LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế trong điều kiện nền kinh tế có xuất phát điểm kém, chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn trước sự cạnh tranh, tìm kiếm, giành giật thị trường, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu.
Các doanh nghiệp Việt Nam với một thực trạng yếu kém về quy mô, công nghệ, năng lực tài chính, năng lực quản lý, lại thụ động chưa có c
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiến lược kinh doanh chủ động, lâu dài, nên khi thâm nhập thị trường quốc tế gặp phải những khó khăn về khả năng cạnh tranh, các cản trở về pháp luật, kiểm soát của chính phủ, sự khác biệt về văn hoá, ảnh hưởng về địa lý, khí hậu, sự thay đổi ý thích của người tiêu dùng và một loạt các yếu tố không kiểm soát được. Làm thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam đứng vững và phát triển được trong thời gian tới, ngoài sự nỗ lực của các doanh nghiệp cũng cần có sự quan tâm không thể thiếu của các cơ quan quản lý vĩ mô. Cần thiết tạo ra một môi trường thông thoáng để thúc đẩy các doanh nghiệp đi tới lựa chọn chiến lược cạnh tranh chủ động, thay thế cho sự thụ động, ỷ lại hiện nay.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu "Môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong những năm
tới".
1. Mục đích nghiên cứu đề tài.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Nêu và phân tích thực trạng môi trường hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại thời gian qua.
- Kiến nghị về hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một cách đồng bộ môi trường kinh doanh là điều kiện cần thiết, song bởi tính đồ sộ của nó, người ta đi từ việc nghiên cứu các nhóm nhân tố, từng nhân tố. Bởi vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng ta cùng đề cập các nhân tố về chính trị – kinh tế – xã hội của môi trường kinh doanh trong chừng mực coi chúng như một môi trường bộ phận trong môi trường tổng thể.
Môi trường vĩ mô và môi trường vi mô liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam.
- Đối tượng: Đề tài lấy loại hình doanh nghiệp thương mại có tham gia kinh doanh xuất khẩu là đối tượng nghiên cứu chủ yếu.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp phổ biến trong nghiên cứu như kết hợp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp tổng hợp và phân tích... Đề tài cũng đã kế thừa lý thuyết cơ bản về quản trị kinh doanh.
4. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận cùng danh mục tài liệu tham khảo đề tài
được kết cấu gồm 3 chương sau:
Chương 1: Tổng quan về môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng môi trường kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Chương 3: Định hướng phát triển xuất khẩu và một số kiến nghị về
hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu của Việt nam đến năm 2010.
Mặc dù đã được bổ sung kiến thức hơn 3 năm tại Trường Đại học Ngoại thương và kinh nghiệm nhiều năm công tác trong lĩnh vực XNK nhưng chắc chắn khóa luận không tránh khỏi những hạn chế, rất mong các thầy cô giáo và bạn đọc chân thành góp ý kiến.
Qua đây, tôi xin chân thành cám ơn Khoa Kinh tế ngoại thương, Khoa
Quản lý đào tạo Tại chức trường Đại học Ngoại thương và đặc biệt thầy giáo
hướng dẫn TS. Nguyễn Hữu Khải đã giúp đỡ tôi hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp Đại học.
Hà nội, ngày 15 tháng 5 năm 2003
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
Việc nghiên cứu môi trường kinh doanh xuất khẩu có một tầm quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Môi trường kinh tế quyết định sự hấp dẫn của thị trường thông qua các chỉ số như dân số, mức thu nhập của dân cư và cơ cấu kinh tế của một quốc gia. Môi trường pháp luật và chính trị thường mang lại nhiều rủi ro trong kinh doanh. Nghiên cứu kỹ và hiểu biết về môi trường chính trị và luật pháp sẽ hạn chế bớt rủi ro, tăng tính an toàn, bảo vệ và tạo cơ hội cho xuất khẩu. Môi trường văn hoá có ảnh hưởng đặc biệt đến các hoạt động kinh doanh trên thị trường xuất khẩu. Nắm bắt được những sắc thái văn hoá khác nhau của các dân tộc là nắm bắt được hành vi, thái độ, tâm lý, sở thích, thói quen tiêu dùng của một nước, từ đó đề ra những chiến lược kinh doanh xuất khẩu phù hợp với từng thị trường, hay từng đoạn thị trường nước
ngoài.
Trong môi trường kinh doanh xuất khẩu có sự cạnh tranh gay gắt, hầu hết những thành công trong giao dịch xuất khẩu đều do nghiên cứu và đánh giá đúng môi trường, thị trường nước ngoài. Đánh giá không đúng các yếu tố môi trường kinh doanh xuất khẩu sẽ gây nên những thua lỗ đáng tiếc.
I – TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
1- Khái niệm về môi trường kinh doanh
Bất kì một tổ chức nào, đặc biệt là tổ chức hoạt động kinh doanh, quá trình hoạt động đều gắn liền với các yếu tố tác động nhất định. Mức độ và tính chất tác động của các yếu tố đó gắn liền với nhau và tùy thuộc vào quy mô, tính chất hoạt động của một tổ chức, một doanh nghiệp.
Tất cả các yếu tố (bao gồm cả các yếu tố bên trong và bên ngoài), ngoài sự tác động vào một doanh nghiệp, trong những điều kiện nhất định còn được hợp thành môi trường ảnh hưởng tới doanh nghiệp.
Do có tác động đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp nên việc nghiên cứu môi trường là rất cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Khác với các tổ chức khác, hoạt động của một doanh nghiệp không mang tính độc lập. Mỗi một doanh nghiệp như là một khâu, một mắt xích trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định, ranh giới giữa doanh nghiệp với môi trường rất linh hoạt theo mô hình một hệ thống mở. Các doanh nghiệp sử dụng – thu hút các nguồn lực từ bên ngoài với tư cách là yếu tố đầu vào, đưa các yếu tố đó vào quá trình sản xuất biến đổi – chế biến sau đó đưa ra môi trường các sản phẩm hay dịch vụ cần thiết – các yếu tố đầu ra.
Khi các yếu tố môi trường tác động đến quá trình quản lý và hoạt động của các nhà quản lý thì họ phải thực hiện sự lựa chọn và đưa ra các quyết định quản trị kinh doanh; có thể nhận thức rằng, môi trường kinh doanh là tổng hợp các yếu tố; các điền kiện cần thiết về chính trị, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, xã hội, chính sách chế độ của Nhà nước và điều kiện tự nhiên sinh thái của mỗi nước, các thông lệ kinh doanh quốc tế và môi trường kinh doanh quốc tế và khu vực đang tác động vào các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp; cũng như những điều kiện, yếu tố của ngành và nội bộ từng doanh nghiệp tác động đến kinh doanh. Môi trường kinh doanh luôn luôn thay đổi, cho nên cần có biện pháp thích hợp để quản lý sự thay đổi đó nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
cao.
Xuất xứ của thuật ngữ môi trường theo nghĩa đen dùng để thể hiện một không gian hữu hạn bao quanh một hữu hạn những sự vật hiện tượng nhất định. Bởi tính thông dụng của thuật ngữ này mà người ta dần gắn thêm với nó các tính chất cần thiết để mô phỏng sự vật, hiện tượng trong các trạng thái khác nhau. Chúng ta thường nghe đến các khái niệm môi trường vật chất như môi trường khí, môi trường nước, rồi môi trường khí hậu, địa chấn, rồi đến các hiện tượng mà tính vật chất thể hiện rất mờ nhạt cũng được gắn với thuật ngữ môi trường như môi trường sinh trưởng, đào tạo, môi trường chính trị, văn hóa…đến nữa – môi trường kinh doanh.
Theo cách tiếp cận đó, có thể hiểu môi trường kinh doanh là một khung cảnh bao trùm lên hoạt động kinh doanh. Nó bao gồm tổng thể các nhân tố mang tính khách quan và chủ quan, vận động và tương tác lẫn nhau, tác động trực tiếp, gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp, sự tác động này có thể thuận lợi cho kinh doanh, hoặc khó khăn, trở ngại cho kinh doanh.
Để đến gần hơn với cách tiếp cận khái niệm này, cần lưu ý một số đặc trưng sau:
- Bản thân kinh doanh là một quá trình vận động trong một môi trường cũng không ngừng vận động. Bởi vậy mọi sự mô phỏng tĩnh tại chỉ là tương đối theo mục đích của việc nghiên cứu.
- Các nhân tố cấu thành môi trường kinh doanh vừa tự vận động, lại vừa tác động qua lại với nhau và trở thành ngoại lưc chính cho sự vận động biến đổi của môi trường kinh doanh.
- Các nhân tố của môi trường kinh doanh là rất đa dạng, phong phú. Do đó, việc nghiên cứu nó đòi hỏi phải sử dụng nhiều cách tiếp cận, nhiều phương pháp.
- Doanh nghiệp không chỉ thụ động chịu các tác động từ môi trường kinh doanh mà chính nó lại sản sinh ra các tác nhân làm thay đổi đến môi trường kinh doanh.
2- Phân loại các nhân tố môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
Để có thể cố gắng mô phỏng về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, người ta đã nêu ra nhiều cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau.
a - Theo tính chất của các nhân tố cấu thành môi trường kinh doanh, người ta phân loại thành:
+ Yếu tố chính trị;
+ Yếu tố kinh tế;
+ Yếu tố văn hóa – xã hội;
+ Yếu tố công nghệ – kỹ thuật;
theo:
+ Yếu tố địa lý – sinh thái.
b - Theo mức độ tác động, người ta phân ra:
+ Các nhân tố tác động trực tiếp;
+ Các nhân tố tác động gián tiếp.
c - Theo phạm vi nghiên cứu, môi trường kinh doanh được xem xét
+ Môi trường tổng thể;
+ Môi trường từng ngành;
+ Môi trường nội bộ doanh nghiệp.
Cách trình bày trên một mặt thể hiện các nhân tố chủ yếu cấu thành môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác còn thể hiện mức độ tác động của chúng dến doanh nghiệp:
- Trước hết là môi trường ngành, ở đây hiểu là ngành kinh tế – kỹ thuật mà doanh nghiệp tham gia kinh doanh.
- Tiếp đến là các nhân tố thể hiện vai trò các thể nhân và các tổ chức tác
động gián tiếp lên doanh nghiệp.
- Các nhân tố của môi trường tổng thể.
- Môi trường khu vực và quốc tế.
3- Ý nghĩa của việc nghiên cứu môi trường kinh doanh.
Việc nghiên cứu môi trường kinh doanh và nắm vững các yếu tố liên quan đến nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó giúp cho các doanh nghiệp:
- Nhìn nhận một cách tổng thể về môi trường kinh doanh, phân tích đồng bộ các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh, từ đó có thể khai thác các lợi thế và ngăn ngừa các rủi ro có thể xảy ra.
- Mỗi doanh nghiệp xét cho cùng chỉ hoạt động trên một miền kinh doanh nhất định mà thôi. Việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xác định cho mình miền kinh doanh phù hợp, đem lại hiệu quả cao nhất.
- Vì chỉ hoạt động trên một miền kinh doanh nhất định nên từ môi trường tổng thể, nó trợ giúp cho doanh nghiệp biết sẽ phải chịu các tác động nào là chủ yếu, mức độ hoạt động của chúng ra sao đến tính chất kinh tế – kỹ thuật của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Kết quả nghiên cứu môi trường kinh doanh là một căn cứ cực kỳ quan trọng cho việc xác định các chiến lược và chính sách kinh doanh, đặc biệt là các chiến lược và chính sách dài hạn.
II- CÁC LOẠI MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
1. Môi trường vĩ mô
Có rất nhiều yếu tố môi trường tác động đến các hoạt động kinh doanh xuất khẩu được thể hiện trên góc độ vĩ mô như môi trường kinh tế, tài chính; môi trường chính trị; môi trường pháp luật; môi trường văn hoá, xã hội; môi trường địa lý; môi trường khoa học công nghệ v.v... nhưng trong phạm vi đề tài này chỉ đề cập đến một vài yếu tố môi trường chủ yếu nhất như môi trường kinh tế, tài chính; môi trường chính trị, pháp luật và môi trường văn hoá.
1.1 Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế có thể được xem xét từ hai góc độ: góc độ vĩ mô và góc độ vi mô. Góc độ vĩ mô sẽ cho chúng ta bức tranh về quy mô của thị trường và triển vọng kinh tế được hình thành từ nhu cầu và ước muốn của con người. Môi trường kinh tế của một nước từ góc độ vĩ mô xác định phần lớn cơ hội kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp. Môi trường kinh tế phải được xem xét trên cả hai khía cạnh là môi trường trong nước và môi trường ngoài nước mà doanh nghiệp dự định xuất khẩu. Các yếu tố về môi trường kinh tế luôn luôn phải đặt trong trạng thái so sánh.
Để có một quyết định kinh doanh thích hợp, cần thiết phải nhận định rõ tình hình kinh tế của nước sở tại, động thái phát triển ra sao? chính sách thuế đối với hàng nhập khẩu, chính sách bảo hộ sản xuất và bảo hộ mậu dịch của nước nhập khẩu.
Dân số và thu nhập của một nước tạo nên thị trường tiêu thụ và không phản ánh khả năng tiêu thụ của thị trường. Khả năng tiêu thụ bình quân cao
hay thấp phụ thuộc vào tổng dân số và thu nhập/ đầu người. Do vậy các nước phát triển vẫn là khách hàng tiềm năng và các nước nghèo kém phát triển cho dù dân số đông vẫn không phải là khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó, các yếu tố về quy mô, các yếu tố về cơ cấu dân số và cơ cấu thu nhập cũng có tác động trực tiếp tới quy mô và cơ cấu hàng hoá tiêu thụ.
