Lời nói đầu
Tài sản cố định (TSCĐ) là bộ phận, yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất. TSCĐ là tư liệu có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài. Do vậy TSCĐ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra hàng hoá và dịch vụ. TSCĐ thể hiện cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực và thế mạnh của doanh nghiệp (DN) trong quá trình phát triển sản xuất.
Mục tiêu quản lý tài chính là đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính và kinh doanh có lãi. Hoạt động của doanh nghiệ
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp bảo toàn & phát triển Vốn cố định tại Công ty Vận tải đường biển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p phải có lượng vốn cần thiết. Vốn-yếu tố cơ bản không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất kinh doanh và đồng thời vốn cũng là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong phạm vi một doanh nghiệp muốn tiến hành một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong thực tế hiện nay vấn đề cần quan tâm trước hết trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đồng thời phải bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh. Trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường việc bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh của doanh nghiệp là yêu cầu có tính sống còn. Bảo toàn và phát triển vốn là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp
.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh trong doanh nghiệp, cùng với việc tìm hiểu thực tế tại Công ty Vận tải đường biển Hà Nội, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp bảo toàn và phát triển vốn cố định tại Công ty Vận tải đường biển Hà Nội” và lấy đó làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là TSCĐ hữu hình.
Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận về bảo toàn và phát triển vốn cố định của Công ty Vận tải đường biển Hà Nội. Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác bảo toàn và phát triển vốn cố định, tìm tòi, phát hiện tồn tại, nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát, mất cân đối thu chi và qua đó tìm kiếm biện pháp nhằm bảo toàn và phát triển vốn cố định của Công ty Vận tải đường biển Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp thống kê, phân tích tình hình thực tế tại Công ty – nghiên cứu vấn đề bảo toàn và phát triển vốn cố định trong mối liên hệ với vốn lưu động và tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn này được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về bảo toàn và phát triển vốn cố định trong doanh nghiệp.
Chương II: Tình hình bảo toàn và phát triển vốn cố định tại Công ty vận tải đường biển Hà nội.
Chương III: Một số biện pháp bảo toàn và phát triển vốn cố định tại Công ty Vận tải đường biển Hà Nội.
Chương I
Một số vấn đề Lý luận về bảo toàn
và phát triển vốn cố định trong doanh nghiệp
I. Tài sản cố định và vốn cố định của doanh nghiệp
1. Khái niệm và đặc điểm của tài sản cố định
Quản lý vốn cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác tài chính doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh sự vận động của vốn cố định được gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó-tài sản cố định (TSCĐ). Vì vậy để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn cố định, trước hết cần nghiên cứu những đặc điểm của TSCĐ trong doanh nghiệp.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, DN cần có 3 yếu tố: Sức lao động, Tư liệu lao động và Đối tượng lao động. TSCĐ là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của DN như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc, các chi phí mua bằng sáng chế,... . Trong quá trình sản xuất mặc dù TSCĐ bị hao mòn, song vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi ích về mặt kinh tế thì khi đó mới cần được thay thế đổi mới, cụ thể:
+ Về mặt hiện vật: TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, sau quá trình sản xuất kinh doanh tài sản vẫn giữ nguyên hình thái nhưng giá trị sử dụng giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn và loại ra khỏi sản xuất.
+Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái:
Một bộ phận giá trị tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật TSCĐ.
Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà TSCĐ sản xuất ra và bộ phận này sẽ được chuyển hoá thành tiền khi bán được sản phẩm dưới hình thức tiền trích khấu hao.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho đến khi thu hồi được giá trị thực tế ban đầu của TSCĐ thì hoàn thành một vòng tuần hoàn. Như vậy, khi tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật, nhưng tính năng công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của TSCĐ cũng sẽ giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đã chuyển vào giá trị sản phẩm mà nó sản xuất ra được gọi là khấu hao và ngày càng lớn dần lên.
Để phân biệt tư liệu lao động là TSCĐ và công cụ lao động người ta đưa ra tiêu chuẩn của một TSCĐ . Thông thường một tư liệu lao động phải đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn dưới đây mới được coi là TSCĐ:
+ Một là phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường từ một năm trở lên.
