Mối quan hệ giữa vốn đầu tư, tạo lập, huy động và sử dụng vốn đầu tư
Chương I. Tổng quan về vốn đầu tư, tạo lập huy động và sử dụng vốn đầu tư.
I .Tổng quan về vốn đầu tư.
Khái niệm:
Khái niệm: Để có thể tạo ra được những tài sản vật chất cụ thể ; nhất thiết phải sử dụng vốn đàu tư thông qua hoạt động đầu tư. vốn đầu tư đóng vai trò hết sức quan trọng và là nguồn gốc cho sự phát triển.Theo luật đầu tư (năm 2005): Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình đ
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa vốn đầu tư, tạo lập, huy động và sử dụng vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới dạng giá trị, được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
Phân loại: vốn đầu tư được chia làm hai loại vốn đầu tư sản xuất và vốn đầu tư phi sản xuất.
- Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất.Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Trong đó vốn đầu tư vào tài sản cố định bao gồm vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sửa chữa lớn.
+ Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực tế của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lấp dở dang.
+ Vốn đầu tư sửa chữa lớn không làm tăng khối lượng thực tế của tài sản , do đó nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản.
- Vốn đầu tư phi sản suất : là các nguồn đầu tư vào các tài sản tài chính như: mua cổ phiếu, trái phiếu…
Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này đã được cả kinh tế học cổ điển , kinh tế học Mác_Lênin và kinh tế học hiện đại cách mạng.
Theo lý thuyết của Keynes : Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng.
Tức là : Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy: Đầu tư = Tiết kiệm
Hay ( I ) = ( S )
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng khi phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của cổ phần. Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phảI bao giờ cũng được thiết lập. Vì còn có sự luân chuyển vốn giữa các nước. Khi phần tích luỹ của nền kinh tế có thể tăng nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, lúc đó vốn có thể được chuyển sang nước khác để thực hiện đầu tư và ngược lại. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
CA: tài khoản vãng lai ( current account )
Các yếu tố tác động đến cầu vốn đầu tư.
Lãi suất tiền vay.
Các nhà đầu tư thường có xu hướng thoanh toán các khoản đầu tư bằng cách vay vốn. Do đó phải trả lời được câu hỏi liệu lợi nhuận do đầu tư đem lại có cao hơn so với mức lãi suất phải trả khi chủ đầu tư vay vốn đầu tư hay không.
Io
I1
I
0
i
i1
i0
DI
Lãi suất tiền vay được xem như là giá cả của vốn đầu tư. Nếu mức lãi suất tăng thì sẽ làm giảm số dự án đầu tư và ngược lại.
3.2. Các nhân tố ngoài lãi suất.
- Chu kỳ kinh doanh : Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng. Trái lại, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi xuống, quy mô của nền kinh tế bị thu hẹp lại nhu cầu đầu tư giảm.
- Thuế thu nhập Doanh nghiệp:Nếu Chính phủ đánh thuế thu nhập cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư và làm cho thu nhập của các doanh nghiệp giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư.
- Môi trường đầu tư: môi trường đầu tư là cơ sở hạ tầng, luật đầu tư, các thủ tục hành chính; tình hình chính trị – xã hội … Nếu những yếu tố trên đây thuận lợi thì sẽ khuyến khích được các nhà đầu tư và thu hút được nhiều vốn đầu tư.
II. Tạo lập vốn đầu tư
1.Định nghĩa
Tạo lập vốn là sự tự tích luỹ tự tạo ra vốn để dầu tư.
Đối với doanh nghiệp thì đó chính là nguồn vốn góp ban đầu và lọi nhuận không chia sau mỗi thời kì kinh doanh.Còn Nhà nước có nguồn thu quan trọng nhất là thuế ngoài ra còn có nhũng khoản thu từ việc cho thuê tài sản cố định các khoản lãi đầu tư.
2.Bản chất
Nguồn vốn được hình thành, được tích luỹ từ nội tại doanh nghiệp, tổ chức sử dụng vốn.Nguồn vốn này thể hiện tiềm lực khả năng tài chính của doanh nghiệp hay của cả Chính phủ.Khi các doanh nghiệp kinh doanh tốt dạt dược lợi nhuận cao thì nguồn vốn tích luỹ được càng lớn việc mở rộng qui mô sản xuất, đầu tư sẽ dễ dàng hơn.Nền kinh tế ổn định nguồn thu từ thuế được đảm bảo Nhà nước sẽ tạo được nguồn vốn lớn cho đầu tư và chi tiêu của mình.
Đối với cac doanh nghiệp thì muốn tạo lập được thì doanh nghiệp làm ăn cần phải có lãi.Còn với Chính phủ không thể tuy y tăng thuế để bù đắp cho những nguôn chi thâm hụt ngân sách mà phải tuân theo xu hướng thị trường.