Thông tin tiếp theo là mô hình tiêu dùng. Mô hình tiêu dùng tổng thể của một quốc gia được xem xét dựa trên cơ sở tiềm năng và cơ cấu tiêu dùng. Cơ cấu tiêu dùng giữa các nước khác nhau rất nhiều. Xã hội càng nghèo thì phần thu nhập dành cho lương thực, thực phẩm càng lớn. Những nước giàu số phần trăm thu nhập dành cho mua sắm đồ đạc hay thuê nhà, xây nhà nhiều hơn, dân cư sẽ có khả năng mua sắm hàng hoá với mức giá cao và chất lượng
cao.
Những thông tin khác như tình hình sản xuất công nghiệp, giá cả, tài chính, bán buôn, bán lẻ v.v... cũng rất cần thiết song các nhà làm công tác kinh doanh xuất khẩu chỉ cần quan tâm và tìm kiếm những thông tin kinh tế và tài chính có liên quan đến các quyết định kinh doanh của mình.
Trong quản trị chiến lược kinh doanh xuất khẩu, một trong những yếu tố quan trọng có liên quan là cần xem xét tới sự tham gia và mức độ tham gia của nước nhập khẩu vào các tổ chức kinh tế và thương mại quốc tế, khu vực. Nếu như nước đó đã ký kết hiệp định kinh tế và thương mại với nước ta hoặc cùng tham gia ký kết các hiệp định đa bên thì việc xuất khẩu sẽ có lợi thế hơn. Đồng thời, phải kiểm tra và phân tích kỹ các chính sách tín dụng, các điều khoản tín dụng để lường trước những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thanh toán và để đảm bảo nhận được thanh toán. Cần hiểu biết sâu sắc về cơ chế thị trường hối đoái và các hỗ trợ về mặt tài chính có thể nhận được.
Tóm lại, việc phân tích và xem xét kỹ yếu tố môi trường kinh tế và tài chính ở thị trường nước ngoài là điều kiện tiên quyết cho các quyết định thâm nhập vào một thị trường nước ngoài. Một đất nước gặp phải nhiều khó khăn về kinh tế có tốc độ tăng trưởng GDP là âm hoặc rất thấp không tránh khỏi
những khó khăn về tiêu thụ và thanh toán. Ngược lại nước có nền kinh tế
hưng thịnh sẽ khích lệ công việc kinh doanh và tạo nhiều cơ hội làm ăn mới.
1.2 Môi trường chính trị:
Yếu tố môi trường chính trị của kinh doanh xuất khẩu là rất phức tạp và khó khăn do có sự tác động qua lại của tình hình chính trị trong nước, tình hình chính trị ngoài nước, tình hình chính trị quốc tế. Do sự khác nhau về hệ thống chính trị, hình thái chính phủ, các quốc gia đều có những thể chế khác biệt. Sự am hiểu về các loại hình chính phủ rất có lợi cho việc thẩm định không khí chính trị trước khi đi đến các quyết định kinh doanh. Từ sự khác nhau về hệ thống chính trị dẫn đến sự khác nhau về các chính sách kinh tế. Ở một số nước mục đích chính trị bao trùm lên lợi ích kinh tế. Hậu quả là những rủi ro về chính trị xảy ra như tịch thu tài sản, sung công, quốc hữu hoá hay nhập tịch. Ngoài ra, còn rất nhiều loại rủi ro chính trị khác như sự bất ổn chung, rủi ro trong việc quản lý và sở hữu tài sản, rủi ro trong kinh doanh, rủi ro trong chuyển tiền...
Như vậy các quyết định kinh doanh thường bị ảnh hưởng bởi các quyết định chính trị. Vậy khi xuất khẩu hàng hoá vào một nước nào đó doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ càng và nhậy bén với những quan điểm về chính trị của nước đó và cần phải chuẩn bị sẵn sàng các kế hoạch đối phó với những bất ngờ xảy ra trong môi trường chính trị.
Để đánh giá được môi trường kinh doanh tiềm năng, doanh nghiệp cần nhận biết và đánh giá được những dấu hiệu khó khăn về chính trị có liên quan đến các hoạt động kinh doanh như sự rối loạn và bất ổn của xã hội gây nên do những khó khăn về kinh tế, sự bất hoà nội bộ, phiến loạn, những khác biệt về văn hoá, màu da, tôn giáo, thái độ thù địch hay thân thiện của người dân nước sở tại, chính sách của nước sở tại... Để hạn chế đến mức tối thiểu những rủi ro về chính trị, doanh nghiệp cần duy trì trung lập, vận động đằng sau hậu trường, để đạt được mục đích của mình, chuyển rủi ro cho bên thứ ba bằng cách mua bảo hiểm, doanh nghiệp nên thành lập một hệ thống giám sát thường xuyên và đánh giá một cách có hệ thống tình hình chính trị. Rủi ro về
chính trị nếu khéo léo điều chỉnh và thích nghi có thể làm giảm hay trung lập một cách đáng kể.
1.3 Môi trường pháp lý:
Không một nhà kinh doanh giỏi nào mà lại không quan tâm đến các chính sách và luật lệ. Cho dù công ty đóng ở đâu, thâm nhập vào thị trường nào cũng đều bị ảnh hưởng bởi hệ thống pháp luật và chính sách của nước ấy. Vậy để kinh doanh xuất khẩu thành công, các nhà quản trị kinh doanh cần đi sâu và hiểu rõ môi trường pháp lý và tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của nó đến các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình.
Cũng giống như môi trường chính trị, môi trường pháp lý cũng rất đa dạng: môi trường pháp lý trong nước, môi trường pháp lý ngoài nước và môi trường pháp lý quốc tế. Các nhà kinh doanh xuất khẩu buộc phải tuân thủ luật của nước mình, luật của nước ngoài và luật quốc tế. Ví dụ xuất khẩu thuỷ- hải sản vào thị trường EU doanh nghiệp cần phải nắm bắt được các quy định của Việt Nam về xuất khẩu thuỷ- hải sản, quy định của EU về nhập khẩu thuỷ- hải sản và các quy định quốc tế khác liên quan đến vận chuyển, bảo hiểm, thanh
toán...
Các luật lệ của chính phủ đưa ra thường không những làm tăng chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến các chiến lược kinh doanh ở bất kỳ khâu nào trong 4 "P" của kinh doanh mix. Với khâu sản phẩm: luật của nhiều nước không cho phép nhập nhiều loại sản phẩm vào nước đó ví dụ như hoa quả tươi, súc vật sống... Khâu tiêu thụ: ở hầu hết các nước các nhà sản xuất không được phép chọn nhiều kênh tiêu thụ như ở Mỹ. Khâu xúc tiến: nhiều nước đã đánh thuế vào hoá đơn quảng cáo, các hãng quảng cáo và các phương tiện thông tin đại chúng để hạn chế bớt quảng cáo.
Các nhà quản trị kinh doanh xuất khẩu luôn phải sẵn sàng đối phó với những thử thách mới và cơ hội mới vì luôn luôn có những luật mới ra đời. Có những thị trường đã bị đóng từ lâu bỗng nhiên lại mở ra do luật mới ban hành.
Mặc dù các doanh nghiệp phải tuân thủ mọi pháp luật hiện hành, song không thể hoàn toàn phó mặc cho hoàn cảnh mà cần phải tìm cách khắc phục.
Một trong những cách khắc phục là lợi dụng một vài kẽ hở của pháp luật để
làm lợi cho mình.
Nhìn chung môi trường pháp luật rất phức tạp, đa dạng và năng động, với các nước khác nhau, hệ thống pháp luật khác nhau, quy định pháp quyền khác nhau đối với các hoạt động kinh doanh. Một nhà hoạt động kinh doanh xuất khẩu không những phải tuân thủ pháp luật nước mình, pháp luật nước sở tại liên quan đến cạnh tranh, định giá, phân phối, trách nhiệm, sản phẩm, bằng sáng chế, nhãn hiệu, quảng cáo, cấp giấy phép xuất nhập khẩu, chống bán phá giá, thuế... mà còn phải biết các hiệp ước và công ước quốc tế. Khi có xung đột xảy ra giữa các bên từ nhiều nước thì cách giải quyết tốt nhất và nhanh chóng nhất là đưa ra hội đồng trọng tài.
1.4 Môi trường văn hoá:
Nói đến môi trường văn hoá là người ta nói đến những tập quán, những chuẩn mực, những nếp nghĩ, những chân giá trị, ý niệm, niềm tin... được truyền lại và cùng chia sẻ trong một ngày hay trong một cộng đồng dân cư của cùng một quốc gia. Văn hoá là cảm nhận chung của một nhóm người trong cùng một xã hội mà người trong những nhóm khác không thể hiểu được. Văn hoá mang tính chủ quan. Có những việc được chấp nhận ở nền văn hoá này song không được chấp nhận ở nền văn hoá khác. Văn hoá tạo nên cách sống của một cộng đồng, do đó sẽ quyết định phong cách làm việc, giao tiếp, cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu và ước muốn. Những nền văn hoá khác nhau sẽ tạo nên những lối sống và cách tiêu dùng khác nhau. Văn hoá tồn tại lâu đời, truyền từ đời này qua đời khác cho nên khó bị phá vỡ. Nhưng văn hoá cũng rất năng động, luôn luôn thay đổi và có thể học được. Do tính năng động này mà nhiều sản phẩm rơi vào tình thế bị lỗi thời không tiêu thụ được. Do quan niệm về giá trị thay đổi theo thời gian nên các nhà hoạt động kinh doanh xuất khẩu cần nắm bắt để theo kịp những biến đổi về thị hiếu để lợi dụng trào lưu văn hoá mới.
Văn hoá ảnh hưởng đến tiêu dùng. Mô hình tiêu dùng, phong cách sống, nhu cầu ưu tiên là tiếng nói của văn hoá. Tập quán tiêu dùng giữa các nền văn hoá thường rất khác nhau.
Các nhà hoạt động xuất khẩu còn cần phải nhận thức rằng để mô tả một cách chính xác hành vi lời nói của một nước nào đó trong xử lý thông tin cần phải kết hợp với văn cảnh của nó. Văn cảnh ở đây muốn nói đến nội hàm của lời nói trong một hoàn cảnh cụ thể. Văn cảnh thấp có nghĩa là lời nói không mang ẩn ý, tách khỏi ngữ cảnh của nó, nói sao hiểu vậy. Ngược lại, trong văn hoá văn cảnh cao, người ta nói ít hiểu nhiều, đằng sau lời nói còn chứa đựng nhiều ý nghĩa phi lời nói, nhiều ẩn ý sâu rộng. Sak Onkivisit và John J. Shaw trong cuốn marketing quốc tế đã viết: "đối với những nước có văn cảnh văn hoá thấp, cần thiết phải giải thích cặn kẽ trong khi đàm phán, còn đối với những nước có văn cảnh văn hoá cao, khi đàm phán lại không nên nói dài dòng gây bực mình cho đối tác".
Văn hoá của các dân tộc tuy có khác nhau song cũng có những nét chung. Do những nét chung này mà một số sản phẩm được bán ở các nước khác nhau mà vẫn không cần thay đổi mẫu mã. Những nét chung có thể là: Thể thao, trang điểm, nấu nướng, địa vị xã hội, tôn giáo tín ngưỡng v.v... ví dụ nhu cầu về âm nhạc và thú vui thì bất kỳ ở đâu cũng có.
Ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng nhất của văn hoá. Ngôn ngữ ảnh hưởng đến nếp nghĩ, đến phương pháp tư duy của các dân tộc khác nhau, ngôn ngữ được thể hiện bằng lời nói trong thông điệp về hàng hoá và dịch vụ.
Ngoài ngôn ngữ lời nói còn có ngôn ngữ đàm phán, ngôn ngữ quà tặng và những giao tiếp phi lời nói (Ngôn ngữ câm) trong giao dịch quốc tế mà các nhà quản trị kinh doanh xuất khẩu cần đi sâu nghiên cứu để có những phản ứng thích hợp trong từng nền văn hoá, từng loại sắc tộc cụ thể.
Nói tóm lại: quản trị kinh doanh xuất khẩu diễn ra trong một nền văn hoá cụ thể, nên kế hoạch kinh doanh của một doanh nghiệp chỉ có thể có hiệu quả và thích hợp khi phù hợp với nền văn hoá đó. Chiến lược và kế hoạch kinh doanh xuất khẩu của một doanh nghiệp ở một môi trường mới có thành
công hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả năng hiểu biết, điều chỉnh, thích nghi với môi trường văn hoá mới đó.
2. Môi trường vi mô
Đối với các doanh nghiệp thương mại, các yếu tố của môi trường vi mô
(môi trường tác nghiệp) ảnh hưởng tới kinh doanh xuất khẩu bao gồm:
- Các đối thủ cạnh tranh trong ngành,
- Người mua,
- Các nhà cung cấp,
- Các nhà trung gian,
- Các đối thủ tiềm ẩn,
- Sản phẩm thay thế.
Vì vậy, trong quá trình phân tích môi trường vi mô trong hoạt động xuất khẩu cần xem xét đến các yếu tố một cách đầy đủ và toàn diện, tuy nhiên trong phạm vi giới hạn của đề tài áp dụng cho loại hình doanh nghiệp thương mại nên tôi chỉ tập trung phân tích các yếu tố sau: các đối thủ cạnh tranh, các nhà cung cấp, khách hàng.
