MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Xe máy là phương tiện đi lại quan trọng và chủ yếu tại Việt Nam. Hiện nay, nhu cầu về xe máy ở Việt Nam rất lớn, thị trường xe máy Việt Nam được đánh giá là rất tiềm năng. Honda đã nhìn ra thị trường “màu mỡ’ này và khi chính thức bước chân vào thị trường Việt Nam hơn 10 năm trước đây .Công ty liên tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của thị trường mà xe máy là phương tiện chiếm gần 90% tại các thành phố lớn . Kể từ khi có mặt
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 6939 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Môi trường kinh doanh của Doanh nghiệp xe máy Honda Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại Việt Nam, Honda Việt Nam(HVN) luôn phấn đấu vì hạnh phúc và an toàn của người dân cũng như vì sự phát triển của kinh tế đất nước. Đồng thời luôn nỗ lực áp dụng các công nghệ và trang thiết bị tiên tiến hiện đại trong sản xuất, phát triển mạng lưới các nhà cung cấp phụ tùng trong nước nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, tiến hành chuyển giao công nghệ …
Với những nỗ lực vượt bậc, HVN luôn là doanh nghiệp dẫn đầu trong ngành công nghiệp chế tạo xe máy về doanh thu trong nước với tổng số lượng xe tiêu thụ trong năm 2007 là 770.000 xe máy các loại. Năm 2009, Honda có bước tăng trưởng lên tới 18% tại Việt Nam, đạt con số kỷ lục 1,4 triệu xe máy bán ra, chiếm tới 50% thị phần xe máy VN và 10% thị phần xe máy toàn cầu. Và với chất lượng Honda toàn cầu, tính an toàn cao, đặc biệt thích hợp với các điều kiện giao thông ở Việt Nam cùng với các dịch vụ sau bán hàng chu đáo, các sản phẩm của HVN đã chiếm trọn cảm tình của khách hàng Việt Nam. Không những vậy suốt hơn 10 năm qua, HVN đã dành sự quan tâm đặc biệt cho các hoạt động tuyên truyền An toàn giao thông (ATGT) và hướng dẫn lái xe an toàn. Năm 2005, HVN đã vinh dự được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam trao tặng Huân chương lao động hạng Ba bởi những đóng góp tích cực trong sản xuất kinh doanh và vì cộng đồng. Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập cũng là cột mốc quan trọng ghi dấu HVN vinh dự được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
HVN đã phát triển với mục tiêu lâu dài “Phấn đấu trở thành một công ty được xã hội mong đợi” và đạt được những thành tích nổi trội. Đặt ra đề tài nghiên cứu: “Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp xe máy Honda Việt Nam’’ nhằm tìm hiểu chiếc chìa khóa thành công của doanh nghiệp này. Việt Nam đã gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, doanh nghiệp nước ta nói chung và Honda nói riêng đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Honda sẽ làm gì để có thể giữ vững và phát triển hơn nữa vị thế của mình trong thị trường xe máy Việt Nam.
I. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG TỔNG THỂ:
1.Yếu tố văn hóa - xã hội
Theo số liệu thống kê, Việt Nam hiện có trên 83 triệu dân, khoảng 17 triệu xe gắn máy các loại. Gần đây, hàng loạt các doanh nghiệp kinh doanh xe máy lần lượt được khởi công xây dựng thêm nhà máy. Theo các chuyên gia nước ngoài, không có nước nào giống thị trường xe gắn máy Việt Nam: càng ùn tắc giao thông thì lượng xe tiêu thụ càng tăng vọt, giá cũng giữ mức cao. Chỉ trong năm 2007, có ít nhất đến 3 liên doanh xe máy trong nước lần lượt khởi công xây dựng thêm nhà máy mới. Trong tháng 7/2007, Honda Việt Nam, một trong những liên doanh đứng đầu về doanh thu trong nước với tổng số lượng xe tiêu thụ trong năm vừa qua là 770.000 xe máy các loại, đã xây dựng nhà máy mới với số vốn đầu tư trên 65 triệu USD trên diện tích 280.000m². Năm 2009, Honda có bước tăng trưởng lên tới 18% tại Việt Nam, đạt con số kỷ lục 1,4 triệu xe máy bán ra, chiếm tới 10% thị phần xe máy toàn cầu.