+ Hai là phải có giá trị tối thiểu đến một mức quy định. Riêng tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình giá cả của từng thời kỳ. Hiện nay chế độ Tài chính của Việt Nam quy định TSCĐ có giá trị từ 5.000.000đ trở lên.
Những tư liệu lao động thiếu một trong hai tiêu chuẩn trên thì được coi là công cụ lao động nhỏ.
Qua những phân tích nêu trên có thể rút ra được khái niệm về TSCĐ trong DN như sau:
TSCĐ trong DN là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản không bị tiêu hao mà được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
2. Vốn cố định và đặc điểm luân chuyển của vốn cố định
Trong nền sản xuất hàng hoá, để mua sắm xây dựng TSCĐ trước hết phải có một số vốn bằng tiền ứng trước. Vốn tiền tệ ứng trước để mua sắm hoặc xây dựng TSCĐ hữu hình hoặc những chi phí đầu tư cho những TSCĐ vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Vốn cố định là khoản vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, nói khác đi vốn cố định là biểu hiện bằng tiền giá trị của các TSCĐ.
Như vậy khi hoàn thành việc đầu tư TSCĐ đưa vào sử dụng thì vốn ứng trước bằng tiền đó gọi là nguyên giá TSCĐ. Song đặc điểm vận động của TSCĐ lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Trên ý nghĩa của mối liên hệ đó có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh như sau:
Một là: Vốn cố định được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm này là do TSCĐ có thể được phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế, vốn cố định hình thái biểu hiện của nó, cũng được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất tương ứng.
Hai là:Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ.
Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm tăng dần lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm dần xuống cho đến khi tái sản xuất lại TSCĐ về mặt giá trị, thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Trong doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói riêng, của vốn sản xuất kinh doanh nói chung. Qui mô của vốn cố định quyết định trình độ trang bị kỹ thuật của sản xuất kinh doanh. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân theo qui luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định được coi là một trọng điểm của công tác tài chính trong doanh nghiệp.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về vốn cố định như sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tái sản xuất được TSCĐ về mặt giá trị (bao gồm cả giá trị bảo toàn).
3. Phân loại TSCĐ
Để quản lý TSCĐ người ta phân loại chúng theo những nguyên tắc nhất định. Thông thường có những cách phân loại sau:
3.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện.
Theo phương pháp này toàn bộ TSCĐ của DN sẽ được chia thành: TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình), TSCĐ không có hình thái vật chất ( TSCĐ vô hình) và TSCĐ tài chính.
+ TSCĐ hữu hình: là những tài sản được biểu hiện bằng những hình thái hiện vật cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải... Bao gồm:
- TSCĐ loại mua sắm (kể cả mua mới, cũ) nguyên giá tài sản loại này bao gồm: giá mua thực tế phải trả, trừ đi các khoản giảm giá, chiết khấu mua hàng (nếu có); lãi tiền vay đầu tư cho TSCĐ khi chưa đưa TSCĐ vào sử dụng; các chi phí vận chuyển, bốc dỡ; chi phí sửa chữa, tân trang trước khi đưa TSCĐ vào sử dụng; chi phí lắp đặt, chạy thử, thuế và lệ phí trước bạ (nếu có)...
- TSCĐ loại đầu tư xây dựng: nguyên giá là giá thực tế của công trình xây dựng theo qui định tại điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành, các chi phí có liện quan và lệ phí trước bạ (nếu có).
- TSCĐ được cấp, được điều chuyển đến: giá trị của nó bao gồm giá trị còn lại trên sổ sách kế toán của đơn vị cấp, đơn vị điều chuyển... hoặc giá trị thực tế do hội đồng giao nhận; các chi phí tân trang TSCĐ; chi phí lắp đặt, chạy thử; thuế, và lệ phí trước bạ (nếu có), mà bên nhận tài sản phải chi trước khi đưa TSCĐ vào sử dụng.