2.1 Các đối thủ cạnh tranh
Hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh là hết sức quan trọng trong quản trị
chiến lược kinh doanh xuất khẩu. Khi xem xét đến yếu tố này cần xác định rõ
5 vấn đề sau:
Những ai là đối thủ cạnh tranh?
Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại có thể là các doanh nghiệp trong nước cùng tham gia hoạt động xuất khẩu sản phẩm hàng hoá đến cùng một thị trường hoặc là các doanh nghiệp của nước khác cùng xuất khẩu mặt hàng đó tới cùng thị trường của doanh nghiệp. Chẳng hạn một doanh nghiệp xuất khẩu gạo tới thị trường Irắc cần phải biết rõ trong nước có bao nhiêu doanh nghiệp cùng xuất khẩu gạo tới thị trường Irắc, các đối thủ ở nước ngoài như các doanh nghiệp của Hoa Kỳ, Thái Lan có xuất khẩu gạo cho Irắc không? bao nhiêu doanh
nghiệp?... Một doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt kim vào thị trường Nhật bản cũng cần phải biết rõ trên thị trường Nhật bản có bao nhiêu nhà xuất khẩu đã, đang và sẽ xuất khẩu hàng dệt kim vào thị trường Nhật bản, bao nhiêu là doanh nghiệp của nước khác? và bao nhiêu là doanh nghiệp của Việt Nam?...
Chiến lược của các đối thủ cạnh tranh thế nào?
Những đối thủ cạnh tranh gần nhất của doanh nghiệp là những đối thủ cùng theo đuổi những thị trường mục tiêu giống nhau với chiến lược giống nhau. Nhiệm vụ của các nhà quản trị chiến lược kinh doanh xuất khẩu là cần phải phát hiện được chiến lược của đối thủ cạnh tranh thế nào? họ đang sử dụng chiến lược gì trong mô hình chiến lược về sản phẩm, về giá, về phân phối và xúc tiến khuyếch trương.
Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì ?
Thông thường các doanh nghiệp đều có mục tiêu bao trùm là tăng lợi nhuận nhưng có thể tăng lợi nhuận bằng cách duy trì giá ở mức cao hoặc tăng sản lượng xuất khẩu để tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, ở các thời điểm khác nhau và các đoạn thị trường khác nhau thì mục tiêu này bị "che phủ" bởi những hoạt động như giảm giá, hạn chế mức xuất khẩu... Nhà quản trị chiến lược marketing xuất khẩu cần hiểu rõ được các loại mục tiêu của đối thủ, kể cả mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu thành phần...
Những điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh là gì ?
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại thường gặp phải nhiều cơ hội và rủi ro, việc phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ cạnh tranh là nhằm khai thác tốt các cơ hội và hạn chế các rủi ro. Có nhiều mô hình và đi liền với nó là hệ thống các chỉ tiêu khác nhau để phân tích điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh. Đối với doanh nghiệp thương mại hoạt động kinh doanh xuất khẩu có thể dùng hệ thống chỉ tiêu và các thang điểm như sau:
Chỉ tiêu
Yếu Trung bình Mạnh
1
2
3
4
5
1. Sản phẩm
- Gam sản phẩm
- Chất lượng sản phẩm
- Giá cả
2. Tổ chức
- Tính linh hoạt
- Quy trình ra quyết định
3. Nhân sự
- Trình độ, kỹ năng
- Khả năng thu nạp cán bộ có trình độ
4. Tài chính
- Khả năng tài chính
- Nợ
5. Công nghệ và khả năng đầu tư
6. Thị trường
- Thị phần
- Nền tảng khách hàng
- Hình ảnh doanh nghiệp
Cách thức phản ứng của họ ra sao ?
Trước sự biến động của môi trường và thị trường, các doanh nghiệp có
thể gặp phải cơ may hay hiểm hoạ.
Nghiên cứu cơ may tập trung vào các khía cạnh như sự phát triển nhanh của những đoạn thị trường chính yếu, sự yếu kém của các đối thủ cạnh tranh, chi phí cho các kênh phân phối giảm, thế mạnh của đội ngũ làm công tác xuất khẩu và quan trọng hơn cả là những thay đổi về luật lệ và chính sách có lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Hiểm họa có thể là thị hiếu của người tiêu dùng đã chuyển sang các mặt hàng khác; đối thủ cạnh tranh mới xuất hiện và một mối hiểm hoạ lớn nhất là sự suy thoái về kinh tế của nước nhập khẩu. Việc nghiên cứu cơ may và hiểm họa trên thị trường bổ xung và hoàn thiện cho việc nghiên cứu điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp.
Đứng trước các cơ may hay hiểm họa, các doanh nghiệp khác nhau sẽ có những phản ứng không giống nhau. Nhà quản trị chiến lược kinh doanh xuất khẩu cần phải biết được các cách thức mà đối thủ cạnh tranh phản ứng trước các cơ may hay hiểm hoạ. Một cơ may xuất hiện có thể đối thủ cạnh tranh sẽ tập trung toàn bộ sức mạnh để tập trung vào khai thác và cũng chính từ đó sẽ có thể nảy sinh những điểm yếu khi cơ may của thị trường sớm chấm
dứt hoặc những đoạn thị trường khác lại bị bỏ trống hoặc bộc lộ những điểm yếu. Cũng tương tự như vậy, đứng trước các hiểm hoạ doanh nghiệp có thể bình tĩnh rút lui khỏi thị trường hoặc chủ động "lật lại" tình thế trên thị trường.
2.2 Các nhà cung cấp
Một nhân tố quan trọng khác nữa ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại là các nhà cung cấp/ nhà sản xuất. Nhà cung cấp không chỉ cung hàng hoá, nguyên liệu mà cả những công ty tư vấn, cung ứng dịch vụ quảng cáo, vận tải..., nói chung là cung cấp đầu vào của quá trình kinh doanh thương mại. Do đặc điểm của kinh doanh thương mại chủ yếu mua và bán chứ ít khi trực tiếp tham gia vào sản xuất cho nên có thể xem nhà cung cấp như một nguy cơ khi họ đòi hỏi nâng giá hoặc giảm chất lượng sản phẩm cung cấp sẽ rất khó khăn cho các doanh nghiệp thương mại trong hoạch định và triển khai thực hiện các nội dung của chiến lược kinh doanh mix khi thực hiện xuất khẩu. Ví dụ như, để thực hiện tốt chiến lược về sản phẩm xuất khẩu, đòi hỏi phải có sự nỗ lực và kết hợp chặt chẽ của cả nhà sản xuất lẫn doanh nghiệp thương mại. Ngay từ khi xây dựng chiến lược sản phẩm xuất khẩu cho từng thị trường, ngoài việc xác định nhu cầu của thị trường, khả năng của các đối thủ cạnh tranh... doanh nghiệp thương mại còn cần phải xem xét đến khả năng của đối tác quan trọng nữa, đó là các nhà cung cấp/nhà sản xuất. Doanh nghiệp cần phải biết sản phẩm của họ có đáp ứng được yêu cầu của thị trường không?, khả năng cung cấp của họ như thế nào?, công nghệ của họ ra sao?, họ có sẵn sàng thay đổi sản phẩm theo yêu cầu của mình không?, có thể lựa chọn sản phẩm thay thế của các nhà cung cấp khác hay phụ thuộc vào sản phẩm chuyên biệt của một nhà cung cấp?... Vì vậy, với tư cách là một mắt xích trong hệ thống phân phối, doanh nghiệp thương mại cần xây dựng mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ cho nhà sản xuất về vốn, công nghệ cũng như thông tin, định hướng về sản phẩm...trong quá trình hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là đối với các nhà sản xuất Việt Nam
còn đang rất yếu kém cả về vốn, công nghệ cũng như kiến thức về kinh doanh xuất khẩu. Cũng cần phải dự trù cả các nguồn cung cấp đa dạng khác nhau.
2.3 Người mua
Các doanh nghiệp thương mại cũng có thể xuất khẩu trực tiếp hoặc xuất khẩu gián tiếp. Vì vậy, đối với hai hình thức này, người mua là khác nhau. Cho dù xuất khẩu theo hình thức nào thì người mua cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng bán hàng, tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp.
Thái độ của người mua hàng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh về giá của doanh nghiệp. Thông thường, người mua hàng yêu cầu giảm giá hoặc yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm cùng với các dịch vụ đi kèm phải hoàn hảo hơn. Điều này khiến cho chi phí tăng thêm tạo nguy cơ về giá cạnh tranh. Ngoài ra còn có một số yếu tố khác như người mua có các thị hiếu, thói quen mua sắm và tiêu dùng các sản phẩm cũng khác nhau, hoặc mua hàng với số lượng lớn hay nhỏ, mua thường xuyên hoặc theo từng đợt … Đó là những yếu tố chủ chốt mà doanh nghiệp phải nghiên cứu và dự báo.
KẾT LUẬN C._.HƯƠNG I
Chương I đã khái quát những yếu tố chính của môi trường kinh doanh xuất khẩu vì nó có ảnh hưởng quan trọng tới việc hoạch định và thực thi các chiến lược kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại. Điều cần lưu ý đối với các doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu là sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp phải đúng môi trường của nó. Để có thể thâm nhập và vượt qua các rào cản trên thương trường quốc tế, doanh nghiệp xuất khẩu không những phải quan tâm tới môi trường kinh tế, chính trị và pháp lý của nước nhập khẩu mà phải chú trọng nhiều hơn đến môi trường văn hóa và những mô hình tiêu dùng, phong cách sống và phương thức mua sắm của nước sở tại. Tất nhiên, trước khi vươn tới thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp cũng cần phải lưu
tâm đến môi trường trong nước, để hoạt động xuất nhập khẩu phù hợp với chủ trương chính sách tự do hóa thương mại, tranh thủ được sự hỗ trợ của Nhà nước trong phát triển hạ tầng cơ sở kinh doanh và hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu cũng như khai thác được tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp trong môi trường tác nghiệp cụ thể.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
I- THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM (1991-2002)
1. Thực trạng chung về kinh tế
Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, mở cửa và hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới, nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng rõ rệt. Thời kỳ 1991-1995 GDP tăng bình quân 8,2%; thời kỳ
1996- 2000 tăng 6,9%. Năm 2001 GDP tăng 6,8% so với năm 2000 và năm
2002 GDP tăng 7,04% so với năm 2001. Năm 2002, nền kinh tế nước Ta phải đương đầu với một số khó khăn rất lớn, cả trong nước và ngoài nước. Chính phủ có nhiều biện pháp cụ thể, tập trung khắc phục hậu quả của thiên tai, hạn hán, ổn định sản xuất và đời sống dân cư; đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu, giải quyết một số vấn đề bức xúc của xã hội. (Số liệu chi tiết tại bảng 1).
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng GDP (% so với năm trước) thời kỳ 1991-2002
Năm
Tổng số
Chia ra
Nông, lâm, thuỷ sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
1991
5,81
2,18
7,71
7,38
1992
8,70
6,88
12,79
7,58
1993
8,08
3,28
12,62
8,64
1994
8,83
3,37
13,39
9,56
1995
9,54
4,80
13,60
9,83
1996
9,34
4,40
14,46
8,80
1997
8,15
4,33
12,62
7,14
1998
5,76
3,53
8,33
5,08
1999
4,77
5,23
7,68
2,25
2000
6,75
4,04
10,07
5,57
2001
6,80
2,70
10,40
6,10
2002
7,04
5,40
14,50
7,00
Nguồn: Kinh tế Việt Nam và thế giới- Thời báo kinh tế Việt Nam
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nước ta đã thu được một số kết quả về sản xuất và xuất khẩu nông sản như: sản lượng lương thực bình quân mỗi năm
tăng 1,1 triệu tấn. Năm 2001 đạt 34,3 triệu tấn, năm 2002 đạt 36,4 triệu tấn tăng 2,1 triệu tấn, đưa sản lượng lương thực bình quân đầu người từ 294,9 kg (1990) lên hơn 450kg năm 2002, từ chỗ thiếu lương thực tiến tới đã có đủ lương thực tiêu dùng trong nước, có nguồn dự trữ và còn xuất khẩu được với số lượng lớn. Về xuất khẩu gạo, Việt nam liên tiếp giữ vững vị trí nước đứng thứ 2 trên thế giới: năm 1999 xuất khẩu 4,5 triệu tấn; năm 2000 xuất khẩu 3,5 triệu tấn gạo; năm 2001 xuất khẩu 3,6 triệu tấn và năm 2002 xuất khẩu 2,8 triệu tấn gạo.
- Sản lượng hàng năm của một số cây công nghiệp tăng khá như cà phê:
20,8%, cao su: 16,7%, chè: 6,2%, Rau: 5,6% và quả 2,4%/năm. Các mặt hàng như cà phê, cao su và chè đã trở thành 1 trong 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam.
- Ngành thuỷ sản tuy chỉ chiếm 10-11% giá trị sản lượng nông nghiệp, nhưng với mức sản lượng tăng bình quân hàng năm 8,5% đã trở thành một ngành xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp và khoảng 9-10% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Năm 2002 xuất khẩu thuỷ hải sản đạt 2.024 triệu USD, tăng 13,9% so với năm 2001 và bằng
96,4% kế hoạch năm.