3.Vai trò
Tạo lập vốn có vai trò hết súc quan trọng trong đầu tư.Nguồn vốn tự tạo lập chính là nguồn vốn đầu tiên được sử dụng trong hoạt động đầu tư.nguồn vốn tự tạo lập chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư.Đây là nguồn vốn rất quan trọng và là cơ sở để có thể thu hút huy động vốn đầu tư bên ngoài.Bởi mỗi dự án khi kêu goi đầu tư thì bản thân chủ đầu tư phải có từ 15%-30% vốn nếu không việc vay vốn sẽ khó khăn hơn.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn nguồn vốn này còn giúp cho các nhà đầu tư chủ động hơn trong viêc thực hiện các dự án.Nhờ có nguồn vốn tự tích luỹ nên khi vốn góp từ bên ngoài chua chuyển về thì chủ dự án vẫn có thể cho tiến hành ngững công đoạn đầu để tiết kiêm thời gian như việc san lấp mặt bằng.
Nguồn vốn tự tạo lập,tự tích luỹ của các chủ đầu tư càng lớn thì số tiền phải đi vay của dọ sẽ ít đi.Do đó áp lực bởi vay vốn sẽ giảm đi.
III.Huy động VĐT.
1.Định nghĩa
Huy động vốn là sự điều động chuyển dịch tập trung các nguồn vốn nguồn lực để thực hiện một dự án một công trình. Các dự án đầu tư, đặc biệt là đầu tư phát triển đều cần những nguồn vốn rất lớn. Đồng thời do có sự khác nhau trong quy mô, tỷ lệ tiết kiệm, khả năng tích luỹ ở mỗi nơi và đòi hỏi của sự tăng trưởng kinh tế nên đòi hỏi cần có các nguồn hỗ trợ cho các dự án đầu tư
Huy động vốn bao gồm kêu gọi vốn góp cùng đầu tư thực hiện dự án và hình thức đi vay vốn bên ngoài.
Bản chất
Luôn có sự chênh lệch giũa nhu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế.Có thể có cá nhân,doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư.Trong khi đó có những cá nhân. doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư rất lớn nhưng nguồn vốn tự tạo lâp lại chưa thể đáp ứng được.Vì vậy cần có sự huy động vốn từ những nơi thừa vốn sang những nơi cần vốn,từ những người chưa có nhu cầu sử dụng đến những người có nhu cầu sử dụng vốn lớn.
Nguồn vốn được huy động trong một quồc gia bao gồm cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn huy động nước ngoài.
3. Các nguồn huy động VĐT.
3.1. Nguồn vốn trong nước
3.1.1. Nguồn vốn Chính Phủ
Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước.
Đây là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó chính là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển Kinh tế _ xã hội của mỗi quốc gia . Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng, quốc phòng, an ninh...
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô; tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3.1.2. Nguồn vốn của các Doanh nghiệp.
Nguồn vốn bên trong của Doanh nghiệp.
Nguồn vốn đầu tư của các Doanh nghiệp chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và phần thu lợi nhuận không chia ( hay lợi nhuận giữ lại).
Lợi nhuận sau khi đóng thuế của Doanh nghiệp được xác định :
Pr sau thuế = Pr trước thuế - Tde
với Pr : lợi nhuận
Tde: là thuế thu nhập của công ty.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu Doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận. Đối với Doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lời của bản thân Doanh nghiệp, mà còn phụ thuộc vào chính sách tái đầu tư của Nhà nước. Đối với công ty cổ phần việc để lại lợi nhuận còn liên quan đến tỷ lệ chia cổ tức cho các cổ đông.
Nguồn vốn bên ngoài:
Nguồn vốn này có thể hình thành từ việc vay nợ hoặc phát hành chứng khoán ra công chúng thông qua hai hình thức tài trợ chủ yếu: tài trợ gián tiếp qua các trung gian tài chính ( Ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng...) hoặc tài trợ trực tiếp ( qua thị trường vốn: thị trường chứng khoán, hoạt động tín dụng thuê mua...).
Việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán có ưu điểm là quy mô huy động rộng rãi, đồng thời yêu cầu công khai minh bạch cũng tạo điều kiện và sức ép buộc Doanh nghịêp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Tuy nhiên tính cạnh tranh và rủi ro tại thị trường này rất cao.
3.1.3. Nguồn vốn của dân cư.
Nguồn vốn trong dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào : trình độ phát triển của đất nước; tập quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp của xã hội.
3.2. Nguồn VĐT nước ngoài.
3.2.1. Nguồn VĐT trực tiếp FDI.
Là nguồn VĐT của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản là viêc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận vốn. Đồng thời nó còn mang lại nhiều lợi nhuận vì vậy FDI trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất và lưu thông. Đầu tư FDI tồn tại dưới dạng nhiều hình thức, song những hình thức chủ yếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại. Đầu tư FDI làm cho hoạt động đầu tư trong nước phát triển, tăng khả năng cạnh tranh trong nước. Việc tiếp nhận FDI không đẩy các nước vào cảnh nợ nần, không chịu những ràng buộc về chính trị, xã hội.
