lai.
1/(1+r) - Là hệ số chiết khấu
n - Là số năm (quý, tháng) phải tính chuyển
r - Là tỉ suất chiết khấu. Để xác định r phải xuất phát vào điều kiện cụ thể và mục đích của việc tính chuyến
7.1 - Chỉ tiêu lợi nhuận thuần
Chỉ tiêu lợi nhuận thuần nhằm đánh giá quy mô, lợi ích của dự án. Đây là lợi nhuận để ăn chia, để thiết lập các loại quỹ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt và áp dụng cho mọi dự án sản xuất kinh doanh.
- Lợi nhuận thuần (W) tính cho từng năm hoặc từng giai đoạn của đời dự án
Wi = Oi- Ci
Trong đó: W là lợi nhuận thuần
O là doanh thu thuần
C là chi phí (sản xuất,tiêu thụ,khấu hao, trả lãi vay, thuế doanh thu, thuế lợi tức...)
- Tổng lợi nhuận thuần của cả đời dự án: Chỉ tiêu này có tác dụng so sánh quy mô lợi ích giữa các dự án. Muốn tính chỉ tiêu này ta phải tính chuyển lợi nhuận thuần của từng năm về cùng một mặt bằng thời gian ở hiện tại hoặc tương lai. Thông thường người ta chuyển về mặt bằng hiện tại:
Lợi nhuận thuần bình quân:
7.2 - Chỉ tiêu thu nhập thuần (NPV)
Thu nhập thuần của dự án là hiệu số giữa hiện giá lợi ích và hiện giá chi phí trong toàn bộ thời gian thực hiện dự án.
Đối với các dự án loại trừ lẫn nhau, vốn không bị hạn chế và có cùng tuổi thọ thì chọn dự án nào có NPV cao nhất.
Kết luận thẩm định:
Trường hợp NPV > 0, Dự án có thu nhập thuần càng lớn thì hiệu quả tài chính của dự án càng cao hay dự án có lãi.
Khi NPV = 0, hay tổng thu của dự án cân bằng với tổng chi khi quy về hiện tại đ Dự án hoà vốn, cần phải xem xét lại dự án.
Khi NPV < 0, Dự án không có hiệu quả tài chính, cần được sửa đổi bổ xung.
Ưu điểm chính của phương pháp này là cho ta biết được về mặt định lượng số tiền lãi ròng có thể thu được từ dự án. Đó cũng là điều mà các nhà đầu tư quan tâm nhất. Ngoài ra từ chỉ tiêu này ta còn tính được hệ số hoàn vốn nội bộ IRR.
Nhược điểm chính của phương pháp này là không đưa ra quyết định chính xác đối với các dự án có quy mô khác nhau, tuổi thọ khác nhau.
7.3 - Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư (T)
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư là thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi đủ vốn đầu tư đã bỏ ra.
Ta thấy khấu hao cũng là một nguồn thu hồi vốn và được tính vào chi phí sản xuất, cho nên khấu hao và lợi nhuận thuần có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Tính thời hạn thu hôì vốn từ lợi nhuận thuần và khấu hao cho phép tính được đầy đủ khả năng thu hồi vốn, loại trừ trường hợp dự tính lợi nhuận cao, trích khấu hao thấp nhằm đạt chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn ngắn. Khi tính toán người đầu tư phải quan tâm lựa chọn phương pháp và mức độ khấu hao hàng năm để làm sao giá thành không quá cao mà vẫn kịp thu hồi đủ vốn đầu tư trước khi kết thúc đời dự án.
Tính thời hạn thu hồi vốn từ lợi nhuận thuần và khấu hao:
*Theo từng năm:
*Theo tình hình hoạt động bình quân:
-Chọn ra một năm TI, lấy đó là số bình quân
Trong đó A(W+D) là mức đều đặn của thu nhập thuần và khấu hao
*Theo phương pháp cộng dồn:
*Theo phương pháp trừ dần:
T là năm thu hồi vốn
Ưu điểm của phương pháp này là xác định chính xác thời hạn thu hồi đủ vốn đầu tư của dự án. Cách tính toán chỉ tiêu này tương đối dễ dàng và có độ tin cậy cao.
Nhược điểm chủ yếu của chỉ tiêu này là không cho ta biết thu nhập to lớn của dự án sau khi hoàn vốn.
7.4 - Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ
Hệ số hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ lãi suất mà nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về cùng mặt bằng thời gian ở hiện tại thì sẽ làm cho tổng thu cân bằng với tổng chi. Tức là:
Công thức tính:
Với điều kiện: r2 > r1, r2- r1 0 và gần không; NPV2 < 0 và gần không.
Kết luận thẩm định:
Trường hợp: IRRdự án > IRR định mức Dự án có tỷ suất thu hồi vốn nội bộ càng lớn thì hiệu quả tài chính của dự án càng cao, dự án càng hấp dẫn.
Trường hợp IRRdự án < IRR định mức Dự án không đạt hiệu quả tài chính, cần sửa đổi, bổ xung.
Ưu điểm của phương pháp này là biểu thị được tỉ lệ sinh lời (chi phí cơ hội) lớn nhất mà bản thân dự án đạt được hay tính toán được mức lãi vay cao nhất mà dự án có khả năng thanh toán.
Nhược điểm của phương pháp này là không dễ dàng tính chính xác giá trị IRR. Đưa ra các quyết định không chính xác đối với các dự án loại trừ nhau, có quy mô khác nhau.
*Như vậy qua phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu, ta thấy rằng mỗi chỉ tiêu đều có ưu nhược điểm của nó. Vì vậy để đảm bảo tính chính xác, chúng ta cần phải sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu trên trong khi thẩm định dự án.