- Ngành lâm nghiệp với việc thực hiện chương trình trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng đạt nhiều kết quả. Trong 8 năm (1991-1998) đã trồng được
1,373 triệu ha rừng, bảo vệ được 9,3 triệu ha rừng hiện có, khoanh nuôi, tái sinh rừng được 700 nghìn ha. Độ che phủ tăng từ 28,2% (1995) lên khoảng
32% năm 2000. Năm 2002 sản xuất lâm nghiệp tăng chậm, ước tính giá trị sản xuất lâm nghiệp chỉ tăng 0,2% so với năm 2001. Diện tích trồng rừng tập trung ước tính chỉ bằng 99,1% năm 2001; sản lượng gỗ khai thác tăng 1,3%. Công tác quản lý rừng chưa được tốt, tình trạng chặt phá rừng vẫn tái diễn và đặc biệt xảy ra cháy rừng trên phạm vi rộng.
- Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp đã tăng nhanh. Năm
1990 là 1,106 tỷ USD, năm 1998 là 4,394 tỷ USD, năm 2000 là 4,1 tỷ USD, chiếm 28,7% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Bình quân thời kỳ 1991-2000
tăng 15%. Sản phẩm nông nghiệp Việt Nam có mặt ở thị trường nhiều nước trong khu vực và thế giới, một số sản phẩm đã chiếm được thị phần lớn trên thị trường quốc tế như gạo chiếm khoảng 20% thị phần thế giới (sau Thái Lan); Cà phê chiếm khoảng 10% thị phần thế giới (sau Braxin, Columbia); Hạt điều đứng thứ 2 chỉ sau Ấn Độ. Một số sản phẩm nông nghiệp đã xâm nhập được vào các thị trường Nhật Bản (rau, quả), Hồng Kông, Xingapo (lợn sữa); Mỹ (dứa hộp); EU (thuỷ sản)…
Các ngành công nghiệp có mức tăng trưởng cao đã tác động tốt đến sự
tăng trưởng GDP của cả nước.
- Công nghiệp quốc doanh được tổ chức sắp xếp lại, đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị đã có bước tiến đáng kể. Giá trị sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng bình quân trong 10 năm (1991-2000) là 11,7%, trong đó thời kỳ 5 năm (1991-1995) tăng bình quân 13,4%, thời kỳ 5 năm (1996-2000) tăng bình quân 10%. Năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,5%, vượt mức kế hoạch.
- Công nghiệp ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển trong lĩnh vực mà Nhà nước không cấm với mọi quy mô và trên tất cả các địa bàn. Giá trị sản lượng sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh tăng bình quân 10 năm (1991-2000) là 9,15% trong đó thời kỳ 5 năm (1991-1995) tăng bình quân 10,60% thời kỳ 5 năm (1996-2000) tăng bình quân 7,7%. Năm 2001 đạt mức tăng 20,3 %, cao nhất từ trước đến nay và cao hơn nhiều so với hai khu vực còn lại là khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh trong 10 năm qua, đóng góp đáng kể trong việc nâng cao trình độ công nghiệp, trình độ quản lý và làm đa dạng hóa các sản phẩm của công nghiệp trên thị trường. Giá trị sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình quân 10 năm qua tăng 22,3%, trong đó thời kỳ 5 năm (1991-1995) tăng bình quân 24,20%, thời kỳ 5 năm (1996-2000) tăng 20,4%. Năm 2001 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chỉ đạt mức tăng là 12,1%.
- Công nghiệp chế tác phát triển khá và chiếm gần 80% giá trị toàn ngành. Công nghiệp khai thác chiếm khoảng 14%; trong đó công nghiệp khai thác than, khai thác dầu thô và khí tự nhiên, khai thác quặng kim loại đều phát triển khá. Công nghiệp điện, ga, nước chiếm khoảng 6%.
- Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá, đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước, không những đã thay thế được hàng nhập khẩu, tiết kiệm được ngoại tệ mà còn đóng góp đáng kể vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất
nước.
+ Dầu thô: Sản lượng năm 1990 là 2,7 triệu tấn, 1998 là 12,3 triệu tấn,
1999 là 15 triệu tấn, năm 2000 là 16,3 triệu tấn và năm 2001 đạt 17,6 triệu tấn. Ngoài ra, bắt đầu từ năm 1995 đã đưa khí đồng hành vào bờ phục vụ phát điện với sản lượng 1999 đạt 1,2 tỷ m3 và năm 2000 đạt 1,5 tỷ m3. Năm 2002 nước Ta xuất khẩu 16,864 triệu tấn dầu thô, ước đạt 3,270 tỷ USD, tăng 0,8% về lượng và 4,6% về trị giá. Dầu khí là một trong lĩnh vực có tốc độ phát triển cao nhất trong toàn ngành công nghiệp và đã trở thành một trong những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
+ Điện: Các công trình nguồn tăng nhanh, tổng công suất ngành điện khoảng gần 3.500 Mw, sản lượng điện phát ra năm 1999 tăng gấp hơn 2 lần so với năm 1990 (Năm 1990 là 8,79 tỷ Kw, năm 1999 là 24,38 tỷ Kw, năm
2000 là 26,6 tỷ Kw). Với công suất và sản lượng điện như hiện nay đã đảm bảo cung cấp đủ và ổn định cho các nhu cầu của nền kinh tế. Các công trình lưới điện được đầu tư đồng bộ và bám sát các mục tiêu quan trọng phục vụ sản xuất, an ninh quốc phòng cũng như các mục tiêu xã hội. Năm 2000 đạt mục tiêu 100% số huyện, 80% số xã - phường có điện.
+ Than: từ mức 4,62 triệu tấn than sạch năm 1990, năm 1997 đạt sản lượng khoảng đạt 11,27 triệu tấn (xuất khẩu trên 3,7 triệu tấn). Do nhu cầu than trong nước không tăng, tồn kho lớn, thị trường xuất khẩu (chủ yếu là Nhật bản) có biến động nên trong năm 1998 sản lượng phải giảm xuống 10,59
triệu tấn (xuất khẩu 3,5 triệu tấn). Năm 2000 sản lượng đạt 11 triệu tấn, xuất khẩu khoảng 3,5 triệu tấn.
+ Thép: Từ hai khu liên hợp luyện cán thép Thái nguyên và Biên hòa trước đây, Việt Nam đã xây dựng ngành luyện, cán thép khá phong phú, hiện đại từ các nguồn vốn khác nhau: vốn liên doanh, liên kết, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn vay … Đến nay, công suất thiết kế vào khoảng gần 2 triệu tấn thép cán; sản lượng thép thương phẩm năm 1999 là 1,3 triệu tấn và năm 2000 là 1,6 triệu tấn. Sản lượng phôi thép tương ứng năm 1999 là 250.000 tấn (năm 1990 chỉ sản xuất 140.000 tấn thép thương phẩm và 100.000 tấn phôi thép). Nhìn chung, hiện nay ngành thép đã đảm bảo cung cấp đủ các loại thép xây dựng thường cho các nhu cầu tiêu dùng và sản xuất.
+ Xi măng: Năm 1999 tổng công suất thiết kế của các nhà máy xi măng đạt 18 triệu tấn, năm 2000 đạt 22 triệu tấn. Tuy vậy, do thị trường hạn hẹp, năm 2000 sản xuất chỉ đạt 13,3 triệu tấn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước.
+ Vải: Năm 1990 sản xuất 318 triệu mét, sau đó liên tục giảm sút, đến năm 1994 còn 222 triệu mét, nhưng sau đó lại tăng dần, đến năm 2000 đạt
379 triệu mét, năm 2001 đạt khoảng 387 triệu mét. Sản xuất vải trong nước đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu về các loại vải thông thường và một phần các loại vải cao cấp cho tiêu dùng trong nước.
2. Thực trạng về xuất khẩu:
a- Qui mô, tốc độ
Tổng hợp số liệu về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt nam thời kỳ 1991-2002 (bảng 2) cho ta thấy bức tranh về quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu như sau:
- Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1991-1995 là 39,879 tỷ USD. Hai năm 1996-1997 đạt là 38,553 tỷ USD, gần bằng cả thời kỳ 1991-1995. Năm 1998 là năm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực nhưng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn đạt 20,855
tỷ USD trong đó xuất khẩu 9,361 tỷ USD, nhập khẩu là 11,494 tỷ USD. Năm
2000 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 30,09 tỷ USD trong đó xuất khẩu là
14,45 tỷ USD, nhập khẩu là 15,64 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người năm 1991 khoảng 30 USD/ người, năm 1997 đạt 116 USD/người và năm 2000 đạt 180 USD/người. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt
180USD/người, là mức của quốc gia có nền ngoại thương phát triển bình thường.
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm của thời kỳ
1991-1995 là 17,8%. Năm 1998 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực, hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trong hoàn cảnh hết sức khó khăn nên kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 1,9% so với năm 1997, năm
2001 tăng 3,8% so với năm 2000 và năm 2002 tăng 10% so với năm 2001.
- Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu bình quân hàng năm của thời kỳ
1991-1995 là 24,3%. Năm 2000 kim ngạch nhập khẩu đạt 15,63 tỷ USD lớn hơn năm 1999 1,13 tỷ USD. Năm 2001 kim ngạch nhập khẩu đạt 16,2 tỷ USD lớn hơn năm 2000 0,57 tỷ USD. Năm 2002 kim ngạch nhập khẩu đạt 19,3 tỷ USD lớn hơn năm 2001 3,1 tỷ USD.
Các thành phần kinh tế tham gia trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa cũng có sự thay đổi. Ở thời kỳ bao cấp, Nhà nước độc quyền trong hoạt động ngoại thương, các thành phần kinh tế khác không được tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu. Khi thực hiện chính sách kỳ đổi mới, với việc ban hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP Nhà nước đã cho phép thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo qui định của pháp luật được phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đặc biệt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tham gia tích cực vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và có tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch.
b- Cơ cấu xuất nhập khẩu.
Qua bảng số liệu tại bảng 3 cho thấy, nếu năm 1991 hoạt động xuất nhập khẩu được thực hiện chủ yếu bởi các doanh nghiệp trong nước thì đến năm 2002 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã nhập khẩu bằng
34,2% tổng kim ngạch nhập khẩu và đã xuất khẩu được bằng 47,0% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Bảng 2: Hoạt động xuất nhập khẩu thời kỳ 1991-2002
Năm
Tốc độ
tăng
GDP
Kim ngạch xuất khẩu
Tốc độ tăng xuất khẩu
GDP
Xuất khẩu
so với
GDP
Kim ngạch nhập khẩu
Tốc độ tăng nhập khẩu
Cân đối cán
cân thương mại
Nhập siêu
so với xuất khẩu
(%)
(Tr. USD)
(%)
(Tr. USD)
(%)
(Tr. USD)
(%)
(XK-NK)
(%)
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998`
1999
2000
2001
2002
1991-1995**
1996-2000**
1991-2000**
6,0
8,6
8,1
8,8
9,5
9,3
8,2
5,8
4,8
6,7
6,8
7,04
8,2
6,9
7,6
2.087
2.581
2.985
4.054
5.449
7.255
9.185
9.361
11.540
14.455
15.027
16.530
17.156
51.796
68.952
-13,2
23,7
15,7
35,8
34,4
33,1
26,6
1,9
23.3
25,3
3,8
10,0
17,8
21,5
19,6
15.620
16.970
18.340
19.960
21.850
23.880
25.840
27.340
28.650
30.570
32.648
34.946
92.740
136.280
229.020
13,4
15,2
16,3
20,3
24,9
30,4
35,5
34,2
40,3
47,3
46,03
47,3
18,5
38,0
30,1
2.338
2.541
3.924
5.826
8.155
11.143
11.592
11.527
11.622
15.639
16.200
19.300
22.784
61.523
84.307
-15,1
8,7
54,4
48,5
40,0
36,6
4,0
-0,6
0,8
34,6
3,4
19,4
24,3
12,1
19
-251
40
-939
-1.772
-2.706
-3.888
-2.407
-2.166
-82
-1.184
-1.173
-2.770
-5.628
-9.727
-15.355
12,0
-
31,5
43,7
49,7
53,6
26.2
23,1
0,7
8,2
7,8
16,8
32,8
18,8
22,3
Ghi chú (*): Năm sau so với năm trước; (**): Tăng trưởng bình quân. Nguồn: Niên giám thống kê.
Bảng 3: Tổng mức và cơ cấu xuất, nhập khẩu của các loại doanh nghiệp.
Chỉ tiêu
1991
1992
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
I. Tổng kim ngạch xuất khẩu
(Triệu USD)
2087
2581
5449
7255
9185
9361
11540
14455
15027
16530
Trong đó:
- Doanh nghiệp trong nước
(Triệu USD) (tỷ trọng %)
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Triệu USD) (tỷ trọng %)
1506
72,2
581
27,8
1663
64,4
918
35,6
3976
73,0
1473
27,0
5123
70,6
2132
29,4
5972
65,0
3213
35,0
6146
65,6
3215
34,4
6858
59,4
4682
40,6
7645
52,9
6810
47,1
8226
54,7
6801
45,3
8761
53,0
7769
47,0
II. Tổng kim ngạch nhập khẩu
(Triệu USD)
2338
2541
8155
11143
11592
11527
11622
15639
16200
19300
Trong đó:
- Doanh nghiệp trong nước
(Triệu USD) (tỷ trọng %).