Rõ ràng, thị trường xe máy Việt Nam đang là mảnh đất “màu mỡ” cho các hãng. Số liệu thống kê từ Hiệp hội xe đạp-xe máy Việt Nam, năm 2006 tiêu thụ xe máy cả nước đạt 2,2 triệu xe. Theo dự báo của Viện Chiến lược-Chính sách Công nông, đến năm 2010 cả nước có khoảng 25 triệu xe máy, 2015 khoảng 31 triệu xe, và 2020 khoảng 35 triệu chiếc. Tức trong 15 năm nữa, lượng xe máy sẽ tăng gấp đôi hiện nay. Ở góc độ kinh doanh, lập luận của các nhà sản xuất cho rằng, so với các nước quanh khu vực Đông Nam Á và điển hình là Thái Lan, tính bình quân đầu người/xe thì ở Việt Nam tỷ lệ này vẫn còn thấp (ở Thái Lan trung bình khoảng 3 người/xe, còn ở ta là khoảng 6 người/xe). Nhu cầu về xe máy ở Việt Nam vẫn tiếp tục tăng cao bởi ngày càng có nhiều người làm việc tại thành phố, bao gồm cả sinh viên và công nhân. Ở vùng nông thôn, nông dân bán được nhiều cà phê, giá nông sản vẫn tiếp tục tăng nên ngày càng có nhiều người có tiền để mua xe máy. Giám đốc một doanh nghiệp sản xuất xe máy trong nước cho rằng: “So với mức trên thì ở nước ta phải đến 32 triệu xe máy thì mới bão hòa, còn hiện nay mới hơn 17 triệu chiếc thì chưa là vấn đề...”.
Có lẽ vì thế nên trong quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển Công nghiệp xe máy Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025 của Bộ Công Nghiệp cũng đã xem xét và đề ra lộ trình cụ thể sản xuất xe máy là một bộ phận phát triển chiến lược cho ngành công nghiệp trong nước. Chiến lược này không chỉ tăng “nội lực” nội địa hóa phải đạt đến 90% mà còn định hướng xuất khẩu để thu ngoại tệ cho ngân sách nhà nước.
2. Yếu tố kinh tế.
2.1) Tỷ lệ lãi suất :
Tỷ lệ lãi suất có thể tác động đến mức cầu sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung và xe máy Honda nói riêng. Tỷ lệ lãi suất là rất quan trọng khi người tiêu dùng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hóa của mình. Vì cần có phương tiện đi lại nhưng chưa đủ tiền, nhiều người dân thành phố, nhất là đối tượng công nhân, buôn bán nhỏ, sinh viên mới ra trường… đã chọn cho mình cách được sở hữu xe gắn máy dưới hình thức vay vốn của các công ty bán hàng trả góp. Và thực tế hiện nay, mua xe trả góp phải chấp nhận chịu lãi suất ở mức khá cao. Chẳng hạn, chiếc xe gắn máy Honda Future Neo khi qua mua trả góp thì khách hàng phải trả 30% tiền trả trước khoảng 9 triệu đồng và trả góp loại 24 tháng khoảng 1 triệu đồng/tháng. Như vậy tổng số tiền phải trả toàn bộ cho chiếc xe khoảng 35 triệu đồng (mức lãi suất trả góp của Easy đưa ra là 2,9%). Trong khi nếu mua trả tiền ngay thì chỉ có 21 triệu đồng.
Đối với các doanh nghiệp, tăng lãi suất là mối đe dọa và giảm lãi suất là cơ hội để mở rộng sản xuất. Tỷ lệ lãi suất còn quyết định mức chi phí về vốn và do đó quyết định mức đầu tư. Chi phí này là nhân tố chủ yếu khi quyết định tình khả thi của chiến lược. Tháng 04/2010 mặt bằng lãi suất cho vay bằng VND thời gian tới sẽ giảm đáng kể bởi ngân hàng thương mại đã bắt đầu vào cuộc giảm lãi suất.
Ngày 15/04/2010, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) công bố, từ ngày 16/4, BIDV áp dụng lãi suất thỏa thuận và niêm yết công khai trên toàn hệ thống trong cả nước. Theo đó, với lãi suất cho vay ngắn hạn, Ngân hàng này cho vay tối đa ở mức 14%/năm. Riêng đối với lãi suất cho vay khu vực nông nghiệp, nông thôn, cho vay xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, mức lãi suất tối đa là 13%/năm. Với các khoản cho vay trung dài hạn, BIDV áp dụng mức lãi suất tối đa 14,5%/năm đối với các khoản vay dự án phục vụ sản xuất - kinh doanh. Cùng với các mức lãi suất cho vay trên, BIDV áp dụng mức lãi suất huy động không quá 11,5%/năm nhằm ổn định đầu ra.
Như vậy, BIDV là ngân hàng đầu tiên công khai lãi suất sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành thông tư ngày 14/4 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng VND đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận, trong đó yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng VND phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý trên cơ sở cung-cầu. Cũng theo thông tư này thì các ngân hàng chính thức cho vay thỏa thuận với cả các khoản vay ngắn hạn thay vì chỉ đối với các khoản vay trung và dài hạn như trước.