Trong luận văn này, em đứng trên giác độ là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư phát triển, thực hiện công tác thẩm định dự án sử dụng vốn tín dụng Nhà nước tại cục đầu tư Hà Nội. Để nâng cao chất lượng trong công tác thẩm định dự án đầu tư đòi hỏi phải có công cụ và phương tiện quản lý dự án đầu tư tốt đặc biệt là phải có cán bộ thẩm định giỏi.
Công cụ để xem xét dự án nói chung chính là kế hoạch thực hiện dự án được cấp quyết định đầu tư phê chuẩn và ghi trong dự án cùng với một lịch biểu và sự phân công trách nhiệm cho các bên, các bộ phận thực hiện. Ngoài ra còn căn cứ vào hệ thống luật pháp, chính sách, các quy chế về quản lý tài chính, lao động tiền lương, về sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, các nghị định số 42/CP, 43/ CP ngày 16/7/2004, nghị định số 92/CP, 93/CP ngày 23/8/2005, các thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính thực hiện chế độ mới về quản lý tài chính đầu tư và xây dựng, các thông tư liên bộ xây dựng - kế hoạch đầu tư - tài chính hướng dẫn thi hành điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, các thông tư liên ngành của UBND thành phố Hà Nội hướng dẫn thực hiện chế độ mới về quản lý đầu tư và xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội...
Phương tiện để thẩm định dự án là hệ thống lưu trữ và xử lý thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định dự án, hệ thống thông tin liên lạc, phương tiện đi lại trong quá trình tìm hiểu thực tế liên quan đến dự án...Cán bộ thẩm định dự án đòi hỏi phải có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn sâu trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Vấn đề này sẽ được làm rõ khi nghiên cứu thực trạng thẩm định dự án tín dụng tại cục đầu tư phát triển Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định dự án tại cục đầu tư phát triển Hà Nội
I) Khái quát về Cục đầu tư phát triển Hà Nội
Quá trình hình thành phát triển Cục đầu tư phát triển Hà Nội
Thi hành quyết định số 654/ TTg ngày 8/11/2002 của Thủ tướng chính phủ về việc bộ Tài chính thống nhất quản lý thực hiện nhiệm vụ cấp phát và cho vay ưu đãi vốn đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước. Liên bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước đã có thông tư số 100/ TT- LB ngày 24/11/2002 hướng dẫn về bàn giao hồ sơ, tài liệu, tiền vốn, cơ sở vật chất và cán bộ trực tiếp liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ cấp phát và cho vay ưu đãi vốn đầu tư phát triển của Nhà nước. Ngày 10/12/2002 thủ tướng chính phủ đã kí nghị định số 187/CP thành lập Tổng cục đầu tư phát triển trực thuộc Bộ Tài chính. Ngày 10/12/2002 bộ trưởng Bộ Tài chính đã ra quyết định số 1198 TC/QĐ/TCCB thành lập 53 cục đầu tư phát triển tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cục đầu tư phát triển Hà Nội là tổ chức quản lý tài chính Nhà nước chuyên ngành, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, đ._.i nhận đủ hồ sơ theo quy định, phòng Tín dụng có trách nhiệm giữ một bộ có xác nhận và đóng dấu của Cục “sao y bản chính” gửi cho phòng thẩm định, sau đó sẽ gửi bộ này cho Tổng cục để kiểm tra và lưu lại Tổng cục.
Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm thẩm định đơn vị vay vốn và dự án đầu tư theo các nội dung:
Phương pháp tính toán và cơ sở pháp lý của các số liệu trong phương án vay vốn
Các căn cứ điều kiện để thực hiện dự án (nguồn vốn đầu tư, nguồn cung cấp nguyên liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm...)
Tình hình tài chính của đơn vị vay vốn, khả năng trả nợ, thời gian trả nợ và mức trả nợ...
Sau khi kiểm tra, cán bộ Tín dụng phải có nhận xét rõ ràng, cụ thể về tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn, tình hình tài chính và quan hệ tín dụng của đơn vị vay vốn, đánh giá xem dự án có trả được nợ vay hay không. Cán bộ tín dụng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với các kết luận thẩm định của mình về các nội dung nêu trên.
Tại phòng Thẩm định Kinh tế - Kỹ thuật: Cán bộ phòng Thẩm định chịu trách nhiệm thẩm định dự án theo đúng quy trình, nội dung thẩm định dự án (đánh giá các chỉ tiêu kinh tế - tài chính của dự án, hiệu quả của dự án, nguồn vốn trả nợ, thời gian thu hồi vốn... Bộ phận thẩm định phải có ý kiến nhận xét đánh giá dự án bằng văn bản theo mẫu quy định để trình lãnh đạo Cục qua phòng Tín dụng.