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Triệu USD) (tỷ trọng %)
2338
100
2541
100
6687
82,0
1468
18,0
9100
81,7
2043
18,3
8396
72,4
3196
27,6
8859
76,8
2668
23,2
8240
70,9
3382
29,1
11287
72,2
4352
27,8
11216
69,2
4984
30,8
12696
65,8
6604
34,2
Nguồn: Niên giám thống kê 2001
Báo cáo tổng kết năm 2002 của Bộ Thương mại.
Tuy mới tham gia vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có mức tăng trưởng nhanh. Nếu như thời kỳ 1988-1991 chưa tính kim ngạch xuất khẩu dầu thô thì mới chỉ xuất khẩu được 52 triệu USD, năm 1992 lên 112 triệu USD, năm 1995 lên 440 triệu USD, năm 1999: 2,45 tỷ USD, năm 2000: 3,2 tỷ USD (Nếu tính cả xuất khẩu dầu thô đạt 6,73 tỷ USD, chiếm trên 47% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước). Khoảng 75% kim ngạch xuất khẩu này là các hàng đã chế biến, dùng lao động, công nghệ tạo ra giá trị mới, trong đó giầy dép và may mặc chiếm khoảng 35% và đã có một số mặt hàng chứa hàm lượng kỹ thuật cao như hàng điện tử, máy và khí cụ công nghiệp …
Xét cơ cấu hàng hóa xuất khẩu cho thấy đã có sự chuyển dịch đáng kể. Trong tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu năm 1991, nước ta xuất khẩu 33,4% là hàng hoá thuộc ngành công nghiệp nặng và khoáng sản; 14,4% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; 30,1% là hàng nông sản; 8,4% là hàng lâm sản và 13,7% là hàng thuỷ sản. Đến năm 2000, tỷ lệ đó của các nhóm hàng tương ứng là 35,6%; 34,3%; 19,8% (bao gồm cả lâm sản) và 10,3%. Tuy nhiên trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu tỷ lệ hàng thô và sơ chế còn chiếm gần 60%, tỷ lệ hàng thuỷ sản tuy giảm đi nhưng tổng lượng xuất khẩu không ngừng tăng lên, từ 285 triệu USD năm 1991 đã lên đến 1.475 triệu USD vào năm 2000 và năm 2002 kim nghạch xuất khẩu thủy hải sản của cả nước đạt
2.024 triệu USD, tăng 13,8% và bằng 96,4% kế hoạch năm (Số liệu chi tiết
được trình bày ở bảng 4).
Đối với lĩnh vực nhập khẩu, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu đã có sự chuyển dịch. Năm 1991, tỷ lệ nhập khẩu máy móc và thiết bị là 21,8%; nguyên nhiên vật liệu là 66,9% và hàng tiêu dùng là 11,3%. Đến năm 2000, tăng tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị lên đến 30,9%, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu xăng dầu xuống 63,8%, giảm tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng xuống còn 5,3%. Năm 2002, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu có sự chuyển dịch: nhóm hàng chủ yếu chiếm 66,4%, giảm 1,6% và nhóm hàng hóa
khác chiếm 33,6%, tăng 1,6%, hàng tiêu dùng (theo danh mục Nhà nước quản lý nhập khẩu) chiếm 2,5%, giảm 0,1% (Số liệu chi tiết trình bày ở bảng 5).
Bảng 4: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu phân theo nhóm hàng
Đơn vị tính: %
Chia ra
Chỉ tiêu
Tổng số
CN nặng và
khoáng sản
CN nhẹ và
TTCN
Nông sản
Lâm sản
Thuỷ sản
1991
100,0
33,4
14,4
30,1
8,4
13,7
1992
100,0
37,0
13,5
32,1
5,5
11,9
1993
100,0
34,0
17,6
30,8
3,3
14,3
1994
100,0
28,8
23,1
31,6
2,8
13,7
1995
100,0
25,3
28,5
32,0
2,8
11,4
1996
100,0
28,7
29,0
29,8
2,9
9,6
1997
100,0
28,0
36,7
24,3
2,5
8,5
1998
100,0
27,9
36,6
24,3
2,0
9,2
1999
100,0
31,0
36,3
24,3(*)
8,4
2000
100,0
35,6
34,3
19,8(*)
10,3
2001
100,0
45,3
43,4
5,82
0,79
4,7
2002
100,0
(*) Bao gồm cả lâm sản
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001,
Báo cáo tổng kết của Bộ Thương mại năm 2002
Bảng 5: Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu phân theo nhóm hàng
Đơn vị tính: %
Chỉ
tiêu
Tổng số
Chia ra
Tư liệu sản xuất
Hàng tiêu dùng
Tổng số
Chia ra
Th.bị toàn bộ và máy móc
dụng cụ phụ tùng
Nguyên nhiên
vật liệu
1991
100,0
88,7
21,8
66,9
11,3
1992
100,0
85,4
21,5
63,8
14,6
1993
100,0
85,7
23,5
62,2
14,3
1994
100,0
83,2
29,5
53,7
16,8
1995
100,0
84,8
25,7
59,1
15,2
1996
100,0
87,6
27,6
60,0
12,4
1997
100,0
89,9
30,3
59,6
10,1
1998
100,0
91,5
30,5
61,0
8,5
1999
100,0
93,6
30,1
63,5
6,4
2000
100,0
94,7
30,9
63,8
5,3
2001
100,0
97,4
25,5
68,0
2,6
2002
100,0
97,5
31,1
66,4
2,5
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2001,
Báo cáo tổng kết của Bộ Thương mại năm 2002.
Tuy nhiên, khi phân tích kỹ cơ cấu của từng nhóm hàng nhập khẩu cũng xuất hiện một số vấn đề nổi cộm trong cơ cấu hàng nhập khẩu. Một là, trong nhóm máy móc, thiết bị được nhập khẩu còn có nhiều máy móc và thiết bị lạc hậu (điển hình là máy móc thiết bị cho chương trình mía đường và xi măng). Hai là, trong nhóm nguyên nhiên vật liệu còn có một tỷ trọng đáng kể các loại nguyên, vật liệu trong nước có khả năng sản xuất nhưng vẫn nhập khẩu (nguyên liệu, phụ liệu cho ngành may mặc và giầy dép, nguyên liệu cho ngành giấy …) Ba là, trong cơ cấu hàng tiêu dùng còn có nhiều hàng hóa là hàng đã qua sử dụng, hàng hạn chế nhập khẩu (rượu, thuốc lá điếu…) và hàng cấm nhập khẩu (đồ chơi trẻ em thiếu tính giáo dục, kích động bạo lực). Bên cạnh đó tình trạng nhập lậu qua biên giới các loại hàng hóa kém chất lượng vẫn tiếp tục gia tăng.
c- Cơ cấu thị trường.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu chuyển dịch theo hướng đa phương hóa thị trường, mở rộng phạm vi quan hệ, vì vậy: thị trường Châu Âu và Châu Mỹ tăng dần, thị trường Châu Á giảm dần.
- Thị trường hàng hóa của Việt Nam đã có những thay đổi lớn trong thời kỳ 1991-2000, bảo đảm được tiêu thụ hàng hoá của Việt Nam khi thị trường truyền thống là Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã. Vào năm 1985 khu vực Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu còn chiếm tới 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta, nhưng đến năm 1990 tỷ lệ này xuống còn khoảng 42,4%; năm 1991 giảm mạnh, chỉ còn
11,1%, năm 1995 còn 2,5% và từ năm 1998 đến nay chỉ còn chiếm xấp xỉ 2% kim ngạch xuất khẩu. Ngược lại, khu vực Châu Á đã nhanh chóng trở thành thị trường xuất khẩu chính của ta, năm 1991 đã vọt lên gần 77%, tuy những năm sau này, nhờ nỗ lực khai thông hai khu vực thị trường mới là EU và Bắc
Mỹ, tỷ trọng của Châu Á đã giảm dần nhưng vẫn còn rất cao (hơn 62,9% vào năm 1998 và 58,4% vào năm 2000). Vị trí của thị trường EU đã tăng đáng kể.
- Trong số các nước Châu Á thì Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn. Trong thời kỳ 1991-1995, Nhật Bản thường xuyên chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta nhưng tỷ trọng thị trường Nhật giảm đều qua các năm. Tới năm 1998 chỉ còn chiếm 15,8% kim ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng của các nước ASEAN, ngược lại, không có sự thay đổi lớn trong suốt thời kỳ 1991-
1995 (Năm 1991 chiếm 25,1%, năm 1998 cũng chiếm 25,1% và đến năm
1999 chỉ còn 21,3%). Tỉ trọng của ASEAN chỉ có sự thay đổi lớn khi xem xét cả kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Nếu xét theo tiêu chí này thì tỷ trọng của ASEAN tăng đều qua các năm. Cụ thể, năm 1985 khối này mới chiếm
2,4% kim ngạch xuất, nhập khẩu của ta nhưng tới năm 1990 đã tăng lên
16,5%, năm 1995 là 24% và tới năm 1998 đã là 27,6%. Năm 2002 kim nghạch xuất khẩu của Việt nam vào ASEAN đạt khoảng 2.249 triệu USD; dự báo năm 2003 đạt khoảng 2.763 triệu USD.
- Tỷ trọng của EU nói riêng và của Châu Âu nói chung tăng khá đều trong những năm qua. Cụ thể, năm 1991 EU mới chiếm 5,7% kim ngạch xuất khẩu của ta nhưng tới năm 1999 đã chiếm tới 21,7%, năm 2000 khoảng
24,2% góp phần đưa tỷ trọng của Châu Âu lên tới gần 28%. Bước đột biến trong quan hệ thương mại với EU đến vào năm 1992, khi ta ký với EU hiệp định khung về buôn bán hàng dệt may. Kim ngạch xuất khẩu sang EU đã tăng rất nhanh trong thời gian sau đó: năm 1990 ta mới xuất được 147 triệu USD sang EU thì năm 1995 đã tăng lên thành 672 triệu USD và tới năm 1998 đã là
2.116 triệu USD và năm 2002 Việt nam đã xuất trên 3 tỷ USD, tăng 21 lần so với năm 1990. Đặc biệt, đây là thị trường mà ta thường xuyên xuất siêu.
- Quan hệ thương mại với Bắc Mỹ, trong đó chủ yếu là Hoa Kỳ, đã có bước phát triển nhanh kể từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ vào năm 1995. Trước năm 1995, Việt Nam hầu như không có kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Tới năm 1995, năm đầu tiên bình thường hoá quan hệ, kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ đã đạt 170 triệu USD, đưa tỷ trọng của Hoa
Kỳ từ 0% lên 3,1%. Đến năm 1998, dù chưa ký được Hiệp định thương mại và hàng xuất của ta còn gặp nhiều khó khăn trên thị trường Hoa Kỳ do chưa được hưởng quy chế MFN, kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ vẫn đạt 469 triệu USD, chiếm 5% kim ngạch xuất khẩu. Ngày 10 tháng 12 năm 2001 Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kỳ bắt đầu có hiệu lực. Năm 2002 xuất khẩu của Việt nam sang Hoa Kỳ đạt 2,35 tỷ USD, tăng trên 220% so với năm
2001, vượt kế hoạch đề ra là 1,8 tỷ USD. Đa số các mặt hàng đều có kim ngạch tăng cao so với năm 2001. Tuy nhiên, về cơ cấu mặt hàng có nhiều thay đổi, nhóm hàng thủy sản có vị trí tương đối giảm do tốc độ tăng kim ngạch chậm hơn một số nhóm hàng khác.
- Xuất khẩu sang thị trường Châu Đại Dương (chủ yếu Ôxtrâylia) cũng đã có tiến bộ trong thời kỳ 1991-1999. Tỷ trọng của thị trường này trong xuất khẩu của Việt Nam đã tăng từ 0,2% vào năm 1991 lên 5,3% vào năm 1998 và năm 1999. Đây là thị trường có môi trường kinh tế và chính trị thuận lợi và ổn định, các chính sách khá rõ ràng, minh bạch. Cả Ôxtrâylia và New Zealand đều muốn mở rộng sự ảnh hưởng và đẩy mạnh hợp tác với ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu của Việt nam vào thị trường này năm 2002 đạt khoảng 1.350 triệu USD, tăng từ 7,2% lên 8,1% so với năm 2001.
- Thị trường Châu Phi và Nam Mỹ không có biến chuyển rõ rệt trong cả thời kỳ, năm 1999 chiếm chưa đầy 1% kim ngạch xuất khẩu của ta và cho tới năm 2001 chỉ chiếm hơn 1,2% kim ngạch xuất khẩu của Việt nam.
II- ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG KINH DOANH XUẤT KHẨU
1. Môi trường chính sách vĩ mô
Để thực hiện chủ trương đổi mới phương thức quản lý hoạt động ngoại thương từ Nhà nước độc quyền sang Nhà nước quản lý thống nhất hoạt động ngoại thương. Ngày 7/4/1992 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số
114-HĐBT về quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Việc ban hành Nghị định này nhằm khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu, định hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản xuất và tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản
xuất trong nước, nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế
thương mại với nước ngoài.
Để phù hợp và đáp ứng những nhu cầu mới của nền kinh tế - xã hội, phạm vi hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu theo qui định của Nghị định 114- HĐBT được mở rộng không chỉ là xuất nhập khẩu hàng hóa, thiết bị toàn bộ và các hình thức tạm nhập - tái xuất, tạm xuất - tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, đầu tư, chuyển giao sở hữu công nghiệp, gia công chế biến hàng hoá và bán thành phẩm cho nước ngoài hoặc thuê nước ngoài gia công, chế biến, uỷ thác và nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu cho nước ngoài, đại lý mua bán hàng hóa.
Nghị định này tiếp tục khẳng định mọi hoạt động xuất nhập khẩu được tiến hành dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước thông qua luật pháp, chính sách (trước hết là chính sách mặt hàng, chính sách thuế, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, tôn trọng và phù hợp với luật pháp quốc tế; các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải được tự chủ kinh doanh theo cơ chế thị trường đồng thời phải bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nước.
Về chính sách hàng hóa xuất nhập khẩu: theo Nghị định này, mọi hàng hoá đều được tự do xuất khẩu, nhập khẩu và chịu sự điều tiết bằng thuế theo luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu, trừ danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, danh mục hàng xuất khẩu, nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch, danh mục vật tư thiết bị chuyên dùng - còn chịu sự quản lý hành chính của Nhà
nước.
Về chính sách đối tượng kinh doanh xuất nhập khẩu: Mọi doanh nghiệp đều có thể được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bảo đảm một số điều kiện và chỉ phải nộp lệ phí một lần:
- Đối với doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu phải là doanh nghiệp được thành lập theo đúng luật định và cam kết hoạt động theo đúng pháp luật; hoạt động theo đúng ngành hàng đăng ký; doanh nghiệp phải có vốn lưu động tối thiểu bằng tiền Việt Nam tương đương 200.000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu, số vốn này phải được xác nhận về
mặt pháp lý (Nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 cho phép một số doanh nghiệp ở khu vực khó khăn và kinh doanh một số mặt hàng khuyến khích có thể xét cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu nếu vốn lưu động ở mức 100.000
USD).
- Đối với doanh nghiệp sản xuất, chỉ cần thành lập theo đúng pháp luật và cam kết hoạt động theo pháp luật, có hàng xuất khẩu, không kể mức vốn lưu động, không kể kim ngạch nhiều hay ít, không phân biệt thành phần kinh tế, đều có thể được xuất khẩu hàng hóa do mình sản xuất, nhập khẩu vật tư nguyên liệu cần thiết cho sản xuất của doanh nghiệp.
Về chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu: Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, nếu dùng lợi nhuận đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu thì được giảm thuế lợi tức. Các doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu được xét giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức trong thời gian sản xuất ban đầu; các doanh nghiệp gia công hàng hoá cho nước ngoài được nhập khẩu miễn thuế thiết bị vật tư cho nhu cầu gia công, tiền công làm hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu.
Rõ ràng, sau nhiều lần sửa đổi chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước ta định hướng mạnh mẽ vào mở rộng hợp tác giao lưu kinh tế với thế giới, chuyển một cách rất cơ bản từ Nhà nước độc quyền ngoại thương sang Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương.
Các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu: Theo qui định của Nhà nước Bộ Thương mại là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Ngày 9/4/1992, Bộ Thương mại đã ra thông tư số 03- TMDL/XNK hướng dẫn về việc giao cho một số doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu một số hàng hoá chủ yếu, xác định các doanh nghiệp làm đầu mối kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trong xu thế hợp tác và mở cửa cũng như căn cứ vào nhu cầu trao đổi hàng hoá qua biên giới, chúng ta đã có chủ trương mở rộng giao lưu hàng hóa và xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới nhằm đảm bảo thông thương và
phát triển thị trường các vùng biên giới phía Bắc và Tây Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng núi, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Để tiếp tục đổi mới chính sách thị trường lưu thông hàng hoá và chính sách xuất khẩu qua biên giới, ngày 25/3/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ra chỉ thị số 94/CT về tổ chức và quản lý thị trường vùng biên giới Việt - Trung. Bộ Thương mại đã có thông tư hướng dẫn số 05 -TMDL/QLTT. Thông tư này đã qui định cho phép hàng hoá trao đổi qua biên giới trên đất liền Việt - Trung có thể là hàng mậu dịch xuất nhập khẩu hoặc hàng trao đổi của cư dân biên giới (bao gồm cả xuất nhập khẩu tiểu ngạch). Mậu dịch xuất nhập khẩu do các doanh nghiệp xuất nhập khẩu (đã được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu) được thực hiện thông qua các cửa khẩu biên giới trên cơ sở tuân thủ các hiệp định thương mại Việt Nam - Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, do các biện pháp kiểm soát không chặt chẽ, nhiều lô hàng có giá trị lớn hàng chục thậm chí hàng trăm triệu đồng đã được nhập qua biên giới dưới hình thức tiểu ngạch.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và yêu cầu đẩy mạnh xuất nhập khẩu đòi hỏi phải có chính sách nới lỏng, mở rộng và khuyến khích hơn nữa đối với kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/1998/NĐ-CP cho phép mọi doanh nghiệp không phân biệt thương mại hay._.ợp với thị trường Nhật. Vì vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu cao su vào Nhật, cần nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm trong ngành cao su, giảm tỷ trọng cao su 3L, tăng tỷ trọng của cao su 3R và cao su RSS.
Các mặt hàng rau quả, thực phẩm chế biến và chè xanh là những mặt hàng hoàn toàn có khả năng thâm nhập và đứng vững trên thị trường Nhật, Việt Nam mới bán được cho Nhật khoảng 7-8 triệu USD rau quả 1 năm, chiếm chưa đầy 0,3% thị phần. Tiềm năng phát triển các mặt hàng này là rất lớn bởi người Nhật có nhu cầu cao về một số loại rau quả được trồng phổ biến ở nước ta. Do thực phẩm nhập khẩu vào Nhật phải qua các khâu kiểm tra hết sức khắt khe về vệ sinh thực phẩm nên ngoài việc thực hiện các biện pháp đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh của Nhật, các doanh nghiệp nên chú trọng hợp tác liên doanh với Nhật để đáp ứng đúng thị hiếu tiêu dùng.
Đồ gốm sứ cũng là mặt hàng có tiềm năng phát triển rất lớn tại thị
trường Nhật. Đồ gốm sứ của Việt Nam đã có mặt tại Nhật Bản nhưng kim
ngạch còn nhỏ (khoảng 5 triệu USD/năm) dù thuế xuất nhập khẩu đồ gốm sứ rất thấp (0-3%). Đây là mặt hàng ta có thể nâng kim ngạch lên mức độ cao nếu các nhà sản xuất quan tâm hơn nữa đến khâu tạo hình và đặc điểm của hệ thống phân phối trên thị trường Nhật.
Sản phẩm Gỗ cũng có thể thâm nhập tốt vào thị trường Nhật, Người Nhật có nhu cầu sử dụng đồ gỗ khá lớn. Đây là mặt hàng ta có lợi thế, lại không phải qua kiểm dịch và kiểm tra vệ sinh nên các doanh nghiệp cần tận dụng. Sự chuyển hướng sang thị trường Nhật sẽ giúp các doanh nghiệp tránh được các quy định ngày càng khắt khe của EU và Mỹ về bảo vệ rừng, tận dụng được nguồn gỗ nhập khẩu từ Lào và Campuchia (một số nước EU không chấp nhận mua sản phẩm làm từ gỗ Campuchia).
* Thị trường Trung Quốc:
Trong thời gian tới đây để mở rộng thị trường, giải pháp phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc như sau:
- Tiếp tục tăng cường quan hệ thương mại với Trung Quốc. Đẩy mạnh quan hệ buôn bán với các công ty lớn theo tập quán quốc tế. Đối với buôn bán biên giới, cần có sự tổ chức tốt hơn bởi đây là đầu ra của hàng loạt mặt hàng khó xuất (hoặc tạm thời khó xuất).
- Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh tạm nhập - tái xuất và kinh doanh chuyển khẩu với khách hàng Trung Quốc nhưng có biện pháp để đảm bảo an toàn hàng hoá và an toàn thanh toán cho các hoạt động này.
- Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu biện pháp tăng cường vai trò của các ngân hàng thương mại trong hoạt động thanh toán mậu dịch biên giới. Vấn đề hàng đầu hiện nay chưa phải là đồng tiền thanh toán mà là thanh toán qua ngân hàng để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các lô hàng xuất khẩu.
Hoạch định kế hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, xây dựng các chợ biên giới để định hướng hoạt động cho các mô hình tổ chức thị trường vùng biên giới, đảm bảo lợi ích của ta.
Các mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian tới
đây sẽ là: cao su, hải sản, rau quả, hạt điều, dầu thực vật và hàng bách hoá.
Trung Quốc là nước nhập khẩu cao su lớn trên biên giới, hàng năm có nhu cầu nhập khẩu từ 800 ngàn đến 1 triệu tấn cao su thiên nhiên và cao su tổng hợp. Hiện nay Trung Quốc là bạn hàng mua cao su số 1 của Việt Nam, do thị trường Trung Quốc chấp nhận sử dụng các sản phẩm cao su được làm từ mủ cao su chất lượng trung bình. Chất lượng cao su 3L, của ta đáp ứng được nhu cầu của Trung Quốc, lại có giá thấp hơn chủng loại RSS nên thay vì mua RSS, Trung Quốc chuyển sang mua cao su 3L của Việt Nam. Hiện nay phía Trung Quốc đang mở cửa thị trường cao su theo các cam kết với các nước trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Theo Tổng Công ty Cao su thì hàng năm có thể tiêu thụ 100.000 tấn cao su sang Trung Quốc.
Lượng hải sản tiêu thụ sang Trung Quốc đang tăng với tốc độ cao, Trung Quốc mua của ta một số lượng lớn các loại hải sản khô (mực khô, cá khô), chủ yếu qua đường biên mậu. Do đó có thể đẩy mạnh xuất khẩu cả hải sản đông lạnh và hải sản khô vào Trung Quốc. Vấn đề tồn tại hiện nay là đồng tiền thanh toán và an toàn thanh toán. Các doanh nghiệp thuỷ sản thường bán thu ngoại tệ tự do chuyển đổi, nay đưa vào Trung Quốc để nhận lại nhân dân tệ theo một phương thức không mấy an toàn nên không yên tâm. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật cần quan tâm giải quyết cho doanh nghiệp.
Mặt hàng quả tươi, là mặt hàng thu được nhiều lợi ích nhất trong việc phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc. Trung Quốc có thể nhập khẩu nhiều loại trái cây khác nhau của Việt Nam. Tuy nhiên, khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc cần có sự theo dõi hoạt động của đối thủ cạnh tranh trực tiếp là các doanh nghiệp của Thái Lan.
Cho đến nay Trung Quốc vẫn là bạn hàng số 1 của ta về hạt điều. Việc tiêu thụ hạt điều sang Trung Quốc không gặp khó khăn gì, thậm chí còn được giá hơn là xuất sang các thị trường khác (giá USD danh nghĩa). Tuy nhiên thanh toán bằng Nhân dân tệ để rồi phải nhập hàng tiêu dùng, hàng có chất
lượng trung bình về bán thu lại tiền Việt là không có lợi cho nền kinh tế cũng như dễ mang lại rủi ro cho doanh nghiệp.
Theo số liệu của Trung Quốc, hàng năm Trung Quốc nhập của Việt Nam từ 40.000 đến 50.000 tấn dầu thực vật các loại. Đây là mặt hàng có khả năng phát triển trong thời gian tới.
Hàng Bách hoá (bánh kẹo, đồ uống, chất tẩy rửa…) đã xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần lưu ý đến việc không ngừng cải tiến chất lượng hàng hoá đưa sang Trung Quốc để giữ vững thị trường và qua thị trường Trung Quốc làm quen dần với việc tiến ra thị trường ngoài trong những năm tới đây.
* Thị trường Hàn Quốc:
Trong thời gian tới đây, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hàn
Quốc, cần tập trung xử lý các vấn đề sau đây:
- Do ta nhập siêu với Hàn Quốc rất lớn (từ 800 - 900 triệu USD/năm) nên có thể sử dụng yếu tố này để thuyết phục Hàn Quốc có những nhân nhượng thực sự về mở cửa thị trường.
- Với kim ngạch nhập khẩu hàng năm bằng 1/2 Nhật Bản, Hàn Quốc là thị trường nhiều tiềm năng. Hơn nữa, đẩy mạnh xuất khẩu sang Hàn Quốc và tăng tỷ trọng của Hàn Quốc trong kim ngạch xuất khẩu sẽ giúp chúng ta tránh được nguy cơ phụ thuộc vào một khối thị trường nào đó. Trong thời gian tới nước ta có thể duy trì và đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng: dệt may, hải sản, giày dép, rau quả, than đá, dược liệu, dừa và sản phẩm dừa. Khi tiếp cận khách hàng tiềm tàng ở Hàn Quốc, doanh nghiệp Việt Nam nên gửi cho họ catalogue hoặc mẫu hàng kèm theo bảng giá và điều kiện giao hàng cụ thể. Không nên rút lại hoặc thay đổi các dữ kiện trong bản chào hàng nếu bản chào hàng đó vẫn còn trong thời hạn hiệu lực bởi khách hàng Hàn Quốc thường coi chào hàng là hợp đồng, dù hợp đồng chính thức chưa được ký. Sau khi thành công thương vụ đầu tiên, nếu nhận thấy khả năng phát triển là có thì doanh nghiệp Việt Nam nên mở chi nhánh tại Hàn Quốc hoặc thuê một đại lý Hàn Quốc để khuếch trương công việc kinh doanh. Tại Hàn Quốc
có một Hiệp hội gọi là Hiệp hội các Đại lý Ngoại thương Hàn Quốc (AFTAK), được chính phủ Hàn Quốc cho thành lập vào năm 1970 để quy tụ các doanh nghiệp chuyên làm đại lý cho các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu nước
ngoài.