Mặc dù công bố sau BIDV nhưng từ ngày 15/4 Ngân hàng An Bình (ABBANK) đã xác lập một mặt bằng lãi suất cho vay thoả thuận mới ở mức 14-16%/năm tùy vào đối tượng khách hàng. Đối tượng mà ngân hàng này ưu tiên là các doanh nghiệp nhỏ và vừa quản trị tốt, các khoản vay tài trợ xuất khẩu, các khách hàng sản xuất kinh doanh các sản phẩm, mặt hàng có thị trường tiêu thụ ổn định, trực tiếp sản xuất tạo ra sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế.
Với việc các ngân hàng hạ lãi suất cho vay, mặt bằng lãi suất cho vay dự kiến sẽ xuống quanh mức 14%/năm, doanh nghiệp sẽ có điều kiện vay để đầu tư nhiều hơn.
2.2) Tỷ giá hối đoái.
Thay đổi về tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến tính cạnh tranh của sản phẩm do công ty sản xuất trên thị trường quốc tế. Trong thời gian gần đây, tỷ giá hối đoái giữa VND với USD đã biến động theo chiều hướng không ổn định, giá trị VND sụt giảm. Trong khi đồng USD mất giá so với các đồng tiền khác như đồng Euro, Yên…, còn VND lại giảm giá so với USD, nên tỷ giá VND với các ngoại tệ khác càng bất lợi hơn đối với nước ta. Vấn đề này khiến khó khăn càng thêm khó khăn khi tiến hành hoạt động kinh doanh tại một quốc gia mà niềm tin vào đồng tiền chủ chốt (VND) đứng ở mức rất thấp. Đồng thời đồng USD vẫn giữ vị thế độc tôn và thường bị khan hiếm do hoạt động tích trữ.
Điều đó cũng tác động đến thương mại quốc tế trong điều kiện tỷ lệ nhập siêu của nước ta khá cao, các khoản nợ nước ngoài đến hạn phải trả, bởi vì phải làm ra một lượng hàng hóa nhiều hơn bằng VND mới có thể trả được một đơn vị ngoại tệ; những doanh nghiệp vay thương mại với lãi suất cao, thời hạn ngắn để đầu tư dài hạn càng gặp nhiều khó khăn.
2.3) Tỷ lệ lạm phát.
Lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế, làm cho sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tỷ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường trước được. Nếu lạm phát tăng liên tục, các hoạt động đầu tư sẽ trở thành công việc hoàn toàn may rủi. Trong một môi trường lạm phát mạnh sẽ không thể nào dự đoán được giá trị thực của lợi nhuận có thể thu được từ một dự án. Sự bất trắc này làm hạn chế các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, cuối cùng thậm chí còn đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng.
Hiện nay, tình trạng lạm phát ở Việt Nam cao trong mấy năm liền. Giá cả trên thị trường thế giới biến động, một số hàng hóa như xăng dầu, sắt thép… tăng cao đã tác động đến giá cả trong nước, làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng. Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và lưu thông tiền tệ trong hai năm 2005 và 2006, GDP của Việt Nam tăng 17%, tiền lưu thông trên thị trường và tiền gửi ngân hàng M2 tăng 73%. Do vậy, mặc dù kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng cao, nhưng cũng xuất hiện mối lo ngại của các doanh nghiệp và người dân về tình trạng lạm phát cao, VND sụt giá và không ổn định.CPI liên tục tăng, năm 2004 là 7,71%, năm 2005 là 8,29%, năm 2006 là 7,48%, năm 2007 là 8,30%, năm 2008 là 22,97% và năm 2009 là 6,88%. Thực trạng đó có liên quan đến mức chi tiêu danh nghĩa trong nước đã tăng nhanh khi các khoản viện trợ chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI), kiều hối đổ vào nước ta ngày càng nhiều. Nếu như năm 2003, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ là 333.809 tỷ đồng, thì năm 2008 là 983.803 tỷ đồng, bằng 2,94 lần.
2.4) Quan hệ giao lưu quốc tế.
Những thay đổi về môi trường quốc tế có thể xuất hiện cả những cơ hội cũng như thách thức về việc mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước của một công ty.
Đối với các nước phát triển như Việt Nam hiện nay sau khi vào WTO, những luật lệ của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này chắc chắn sẽ tạo ra những áp lực đáng kể lên ngành công nghiệp xe máy. Khác với công nghiệp ôtô, ngành công nghiệp xe máy Việt Nam đã có những lợi thế nhất định. Đó là việc có được một thị trường đủ lớn để tạo động lực phát triển với khoảng 2 triệu xe/năm, đã từng trải qua một cuộc thử thách khá khắc nghiệt gắn với cuộc “đổ bộ” của xe máy Trung Quốc vào thị trường và tất nhiên, những năm thăng trầm đã qua cũng đủ để rút ra được những bài học kinh nghiệm. Tuy nhiên, bất chấp những lợi thế kể trên, theo các chuyên gia, ngành công nghiệp xe máy Việt Nam hiện đang đối mặt với một thực trạng khó khăn, với không ít doanh nghiệp sẽ bị phá sản hoặc phải chuyển sang làm công nghiệp phụ trợ.