- TSCĐ loại được cho, biếu, tặng, nhận góp vốn liên doanh, nhận lại vốn góp do phát hiện thừa: nguyên giá bao gồm: giá trị thực tế do hội đồng giao nhận đánh giá; các chi phí tân trang TSCĐ; chi phí lắp đặt, chạy thử; thuế và lệ phí trước bạ (nếu có).
+ TSCĐ vô hình: là loại TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện bằng một lượng giá trị lớn đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Nó bao gồm:
- Chi phí về đất sử dụng: là toàn bộ chi phí thực tế đã chi liên quan đến đất sử dụng để có quyền sử dụng đất.
- Chi phí thành lập doanh nghiệp: là những chi phí thực tế, hợp lý, hợp lệ và cần thiết được những người tham gia thành lập doanh nghiệp chi ra có liên quan trực tiếp tới việc khai sinh ra doanh nghiệp gồm các chi phí: nghiên cứu, thăm dò, lập dự án đầu tư thành lập doanh nghiệp, chi phí thẩm định dự án...
- Chi phí nghiên cứu phát triển: là những khoản chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi để thực hiện các công việc nghiên cứu, thăm dò, xây dựng các kế hoạch đầu tư dài hạn... nhằm đem lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp.
- Chi phí về bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả, mua bản quyền tác giả, nhận chuyển giao công nghệ... : là những khoản chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi cho các công trình nghiên cứu được Nhà nước cấp bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả, hoặc các chi phí để doanh nghiệp mua lại bản quyền tác giả, bản quyền nhãn hiệu, chi cho việc nhận chuyển giao công nghệ từ các tổ chức và cá nhân...
- Chi phí về lợi thế kinh doanh: là khoản chi cho phần chênh lệch doanh nghiệp phải trả thêm ngoài giá trị của các tài sản theo đánh giá thực tế khi doanh nghiệp đi mua, nhận sát nhập, hợp nhất với doanh nghiệp khác. Lợi thế này được hình thành bởi những ưu thế về vị trí kinh doanh, về danh tiếng và uy tín với bạn hàng, về trình độ tay nghề của đội ngũ người lao động, vầ tài điều hành tổ chức của ban quản lý doanh nghiệp...
+ TSCĐ tài chính: đó là những chứng khoán đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Phân loại TSCĐ theo tiêu thức này sẽ giúp doanh nghiệp quản lý TSCĐ theo nhóm tính năng tương tự nhau, xây dựng khung tính khấu hao theo nhóm tài sản và xác định phương hướng đầu tư, cơ cấu đầu tư TSCĐ.
3.2. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế
Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của DN có thể chia thành các loại sau:
- Nhà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của DN được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho, tháp nước, hàng rào, sân bay, đường xá, cầu cảng... .
- Máy móc, thiết bị: là toàn bộ máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DN như máy móc thiết bị động lực, máy móc công tác, thiết bị chuyên dùng, những máy móc đơn lẻ... .
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như: xe cộ, tàu thuyền, máy bay, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước, khí đốt, băng tải... .
- Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của DN như máy vi tính, thiết bị điện tử, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút bụi, hút ẩm... .
- Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm: là các vườn cây lâu năm như vườn chè, vườn cà phê, vườn cây cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm như đàn voi, đàn bò, đàn ngựa... .
- Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại trên như tác phẩm nghệ thuật, tranh ảnh. ...
Cách phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế giúp cho người quản lý thấy rõ được kết cấu của tài sản nắm được trình độ trang bị kỹ thuật của đơn vị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý tài sản và tính khấu hao chính xác. Phương pháp phân loại này được sử dụng rỗng rãi trong công tác quản lý tài chính kế toán thống kê. Tuy nhiên phương pháp phân loại này chưa phản ánh được tình hình sử dụng tài sản của đơn vị. Vì vây, người ta còn có cách phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng.
3.3. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
Căn cứ vào tình hình sử dụngTSCD của từng thời kỳ người ta chia toàn bộ TSCĐ của DN thành các loại:
- TSCĐ đang sử dụng: đó là những TSCĐ của DN đang sử dụng cho các hoạt động sản suất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp hay an ninh quốc phòng của DN.
- TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của DN, song hiện tại chưa cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này.
- TSCĐ không cần dùng, chờ thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của DN, cần được thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
Nhờ cách phân loại này có thể giúp người quản lý biết được một cách tổng quát tình hình sử dụng về số lượng và chất lượng TSCĐ hiện có, vốn cố định còn tiềm tàng hoặc ứ đọng và từ đó tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất cần được khai thác và tìm cách huy động TSCĐ chưa dùng hoặc thanh lý các TSCĐ đã hư hỏng.
4. Vai trò của vốn cố định
Vốn cố định là một bộ phận của vốn kinh doanh, là khoản đầu tư ứng trước vào TSCĐ của doanh nghiệp, là lượng vốn tiền tệ cần thiết và không thể thiếu để hình thành cơ sở vật chất kĩ thuật của bất kỳ doanh nghiệp nào khi bất đầu sản xuất kinh doanh. Qui mô của vốn cố định quyết định và chi phối đến quy mô của TSCĐ trong doanh nghiệp, quyết định qui mô của trang thiết bị và cơ sở vật chất của doanh nghiệp.
Theo Mác, TSCĐ là “xương sống, bắp thịt” của sản xuất, TSCĐ là nhân tố quan trọng để tăng năng suất lao động và phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung, DN nói riêng. Nó thể hiện một cách chính xác nhất năng lực và trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp tiên tiến hay lạc hậu.
TSCĐ của doanh nghiệp được coi là lạc hậu, lỗi thời hay tiên tiến hiện đại sẽ quyết định đến năng lực sản xuất yếu kém hay năng lực sẳn xuất cao. Trình độ trang thiết bị – TSCĐ cao hay thấp dẫn đến năng lực sản xuất cao hay thấp, nghĩa là TSCĐ có trình độ công nghệ hiện đại hơn thì trong một khoảng thời gian nhất định khả năng sản xuất sẽ cao hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm, hoàn thiện hơn cả về mẫu mã và chất lượng sản phẩm. TSCĐ càng hiện đại thì tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu đầu vào sẽ ít hơn, khiến cho giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có lợi thế về khả năng cạnh tranh trên thị trường.
TSCĐ được coi như là một thứ vũ khí quan trọng vô cùng lợi hại đối với doanh nghiệp trong quá trình tồn tại trước các đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp nào sở hữu được TSCĐ mới hơn, hiện đại hơn sẽ là doanh nghiệp chiến thắng. Do đó người ta luôn vươn tới trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hơn, hiện đại hơn để khỏi tụt hậu, thua thiệt với các doanh nghiệp trong từng ngành, từng quốc gia và trên thế giới nhằm tạo ra năng suất lao động cao và tích luỹ nhiều cho nền kinh tế và cho doanh nghiệp.
5. Kết cấu TSCĐ
Kết cấu TSCĐ cố định là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó so với tổng nguyên giá toàn bộ TSCĐ của DN trong một thời kỳ nhất định.
Kết cấu TSCĐ không giống nhau, thậm chi giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành cũng không giống nhau. Sự khác nhau hoặc sự biến động về kết cấu tài sản cố định của doanh nghiệp trong các thời kỳ tuỳ thuộc vào các nhân tố như trình độ trang bị kỹ thuật, qui mô sản xuất...
Các chỉ tiêu về kết cấu TSCĐ: Căn cứ vào phương pháp phân loại, người ta có thể xây dựng hàng loạt các chỉ tiêu về kết cấu tài sản của đơn vị gọi là tỷ trọng của từng loại trong tổng số TSCĐ . Tỷ trọng này đều được xây dựng trên một nguyên tắc chung là tỷ số giữa giá trị của một loại (nhóm) tài sản với tổng giá trị tài sản cố định tại thời điểm kiểm tra. Chẳng hạn: hệ số kết cấu TSCĐ không cần dùng là tỷ số giữa giá trị của toàn bộ TSCĐ không cần dùng với tổng giá trị TSCĐ của đơn vị tại thời điểm kiểm kê, phân loại.
Các chỉ tiêu về kết cấu TSCĐ sẽ phản ánh thành phần và quan hệ của một loại TSCĐ trong tổng số TSCĐ hiện có. Đây là các chỉ tiêu rất quan trọng mà người quản lý phải quan tâm để có biện pháp đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của đơn vị
Các chỉ tiêu về kết cấu nguồn vốn đầu tư cho TSCĐ: Cũng căn cứ vào các phương pháp phân loại nguồn vốn đầu tư cho TSCĐ để xây dựng các chỉ tiêu về kết cấu nguồn vốn. Hệ số kết cấu của môt loại nguồn vốn nào đó sẽ là tỷ trọng giữa giá trị của nguồn vốn đó với tổng giá trị của các nguồn đầu tư cho các TSCĐ. Chẳng hạn: tỷ trọng nguồn vốn ngân sách, tín dụng dài hạn ngân hàng, vốn góp cổ phần... trong tổng nguồn vốn hình thành TSCĐ.
Phân tích tình hình kết cấu của TSCĐ là một căn cứ quan trọng để xem xét quyết định đầu tư, đổi mới TSCĐ, hiện đại hoá những TSCĐ lạc hậu, tăng tỷ trọng những bộ phận TSCđ quan trọng có ý nghĩa quyết định đến năng suất lao động của doanh nghiệp và tính cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
II. Bảo toàn và phát triển vốn cố định trong doanh nghiệp
1. Bảo toàn vốn cố định trong doanh nghiệp
Trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường việc bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng là yêu cầu có tính sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Để sử dụng có hiệu quả vốn cố định trong hoạt động kinh doanh thường xuyên, doanh nghiệp cần thực hịên các biện pháp để không chỉ bảo toàn mà còn phát triển được vốn cố định của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Thực chất là phải luôn đảm bảo duy trì được giá trị thực của vốn cố định để khi kết thúc một vòng tuần hoàn bằng số vốn này doanh nghiệp có thể tái sản xuất tài sản cố định mà doanh nghiệp đã bỏ ra ban đầu để đầu tư, mua sắm các TSCĐ tính theo thời giá hiện tại.
Những nguyên nhân chủ yếu làm cho doanh nghiệp không bảo toàn được vốn cố định là:
- Do lạm phát làm cho giá cả hàng hoá tăng lên.
- Do tỷ giá giữa đồng ngoại tệ và đồng nội tệ biến đổi nhất là đối với những TSCĐ mua ngoài.
- Do doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và mất vốn.
- Do những rủi ro khác, nợ khó đòi, thiên tai lũ lụt...
- Những lý do bất khả kháng, do chủ quan
Từ những lý do trên phải đặt ra vấn đề duy trì sức mua của vốn, đòi hỏi doanh nghiệp phải có các biện pháp bảo toàn được vốn cố định của mình.
Do đặc điểm TSCĐ và vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu (đối với TSCĐ hữu hình) còn giá trị lại chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm, vì thế nội dung bảo toàn vốn cố định luôn bao gồm hai mặt vật chất và mặt tài chính. Trong đó bảo toàn về mặt vật chất là cơ sở, tiền đề để bảo toàn vốn cố định về mặt tài chính.
Bảo toàn vốn cố định về mặt vật chất là duy trì năng lực sản xuất của TSCĐ ngay cả khi TSCD không còn sử dụng được nữa, nghĩa là sau khi vốn cố định hoàn thành vòng chu chuyển, doanh nghiệp phải đảm bảo một năng lực sản xuất như cũ, tức là năng lực không giảm sút so với trước
Bảo toàn vốn cố định về mặt tài chính là duy trì sức mua của vốn. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, năng suất lao động xã hội tăng nhanh, giá cả thiết bị máy móc ngày càng có chiều hướng giảm xuống (nếu những điều kiện khác không thay đổi như giá cả, tỷ giá). Việc bảo toàn đúng sức mua của vốn cố định không chỉ có ý nghĩa tái sản xuất giản đơn TSCĐ mà còn có ý nghĩa tái sản xuất mở rộng TSCĐ.
Tóm lại: Bảo toàn vốn cố định là bảo toàn sức mua của vốn và năng lực sản xuất của vốn. Trên ý nghĩa đó, bảo toàn vốn là bảo đảm tái sản xuất giản đơn lại TSCĐ
Để bảo toàn và phát triển vốn cố định,trước hết đòi hỏi Công ty phải nắm chắc số lượng các loại TSCĐ, tính năng tác dụng, tình trạng từng TSCĐ cả về mặt hiện vật và giá trị. Công ty phải đảm bảo rằng, không một loại TSCĐ nào không được quản lý, không giao cho người sử dụng trách nhiệm quảm lý bằng những nội quy, quy chế chặt chẽ để vừa huy động được năng lực của TSCĐ, vừa tính khấu hao đúng vừa biết được giá trị phải bảo toàn của từng loại TSCĐ. Tuy nhiên TSCĐ cũng giống như các tài sản khác luôn phải chịu các tác động của thiên nhiên, của tiến bộ khoa học công nghệ và những biến động của kinh tế dặc biệt là biến động của thị trường để dự đoán và thấy trước được các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không bảo toàn được vốn để có biện pháp xử lý thích hợp. Có thể nêu ra một số biện pháp chủ yếu sau đây: mua bảo hiểm TSCĐ tại công ty bảo hiểm, lập quĩ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng giảm giá các khoản đầu tư, tiến hành khâu hao nhanh...
2. Phát triển vốn cố định trong doanh nghiệp
Muốn phát triển TSCĐ, đòi hỏi phải đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị mới.
Dựa trên cơ sở chiến lược kinh doanh dài hạn, doanh nghiệp phảo có lựa chọn hướng đầu tư để đổi mới và phát triển TSCĐ.
Các hướng có thể lựa chọn là:
- Đầu tư mở rộng qui mô sản xuất: Đối với công ty vận tải đường biển, thì chiều hướng phát triển của công ty dựa vào thị trường trong và ngoài nước đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu vận chuyển để mở rộng qui mô, tăng thêm lượng phương tiện vận tải biển đáp ứng yêu cầu vận tải hàng hoá giao lưu trong nước và trên thế giới.
- Đầu tư đổi mới và hiện đại hoá phương tiện (đầu tư chiều sâu): để bảo đảm vận chuyển đường biển đi xa, dài ngày, an toàn và nhanh hơn, luôn đòi hỏi phải đầu tư vào những tàu tốt, hiện đại với trang thiết bị đầy đủ, đảm bảo những tiêu chuẩn quốc tế về hàng hải.
Bên cạnh việc đầu tư phương tiện mới, hiện đại, cần phải đầu tư để hiện đại hoá các phương tiện hiện có, tăng thêm những thiết bị cần thiết phải có của vận tải đường biển.
Dù đầu tư bằng cách nào để phát triển TSCĐ của vận tải đường biển thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải có vốn đầu tư.
Thứ nhất: Trước hết phải huy động vốn nội bộ
+ Quỹ khấu hao cơ bản đã tích luỹ được.
+ Vốn quĩ đầu tư phát triển.
+ Lợi nhuận chưa phân phối.
Trên cơ sở nguồn vốn nội bộ tự có, doanh nghiệp có thể lập dự án xin ngân sách Nhà nước cấp vốn đầu tư mở rộng, để bổ sung thêm trang thiết bị hoặc mua sắm thiết bị mới (nếu được Nhà nước cho phép).
Thứ hai: Huy động nguồn vốn bên ngoài
+ Vốn vay dài hạn các tổ chức tín dụng
+ Vốn liên doanh (nếu được cho phép)
+ Huy động vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty.
Khi xây dựng dự án đầu tư phát triển TSCĐ và sử dụng các nguồn vốn đều phải chú trọng tới hiệu quả của đầu tư và khả năng thu hồi vốn.
3. Đánh giá TSCĐ: phải đánh giá đúng giá trị TSCĐ tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định, qui mô vốn phải bảo toàn. Điều chỉnh kịp thời giá trị của TSCĐ để tạo điều kiện tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao, không để mất vốn cố định.
Thông thường có 3 phương pháp đánh giá chủ yếu:
- Đánh giá TSCĐ theo giá nguyên thuỷ (nguyên giá): là toàn bộ các chi phí thực tế của DN đã chi ra để có được TSCĐ cho đến khi đưa TSCĐ vào hoạt động bình thường như giá mua thực tế của TSCĐ, các chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử, lãi tiền vay đầu tư TSCĐ khi chưa bàn giao và đưa TSCĐ vào sử dụng, thuế và lệ phí trước bạ (nếu có)... . Tuỳ theo từng loại TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, nguyên giá TSCĐ được xác định với nội dung cụ thể khác nhau.
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị khôi phục (còn gọi là đánh giá lại): là giá trị để mua sắm TSCĐ ở tại thời điểm đánh giá. Do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, giá đánh giá lại thường thấp hơn giá trị nguyên thuỷ. Tuy nhiên trong trường hợp có sự biến động của giá cả, giá đánh giá lại có thể cao hơn giá trị ban đầu của nó. Tuỳ theo trường hợp cụ thể mà DN có quyết định xử lý thích hợp như điều chỉnh khấu hao, hiện đại hoá hoặc thanh lý, nhượng bán TSCĐ.
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại: là phần giá trị còn lại của TSCĐ chưa chuyển vào giá trị sản phẩm. Giá trị còn lại có thể tính theo giá trị trên sổ sách (gọi là giá trị nguyên thuỷ còn lại) hoặc giá đánh giá lại dựa theo chỉ số giá cả thị trường điều chỉnh hay do Hội đồng đánh giá xác định.
4. Khấu hao TSCĐ
Hiện nay có nhiều phương pháp tính khấu hao TSCĐ nhằm thu hồi vốn cố định như phương pháp khấu hao bình quân (còn gọi là phương pháp khấu hao tuyến tính cố định), phương pháp khấu hao theo sản lượng, phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần, phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng,... Hiện nay, trong các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng phương pháp khấu hao bình quân.
Việc xác định mức khấu hao TSCĐ theo từng năm căn cứ vào số lượng từng loại và tỷ lệ khấu hao từng loại để xác định. Nhưng mục tiêu tìm tỷ lệ khấu hao là để xác định mức khấu hao; do vậy phương pháp căn cứ vào lượng giá trị từng loại và tỷ lệ khấu hao bình quân sẽ được dùng phổ biến. Đối với từng TSCĐ và từng nhóm của chúng, các doanh nghiệp đăng ký với Nhà nước khung thời gian sử dụng, xác định tỷ lệ khấu hao cá biệt cho từng TSCĐ hay từng loại TSCĐ.
Yêu cầu bảo toàn vốn cố định trong sản xuất kinh doanh là lý do phát triển các hình thức khấu hao. Nhưng phải lưu ý một điều là không phải trong mọi trường hợp sử dụng các phương pháp khấu hao tiên tiến (các phương pháp khấu hao nhanh) cũng đều là tốt. Vấn đề là ở chỗ, khi sử dụng các phương pháp khấu hao, phải đảm bảo rằng mức trích tiền khấu hao phải phản ánh đúng mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ đưa vào giá thành. Thoát ly nguyên tắc này sẽ dẫn đến kết quả hoặc là tính mức khấu hao quá cao sẽ làm “đội giá thành” sản phẩm hoặc là tính mức khấu hao quá thấp sẽ khó thu hồi vốn. Cả hai trường hợp trên đều là nguyên nhân dẫn đến tổn thất cho DN không bảo toàn được vốn.
5. Sửa chữa và xác định hiệu quả sửa chữa TSCĐ
Trong quá trình tái sản xuất TSCĐ, nếu quỹ khấu hao cơ bản có mục đích để tái sản xuất giản đơn toàn bộ TSCĐ thì tiến trình sửa chữa lại nhằm để tái sản xuất giản đơn bộ phận tài sản. Một điều hiển nhiên là VCĐ sẽ không được bảo toàn nếu như TSCĐ bị hư hỏng, phải sa thải trước thời hạn phục vụ của nó, vì thế chi phí cho sửa chữa TSCĐ nhằm duy trì năng lực hoạt động bình thường của tài sản trong cả thời kỳ hoạt động được coi là một biện pháp để bảo toàn VCĐ.
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế và kỹ thuật, người ta phân sửa chữa thành hai loại là sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn TSCĐ.
Gọi là sửa chữa thường xuyên vì phạm vi sửa chữa nhỏ, thời gian ngắn, chi phí ít và phải được duy tu bảo dưỡng thường xuyên theo quy phạm kỹ thuật. Còn sửa chữa lớn được tiến hành theo định kỳ. Để đảm bảo vốn chi phí cho công tác sửa chữa lớn, người ta lập kế hoạch sửa chữa lớn đưa vào giá thành sản phẩm hàng năm.
Điều quan trọng ở đây là sử dụng chi phí sửa chữa lớn như thế nào để có hiệu quả. Tính hiệu quả của việc sử dụng chi phí sửa chữa lớn phải được đặt trên các yêu cầu sau:
- Đảm bảo duy trì năng lực hoạt động bình thường của TSCĐ trong đời hoạt động của nó.
- Phải cân nhắc giữa chi phí sửa chữa lớn bỏ ra với việc thu hồi hết giá trị còn lại của TSCĐ, để quyết định cho tồn tại tiếp tục hay chấm dứt đời hoạt động của TSCĐ.
Chương II
Tình hình bảo toàn và phát triển vốn cố định của công ty vận tải đường biển hà nội
I. vài nét về công ty vận tải đường biển Hà nội
1. Quá trình hình thành và phát triển:
Trong sự nghiệp phát triển nền Kinh tế quốc dân, vận tải hàng hoá đóng một vai trò quan trọng, nó đảm bảo cho mối quan hệ Kinh Tế giữa các nghành, các vùng trong nước, giữa thành thị với nông thôn, góp phần phục vụ đắc lực cho việc đi lại của nhân dân và giao lưu hàng hoá.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế phát triển Kinh tế của thủ đô một cách toàn diện, năm 1980, thường vụ thành uỷ và UBND thành phố quyết định thành lập đội tàu biển HN nhằm phục vụ cho sự phát triển Kinh tế toàn diện, đa nghành cùng với các loại hình dịch vụ khác như: đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường sông...góp phần làm tăng thu ngoại tệ cho thành phố và nối liền mạch máu giao thông giữa HN với cả nước, HN với các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới. Giao thông vận tải là mạch máu của Kinh tế thủ đô, chủ trương này được thể hiện trong Nghị quyết Hội đồng nhân dân thành phố khoá VIII và đến tháng 12 năm 1981 Công ty Vận tải Đường biển Hà nội ra đời theo Quyết định 397 QĐ/UB ngày 30/1/1982 của UBND thành phố HN.
Phần trích yếu:
Trụ sở chính của công ty: Số nhà 56 Bis- Phố Bà Triệu- Hoàn Kiếm- HN.
Tên giao dịch: Công ty Vận tải Đường biển Hà nội.
Tên tiếng anh: Hanoi Maritime Transportation Company
( Viết tắt là HAMATCO ).
Điện thoại:8.240372 – 8.268402
Fax:84-48.256836
Tài khoản:
Tiền Việt nam: 002.1.00.0000.57.6
Ngoại tệ: 002.1.37.0020.43.4
Giao dịch tại Ngân hàng Ngoại thương Hà nội.
-Vốn hiện có của Công ty: 34.097.305.000 đồng.
Trong đó: + Vốn cố định và đầu tư dài hạn: 30.918.110.000 đồng.
+ Vốn lưu động và đầu tư ngắn hạn: 3.161.195.000 đồng.
-Nguồn vốn:
+ Vốn chủ sở hữu: 30.244.548.000đồng.
+ Vốn vay: 3.874.109.000 đồng.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty
Công ty Vận tải đường biển HN được thành lập với chức năng và nhiệm vụ là vận ch._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0002.doc