Trên cơ sở báo cáo kết quả thẩm định của hai phòng Thẩm định và Tín dụng, Cục trưởng Cục đầu tư phát triển Hà Nội xem xét, ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay đối với từng dự án. Trường hợp cho vay cục trưởng xác định mức vốn cho vay, lãi suất cho vay, nội dung sử dụng vốn vay, thời hạn cho vay, thời điểm bắt đầu trả nợ vay (gốc và lãi) và chỉ đạo phòng Tín dụng dự thảo tờ trình Tổng cục cục đầu tư phát triển theo mẫu quy định đối với những dự án do tổng cục xem xét, quyết định. Đối với dự án thuộc thẩm quyền xét duyệt của Cục trưởng, chậm nhất trong phạm vi 10 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ, Cục trưởng phải có quyết định chấp thuận cho vay hay không cho vay. Trường hợp không chấp thuận cho vay, cục trưởng chỉ đạo phòng Tín dụng thảo công văn gửi đơn vị vay vốn, cơ quan cấp trên của đơn vị vay vốn và Tổng cục đầu tư phát triển để nói rõ lý do không cho vay. Trong trường hợp dự án được chấp thuận cho vay thì sau khi nhận được thông báo chỉ tiêu tín dụng của Tổng cục đầu tư phát triển (đối với dự án do Tổng cục quyết định) hoặc quyết định cho vay của Cục trưởng (đối với dự án thuộc thẩm quyền xét duyệt của Cục trưởng), cán bộ Tín dụng hướng dẫn đơn vị vay vốn hoàn tất những điểm cần bổ xung và yêu cầu đơn vị vay vốn gửi các tài liệu để mở tài khoản.
Ta biết rằng thẩm định dự án đầu tư là việc xem xét một cách khách quan, toàn diện các nội dung của dự án để từ đó ra quyết định đầu tư hay không đầu tư cho dự án. Vì vậy khi thẩm định dự án, cán bộ của hai phòng Tín dụng và Thẩm định phải chú ý xem xét các đặc điểm của dự án, tính đơn chiếc của dự án để có cách thẩm định cho phù hợp. Có những dự án phải chú trọng đến hiệu quả tài chính, có những dự án phải đặc biệt chú trọng đến hiệu quả kinh tế xã hội. Tính chính xác của dự án chỉ là tương đối vì dự án chứa đựng hàng loạt các tính toán dự kiến về những gì sẽ phải thực hiện và những gì sẽ đạt được. Thẩm định dự án như là một quá trình kiểm tra tính đúng đắn của các tính toán trên cơ sở xem xét độ vững chắc của dự án trước những bất lợi trong tương lai. Do đó, đòi hỏi các phòng ban liên quan đến thẩm định dự án phải thường xuyên có sự trao đổi thông tin với nhau và với bên ngoài (cả trong và ngoài nước) để có thể đánh giá chính xác xu hướng vận động của đầu tư và những bất trắc có thể xảy ra để đảm bảo các kết luận thẩm định đúng đắn và phù hợp với thực tế. Đồng thời cần phải thắt chặt mối quan hệ giữa các phòng trong công tác thẩm định dự án thông qua việc tổ chức học tập nâng cao nghiệp vụ, thực hiện báo cáo hàng tuần, quý, năm, quy định rõ trách nhiệm của các phòng trong công tác thẩm định...
Tổ chức nâng cao và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ thẩm định
Thực tế cho thấy rằng, vấn đề nhân sự luôn là vấn đề trọng tâm vì con người là nhân tố quyết định mọi sự thành công của các công cuộc đầu tư. Để một công cuộc đầu tư đạt hiệu quả thì liên quan đến nhiều vấn đề như vốn, trình độ công nghệ, thị trường tiêu thụ, kinh nghiệm...trong đó không thể không tính đến sự đóng góp to lớn của con người. Đặc biệt, thẩm định dự án là một mắt xích quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư của dự án thì càng đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo, cán bộ thẩm định dự án phải có năng lực, trình độ, kinh nghiệm để đánh giá đúng đắn hiệu quả thực tế của dự án đối với sự phát triển doanh nghiệp và của đất nước.
Hàng năm số lượng dự án tín dụng Nhà nước cần thẩm định tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội đều tăng lên cùng với sự tăng lên về cầu đầu tư của thành phố và của cả nước.Thông qua đó, Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã có những bước phát triển nhất định về nâng cao năng lực cán bộ trong công tác thẩm định dự án. Tuy nhiên trong thời gian tới, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và đa dạng của các hoạt động đầu tư thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ thẩm định phải được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Có thể đưa ra một số giải pháp về nâng cao và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ thẩm định ở Cục đầu tư phát triển Hà Nội như sau:
- Đối với đội ngũ lãnh đạo
Đội ngũ lãnh đạo là những người vừa có khả năng về nghiệp vụ, vừa có khả năng về quản lý. Những người này thường là những cán bộ giỏi được đào tạo kỹ lưỡng, họ có trình độ và nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao trong công tác thẩm định dự án thời gian tới thì không phải tất cả họ đều có khả năng. Vì vậy cần phải xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể đối với các lãnh đạo Cục như có năng lực điều hành tổ chức, nắm được quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án, ra quyết định chính xác về đầu tư hay không đầu tư cho dự án, nắm được các chủ trương, chính sách của Nhà nước về thẩm định dự án cũng như quản lý các nguồn vốn tại Cục... Cán bộ lãnh đạo phải đề ra được cách thức quản lý điều hành tối ưu nhất sao cho các chủ trương, chính sách của Nhà nước, các quyết định của Tổng cục đầu tư phát triển và ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Cục nhanh chóng được phổ biến xuống các phòng ban. Đồng thời thu thập và xử lý và giải đáp các thông tin phản hồi từ các phòng ban và từ khách hàng theo đúng quy định của Tổng cục đầu tư phát triển và đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy, trong thời gian tới Cục đầu tư phát triển Hà Nội nên liên hệ với các trường, các tổ chức trong và ngoài nước... để mời các chuyên gia về giảng để bồi dưỡng những kiến thức về quản lý về nghiệp vụ đồng thời đưa các cán bộ có năng lực đi tập huấn ở nước ngoài.