Theo thống kê của Hiệp hội Xe đạp - Xe máy Việt Nam, hiện cả nước có 52 doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe máy, trong đó có 22 doanh nghiệp Nhà nước và 7 liên doanh. Điểm đáng chú ý ở ba loại hình doanh nghiệp trong ngành này là chỉ có 7 liên doanh là “sống khỏe”, còn đa số các doanh nghiệp Nhà nước thì lay lắt, cầm chừng và tồn tại được hầu như dựa vào sự trợ giúp của Nhà nước, còn các doanh nghiệp tư nhân thì manh mún, thậm chí làm ăn chộp giật.
Một so sánh đơn giản là, trong khi tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp nội địa chỉ đạt khoảng 100 triệu USD thì riêng Công ty Honda Việt Nam kể từ khi thành lập (năm 1996) đến nay đã đầu tư đến 194 triệu USD vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Ngoài những vấn đề nêu trên, còn có những yếu tố kinh tế như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ… cũng ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xe máy Honda nói riêng.
3. Yếu tố kỹ thuật - công nghệ.
Ngày nay công nghệ được coi là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh. Thay đổi công nghệ có thể làm cho các sản phẩm hiện đang sản xuất trở nên lỗi thời trong khoảng thời gian ngắn cũng với thời gian đó có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm mới. Như vậy kỹ thuật công nghệ đồng thời có thể mở ra cơ hội cũng như thách thức bởi sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đã diễn ra xu hướng làm ngắn lại chu kỳ sống của sản phẩm.
Honda đã, đang và luôn quan tâm đầu tư phát triển công nghệ nhằm mang đến cho khách hàng những sản phẩm ưu việt hơn và thân thiện với môi trường. Bước vào thế kỷ XXI, Honda nỗ lực hết mình để giảm thiểu lượng khí thải cũng như nâng cao khả năng tiết kiệm nhiên liệu của xe máy nhằm góp phần cải thiện những vấn đề về môi trường hiện tại như hiện tượng Trái Đất nóng dần lên. Hiện tại, công ty đang xúc tiến rất nhiều các biện pháp khác nhau để nâng cao tối đa khả năng thân thiện với môi trường cho các sản phẩm Honda trên quy mô toàn cầu. Honda đã áp dụng hệ thống phun điện nhiện liệu điện tử đang được trang bị trên ôtô lên xe gắn máy, bắt đầu từ những chiếc môtô cỡ lớn nhiều xi-lanh. Hệ thống phun nhiên liệu điện tử hoạt động dựa trên nguyên lý cung cấp nhiên liệu cho động cơ thông qua sự kiểm soát chặt chẽ của hệ thống máy tính. Nhờ đó, có thể kiểm soát được lượng nhiên liệu cung cấp một cách lý tưởng hơn nhiều so với hệ thống chế hoà khí thông thường. Tại Việt Nam, với khẩu hiệu “ Dẫn đầu về công nghệ- Leading the Technology”, vào tháng 4/2007 Honda Việt Nam (HVN) đã trởthành nhà sản xuất đầu tiên tại Việt Nam trang bị công nghệ phun xăng điện tử (PGM-FI) cho mẫu xe Future Neo FI và dự định sẽ tiếp tục áp dụng rộng rãi hơn nữa trong tương lai.
Trong vòng ba tháng đầu năm 2007, Honda bán ra hơn 252.000 xe máy, tăng hơn 58% so với cùng kỳ năm 2006 và dự tính trong năm nay sẽ bán ra hơn 1,15 triệu xe. Với tốc độ phát triển này, nhiều chuyên gia khẳng định Honda sẽ tiếp tục gia tăng khoảng cách với các đối thủ trong cuộc chạy đua chiếm lĩnh thị trường xe máy Việt Nam. Đặc biệt, mới đây Honda tiếp tục trình làng hai mẫu xe mới, nhắm vào từng đối tượng cụ thể, có tính năng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, giá cả phù hợp: Air Blade và Future Neo FI.
Và mới đây nhất Honda đã đưa ra công nghệ mới đó là tự động hóa xe số Honda. Trong các số báo tháng 10 và tháng 12 năm 2009 đã đăng tải về công nghệ CV-Matic của Honda – công nghệ tự động mới dành cho xe số. Và nay công nghệ mới này đã được áp dụng cho xe Wave RSX FI-AT sẽ xuất hiện trên thị trường từ ngày17/04. Đây có thể được coi là một hướng đi mới cho dòng xe số của Honda, tạo một bước ngoặt lớn trong dòng xe số. Với mục đích cung cấp các sản phẩm tiện dụng cho cuộc sống, Honda đã và đang nghiên cứu và phát triển chiếc xe máy với công nghệ tự động có thể vận hành bằng những thao tác vô cùng đơn giản. Vào năm 1958, Honda ra mắt dòng xe Super Cub C100 được trang bị hệ thống ly hợp ly tâm giúp người lái có thể chuyển số trong khi vận hành mà không sử dụng đến côn tay. Từ đó đến nay, xe máy Honda liên tục được cải tiến, nổi bật là việc áp dụng động cơ bốn thì OHC (trục cam bố trí trên đỉnh xylanh), hệ thống mới như công nghệ PGM-FI giúp tăng cường khả năng vận hành của xe cũng như khả năng thân thiện với môi trường. Và giờ đây, Honda đã tự động hóa dòng xe số giúp tăng thêm nữa sự tiện lợi cho khách hàng. Wave RSX FI AT sẽ là bước khởi đầu cho một trang sử mới của dòng xe số.
Tính đến năm 2010, Honda không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ và đã trở thành nhà sản xuất xe máy tại Việt Nam có nhiều mẫu mã, chủng loại xe nhất. Mỗi mẫu mã, chủng loại đều nhắm vào một vài đối tượng khách hàng cụ thể và điều đó giúp Honda liên tục dẫn đầu trên thị trường xe máy Việt Nam.
4. Yếu tố chính trị - luật pháp.
Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực, quốc gia đó.
Việt Nam khá ổn định về chính trị và xã hội, đó là một lợi thế quan trọng so với nhiều nước trong vùng. Ngoài ra Việt Nam đang có hệ thống luật pháp tương đối tốt. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã thực hiện hàng loạt cải cách về luật pháp, đưa hệ thống luật của Việt Nam tiến gần tới tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế về đầu tư và kinh doanh. Đặc biệt Luật Doanh nghiệp Việt Nam được các nhà đầu tư coi là phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và cởi mở hơn so với các nước trong khu vực. Việt Nam cũng đã có luật đầu tư tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài bình đẳng với nhau trong hoạt động kinh doanh cũng như trước pháp luật. Ngoài ra Việt Nam cũng đang cố gắng đơn giản hoá các thủ tục hành chính, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư.
Trong hoạt động kinh doanh của mình, từ nguyên liệu sử dụng, các hoạt động sản xuất, các dịch vụ chăm sóc khách hàng đến các tiêu chuẩn về môi trường… Honda luôn tuân thủ và chấp hành đầy đủ các chính sách về chính trị và pháp luật của Việt Nam như Luật Doanh nghiệp, Luật giao thông, Luật lao động…Công ty Honda Việt Nam thường mở ra các chương trình tập huấn, hướng dẫn viên công ty đem đến cho các học viên thông tin cập nhật nhất về tình hình giao thông ở nước ta cũng như tầm quan trọng của các hoạt động an toàn giao thông thông qua hàng loạt hình ảnh và phim tư liệu về những thói quen xấu khi tham gia giao thông, đặc biệt là của giới trẻ, như không đội mũ bảo hiểm, lái xe sau khi uống rượu bia, phóng nhanh, vượt ẩu, lạng lách trên đường... cùng hậu quả là những vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng. Qua những thông tin sinh động đó, học viên có thể ý thức được tầm quan trọng của việc nghiêm chỉnh chấp hành luật giao thông và chú ý an toàn khi tham gia giao thông. Bên cạnh đó khi tuyển dụng lao động luôn đảm bảo điều kiện lao động, an toàn lao động, thời hạn hợp đồng, thời gian làm viêc tuân theo quy định của Luật lao động.
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam ngày càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu rõ, phải "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển... Gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, doanh nghiệp nước ta nói chung và Honda nói riêng đứng trước những thời cơ mới rất quan trọng, nhưng phải đối mặt cũng không ít thách thức mới. Và doanh nghiệp xe máy Honda đã, đang, sẽ tiếp tục đầu tư phát triển hơn nữa nhằm mang lại những sản phẩm tốt nhất đến tay người tiêu dùng.
II. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG TÁC NGHIỆP
1. Nhà cung cấp
Sự khác biệt hóa sản phẩm của nhà cung cấp: Được chế tạo từ vật liệu chất lượng cao bằng công nghệ tiên tiến nhất, phụ tùng chính hiệu Honda dù được nhập khẩu từ Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Italia hay cung cấp bởi các nhà sản xuất trong nước đều luôn đảm bảo các yêu cầu tính năng kỹ thuật, đồng thời thỏa mãn nghiêm ngặt tiêu chuẩn chất lượng của Nhật như Jis, Hes, Jama... và cả các tiêu chuẩn TCVN Việt Nam. Mọi phụ tùng do Honda Việt Nam cung cấp đều luôn đạt yêu cầu về chất lượng ngang bằng với chất lượng sản xuất tại Nhật Bản.
Ở ViệtNnam, nhà máy Honda mới chỉ dừng lại ở công việc lắp ráp xe máy, còn phụ tùng chính hãng được nhập khẩu từ các nhà máy chính hãng Honda từ các nước khác, điều này khiến cho mức độ tập trung nhà cung ứng lớn, Honda Việt Nam khó chuyển đổi nhà cung ứng đầu vào. Mặc dù vậy, công ty Honda Việt Nam lại không có sự cạnh tranh về nhà cung ứng, và luôn yên tâm về giá cả cũng như chất lượng đầu vào.
2. Các sản phẩm thay thế
Các sản phẩm của Honda Việt Nam không phải cạnh tranh với quá nhiều loại sản phẩm thay thế trên thị trường . Mặc dù ôtô cũng đang dần trở thành sản phẩm thay thế chiếm vị trí cao trên thị trường trong nước, nhưng vẫn chưa phải là mặt hàng thay thế hoàn hảo, vì thu nhập của người dân Việt Nam còn thấp nên xe máy vẫn là phương tiện đi lại chủ yếu và cần thiết nhất.
Theo điều tra mới nhất của hãng Honda, tiềm năng cho thị trường xe máy còn rất lớn. Hiện nay, ở Việt Nam trung bình là 6 người/1 xe máy, và hầu hết mọi người vẫn còn có nhu cầu sử dụng phương tiện này. Nhờ có những ưu thế như trên, hãng Honda Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh số lượng và chất lượng sản phẩm, đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng.
3. Đối thủ tiềm ẩn
Ở Việt Nam, số lượng xe máy nhập khẩu nguyên chiếc là không nhiều do bị đánh thuế cao và giá khá đắt nên không có tính đại trà, chỉ chiếm số lượng nhỏ khách hàng.
Hơn nữa, rào cản gia nhập thị trường ôtô, xe máy trong nước là khá lớn do đã có sự phân chia thị phần xe máy rõ ràng của các hãng xe máy lớn, khách hàng trung thành với các nhãn hiệu có uy tín trên thị trường như Honda, Yamaha, Suzuki…nên các hãng sản xuất xe máy mới xuất hiện trên thị trường thường bị thiếu năng lực cạnh tranh. Do vậy, đối thủ tiềm ẩn chủ yếu trong ngành của ngành sản xuất xe máy trong nước nói chung và Honda nói riêng là xe máy nhập lậu từ Trung Quốc, tuy chất lượng không cao nhưng giá rẻ và dễ tìm kiếm phụ tùng thay thế.
Để khắc phục nguy cơ này từ phía đối thủ tiềm ẩn cũng như để hướng đến thị trường người dân có thu nhập trung bình thấp, Honđa Việt Nam đã cho ra mắt các dòng xe giá rẻ, chất lượng tốt và thân thiện với môi trường.
Thực tế đã chỉ ra rằng, các sản phẩm của Honda có một chiến lược phát triển sản phẩm rõ ràng và có nhiều điểm vượt trội so với đối thủ cạnh tranh, giữ lòng tin trong khách hàng. Với chiến lược phát triển theo chiều sâu, sản xuất ra các sản phảm giá rẻ, chất lượng tốt, thân thiện với môi trường đã giúp Honda đứng vững trong thị trường Việt Nam rất nhiều năm qua.
4. Các tổ chức công quyền và bộ máy xã hội
Để có thể hoạt động và phát triển tốt, Honda Việt Nam không thể không nhắc đến sự ảnh hưởng của các tổ chức xã hội và bộ máy công quyền . Với trụ sở nhà máy chính đặt tại tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Nội, hoạt động của nhà máy chắc chắn sẽ bị tác động một phần không nhỏ của chính sách phát triển của địa phương, ví dụ như chiến lược phát triển tỉnh Vĩnh phúc, các chính sách áp dụng để bảo vệ môi trường, các tổ chức công an, đoàn thể…. Vì vậy, nhằm tạo điều kiên thuận lợi cho việc sản xuất và phát triển của nhà máy, Honda Việt Nam đã rất chú trọng đến các chính sách của tỉnh và thành phố và tạo ra sự điều chỉnh trong chiến lược.
Mặt khác, bằng việc giúp đỡ địa phương đó trong việc hỗ trợ phát triển nhiều mặt trong đời sống kinh tế - xã hội Honda đã không những thành công trong việc gây dựng hình ảnh tốt cho công ty, mà còn giúp công ty dễ dàng hơn trong việc giải quyết các vấn đề khúc mắc với các tổ chức xã hội. Các chương trình gần đây có thể được kể đến đó là: trao tặng học bổng cho học sinh nghèo vượt khó trên toàn quốc, các chương trình từ thiện, khuyến học, giúp đỡ trẻ em khuyết tật…tổng kinh phí trên 10 tỷ đồng.
5. Đối thủ cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là không thể tránh khỏi đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, nó liên quan tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải làm gì và làm như thế nào để có thể duy trì được lợi thế cạnh tranh trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh là công việc không thể thiếu với bất kỳ doanh nghiệp nào. Vấn đề này không chỉ áp dụng riêng với Honda Việt Nam mà với tất cả các doanh nghiệp.
Trong những năm gần đây, thị trường xe máy ở Việt Nam đã nhiều thay đổi khi các doanh nghiệp thấy được nhu cầu về xe máy của người Việt Nam là rất lớn. Sau Honda, một số hãng xe gắn máy lớn khác cũng đã tiến hành liên doanh với Việt Nam để thành lập những công ty liên doanh sản xuất xe máy như Suzuki Việt Nam, Yamaha Việt Nam, VMEP của tập đoàn SYM… Bên cạnh đó là sự đổ bộ ồ ạt của các dòng xe máy Trung Quốc tạo nên một sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Cuộc cạnh tranh giờ đây không chỉ là cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng mà thực sự là cuộc cạnh tranh về thương hiệu sản phẩm.
5.1) Yamaha Việt Nam
Có thể thấy ngay cạnh tranh trực tiếp với Honda trên thị trường hiện nay là Yamaha Việt Nam. Công ty Yamaha Motor Việt Nam thành lập ngày 01 tháng 04 năm 1999, là doanh nghiệp liên doanh giữa công ty Yamaha Motor Nhật Bản, Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam và công ty công nghiệp Hong Leong Industries Berhad Malaysia với số vốn pháp định là 24.250.000 USD. Tuy là kẻ đến sau nhưng Yamaha đã chiếm được vị trí tương đối vững chắc trên thị trường xe máy Việt Nam. Sản phẩm của hãng được nhiều người ưa thích, đặc biệt là giới trẻ. Yamaha tung ra thị trường với nhiều loại xe, từ xe số, xe phanh đĩa, xe tay ga với kiểu dáng và màu sắc trẻ trung. Các kiểu xe ga của Yamaha như Mio Amore, Mio Maximo, Mio Classic đều có thiết kế nhỏ gọn, giá cả dao động từ 16-18 triệu đồng, phù hợp với phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh xe tay ga dành cho nữ giới, Yamaha cũng rất chú ý tới dòng xe tay ga dành cho nam giới- đó chính là Nouvo. Ngoài ra Yamaha cũng cung cấp trên thị trường các sản phẩm xe số như Sirius, Jupiter…với nhiều màu sắc đa dạng.
Mặc dù không thể trực tiếp cạnh tranh với Honda về chất lượng nhưng các hãng xe máy khác lại có lợi thế hơn về chủng loại sản phẩm. Chủng loại của các hãng này rất phong phú, đa dạng, hợp thời trang. Ngoài ra, Yamaha còn có chiến lược tiếp thị, quảng cáo rộng rãi, có hình thức mua trả góp với lãi suất thấp để thu hút khách hàng. Tập đoàn Yamaha cũng đã thành lập tại Băng Cốc một trung tâm với chức năng nghiên cứu phát triển các loại xe máy ở Châu Á và Việt Nam tạo điều kiện tìm hiểu và nắm bắt nhu cầu thị trường.
5.2) SYM
Một đối thủ nữa không thể không nhắc tới là SYM. Đây là công ty công nghiệp San Yang thuộc tập đoàn Chinfon được thành lập năm 1954 tại Đài Loan, khởi đầu bằng việc sản xuất dinamo xe đạp. Năm 1962 bắt đầu sản xuất xe máy. Trong 50 năm qua, San Yang đã tiêu thụ khoảng 6.000.000 xe máy, luôn là doanh nghiệp hàng đầu về sản xuất và tiêu thụ xe máy ở Đài Loan.
Năm 1992, San Yang đầu tư sản xuất xe máy tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 1.160.000.000USD, công suất 540.000 xe/năm. Đây là dự án đầu tư lớn nhất tại Việt Nam thuộc loại này. Năm 2002, công ty San Yang đã tăng cường đầu tư để triển khai dự án thiết kế và lắp ráp động cơ 15.000.000 USD. VMEP là công ty đầu tiên đưa thiết bị sản xuất động cơ vào Việt Nam, các phân xưởng đầu tiên đã đưa vào hoạt động: sản xuất xi lanh, cốt cam, phụ tùng ô tô và khuôn mẫu chính xác. Hiện nay, VMEP là doanh nghiệp có tỷ lệ nội đại hóa cao nhất trong các doanh nghiệp sản xuất xe máy tại Việt Nam với mức độ nội địa hóa đạt hơn 90% cho một số loại xe.
Về nhân sự, VMEP có gần 2000 cán bộ nhân viên chính thức, toàn bộ nhân viên kỹ thuật được đào tạo chuyên môn để đảm bảo cung cấp chế độ hậu mãi tốt.
Sản phẩm mang thương hiệu SYM có hai dòng xe chính: xe số và xe tay ga.Dòng xe số có các nhãn hiệu như Angle, Star, Magic, Amigo, Bonus, Husky. Dòng xe ga có Attila, Excel, HD, GTS. Với chất lượng, uy tín và sự cải tiến không ngừng, các sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng cao, SYM Việt Nam đã và đang trở thành một trong những nhãn hiệu được người tiêu dùng yêu mến.
5.3) Suzuki Việt Nam
Suzuki là một hãng xe lớn của Nhật Bản. Công ty Suzuki Việt Nam thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1995 tại Việt Nam với lượng vốn pháp định 11.700.000 USD, tổng số vố đầu tư là 34.200.000 USD. Năm 1996, công ty đã đi vào hoạt động. Không chỉ cải tiến các xe đã có, Suzuki còn đưa ra thị trường các loại xe mới như Shogun R125, Viva 110 thường và phanh đĩa, Smash 110. Ngoài ra, hãng còn sản xuất một số loại xe khác bao gồm: xe thể thao (GSX hay Hayabusa), xe đường trường (V-Strom), xe tay ga (Burgman), xe vượt chướng ngại vật (RM), xe vượt mọi địa hình (Vinson, Ozark, Eiger, Quadsport). Tất cả đề được thiết kế với tính năng nổi trội.
Sản lượng mỗi năm của Suzuki khoảng 60.000 chiếc. Công ty cũng không ngừng nghiên cứu cải tiến công nghệ nhằm đem lại những sản phẩm tinh tế. Bên cạnh đó là hệ thống đại lý rộng khắp, phục vụ tận tình với chế độ hậu mãi và chăm sóc khách hàng chu đáo.
Chính nhờ các nỗ lực không ngừng nên thị trường của Suzuki ngày càng được mở rộng.
5.4) Các hãng cung cấp xe máy khác
Trong điều kiện mức thu nhập bình quân của người Việt Nam còn thấp thì giá bán xe máy của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn là khá cao. Nắm bắt được nhu cầu về xe máy tại thị trường Việt Nam là rất lớn, các ông chủ tập đoàn xe máy lớn tại Trung Quốc như Lifan, Zhongshen, Fushi…bằng “chiến thuật” theo mẫu của các động cơ có sẵn trên thị trường đã sản xuất hàng loạt sản phẩm xe máy với giá bán thấp kỷ lục để xuất sang thị trường Đông Nam Á trong đó có Việt Nam và đã thực sự rất thành công vì một bộ phận lớn người lao động Việt Nam có nhu cầu mua xe máy song lại có thu nhập thấp.
Gián tiếp đưa xe máy Trung Quốc vào thị trường Việt Nam là các doanh nghiệp lắp ráp dây chuyền IKD. Hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp này là nhập khẩu linh kiện, chi tiết, phụ tùng của các nhà sản xuất tại Trung Quốc rồi đem về lắp ráp, hoàn thiện và tung ra thị trường. Không những nhái lại “ kiểu dáng” mà người sản xuất xe Trung Quốc còn nhái lại “ nhãn hiệu” hoặc nếu có khác thì chỉ khác ở một số bộ phận, chi tiết rất khó để nhận ra.
Từ những phân tích trên cho thấy, thị trường xe máy ở Việt Nam đang diễn ra sự cạnh trannh hết sưc khốc liệt. Vì thế, để có thể đứng vững và phát triển trên thị trường đòi hỏi Honda phải biết tận dụng tối đa các điểm mạnh, không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức tốt hệ thống bán hàng, chăm sóc khách hàng đồng thời phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh cũng như kinh doanh hợp lý.
6. Phân tích khách hàng
6.1) Đối tượng khách hàng:
Hơn 10 năm có mặt tại Việt Nam, Honda không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ và đã trở thành nhà sản xuất xe máy tại Việt Nam có n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25586.doc