* Thị trường Đài Loan:
Nhiều chuyên gia dự báo rằng:
Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, Đài Loan cũng sẽ tìm mọi cách vận động để gia nhập WTO với những cam kết về mở cửa thị trường còn rộng hơn Trung Quốc. Để đẩy nhanh tiến trình gia nhập, có thể Đài Loan sẽ đơn phương giảm bớt hàng rào thuế và phi quan thuế (hiện đã làm một phần). Đây cũng sẽ là một thuận lợi cho việc đẩy mạnh thâm nhập thị trường Đài
Loan.
Để nâng cao ảnh hưởng của mình trên trường Quốc tế, Đài Loan có xu hướng đẩy mạnh hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo thông qua các chương trình hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, thậm chí cho vay cải thiện cán cân thanh toán. Trong chừng mực nhất định, doanh nghiệp của Việt Nam có thể tận dụng xu hướng này của Đài Loan để đẩy mạnh xuất khẩu hoặc để trợ giúp doanh nhân Đài Loan tại Việt Nam xuất khẩu đi nước thứ ba.
Thời gian tới đây, cần đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, hải sản, cao su, dệt may, giày dép, rau quả và chè, các sản phẩm như cơ khí và điện gia dụng do cơ sở có vốn đầu tư của Đài Loan sản xuất tại Việt Nam.
* Thị trường Hồng Kông:
- Hải sản hiện đang là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất trong kim ngạch xuất khẩu sang Hồng kông, thường xuyên chiếm 10-11% tổng kim ngạch xuất khẩu hải sản của Việt Nam. Việc duy trì và phát triển thị trường này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành thuỷ sản. Gần đây Cục vệ sinh Hồng Kông có đưa ra một số yêu cầu về vệ sinh thực phẩm đối với hàng thuỷ sản tươi sống Bộ Thuỷ sản cần phổ biến các yêu cầu này tới các doanh nghiệp xuất khẩu hải sản để họ có biện pháp bảo đảm chất lượng hải sản xuất khẩu vào Hồng kông.
- Mặt hàng rau quả cũng là mặt hàng có thể phát triển xuất khẩu sang Hongkong trong thời gian trước mắt. Điều đáng chú ý là nên tập trung vào quả tươi bởi không thể cạnh tranh được với Trung Quốc về rau.
- Sau rau quả, mặt hàng nước chấm, mà chủ yếu là nước mắm, là mặt hàng có thể và cần đẩy mạnh xuất khẩu sang Hồng kông. Dung lượng thị trường là hơn 35 triệu lít/năm, tương đương 64 triệu USD. Thái Lan đang bán vào Hồng kông khoảng 11 triệu lít/năm trong khi Việt Nam chỉ bán được khoảng 250 ngàn lít. Đây là mặt hàng mà ta bị Thái Lan chèn ép trên toàn thế giới, không riêng gì tại Hồng kông. Trong thời gian tới cần chú ý các biện pháp cải tiến chất lượng, bao bì, giành lại thị trường từ tay Thái Lan.
- Hạt điều cũng là mặt hàng có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào Hồng kông. Hiện nay Việt Nam đang chiếm vị trí số 1 trong số các nước bán hạt điều vào Hồng kông và chiếm khoảng 45 % thị phần. Các doanh nghiệp có thể nâng thị phần nay lên hơn nữa để thu ngoại tệ chuyển đổi thay vì bán sang Trung Quốc thu Nhân dân tệ.
* Thị trường các nước ASEAN:
ASEAN là thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu (năm 2000 nhập siêu từ ASEAN là 1,9 tỷ USD, bằng 73% kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này). Trong bối cảnh đó, vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu cho ASEAN để tiến tới thương mại cân bằng là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, các loại hàng mà ta có thế mạnh thì các nước ASEAN cũng có, sức cạnh tranh của một số mặt hàng trong số đó thậm chí còn mạnh hơn ta. Để có thể tiến tới thương mại cân bằng với ASEAN, cần phải có một số giải pháp như sau:
Hàng năm Việt Nam nhập khẩu một số lượng linh kiện xe máy và phân bón rất lớn từ thị trường ASEAN (gần 80% kim ngạch linh kiện xe máy và hơn 50% kim ngạch phân bón). Đây là hai mặt hàng nhập khẩu có điều kiện nên có thể thay đổi theo hướng không cấp 100% chỉ tiêu cho các doanh nghiệp, nhà nước nên thu về ít nhất là 50% để tổ chức đấu thầu hàng đổi hàng, Indonesia và Philippines sử dụng BULOG và NFA để quyết định mua
hay không mua gạo của ta và mỗi lần muốn xuất gạo cho họ đều phải đàm phán với hai tổ chức này.
b. Thị trường Châu Âu
* Liên minh châu Âu (EU)
Trong thời gian tới đây, để phát triển xuất khẩu sang EU, cần thực hiện một số giải pháp lớn như sau:
- Chế độ quản lý nhập khẩu của EU hết sức phức tạp nên việc thu thập thông tin và phổ biến thông tin đến các doanh nghiệp là việc có tầm quan trọng hàng đầu. Theo tính toán của UNCTAD, do thiếu thông tin và không hiểu rõ các quy định về thủ tục của EU, các nước đang phát triển chỉ thực sự sử dụng được 48% các ưu đãi của EU trong chế độ GSP. Nếu không làm tốt công tác thu thập và phổ biến thông tin thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể tận dụng được mọi cơ hội để thâm nhập vào thị trường EU.
- Chế độ ưu đãi GSP đang mất dần ý nghĩa do EU hàng năm đều tiến hành giảm thuế MFN theo quy định của vòng đàm phán Uruguay. Chế độ hạn ngạch cho hàng dệt may cũng hết hiệu lực vào năm 2005. Vì lý do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hàng hoá, giữ gìn uy tín của mình trong việc thực hiện hợp đồng, đảm bảo duy trì được toàn bộ các mối quan hệ bạn hàng nhằm chuẩn bị cho thời kỳ "hậu GSP" và "hậu hạn ngạch " nói trên.
Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành hữu quan, tiến hành đàm phán và thoả thuận với EU về các vấn đề còn tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam - EU. Chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau đây:
- Phối hợp với EU trong việc kiểm soát lượng giày dép mang xuất xứ
Việt Nam xuất khẩu vào EU, tránh nguy cơ EU áp đặt hạn ngạch cho Việt
Nam.
- Tìm hiểu rõ các quy định của EU về điều kiện nuôi trồng và chế biến thuỷ sản để trình Chính phủ cấp vốn cho các doanh nghiệp nâng cao thiết bị, cải thiện môi trường, đáp ứng các yêu cầu của EU về vệ sinh thực phẩm.
- Đề nghị EU áp dụng trở lại mức thuế 12% cho mặt hàng bánh đa nem và tăng hạn ngạch thuế quan của mặt hàng sắn lên 6 vạn tấn/năm.
- Đề nghị EU sớm cùng ta xem xét lại Hiệp định dệt may để nâng hạn ngạch lên từ 30% đến 50% cho từng chủng loại và nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước ASEAN từ 10% lên 20%.
- Khuyến khích hoạt động của CLB doanh nhân EU tại Việt Nam để qua đó nắm bắt thêm thông tin về thị trường EU và tăng cường khả năng lobby của ta với các cơ quan có thẩm quyền của EU.
* Thị trường Liên bang Nga:
Là một thị trường lớn, giàu tiềm năng nhưng Nga còn đang ở vào giai đoạn khó khăn. Khó khăn lớn nhất khi đi vào thị trường này là vấn đề vốn của các doanh nghiệp Nga. Đại đa số các doanh nghiệp Nga, kể cả doanh nghiệp nhà nước, đều gặp khó khăn về vốn nên rất thiếu ngoại tệ, khả năng mở L/C theo thông lệ quốc tế rất yếu. Hiện nay các nhà kinh doanh hàng nhập ở Liên bang Nga thường đề nghị người xuất khẩu giao hàng về kho ngoại quan, bán đến đâu thanh toán đến đấy. Như vậy rủi ro trong xuất nhập khẩu vẫn rơi vào người xuất khẩu vì nếu không tiêu thụ được hàng thì mọi chi phí lưu kho cũng như giải quyết hàng tồn đều do người xuất khẩu chịu.
Do môi trường kinh doanh và luật pháp ở Liên bang Nga chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế nên trong hoạt động xuất nhập khẩu hiện tượng lậu thuế diễn ra phổ biến. Rất nhiều công ty xuất khẩu nước ngoài và công ty kinh doanh hàng nhập khẩu tại Nga ít nhiều đều dính líu đến việc man khai giá trị, chủng loại, C/O hàng hoá để trốn thuế, lậu thuế. Vì vậy, nếu hàng nhập vào Liên bang Nga theo đường chính thống, trả đúng quy định các khoản thuế thì khó tiêu thụ và không cạnh tranh được với hàng nhập lậu theo các con đường khác nhau.
Khâu vận tải và vấn đề nan giải lớn đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Phương tiện vận tải duy nhất hiện nay chỉ còn là container nên chi phí vận tải rất cao, không phù hợp với những lô hàng lớn và hàng không có giá trị cao. Cước phí cao cộng thêm chi phí vận tải nội địa, chi phí thủ tục hải quan và cảng phí đắt đỏ đã làm cho giá
hàng của Việt Nam nhập vào Liên bang Nga bị đội lên, nhiều khi quá mức chấp nhận của thị trường và thời gian vận chuyển giữa hai nước, có lưu ý yếu tố tỷ giá ngoại tệ không ổn định thì trong nhiều trường hợp đưa hàng tiêu dùng có tính thời trang, thời vụ vào thị trường Liên bang Nga trở nên rất rủi
ro.
Vấn đề thâm nhập và mở rộng thị trường Nga với trọng tâm về hàng hoá là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Việt Nam và Liên bang Nga có thể thoả thuận tiếp tục nhập vật tư thiết bị năng lượng theo phương thức thanh toán một phần bằng tiền, một phần bằng hàng xuất khẩu của Việt Nam để tạo đầu ra cho một số mặt hàng xuất khẩu. Cần chú ý đây chỉ là sự trợ giúp ban đầu của nhà nước đối với các doanh nghiệp, tạo cơ hội cho hàng hoá của họ xuất hiện trên thị trường Nga. Các doanh nghiệp cần nắm bắt cơ hội này để tìm hiểu nhu cầu đích thực của thị trường về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, giá thành… từ đó có chiến lược thâm nhập cụ thể. Không nên coi xuất khẩu trả nợ là cơ hội đẩy đi những mặt hàng thấp cấp và kém chất lượng. Một số hàng có thể xuất khẩu sang thị trường Nga như gạo, thịt, cao su, chè, hàng nông sản thực phẩm và hàng tiêu dùng khác.
Để buôn bán với Nga, nhất định phải có luồng tàu biển hợp lý, với cước phí vận tải ở mức chấp nhận được. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ phương án tăng cường phương thức chuyển đi Odessa và Vladivostok với mức giá cạnh tranh hoặc Nhà nước phải hỗ trợ một phần giá cước. Thời gian đầu (có thể là 1,2 năm), Chính phủ sẽ hỗ trợ một phần cước phí cho doanh nghiệp. Những tàu chạy tuyến Nga sẽ được miễn mọi khoản thu của Nhà nước như phí cập cầu, phí hoa tiêu, thuế vốn thậm chí hoàn thuế nhiên liệu (nếu có)… để giảm chi phí. Đồng thời có biện pháp bảo lãnh tín dụng, để xuất khẩu hàng hoá sang Nga được thuận lợi, an toàn.
* Thị trường Đông Âu và SNG:
Hàng xuất khẩu sang Đông Âu và SNG của Việt Nam hiện nay chủ yếu là hàng may mặc, giầy dép, thực phẩm chế biến, thủ công mỹ nghệ, gạo, cà
phê, cao su (số lượng nhỏ) và thuỷ sản. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước Đông Âu và SNG đang giảm dần. Diện bạn hàng cũng đang bị thu hẹp. Số nước nhập khẩu hàng của Việt Nam với kim ngạch đáng kể, đủ để xuất hiện trong danh bạ thống kê, đã rút từ 7 nước xuống còn 4 nước (Ba Lan, Ucraina, Sec và Slovakia). Các nước Anbani, Bungary, Hungary, Belarussia hầu như không có kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam hoặc có nhưng do đi theo đường gián tiếp.
Do các nước Đông Âu và SNG đều gặp khó khăn về tài chính nên một trong những hướng cần nghiên cứu là tăng cường thương mại hàng đổi hàng với từng nước Cộng đồng người Việt tại các nước Đông Âu và một số nước SNG là cộng đồng lớn nhưng tạm thời chưa có những biểu hiện phức tạp như cộng đồng người Việt tại Liên bang Nga. Nhiều người, đặc biệt là ở Séc và Ba Lan, đã tạo dựng được các cơ sở kinh doanh của riêng mình, một số có tầm cỡ khá, Đây là một lợi thế trong việc thâm nhập thị trường cần phải được duy trì và phát triển.
c. Thị trường châu Mỹ:
Trọng tâm của khu vực Bắc Mỹ là thị trường Hoa Kỳ. Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới nhưng lại không đòi hỏi quá khắt khe như người tiêu dùng ở Châu Âu hay Nhật Bản nên tất cả các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, đều cố gắng tăng cường xuất khẩu sản phẩm của mình sang Hoa
Kỳ.