3.2.2. Nguồn vốn ODA.
Nguồn vốn ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao cả về lãi suất, thời hạn,khối lượng và bao giờ cũng có yếu tố không hoàn lại ( ít nhất 25 % ). ODA là nguồn vốn cực kỳ quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Thông qua các dự án ODA, cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của nước tiếp nhận được nâng lên một bước.Thông qua các dự án ODA về giáo dục, đào tạo, y tế,...giúp cho trình độ dân trí, chất lượng lao động được nâng cao. Tuy nhiên, ODA có thể gắn với những ràng buộc về chính trị, xã hội.
3.2.3. Nguồn vốn tín dụng Thương mại Quốc tế.
Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau một thời gian phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay. Thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao. Vốn vay dưới dạng tiền tệ, các Doanh nghiệp vay vốn có thể toàn quyền sử dụng. Đồng thời, khi sử dụng không phải chịu bất cứ ràng buộc nào về kinh tế - chính trị. Tuy nhiên, do đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất Thương mại nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả thì nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả; dẫn đến tình trạng vỡ nợ.
IV. Sử dụng VĐT.
Sử dụng VĐT chính là việc giải ngân, đưa vào sử dụng các nguồn lực, nguồn vốn đã tích luỹ, huy động được thông qua hoạt động đầu tư:
A.Hoạt động đầu tư bao gồm: đầu tư phát triển và đầu tư phi phát triển.
- Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó đầu tư Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giảI quyết việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của Doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh.
- Đầu tư phi phát triển là loại đầu tư không trực tiếp làm tăng tài sản thực cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản chính cho chủ đầu tư. Đầu tư phi phát triển bao gồm đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Đầu tư tài chính là đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc cho mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để hưởng lãi suất định trước hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản suất kinh doanh của công ty phát hành. đầu tư tài chính thường được thực hiện gián tiếp quá các trung gian tài chính như Ngân hàng, Công ty chứng khoán.
Đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư để tối đa hoá lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư.
Đầu tư thương mại là hình thức sử dụng vốn mua hàng hoá nhằm mục đích bán lại với giá cao hơn. Đầu tư thương mại không làm tăng tài sản cho nền kinh tế nhưng lại góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá một cách thuận tiện cho nền kinh tế.
Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng và phát triển.
- Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế: tăng đầu tư làm gia tăng cả tổng cầu tổng cung của nền kinh tế. Sản xuất phát triển là nguồn gốc tăng tích luỹ, tăng thu nhập, năng cao đời sống
- Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế: Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô đầu tư cộng với việc sử dụng vốn đầu tư hiệu quả sẽ nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Hệ số ICOR : là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng ( GDP ) tăng thêm.
ICOR = Vốn đầu tư tăng thêm = Đầu tư trong kỳ
GDP tăng thêm GDP tăng thêm.
= Tỷ lệ vốn đầu tư / GDP
Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Đầu tư phát triển tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc dân và giữa các ngành, vùng.
- Tác động của đầu tư phát triển khoa học và công nghệ: Dù nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ cũng đều đòi hỏi lượng vốn đàu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phảI có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
B. Để sử dụng vốn đầu tư hiệu quả cần tuân theo một số nguyên tắc.
- Mục tiêu của đầu tư, của dự án cần tuân theo định hướng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của nền kinh tế. Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư phải phù hợp với mục tiêu đã xác định của toàn bộ nền kinh tế trong từng thời kỳ phát triển.
- Đầu tư phải xuất phát từ tình hình cung – cầu của thị trường, trên cơ sở nghiên cứu thị trường để quyết định phương hướng đầu tư mới nâng cao được hiệu quả trong đầu tư.
- Hoạt động đầu tư cần đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả. Trong đầu tư tiết kiệm và hiệu quả thể hiện ở chỗ: với một lượng vốn đầu tư nhất định phải đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất.
Biểu hiện tập trung nhất của nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả là đạt được lợi nhuận cao, tăng sản phẩm quốc nội, tăng giá trị gia tăng, tăng thu nhập, bảo vệ môI trường, phát triển văn hoá- giáo dục…
- Kết hợp hài hoà các lợi ích trong đầu tư: Trong hoạt động đầu tư, kết hợp hài hoà các loại lợi ích thể hiện sự kết hợp giữa lợi ích của xã hội với lợi ích cá nhân và tập thể; giữa lợi ích chủ đầu tư, nhà thầu và lợi các thành viên có thể mâu thuẫn. Vì vậy vần có sự kết hợp hài hoà theo luật định.
- Cần có các bước lập kế hoạch cho các dự án, các hoạt động đầu tư. Kế hoạch đầu tư sẽ giúp nhà đầu tư phối hợp tốt các nguồn lực, điều chỉnh và hạn chế những khuyết tật, tránh thất thoát, lãng phí.
- Cần có những ban ngành, quản lý giám sát chặt chẽ các hoạt động đầu tư
V. Mối quan hệ giữa tạo lập , huy động và sử dụng vốn đầu tư.
1. