Môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng & Một số kiến nghị

Lời mở đầu Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một bộ phận cấu thành thống nhất của nền kinh tế quốc dân. Sự nhận thức lại của Đảng và Nhà nước ta về vị trí và vai trò của khu vực này trong nền kinh tế nước ta đã có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. Từ đổi mới về nhận thức và tư tưởng, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách mới. sửa đổi và bổ xung một số chính sách cũ nhằm tạo ra một môi trườ

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng & Một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cản trở quá trình hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn do các thủ tục hành chính phức tạp, sự đối xử bất bình đẳng trong một số chính sách như chính sách tín dụng, chính sách đất đai… Xuất phát từ thực tế trên đồng thời đứng trước những thách thức của quá trình hội nhập khu vực và thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh và phát triển. Từ nhận thức trên, em đã mạnh dạn chọn đề tài : “Môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng và một số kiến nghị”. 1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài Đề tài đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa lớn về lý luận cũng như thực tiễn trong quá trình nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường và mở cửa để hội nhập với khu vực và thế giới hiện nay. Nội dung nghiên cứu của đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề sau: - Đặc điểm, vị trí và vai trò của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nước ta. - Thực trạng môi trường pháp luật và những ảnh hưởng của nó tới quá trình hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc lý giải những vấn đề trên tạo điều kiện tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp luật để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và của cả nền kinh tế nước ta nói chung. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của môi trường pháp luật tới quá trình chuẩn bị thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà em đề cập trong đề tài này chỉ là các doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày 12-6-1999 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2000. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài em có sử dụng một số phương pháp như phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp ngiên cứu tài liệu và một số phương pháp khác. 4. Kết cấu của đề án ã Lời mở đầu. ã Phần I: Cơ sở lý luận về pháp luật và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. ã Phần II: Thực trạng môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. ã Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện môi trường pháp luật của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. ã Kết luận. Phần I Cơ sở lý luận về pháp luật và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1. Lý luận chung về pháp luật 1.1. Khái niệm và bản chất của pháp luật Trong xã hội nhà nước pháp quyền, các quan hệ xã hội chủ yếu được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật. Pháp luật trở thành công cụ tối quan trọng của nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý sự vận hành của nền kinh tế-xã hội theo mục tiêu đã định. Pháp luật là một hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành và được nhà nước bảo đảm thực thi trong một thời gian dài để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Cũng như mọi nhà nước khác, bản chất pháp luật của nhà nước ta phù hợp với bản chất của nhà nước, do bản chất, đặc điểm và những nhiệm vụ của nhà nước trong từng thời kỳ quyết định. Điều 2- Hiến pháp 1992 xác định:”Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức”. Vì lẽ đó, pháp luật của nhà nước ta về bản chất là pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, đồng thời phản ánh, thể hiện ý chí, lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác và của cả dân tộc. Nói pháp luật thể hiện ý chí và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động không có nghĩa là phủ nhận tính giai cấp của pháp luật nhà nước ta. Vấn đề ở chỗ khi pháp luật phản ánh, bảo vệ lợi ích của các giai cấp, của dân tộc phải đứng trên quan điểm, lập trường của Đảng. Đó là nguyên tắc hàng đầu của pháp luật nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên còn tồn tại các lợi ích khác nhau của các thành phần khác nhau. Pháp luật đương nhiên phải bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện cho các thành phần đó phát triển phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta. 1.2. Vai trò của pháp luật a. Pháp luật là công cụ thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi của cách mạng nước ta cả trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay. Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cách Đảng vạch ra đường lối, chính sách trên cơ sở phân tích khoa học tình hình thực tế và vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào hoàn cảnh thực tế đó. Việc thực hiện đường lối, chính sách đó trước hết và chủ yếu bằng nhà nước và thông qua nhà nước. Trên ý nghĩa đó, pháp luật là sự biểu hiện dưới hình thức nhà nước các đường lối, chính sách của Đảng thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Mặt khác bằng việc thể chế hoá thành pháp luật, đường lối chủ trương của Đảng biến thành quyết định quản lý mang tính quyền lực nhà nước, trở thành các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ chức được thực hiện một cách trực tiếp, chính xác, thống nhất trong cả nước. b. Pháp luật là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. “Nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân…”(Điều 2- Hiến pháp 1992). Pháp luật quy định cụ thể, bảo đảm đầy đủ thực hiện nguyên tắc: Mọi quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân. Nhân dân phải là người thực sự xây dựng nên nhà nước của mình, tham gia vào các công việc nhà nước, kiểm tra sự hoạt động của các cơ quan nhà nước. Pháp luật cũng phải quy định rõ nghĩa vụ trung thành và phục vụ nhân dân một cách tận tuỵ của các cơ quan nhà nước và viên chức nhà nước trong việc thực hành công vụ. Mặt khác mỗi công dân khi thực hiện quyền làm chủ, thực hiện các quyền tự do, dân chủ của mình không được làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội, lợi ích và các quyền tự do, dân chủ của công dân khác. c. Pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước. Ngày nay, pháp luật không chỉ là công cụ quan trọng để cải tạo các quan hệ xã hội cũ, tổ chức xây dựng và điều hành mọi lĩnh vực và mở đường cho các quan mới xã hội mới phát triển phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan mà nó còn là công cụ hướng dẫn, khuyến khích, thúc đẩy, điều chỉnh sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Nói cách khác pháp luật còn tạo môi trường cho các quan hệ kinh tế mới phát triển. Trên ý nghĩa đó, pháp luật của nhà nước ta hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc “ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Để đáp ứng yêu cầu đó, pháp luật phải tạo nên một môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi và bình đẳng cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của mình cũng như của nền kinh tế. Mặt khác, pháp luật cũng tạo điều kiện cho nhà nước có thể thực hiện được vai trò người điều hành nền kinh tế thị trường, hướng nó phát triển theo các mục tiêu đã định, khắc phục và hạn chế những mặt trái vốn có của nền kinh tế thị trường. Pháp luật cũng phải là công cụ để nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh doanh, trừng trị các hành vi làm ăn phi pháp, thực hiện sự công bằng trong sản xuất và phân phối. Một vai trò quan trọng khác của pháp luật trong quản lý nhà nước là nó xác lập, củng cố và hoàn thiện những cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước, đặc biệt là quản lý nhà nước về kinh tế. Trên ý nghĩa đó, pháp luật hiện nay của nhà nước phải là cơ sở pháp lý để hoàn thiện bộ máy nhà nước phù hợp với cơ chế quản lý mới, từ hoạt động lập pháp đến hoạt động hành pháp và tư pháp. 2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vị trí của nó trong nền kinh tế nước ta. 2.1 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi đơn vị kinh doanh là một tổ chức của những người sản xuất hàng hoá thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Họ đầu tư vốn, thuê mướn và sử dụng lao động để sản xuất một loại hàng hoá hay thực hiện một loại dịch vụ nhất định qua đó tìm kiếm lợi nhuận.Trong nền kinh tế thị trường, tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hoá chủ yếu là các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh bao gồm hoạt động kinh doanh tư nhân và hoạt động kinh doanh của Nhà nước. Việc phân biệt hoạt động kinh doanh tư nhân với hoạt động kinh doanh của Nhà nước căn cứ vào việc ai là người tổ chức và chỉ đạo các hoạt động này. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là tổ chức kinh tế do cá nhân, tổ chức đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay, các hình thức sở hữu thường đan xen nhau. Có nhiều doanh nghiệp trong đó vừa có yếu tố tư nhân vừa có sự tham gia của Nhà nước. ở Việt Nam trước đây, tư liệu sản xuất của một cơ sở sản xuất kinh doanh nào đó chỉ thuộc về một hình thức sở hữu duy nhất, sở hữu Nhà nước. Hội nghị trung ương VI - Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam đã xem xét lại các quan điểm cũ và khẳng định lại rằng: trong hoạt động sản xuất-kinh doanh các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết với nhau. Các doanh nghiệp quốc doanh có thể huy động vốn cổ phần của các cá nhân và tổ chức khác. Còn các cơ sở sản xuất-kinh doanh tư nhân cũng có thể liên kết với các doanh nghiệp quốc doanh nhằm mở rộng sản xuất. Do đó, khu vực doanh nghiệp ngoai quôc doanh không chỉ bao gồm các cơ sở sản xuất-kinh doanh hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân mà bao gồm cả các cơ sở sản xuất-kinh doanh có phần vốn góp của Nhà nước nhưng hoạt động của chúng lại do một hay một nhóm tư nhân tơ chức và chỉ đạo. 2.2 Các hình thức của doanh nghiệp ngoài quốc doanh Theo quan điểm của các nhà kinh tế học phương tây thì chỉ có hai hình thức sở hữu trong hoạt động kinh doanh, đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Sở hữu tư nhân được biểu diễn dưới nhiều hình thức, trong đó ba hình thức sở hữu tư nhân chung nhất là: sở hữu một chủ, sở hữu nhóm hay đồng sở hữu, sở hữu công ty. - Sở hữu một chủ là hình thức sở hữu phổ biến và lâu đời nhất. Doanh nghiệp sở hữu một chủ là doanh nghiệp do một cá nhân nắm quyền sở hữu. - Sở hữu nhóm là một nhóm gồm hai hay nhiều người với vai trò là các thành viên đồng sở hữu cùng hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. - Sở hữu công ty là một thực thể nhân tạo, không nhìn thấy được và chỉ tồn tại trên giấy tờ pháp lý. Công ty là một pháp nhân và tách biệt hẳn với các chủ sở hữu của nó. Từ ba hình thức cơ sở hữu tư nhân trên mà tương ứng có các doanh nghiệp sở hữu một chủ, doanh nghiệp sở hữu nhóm và doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu công ty. ở Việt Nam, phần đông các nhà kinh tế cho rằng có ba hình sở hữu trong hoạt động kinh doanh là: sở hữu công cộng, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Trên cơ sở sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta bao gồm: a. Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một hình thức sở hữu tương ứng với hình thức sở hữu một chủ ở các nước trên thế giới. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và chịu chế độ trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh. b. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên là công ty do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Theo Điều 14 Nghị định 03/2000/NĐ-CP thì chủ sở hữu công ty phải là một pháp nhân và có thể là: cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, các pháp nhân của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các loại doanh nghiệp và các tổ chức khác theo qui định của pháp luật. Như vậy theo pháp luật, công ty TNHH một thành viên có thể là một doanh nghiệp quốc doanh nếu chủ sở hữu của nó là cơ quan Nhà nước hay là một doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu chủ sở hữu của nó không phải là các cơ quan Nhà nước. Công ty TNHH hạn một thành viên là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân nhưng không có quyền phát hành cổ phiếu. c. Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên là công ty được thành lập theo sự góp vốn của nhiều thành viên. Thành viên công ty có thể là cá nhân hay tổ chức và tối đa là năm mươi, tối thiểu là hai. Công ty có tư cách pháp nhân nhưng không có quyền phát hành cổ phiếu. Đây là loại hình công ty mà các doanh nhân nước ta ưa thích và hay thành lập. d. Công ty cổ phần Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau: Vốn điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Thành viên công ty có thể là cá nhân hay tổ chức được gọi là cổ đông. Số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty có tư cách pháp nhân và có quyền phát hành các loại chứng khoán. e. Công ty hợp danh Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có đặc điểm: - Công ty phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài thành viên hợp danh công ty có thể có thnàh viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp. Còn thành viên góp vốn có thể là cá nhân hay tổ chức. - Công ty không có tư cách pháp nhân và không có quyền phát hành hay kinh doanh chứng khoán. f. Hợp tác xã Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất. Hợp tác xã thuộc loại hình sở hữu tập thể. Hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh Hợp tác xã Công ty hợp doanh Công ty cổ phần Công ty TNHH Doanh nghiệp tư nhân Hình 1. Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. 2.3 Vị trí và vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nước ta. Trong nền kinh tế của các nước trên thế giới, vị trí và vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn thay đổi qua các giai đoạn lịch sử cùng với sự tăng giảm vai trò của chính phủ đối với hoạt động kinh doanh. Qua nhiều năm, người ta đã chứng minh những ưu thế của hoạt động kinh doanh tư nhân so với hoạt động kinh doanh của khu vực Nhà nước và nhiều nước đã thực hiện quá trình tư nhân hoá. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn về tổng sản phẩm quốc nội(GDP), về vốn đầu tư và ngày càng trở thành bộ phận có vị trí lớn và quan trọng đối với nền kinh tế mỗi nước. a. Vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. Qua phần trên, ta thấy rằng doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một bộ phận cấu thành không thể thiếu được trong nền kinh tế ở hầu hết các nước trên thế giới. Sự phát triển của các hình thức tổ chức kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, ở nước ta trước đây lại không công nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân làm cho khu vực này phải hoạt động chui hoặc đội lốt kinh tế tập thể. Việc coi kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội chỉ cần cải tạo nhanh thành phần kinh tế đó đã dẫn đến tình trạng gần như xoá sổ khu vực kinh tế tư nhân, phát triển ồ ạt các xí nghiệp quốc doanh dẫn đến nền kinh tế đình trệ, kém phát triển và đời sống nhân dân gặp vô cùng khó khăn. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Đại hội đã xác định việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi lực lượng sản xuất, cải tiến cơ chế quản lý kinh tế là một chiến lược phát triển kinh tế lâu dài. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đường lối đổi mới kinh tế của Đảng được khẳng định lại một lần nữa “Chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hiến pháp 1992 cũng đã ghi nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân (điều 15) và khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước phát triển (điều 21). Như vậy, việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong đó có doanh nghiệp ngoai quốc doanh là một tất yếu và có vị trí quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược là giải phóng mọi lực lượng sản xuất nhằm phát triển sản xuất-kinh doanh đảm bảo dân giàu, nước mạnh nghĩa là huy động mọi nguồn vốn, lao động và tài năng của người dân vào hoạt động sản xuất-kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người dân, nâng cao thu nhập cho người lao động và cho ngân sách Nhà nước. b. Vai trò của doanh ngiệp ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang cơ chế mới, khu vực doanh ngiệp ngoài quốc doanh được chấp nhận chính thức về mặt pháp lý thì khu vực này đã từng bước hình thành, phát triển và hoạt động trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế như công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ với mức độ khác nhau và dần có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Nếu như năm 1991 chỉ có 123 doanh ngiệp đăng ký kinh doanh theo luật thì năm 1993 là 12.131 doanh ngiệp và đến nay là trên 60.000 doanh nghiệp. Nộp ngân sách của khu vực này từ 51 tỷ đồng năm 1991 nâng lên 1.051 tỷ đồng vào cuối năm 1994. Số lao động bình quân trong các doanh ngiệp là 25 người vào thời điểm giữa năm 1998, trong đó có một số ít doanh ngiệp có số lao động lên tới 2.000, 5.000 thậm chí là 10.000 người. Vào năm 1999, mặc dù nền kinh tế có nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và thế giới thì khu vực này vẫn tạo ra hơn 7% GDP của cả nước và cho đến nay con số này là khoảng 9%. Qua số liệu trên có thể thấy vai trò tích cực của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh đó là: Thu hút và giải quyết việc làm cho lực lượng lớn lao động, giảm bớt sự căng thẳng dôi thừa lao động trong xã hội, góp phần tạo sự ổn định tình hình xã hội. Thu hút một phần vốn lớn trong dân cư vào hoạt động sản xuất-kinh doanh qua đó phát huy được nguồn nội lực của đất nước. Sản xuất một khối lượng sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng một phần nhu cầu về hàng tiêu dùng của các tầng lớp dân cư, mặt khác đóng góp cho Nhà nước một khoản ngân sách không nhỏ góp phần tăng ngân sách Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, các DNNQD phải bằng mọi cách hiện đại hoá kỹ thuật, công nghệ để cạnh tranh với các doanh ngiệp trong nước, đồng thời cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới về mặt hàng, mẫu mã, giá cả nghĩa là nâng cao chất lượng hàng hoá sản xuất ra. Đó chính là sự góp phần vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phần II Thực trạng môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoai quốc doanh ở nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp ngoai quốc doanh cũng giống như tất cả các doanh nghiệp khác đều nằm trong một môi trường vĩ mô nhất định và chịu sự tác động của các yếu tố thuộc môi trường này. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoai quốc doanh với môi trường vĩ mô có thể được thể hiện theo sơ đồ sau: Môi trường Môi trường pháp luật VH-XH Môi trường Môi trường KH-CN kinh tế Khách hàng Nhà phân phối Nhà cung Đối thủ cấp cạnh tranh Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Hình 2. Sơ đồ mối quan hệ giữa DNNQD với môi trường vĩ mô Môi trường pháp luật là một trong những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô, nó là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của các loại hình doanh nghiệp. Một môi trường pháp luật ổn định, thuận lợi và bình đẳng sẽ đảm bảo cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất-kinh doanh. 1. Quá trình đăng ký kinh doanh và các thủ tục hành chính trước khi đi vào hoạt động của doanh nghiệp. Trong nhiều năm qua, nhiều văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về kinh tế nói riêng đã được ban hành nhằm thể chế hoá đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Năm 1990, Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân được ban hành. Các luật này đã củng cố tính an toàn về mặt pháp lý của các doanh nghiệp và các tổ chức mà chúng có quan hệ kinh doanh nhờ vậy đã tác động tích cực tới sự phát triển của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo thống kê, đến năm 1998 đã có gần 40.000 doanh nghiệp được thành lập với tổng số vốn đăng ký kinh doanh lên tới 21.000 tỷ đồng. Tuy nhiên các thủ tục để thành lập doanh nghiệp theo 2 luật này là rất phức tạp. Để có thể thành lập thì các doanh nghiệp phải có: - Đơn Đăng ký kinh doanh - Điều lệ công ty - Danh sách thành viên(công ty TNHH), danh sách cổ đông(công ty cổ phần). Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải có xác nhận về vốn của ngân hàng, hợp đồng thuê văn phòng, vốn pháp định tối thiểu…là những giấy tờ mà doanh nghiệp thường khó đáp ứng vào lúc thành lập. Vì vậy mà luật đã làm giảm đi tính linh hoạt, nhiệt tình của các nhà đầu tư, chưa tạo điều kiện phát huy tối đa các nguồn nội lực cho phát triển kinh tế của đất nước. Để khắc phục những hạn chế của hai luật kể trên thì Luật Doanh nghiệp đã ra đời. Được Quốc hội thông qua ngày 12-6-1999 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2000, luật mới đã đánh dấu một bước tiến dài về chất từ chỗ quy định người kinh đoanh phải xin phép chuyển sang một cách tiếp cận mới cho phép mọi người được làm những gì mà pháp luật không cấm. Luật đã quy định rõ ràng, cụ thể một số thủ tục liên quan đến quá trình thành lập và đăng ký kinh doanh, bãi bỏ một số đòi hỏi mà doanh nghiệp thường khó đáp ứng vào lúc thành lập, đồng thời đặt ra một số đòi hỏi đối với các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc đăng ký kinh doanh. Nhờ vậy thủ tục thành lập doanh nghiệp đã trở nên thuận tiện và đơn giản hơn rất nhiều. Sau hơn 2 năm thi hành Luật Doanh nghiệp (tính đến 1-5-2002) đã có 42576 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập với số vốn mới đăng ký xấp xỉ 50.000 tỷ đồng, đồng thời tạo ra khoảng 700.000 chỗ làm việc mới. Các doanh nghiệp cũng tăng thêm đầu tư, mở rộng thêm qui mô và địa bàn kinh doanh dưới nhiều hình thức như mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, bổ xung thêm vốn đầu tư...(cả nước đã có khoảng 9200 chi nhánh và 900 văn phòng đại diện đăng ký thành lập). Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp thì các ngành nghề kinh doanh được đăng ký cũng đa dạng và phong phú hơn cũ rất nhiều. Đa số doanh nghiệp đã nhận thức được sự thay đổi về quyền kinh doanh và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh doanh trên nguyên tắc được kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Cái được lớn nhất của Luật doanh nghiệp là đã tạo bước đột phá trong việc cải cách thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp ở nước ta. Trong 2 năm qua, các cơ quan Nhà nước đã bãi bỏ 175 loại giấy phép khác nhau (tức khoảng 44% tổng số giấy phép kinh doanh đã tồn tại trong nền kinh tế), thể hiện sự thay đổi căn bản về tư duy và phương thức quản lý nhà nước theo hướng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tách bạch rõ quyền SX-KD của doanh nghiệp với hoạt động quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên theo các doanh nghiệp, vẫn còn nhiều trở ngại trong quá trình thành lập doanh nghiệp cần phải giải quyết. Đó là: - Hiện vẫn còn thiếu các thông tin cần thiết vầ hướng dẫn rõ ràng về thủ tục đăng ký kinh doanh. Thêm vào đó, vẫn chưa có một văn bản chi tiết hoá những nghành nghề và lĩnh vực đòi hỏi vốn pháp định. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm những văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh phải có giấy phép kinh doanh chuyên ngành, một số khác thì phải mất thêm thời gian đến sở kế hoạch và đầu tư để tra cứu tên doanh nghiệp đã thành lập trước đó nhằm tránh sự trùng lặp. - Các doanh nghiệp cho biết vẫn còn ít nhất hai vấn đề cần được bổ xung trong các qui định đăng ký kinh doanh hiện hành là: không có hướng dẫn đăng ký kinh doanh cho một số doanh nghiệp thành lập từ hộ kinh doanh hay doanh nghiệp tư nhân và quy định về những giấy tờ cần trình khi một đại diện nộp hay nhận đơn đăng ký kinh doanh. - Một số cán bộ làm thủ tục ở Sở Kế hoạch và Đầu tư còn quá phụ thuộc vào bản “điều lệ mẫu” do Sở cung cấp và không dễ dàng chấp nhận các bản điều lệ do người nộp đơn đăng ký kinh doanh soạn thảo mà không giống điều lệ mẫu. Ngoài ra, một số doanh nghiệp phàn nàn rằng thay vì thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn về những sai sót trong đơn đăng ký kinh doanh như quy định, cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư thường chỉ xem qua đơn và yêu cầu doanh nghiệp đem về sửa một vài lỗi nhỏ. - Thời gian chờ đợi để doanh nghiệp hoàn thành thủ tục khắc dấu và có được con dấu là lâu. Theo một cuộc điều tra thì khoảng thời gian để nhận được con dấu dao động từ 1 đến 50 ngày, trung bình là 12 ngày. Điều hiển nhiên là các cơ sở khắc dấu này rất nhiều việc và do vậy thường lỡ hẹn trong việc giao dấu. Ngoài ra, để có thể nhận được con dấu sớm hơn các doanh nghiệp phải bỏ ra thêm một khoản là” chi phí làm thêm giờ”. Trong một số trường hợp , khoản chi phí này cao gấp 2-3 lần so với khoản chi phí khắc dấu thực sự. - Thủ tục đăng ký mã số thuế và mua hoá đơn thuế giá trị gia tăng là rất phiền toái đối với các doanh nghiệp. Hiện không có những hướng dẫn hay chỉ dẫn thống nhất, rõ ràng cho thủ tục đăng ký mã số thuế. Mỗi cơ quan, nhân viên thuế điạ phương có những yêu cầu và cách giải thích riêng về tính cần thiết của một loaị giấy tờ nào đó. Thậm chí một vài doanh nghiệp phải trình bày những giấy tờ bổ xung quyết định “bổ nhiệm giám đốc” hay thoả thuận thuê văn phòng để có thể mua được hoá đơn thuế giá trị gia tăng Bên cạnh đó, nhận thức và chỉ đạo Luật Doanh nghiệp trong không ít cơ quan thuộc hệ thống cơ quan nhà nước, nhất là ở cấp chính quyền địa phương còn thụ động, chưa đầy đủ và kém nhiệt tình, thậm chí có nơi còn trì hoãn, làm trái. Cho đến nay vẫn còn một số văn bản quan trọng liên quan đến triển khai Luật doanh nghiệp chưa được ban hành. Một số nơi đang làm trái với qui định của Luật doanh nghiệp bằng cách ra lệnh tạm ngừng hoặc không cấp đăng ký kinh doanh đối với một số ngành nghề không thuộc đối tượng cấm kinh doanh, đặt thêm các thủ tục hoặc yêu cầu nộp thêm hồ sơ giấy tờ trái qui định của Luật, không cấp hoặc yêu cầu rút giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp đang cạnh tranh với doanh nghiệp nhà nước tạo ra sự bất bình đẳng về cơ hội kinh doanh, làm mất đi cơ hội kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Các cơ quan Nhà nước cũng chưa thiết lập được hệ thống lý lịch tư pháp phục vụ cho việc quản lý Nhà nước, trong đó có xác minh nhân thân người thành lập doanh nghiệp để thực hiện qui định về những đối tượng không được quyền thành lập doanh nghiệp (Điều 9- Luật doanh nghiệp) dẫn đến có một số đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp nhưng vẫn thành lập, một số doanh nghiệp đăng ký mà không hoạt động hoặc hoạt động tại địa điểm khác nơi đăng ký kinh doanh. Như vậy, bên cạnh những thay đổi theo hướng thuận lợi, đơn giản hơn thì quá trình đăng ký kinh doanh và các thủ tục hành chính trước khi đi vào hoạt động của doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho các nhà đầu tư đòi hỏi cần nhanh chóng giải quyết để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp. 2. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp sau khi thành lập. Sau khi được thành lập, doanh nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất-kinh doanh. Trong giai đoạn này, các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, thông tin …là rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây cũng là các lĩnh vực mà còn nhiều bất cập, hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay. 2.1. Huy động vốn Vốn là một yếu tố sản xuất rất quan trọng của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp là rất hạn chế, chủ yếu là các nguồn huy động từ bên ngoài trong dó vốn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng là nguồn mà các doanh nghiệp trông đợi nhất. Mặc dù trong những năm qua, chính sách tín dụng đã có nhiều thay đổi theo hướng tạo điều kiện hơn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận các nguồn vốn của ngân hàng song qua các cuộc điều tra gần đây cho thấy vốn vẫn là khó khăn cơ bản đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những khó khăn này bao gồm: Các doanh nghiệp nhà nước được ưu đãi hơn các doanh nghiệp tư nhân trong việc vay vốn ngân hàng, đặc biệt là trong các các quy định về thế chấp. Doanh nghiệp nhà nước với sự bảo lãnh từ cơ quan chủ quản có thể vay mà không cần cầm cố hay thế chấp một cách dễ dàng. Hơn nữa do chính sách tín dụng còn nhiều bất cập, hệ thống tài chính trung gian chưa phát triển, các doanh nghiệp nhà nước lập ra là tức khắc được quyền đòi cấp vốn, ngân hàng cho vay, nợ đến hạn chưa trả thì được khoanh nợ, giãn nợ. Đối tượng Năm 2000 6 tháng đầu năm 2001 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 10.78% 4.5% Doanh nghiệp nhà nước 52% 47% Đối tượng khác 37.22% 48.5% Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển7/2001 Hình 3: Tỷ lệ tín dụng của các ngân hàng dành cho các doanh nghiệp Điều kiện để được vay vốn từ ngân hàng mà không cần thế chấp là rất phức tạp đối với các doanh nghiệp. Nếu đúng theo các quy định đó thì các doanh nghiệp mới thành lập, các doanh nghiệp chưa từng vay vốn ngân hàng sẽ bị loại ra khỏi đối tượng được vay vốn không cần thế chấp. Nói cách khác, chính các doanh nghiệp rất cần vay vốn, cần sự hỗ trợ từ phía ngân hàng lại bị gạt ra ngoài. Việc vay mượn lại phụ thuộc vào tài sản thế chấp, đây là khó khăn chủ yếu đối với các doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng. Vì không có cơ quan, tổ chức nào chịu trách nhiệm để đánh giá tài sản thế chấp nên những hoạt động này được thực hiệnchính bởi ngân hàng. Điều này dẫn đến vấn đề là ngân hàng có xu hướng muốn đánh giá thấp tài sản của doanh nghiệp, không sát với giá trị thực của tài sản theo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0109.doc
Tài liệu liên quan