- Đối với đội ngũ cán bộ thẩm định dự án
Đây là những người trực tiếp tham gia thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội và tham gia đóng góp ý kiến thẩm định các dự án của thành phố. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ thẩm định dự án là phải có năng lực, trình độ và nắm vững quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án. Đồng thời, phải có phẩm chất đạo đức tốt, nghiêm túc trong công việc và luôn đặt mục tiêu chất lượng thẩm định dự án lên hàng đầu.
Hiện nay đội ngũ cán bộ thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội đều là những người có trình độ đại học, trên đại học, trình độ vi tính, tiếng Anh... Cục đầu tư phát triển Hà Nội cần phải xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực của cán bộ thẩm định dự án như: tăng cường tổ chức các buổi hội thảo, học tập, tập huấn nghiệp vụ, mời các chuyên gia chuyên ngành truyền đạt về công tác quản lý, định mức, đơn giá xây dựng cơ bản... để giúp cho cán bộ công nhân viên nắm vững các chế độ, chính sách của Nhà nước và giải quyết công việc tốt hơn trong công tác thẩm định, cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, khuyến khích phát huy các sáng kiến của cán bộ trong toàn Cục để nâng cao chất lượng thẩm định dự án, điều chỉnh mức lương, thưởng cho cán bộ thẩm định một cách hợp lý, tổ chức phát động các đợt thi đua trong từng năm và tổng kết khen thưởng kịp thời trong từng đợt... Ngoài ra Cục đầu tư phát triển Hà Nội cần có các quy dịnh cụ thể về xử lý các trường hợp vi phạm nội quy, vi phạm quy chế thẩm định dự án để nâng cao ý thức kỉ luật, tinh thần trách nhiệm của toàn thể cán bộ, công nhân viên trong toàn Cục. Cần đưa công tác kiểm tra giám sát thành công tác trọng tâm để giúp lãnh đạo Cục điều hành công việc, chỉ đạo kịp thời bộ phận thẩm định tránh sơ hở trong khi thẩm định dự án, giúp chủ đầu tư lựa chọn phương án đầu tư đúng đắn nhất.
Tăng cường cập nhật và xử lý thông tin kịp thời, đầy đủ để đảm bảo chất lượng thẩm định dự án
Trong thời đại bùng nổ thông in như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin cùng với các cách thức xử lý thông tin ngày càng hiện đại, việc thu thập chính xác và kịp thời nguồn thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định dự án là khá phức tạp song vô cùng cần thiết. Nếu như người thẩm định dự án có đầy đủ các thông tin liên quan đến dự án như thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, giá cả thực tế của các yếu tố đầu vào, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dự án ở các nước phát triển, xu hướng biến động của các yếu tố bất ổn định ở Việt Nam và ở các nước trên thế giới... thì việc thẩm định dự án sẽ đạt chất lượng, các đánh giá và kết luận mà người thẩm định dự án đưa ra mang tính đúng đắn cao và phù hợp với tình hình thực tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội bởi lẽ các dự án tín dụng ở đây là các dự án sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước với lãi suất thấp hơn so với các ngân hàng thương mại. Việc thẩm định dự án đạt chất lượng không chỉ đảm bảo hiệu quả thực hiện dự án, tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mà còn đảm bảo cơ cấu đầu tư ưu đãi của Nhà nước phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, góp phần đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng
Vấn đề đặt ra là cần phải thu thập các nguồn thông tin, phân loại, xử lý và đánh giá thông tin như thế nào để thấy được tính đúng đắn của từng loại thông tin. Một trong những hướng giải quyết là cần sử dụng rộng rãi máy vi tính và các phần mềm ứng dụng trong phân tích đánh giá dự án. Bởi lẽ, ngoài chức năng lưu giữ, cập nhật, truy nhập thông tin, máy vi tính cho những khả năng vô cùng mạnh mẽ trong tính toán, kiểm tra, phân tích các dự án. Cần đặc biệt lưu ý tránh sử dụng các nguồn thông tin mang tính một chiều, tức là ngoài những dữ liệu mà doanh nghiệp xin vay trình ra, cán bộ thẩm định dự án phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác (kể cả thông tin trái ngược) để phân tích đánh giá từ đó ra kết luận thẩm định một cách khách quan, toàn diện về các nội dung của dự án. Các nguồn thông tin mà cán bộ thẩm định có thể và cần phải thu thập là: Thông tin do điều tra trực tiếp và thông tin do thu thập từ bên ngoài.
4.1 - Thông tin do điều tra trực tiếp từ doanh nghiệp xin vay vốn
Trong thực tế, nguồn thông tin do doanh nghiệp vay vốn tín dụng trình lên Cục đầu tư phát triển Hà Nội thường có nhiều thiếu sót. Một số thông tin cần thiết cho công tác thẩm định nhưng bất lợi cho phía doanh nghiệp thì sẽ không được doanh nghiệp cho biết đầy đủ thậm chí không cho người thẩm định biết. Vì vậy Cục đầu tư phát triển Hà Nội chỉ có thể nắm bắt được những thông tin này bằng cách điều tra về doanh nghiệp thông qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp với ban lãnh đạo của doanh nghiệp. Nhờ tính chất linh hoạt của việc phỏng vấn, cán bộ thẩm định có thể tìm ra những thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định dự án mà trong hồ sơ xin vay vốn doanh nghiệp không đề cập đến hoặc có thể phát hiện ra những thông tin gian lận trong hồ sơ xin vay để có biện pháp xử lý.
Cán bộ thẩm định trước khi tìm hiểu thông tin qua tiếp xúc trực tiếp với lãnh đạo doanh nghiệp cần phải chuẩn bị sẵn một chương trình chi tiết, bao gồm một loạt những vấn đề cần được tìm hiểu hoặc cần được giải đáp về tình hình của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định cần phải không khéo hướng người được hỏi theo ý của mình để thông qua đó nắm bắt được những thông tin mà mình cần thu thập. Từ đó nhanh chóng phân tích, nối ghép các thông tin để đánh giá đúng đắn tình hình của doanh nghiệp.
4.2 - Thông tin thu thập từ bên ngoài
Ngoài việc thu thập thông tin trực tiếp nêu trên, cán bộ thẩm định còn có thể thu thập các thông tin từ bên ngoài. Các nguồn thông tin đó bao gồm:
Thông tin từ các công ty kiểm toán: Các công ty kiểm toán có thể cung cấp những số liệu chính xác về hoạt động tài chính của doanh nghiệp giúp cán bộ thẩm định dự án có thể đánh giá về khả năng tài chính trong việc vay, trả, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai...
Thông tin từ các chủ trương, chính sách của Nhà nước, các quyết định của Tổng cục đầu tư phát triển: Các tài liệu này là cơ sở pháp lý hướng dẫn công tác cho vay tín dụng Nhà nước tại Cục. Cán bộ thẩm định sẽ đánh giá sự phù hợp của dự án về mặt tính toán ( mục tiêu đầu tư, mức lãi suất, quy mô đầu tư, thời gian trả nợ, các chỉ tiêu hiệu quả...) đối với kế hoạch tín dụng đầu tư hàng năm và với quy định của Tổng cục đầu tư phát triển về cách thức thẩm định các nội dung của dự án đầu tư.
Thông tin từ các loại báo chí, phát thanh, truyền hình... về các vấn đề liên quan đến nội dung thẩm định dự án. Đây là những nguồn cung cấp thông tin hàng ngày rất quan trọng đối với công tác thẩm định. Việc cập nhật và xử lý chính xác các nguồn thông tin này sẽ đảm bảo cho dự án sát thực hơn với tình hình thực tế.
Ngoài ra Cục đầu tư phát triển Hà Nội cần phải xây dựng một hệ thống thông tin liên lạc hiện đại đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời các nguồn thông tin cần thiết. Bằng cách nối mạng vi tính giữa các phòng trong toàn Cục và với bên ngoài để trao đổi tìm kiếm thông tin một cách nhanh nhất. Đảm bảo sắp xếp các phương tiện đi lại thuận tiện để các cán bộ thẩm định có thể trực tiếp đi xem xét và tìm hiểu tình hình của doanh nghiệp. Đặc biệt, chú trọng nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định trong việc sử dụng vi tính, sử lý số liệu góp phần rút ngắn thời gian thẩm định cũng như tiết kiệm chi phí và công sức cho chủ đầu tư.
Tham gia xây dựng các chính sách của Nhà nước về thẩm định dự án đầu tư theo hướng ngày càng phù hợp
Cục đầu tư phát triển Hà Nội là đầu mối cho vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước trên địa bàn Hà Nội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư kể từ năm 2003 đến nay đã không ngừng tăng lên cả về quy mô và số lượng các dự án. Cơ chế huy động và sử dụng các nguồn vốn, thời gian cho vay, lãi suất cho vay được thay đổi theo từng thời kỳ, từng năm cho phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước. Cơ chế tín dụng đầu tư đã huy động được nhiều nguồn lực tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, chấm dứt tình trạng bao cấp tràn lan trước kia, chuyển một bộ phận quan trọng các ngành sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn sang cơ chế vay tín dụng đầu tư để phát triển sản xuất. Với chính sách khuyến khích một số ngành, lĩnh vực ưu đãi, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã có khả năng tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về các phương án vay, phương án sản xuất, tự chủ về tài chính của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên sự bất ổn định về chính sách tín dụng đầu tư biểu hiện qua đối tượng cho vay, thời gian vay trả, lãi suất cho vay, thế chấp vốn vay... thay đổi theo các năm đã gây ra những khó khăn nhất định đối với doanh nghiệp nói chung và công tác thẩm định nói riêng. Vì vậy, em xin nêu ra một số biện pháp nhằm tăng cường tham gia xây dựng các chính sách của Nhà nước về thẩm định dự án theo hướng ngày càng phù hợp tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội như sau:
Cục đầu tư phát triển Hà Nội cần phải tham gia tích cực, có hiệu quả trong việc xây dựng các chủ trương đầu tư của Nhà nước và của thành phố. Từ khâu thẩm định dự án, xét duyệt dự án, xây dựng kế hoạch đầu tư và điều chỉnh kế hoạch kịp thời, chính xác...) Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo về nâng cao chất lượng thẩm định và quản lý dự án. Qua đó lãnh đạo Cục tổng hợp ý kiến tham gia của các cán bộ, các phòng ban về xây dựng các chính sách của Nhà nước để trình cục trưởng. Cục trưởng sẽ gửi công văn đến Tổng cục đầu tư phát triển để chủ động đề xuất ý kiến cải tiến, tham gia sửa đổi bổ xung hoàn chỉnh quy trình nghiệp vụ kế hoạch, thẩm định dự án... đảm bảo vừa chặt chẽ và hiệu quả trong công tác thẩm định vừa thực hiện triệt để cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà tiêu cực trong quá trình thẩm định dự án tại Cục.