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết trong năm 2000 là một nhân tố quan trọng tạo thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Năm 2001 Hiệp định đã được phê chuẩn và bắt đầu thể hiện tác dụng của Hiệp định từ năm 2002.
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới. Dự kiến trong 10 năm tới nhu cầu nhập khẩu cà phê của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục tăng ở mức trên dưới 10% năm. Trong những năm tới đây, mặt hàng cà phê còn có triển vọng
tăng kim ngạch trên thị trường Hoa Kỳ do thuế MFN và chi phí MFN đều bằng 0%.
Hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu một số lượng lớn hạt tiêu chưa xay và đã xay, Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu trực tiếp vào thị trường Hoa Kỳ mà không phải qua trung gian trên thị trường. Dự kiến Việt Nam sẽ vượt qua các nước như Trung Quốc và Tây Ban Nha để trở thành 1 trong 5 nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất vào Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu cả chè đen và chè xanh với kim ngạch bình quân khoảng 130 triệu USD/năm (riêng năm 1998 nhập 170 triệu USD). Chè đen chiếm tỷ trọng khá lớn (khoảng 80%) trong tổng lượng chè nhập khẩu. Do thuế nhập khẩu chè đen là 0% cho cả MFN và phi MFN nên nếu có cải tiến về chất lượng, chè đen của ta còn có khả năng tăng kim ngạch trên thị trường Hoa Kỳ. Mức tăng bình quân có thể đạt tới trên 20%/năm. Riêng chè xanh khi Hiệp định Thương mại được thông qua đã có mức phát triển tốt do mức thuế phi MFN chênh lệch quá lớn so với thuế MFN (20% so với 7%).
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu hải sản lớn thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản. Các loại hải sản được nhập khẩu nhiều là tôm, tôm hùm, sò và cua, trong đó tôm có giá trị lớn nhất (trên 2 tỷ USD/năm). Với dung lượng thị trường lên tới gần 3 tỷ USD/năm, triển vọng tăng xuất khẩu tôm là khá lớn nếu vấn đề sinh thực phẩm được quan tâm chu đáo.
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu nhiều thực phẩm chế biến. Loại thực phẩm chế biến chủ yếu của Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ hiện nay là tôm chế biến. Kim ngạch xuất khẩu thực phẩm chế biến nói chung và tôm chế biến nói riêng có thể tăng ở mức trên 30%/năm và tới năm 2005 có thể trở thành nước thứ hai (sau Thái Lan) trong số các nước xuất khẩu thực phẩm chế biến vào Hoa Kỳ.
Dung lượng thị trường gốm sứ tại Hoa Kỳ là lớn theo dự báo nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng từ 7% đến 15%/năm. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng gốm sứ của ta vào Hoa Kỳ vẫn còn rất nhỏ bé, chiếm chưa đầy 0,1% kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ. Nguyên nhân chính là do thuế phí MFN quá
chênh lệch so với thuế MFN. Khả năng tiêu thụ hàng của Việt Nam là tương đối tốt bởi mẫu mã của Việt Nam không kém gì hàng Trung Quốc. Khi được hưởng thuế nhập khẩu MFN như hàng Trung Quốc thì kim ngạch có thể đạt tới hàng trăm triệu USD/năm.
Hoa Kỳ là một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Hàng dệt may của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường Hoa Kỳ nhưng kim ngạch còn rất nhỏ so với tiềm năng, chủ yếu là do mức chênh lệch giữa thuế MFN và phi MFN quá lớn, thường từ 30% đến 40%. Do có lợi thế về giá nhân công nên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ dự kiến sẽ tăng mạnh khi Hiệp định Thương mại được thông qua. Tuy nhiên, mức tăng trưởng có thể sẽ bị hạn chế trong những năm tiếp theo bởi Hoa Kỳ thường có những quyết định đơn phương để kìm hãm xuất khẩu hàng dệt may khi họ không muốn.
Hiện nay, xuất khẩu ngành hàng giầy dép vào Hoa Kỳ có thuận lợi là thuế phí MFN không cao như đối với hàng dệt may, mức chênh lệch giá thuế MFN và phi, MFN cũng không lớn như đối với hàng dệt may. Sau khi Hiệp định Thương mại được thông qua, do không bị áp đặt hạn ngạch, kim ngạch xuất khẩu giày dép sẽ tăng trưởng mạnh với tốc độ tăng tương đối bền vững qua các năm.
d. Thị trường AUSTRALIA.
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Australia đã không tăng lên nhưng mức tăng này chủ yếu là nhờ tăng xuất khẩu dầu thô. Các mặt hàng khác có kim ngạch tương đối khá là dệt may, hải sản, giầy dép và hạt điều.
Xuất khẩu giày dép sang Australia có thuận lợi là mức thuế nhập khẩu thấp (trung bình khoảng 18%) lại không quá thiên về giày cao cấp như thị trường Nhật. Tuy nhiên, do dân số ít nên các đơn hàng thường là có trị giá nhỏ và đòi hỏi mẫu mã đa dạng. Để tăng xuất khẩu, việc hạ giá thành để cạnh
tranh với giày Trung Quốc là việc khá khó khăn, do vậy có thể xuất khẩu theo hình thức nhập nguyên liệu chính và sản xuất trong nước để xuất khẩu.
Về hải sản, mặc dù là nước xuất khẩu lớn nhưng Austrailia cũng nhập khá nhiều hải sản tươi và chế biến. Việt Nam hàng năm đã xuất được vào Austrailia 15 - 16 triệu USD hải sản nhưng mới chỉ chiếm khoảng 5% kim ngạch nhập khẩu hải sản của thị trường này. Cộng đồng người Việt định cư tại Austrailia là cộng đồng lớn, có nhu cầu rất cao về hải sản chế biến truyền thống như nước mắm, mắm tôm, mắm cá và hải sản khô.
Về hàng may mặc, Australia nhập khẩu hàng năm khoảng 1 tỷ USD, chủ yếu từ Trung Quốc, Fiji, New Zealand và Ấn Độ. Tuy không có hạn ngạch (bãi bỏ từ năm 1993) và thuế nhập khẩu vẫn được giảm đều qua các năm nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này vẫn không tăng lên được do gặp phải sự cạnh tranh mạnh với Trung Quốc và những nước có quan hệ đặc biệt với Australia từ nhiều năm qua như Fiji và New Zealand.
Đặc điểm kinh doanh của các nhà bán buôn, bán lẻ Australia là thích nhập qua trung gian, ít khi tự mình đi tìm thị trường để nhập khẩu trực tiếp. Ngoài ra, khi đã quen làm với ai thì thương nhân Australia thường gắn bó với người đó, hiếm khi bỏ khách hàng này để chuyển sang khách hàng khác. Đây là đặc điểm tâm lý rất quan trọng của người dân Australia. Đối với họ, quan hệ cá nhân mật thiết, hữu hảo có ý nghĩa quan trọng. Vì lý do đó, nếu không biết cách giữ chữ tín và giữ quan hệ tốt với khách hàng Australia thì sẽ rất khó làm ăn với thị trường này, đặc biệt là trước một đối thủ mạnh cả về giá cả, cả về chữ tín trong kinh doanh như Trung Quốc.
e. Thị trường trung cận Đông và Nam á.
Hiện nay Việt Nam đã xuất khẩu được một số mặt hàng vào hai khu vực thị trường này (như gạo, chè, cà phê, hạt tiêu, hàng may mặc, điện tử…) nhưng chủ yếu là thông qua một nước thứ ba. Kim ngạch do ta xuất trực tiếp còn khá nhỏ bé. Một điểm cần lưu ý là toàn bộ các nước trong khu vực, kể cả
những nước đã từng phát triển theo đường lối kế hoạch hoá tập trung, đều đã áp dụng cơ chế thị trường và hiện đang có sự gắn kết với nhau thông qua việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực như khối liên minh quan thuế Nam Châu Phi, khối các nước sử dụng đồng Franc ở Tây Phi, khối Maghreb tại Bắc Phi, khối các nước vùng Vịnh…. Thương mại giữa các nước trong khối được áp dụng những ưu đãi đặc biệt. Vì lý do đó, trong chiến lược thâm nhập thị trường, cần chọn thị trường trọng điểm cho từng khối và lấy đó làm bàn đạp để tiến vào các nước trong khối như Dubai (Tiểu Vương quốc Ả rập).
f. Thị trường châu phi.
Tại khu vực Châu Phi, thị trường trọng điểm sẽ là Nam Phi bởi đây là thị trường có sức tiêu thụ khá dù dân số chỉ khoảng 42 triệu người. Các công ty của Nam Phi thuộc loại có uy tín trên thị trường thế giới, làm ăn nghiêm túc theo tác phong châu Âu. Các mặt hàng có khả năng xuất khẩu là hàng dệt may, giầy dép, cà phê và gạo. Hiện tại còn thiếu thông tin về thị trường Nam Phí nói riêng và toàn bộ khu vực châu Phi nói chung. Do vậy cần phải nghiên cứu kỹ về thâm nhập thị trường Nam Phi và thị trường các nước lân cận.
2.2 Tăng cường năng lực tài chính của các doanh nghiệp
Vốn là một trong những vấn đề hết sức nan giải của các doanh nghiệp Việt Nam. Đại đa số các doanh nghiệp của ta trong tình trạng ít vốn và thiếu vốn trầm trọng. Tuy đã có những nỗ lực của Chính phủ và các ngân hàng nhằm tìm cách tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc cho doanh nghiệp vay vốn để sản xuất và kinh doanh nhưng cho đến nay vẫn chưa giải quyết được một cách triệt để.
Vì vậy để có vốn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp thương mại cần chủ động tích cực dưới mọi hình thức để huy động mọi nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế.
2.3 Đổi mới kỹ thuật công nghệ
Kỹ thuật công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp thương
mại cần có chính sách đầu tư công nghệ mới, tiên tiến, hoàn thiện công nghệ sẵn có vào các khâu như bao gói, chế biến, quản lý cũng như quản trị chiến lược Marketing... nhằm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu.
2.4 Nâng cao trình độ quản lý kinh doanh
Do đặc điểm nước ta mới thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, trong bối cảnh chung như vậy năng lực quản lý kinh doanh của các cấp quản lý còn yếu, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều. Các doanh nghiêp thương mại cần có chính sách ưu tiên cho công tác đào tạo, cần tranh thủ các nguồn hỗ trợ tài chính của Nhà nước và các tổ chức trong nước cũng như quốc tế cho công tác đào tạo để có được những chuyên gia giỏi đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Để đạt được hiệu quả cao cần kết hợp cả đào tạo ở những nước tiên tiến với đào tạo và thực tập ở những nước tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu.
2.5 Nâng cao trình độ nguồn nhân lực
Song song với việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý kinh doanh của các cấp quản lý, các doanh nghiệp thương mại cũng cần phải có chính sách đào tạo tương ứng cho nguồn nhân lực hiện có và cho tương lai. Cần kết hợp đào tạo cả kỹ năng, xảo, trình độ tay nghề với nâng cao thể lực, và ý thức chấp hành kỷ luật lao động của họ.
2.6 Đẩy mạnh liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp thương mại với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
Như đã nêu, thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam nói chung có qui mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý còn hạn chế..., lại thiếu kinh nghiệm thực tế trong kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy để tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, rất cần có sự liên doanh, liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp thương mại thực hiện xuất khẩu với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp thương mại ngoài thực hiện tiêu thụ hàng xuất khẩu cần có trách nhiệm: thông tin, hướng dẫn,
định hướng cho các nhà sản xuất về mặt hàng cũng như thị trường xuất khẩu; thực hiện liên doanh, liên kết với các nhà sản xuất dưới các hình thức hỗ trợ về tài chính, đầu tư để mở rộng sản xuất, đổi mới kỹ thuật công nghệ, giúp đào tạo kỹ năng quản lý, đào tạo nguồn nhân lực...
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Chương III đã dự báo tình hình phát triển kinh tế thế giới đến năm 2010 đồng thời vạch ra định hướng và chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam. Để thực hiện tốt được chủ trương và chiến lược phát triển kinh tế, trong đó lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu đóng một vai trò rất quan trọng cần phải ngày càng hoàn thiện hơn nữa môi trường kinh doanh xuất khẩu. Chương III cũng đã đưa ra một số kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường kinh doanh xuất khẩu trên phương diện là các chính sách, các biện pháp của môi trường vĩ mô và môi trường vi mô nhằm giúp các doanh nghiệp thương mại Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
KẾT LUẬN
Hoạt động kinh doanh trong môi trường quốc tế khác nhiều so với hoạt động trong môi trường nội địa vì vậy việc nghiên cứu các yếu tố môi trường kinh doanh xuất khẩu có một tầm quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Trong môi trường kinh doanh quốc tế, hầu hết những thành công trong giao dịch xuất khẩu đều do nghiên cứu và đánh giá đúng thị trường nước ngoài. Việc đánh giá không đúng các yếu tố môi trường kinh doanh quốc tế sẽ gây nên những thua lỗ đáng
tiếc.
Khóa luận đã đi sâu phân tích đánh giá môi trường kinh doanh xuất khẩu, một số thị trường quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua; đề ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện môi trường vĩ mô, vi mô nhằm hỗ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp có cơ sở hoạch định mục tiêu, chiến lược và ra các quyết định kinh doanh xuất khẩu kịp thời, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế, giúp doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lựa chọn, xác định thị trường và mặt hàng xuất khẩu.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8389.doc