Thường xuyên báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thành phố và Tổng cục đầu tư phát triển để chỉ đạo kịp thời trong khi thẩm định các nội dung của từng dự án. Phối hợp với các bộ, ban, ngành của thành phố (sở tài chính - vật giá, sở kế hoạch - đầu tư...) để giải quyết công việc được thuận lợi, hiệu quả.
Hoàn thiện về tiêu chuẩn, giới hạn áp dụng trong phân tích Kinh tế - tài chính dư án:
Trong khi phân tích đánh giá kinh tế-tài chính của dự án có một số chỉ tiêu cần có những tiêu chuẩn hoặc giới hạn so sánh như:
Suất chiết khấu tiêu chuẩn để đánh giá chỉ tiêu IRR.
Thời hạn hoàn vốn tiêu chuẩn khi đánh giá dự án theo chỉ tiêu thời gian hoàn vốn
Hiện nay cách đo lường các chỉ tiêu trên trong khi phân tích kinh tế - tài chính là chưa thống nhất nên việc tính toán và đánh giá các chỉ tiêu này còn nhiều thiếu sót. Để phục vụ cho viêc thẩm định dự án được tốt hơn luận văn xin đưa ra một số biện pháp khắc phục tình trạng trên như sau:
Đối với suất chiết khấu tính toán: Cần phân tích giá vốn trên thị trường vốn ở nước ta để xác định một giá vốn hợp lý, phản ánh tương đối đúng đắn suất sinh lợi của tiền vốn hiện nay. Do mức chiết khấu tính toán phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của việc sử dụng các nguồn vốn, các chính sách tài chính - tiền tệ của quốc gia và của ngành, địa phương. Vì vậy qua việc thu thập thông tin về quy mô của thị trường vốn, giá vốn của các nguồn tham gia trong thị trường và nhu cầu sử dụng nguồn vốn có thể xác định được suất chiết khấu tính toán.
Theo cách xác định này, suất chiết khấu được tính toán từ mức lãi suất được ngân hàng công bố, xuất phát từ quan niệm mức lãi suất ngân hàng phản ánh tương đối chính xác khả năng sinh lợi của tiền vốn.
Tuy nhiên ở nước ta hiên nay tình hình tài chính và tiền tệ chưa ổn định. Đó là hệ quả của việc chuyển đổi cơ chế từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, nền kinh tế chịu ảnh hưởng to lớn của lạm phát, thiếu vốn và thiếu tiền mặt... Mức lãi suất phải thường xuyên thay đổi để phù hợp với tình hình. Mặt khác thị trường vốn ở nước ta chưa hoàn chỉnh, hệ thống tín dụng ngân hàng còn yếu kếm nên chưa thể lấy mức lãi suất ngân hàng làm đại diện cho hiệu suất vốn nói chung.
Xử lý mâu thuẫn này, tạm thời có thể sử dụng mức lãi suất cho vay ưu đãi hiện nay đối với các công trình đầu tư để xác định hiệu suất vốn điều đó xuất phát từ các lí do sau:
Mức lãi suất ưu đãi trước hết đảm bảo được yêu cầu duy trì vốn và không chứa đựng lợi tức ngân hàng.
Mức lãi suất này được áp dụng chủ yếu đối với các dự án đầu tư ưu đãi theo kế hoạch của Nhà nước vì vậy nó không chịu ảnh hưởng của thị trường vốn.
Mức lãi suất này được xác định từ mức lãi suất cơ bản, phần nào đã loại trừ các yếu tố lạm phát.
Tuy nhiên, cách sử dụng lãi suất cho vay đầu tư ưu đãi để xác định suất chiết khấu định mức cũng chỉ là một hướng giải quyết hạn chế của vấn đề, vì theo cách này, việc ấn định mức lãi suất hiện nay còn mang nhiều tính chất chủ quan, kinh nghiệm, ngoài ra nó không phản ánh đầy đủ toàn bộ các nguồn vốn hoạt động trên thị trường vốn.
Xác định suất chiết khấu trên cơ sở hiệu quả của nền kinh tế quốc dân xuất phát từ quan điểm cho rằng kết quả tăng thêm trong một thời gian cuả toàn bộ nền kinh tế quốc dân là do sự tác động tổng hợp của các hoạt động đầu tư ở tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. Vì vậy tỉ lệ giữa mức tăng kinh tế với số vốn đầu tư trong kỳ đặc trưng cho khả năng sinh lợi của tiền vốn. Theo hướng giải quyết này, mặc dù có nhiều ưu điểm do xác định suất chiết khấu tư không chịu ảnh hưởng của các yếu tố trên thị trường vốn song cách xác định này còn hạn chế do mức tăng kinh tế trong một thời kỳ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác ngoài vốn đầu tư. Tức là kết quả kinh tế tăng lên ở một thời kỳ không phải là kết quả riêng của vốn đầu tư bỏ vào thời kỳ đó.
Đối với suất chiết khấu tiêu chuẩn: Suất chiết khấu tiêu chuẩn sử dụng để đánh giá chỉ tiêu IRR của từng dự án đầu tư cá biệt. Chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng của từng dự án, tuỳ thuộc vào mục đích ý nghĩa của nó đối với nền kinh tế. Đối với các khoản vốn đầu tư ưu đãi của Nhà nước nói chung, suất chiết khấu tiêu chuẩn có thể lấy như sau:
RRN ³ WACC
Trong đó:
RRN là suất chiết khấu tiêu chuẩn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
WACC là giá bình quân của các nguồn vốn
Một số biện pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án “ Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha”
Để ra quyết định thẩm định chính xác về tính khả thi của dự án, cán bộ thẩm định cần tiến hành phân tích thêm về độ nhạy của dự án và ảnh hưởng của lạm phát đến hiệu quả của dự án
Phân tích rủi ro của dự án
Khi thẩm định dự án, cán bộ thẩm định phải sử dụng thêm phương pháp phân tích độ nhạy để đánh giá đúng đắn hơn về dự án. Bởi lẽ dự án có vòng đời tương đối dài và tất yếu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định. Mục đích của phân tích độ nhạy là kiểm tra mức độ nhạy cảm của dự án đối với sự biến động của từng yếu tố trong tương lai hay nhằm xác định mức độ của các yếu tố rủi ro và chiều hướng tác động của các yếu tố đó đến hiệu quả của dự án.
Bảng 1: Phân tích độ nhạy của dự án
STT
Nội dung
Chỉ tiêu tài chính
NPV
IRR
I
Biến động một nhân tố
1
Doanh thu giảm 5%
2231.088
9.27%
2
Doanh thu giảm 6%
934.011
9.07%
3
Chi phí sản xuất tăng 5%
6105.961
10.23%
4
Chi phí sản xuất tăng 7%
2625.282
9.91%
II
Biến động đồng thời 2 yếu tố
1
Doanh thu giảm 2% và chi phí SX tăng 3%
3511.808
10.36%
2
Doanh thu giảm 3% và chi phí SX tăng 3%
2214.732
9.72%
Qua xác định mối quan hệ động giữa các yếu tố tham gia trong hoạt động đầu tư bằng cách xác định các chỉ tiêu NPV, IRR khi có các thay đổi bất lợi về doanh thu và chi phí của dự án trong tương lai. Ta thấy rằng dự án vẫn đảm bảo tính khả thi về mặt tài chính hay dự án chịu ảnh hưởng rất ít của các biến động đó.
Xử lý lạm phát trong thẩm định tài chính
Lạm phát là vấn đề có tính chất vĩ mô do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy phân tích dự án coi lạm phát như là một yếu tố khách quan mà bản thân các dự án không thể khắc phục được. Trong những năm qua chúng ta đã gặp phải tình trạng một số công trình sau khi duyệt quyết toán, tổng vốn đầu tư tăng lên thậm chí gấp 2 đến 3 lần vốn đầu tư dự tính. Nguyên nhân của thực trạng này là trong khi thẩm định dự án, chúng ta chưa xem xét đến sự tác động của lạm phát đối với những thành quả tài chính và kinh tế của dự án. Hầu như trong quá trình thẩm định mới chỉ xem xét tác động của những thay đổi về mặt bằng giá cả và thường tính theo mặt bằng giá cả của một năm nào đó. Vì thế có không ít trường hợp mắc sai lầm khi xem xét và đánh giá hiệu quả của dự án. Đối với dự án “Đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ công ty xe đạp Viha” ta nhận thấy rằng,việc thực hiện dự án tiến hành trong một thời gian dài, lượng tiền đầu tư lớn và sẽ phụ thuộc vào mức độ lạm phát. Nếu như mức lạm phát càng cao thì nhu cầu tiền tệ để thực hiện đầu tư trong tương lai càng lớn so với tính toán theo giá hiện thời, tương ứng với nó là hiệu quả đầu tư của dự án càng thấp. Vì vậy việc xử lý lạm phát trong quá trình tính toán là hết sức cần thiết.
Khi xem xét và đánh giá về thực trạng và dự báo về mức độ lạm phát ở nước ta trong thời gian tới, cán bộ thẩm định cần đưa vào tính toán trong dự án mức độ lạm phát hàng năm là 7% để đảm bảo tính an toàn về tài chính cho dự án. Trong quá trình tính toán, ta phải xác định dòng tiền khử lạm phát của dự án và tỉ lệ chiết khấu thực để tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR... của dự án.
Tỉ lệ chiết khấu thực được tính theo công thức:
1+r 1+ 0.086
R = -1 = -1 = 0.015
1+j 1+0.07
Ta có bảng sau:................................(trang)
Bảng 2: Hệ số hoàn vốn nội bộ
Các giá trị r
NPV
0.09
6662.57
0.11
4459.33
0.12
599.14
0.13
-1094.25
599.14
IRR = 0.12 + (0.13 - 0.12) = 12.35%
599.14+|-1094.25|
Ta thấy: IRR = 12.35% > 8.6% . Vậy có thể kết luận dự án có tính khả thi.
Như vậy, qua xem xét sự biến động của các chỉ tiêu NPV, IRR của dự án khi tính đến mức lạm phát 0.07%/ năm ta thấy NPV > 0, IRR > 8.6% tức là dự án vẫn mang tính khả thi và có độ ổn định cao trước những thay đổi bất lợi trong tương lai.
II) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội
Cục đầu tư phát triển Hà Nội là cơ quan xử lý các nghiệp vụ dựa trên các văn bản Nhà nước ban hành trong quản lý đầu tư và xây dựng. Các văn bản này tạo nên một đường dẫn để Cục tổ chức, điều hành thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Vấn đề đặt ra là các văn bản phải có tính thống nhất, tránh tình trạng quy định trùng lắp và không rõ ràng. Vì vậy để nâng cao chất lượng quản lý dự án cũng như chất lượng thẩm định dự án, luận văn có một số kiến nghị sau:
Đối với chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi: căn cứ theo thông tư 09 BKH/ VPTĐ ngày 21/9/2004 của Bộ kế hoạch và đầu tư và công văn số 1683/ BXD.VKT ngày 7/12/2004 của Bộ xây dựng gửi Cục đầu tư phát triển Hà Nội hướng dẫn thực hiện điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, thì chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi bao gồm:
Chi phí điều tra khảo sát sơ bộ (tiền tầu xe, lưu trú, giao dịch...)
Chi phí thu thập số liệu, điều tra cơ bản (điều tra thu thập hoặc mua tài liệu kinh tế, xã hội, số liệu về các công trình, tài liệu địa chất thuỷ văn, tài nguyên...)
Đánh giá tác động môi trường đối với dự án
Tuy nhiên dự án được duyệt của nhiều bộ, ngành vẫn tính thêm các chi phí kể trên ngoài chi phí đã tính theo quyết định 501 BXD.
Công tác khảo sát trong giai đoạn lập dự án hiện nay chưa có văn bản pháp quy nào quy định việc khảo sát đến đâu là hợp lý nên có rất nhiều vướng mắc, khó đánh giá và kiểm tra chất lượng công tác này.
Trong quy định 498/ BXD ngày 18/9/2004, Bộ xây dựng đưa ra quy chế quản lý chất lượng công trình rất chặt chẽ, quy định về an toàn lao động trong xây dựng cơ bản. Song khi xây dựng định mức đơn giá lại không hề đề cập đến các việc đó. Những văn bản không đồng nhất đó sẽ gây cho các bên A, B và cơ quan quản lý gặp nhiều phiền toái
Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư: Trong giai đoạn hiện nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nên việc huy động nguồn vốn trong nước còn khó khăn, các doanh nghiệp sợ rủi ro nên không muốn vay ngoại tệ để nhập thiết bị đầu tư, trong khi các đơn vị cung cấp tín dụng đầu tư thì lại thừa nguồn vốn bằng ngoại tệ và thiếu nguồn vốn bằng nội tệ, cơ chế tín dụng chưa thực sự ổn định để đảm bảo an toàn cho người vay. Do vậy Nhà nước cần phải có cơ chế chính sách và biện pháp tháo gỡ triệt để nhằm tăng cường khả năng huy động nguồn từ trong nước và vay từ nước ngoài. Đồng thời đổi mới cơ chế vay trả để nguồn vốn sử dụng có hiệu quả.
Trong quy hoạch và lập kế hoạch đầu tư, Nhà nước cần chú ý kết hợp đầu tư mới với đầu tư chiều sâu và hiện đại hoá. Muốn vậy Nhà nước phải sớm cải thiện các quy chế hiện hành để nâng cao chất lượng hồ sơ dự án, tính khả thi của dự án các thủ tục phê duyệt, thẩm định dự án để nâng cao chất lượng thẩm định, quản lý cũng như nâng cao hiệu quả đầu tư của dự án.
Kết luận
Thẩm định dự án là một khâu hết sức quan trọng trong công tác chuẩn bị đầu tư. Thẩm định dự án nhằm phân tích, đánh giá các yếu tố có liên quan đến dự án để đưa ra kết luận đúng đắn về tính khả thi của dự án. Thông qua đó, chủ đầu tư cũng như cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ lựa chọn được một phương án đầu tư tối ưu nhất đảm bảo hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế - xã hội, đồng thời loại bỏ được những phương án đầu tư không hiệu quả.
Trong những năm qua, mặc dù Cục đầu tư phát triển Hà Nội đã có những bước đi thích hợp nhằm ngày càng hoàn thiện chất lượng thẩm định dự án. Song nếu nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, ta thấy rằng công tác thẩm định ở đây còn nhiều mặt tồn tại cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Các biện pháp nêu ra trong chuyên đề này là những vấn đề bức thiết hiện nay và đòi hỏi phải được thực hiện đồng bộ. Tuy nhiên, đây không phải là những vấn đề dễ giải quyết trong thời gian ngắn trước mắt mà đòi hỏi phải có thời gian dài với một hệ thống các bước đi thống nhất.
Trong quá trình từng bước nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Cục đầu tư phát triển Hà Nội, ngoài những nỗ lực của toàn thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên Cục đầu tư Hà Nội thì vai trò của Nhà nước cũng có phần đặc biệt quan trọng. Các cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến quy trình, nội dung cũng như đến kết luận thẩm định dự án. Vì vậy chuyên đề cũng đề cập đến một số kiến nghị để các văn bản pháp quy của Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn và phù hợp với tình hình của đất nước.
Tuy nhiên, với tầm hiểu biết còn hạn chế, chuyên đề này không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để chuyên đề được nâng cao hơn cả về lý luận và thực tiễn.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư, PGS - PTS Nguyễn Ngọc Mai chủ biên, Trường đại học Kinh tế Quốc dân, 2006.
Vũ Công Tuấn, Thẩm định dự án đầu tư, NXB thành phố Hồ Chí Minh,2006.
Cẩm nang hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu, NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
Báo cáo tổng kết năm 2003, 2004, 2005, 2006 của Cục đầu tư phát triển Hà Nội.
Đoàn văn Hạnh, Yêu cầu đối với một dự án đầu tư vốn cho XDCB hiện nay, nghiên cứu tra đổi số 5/ 2004
PTS Thái Bá Cẩn, Thẩm định kinh tế - tài chính dự án đầu tư, Tạp chí Tài chính 3/ 2004.
Quyết định số 1198 TC/ QĐ/ TCCB ngày 10/12/2002 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc thành lập Cục đầu tư phát triển tại các tỉnh, thành phố.
Quyết định số 1404/ QĐ/ ĐTPT, quyết định số 1427/ĐTPT/ KH của Tổng cục trưởng về nội dung công tác thẩm định trong toàn hệ thống Tổng cục đầu tư phát triển.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0198.doc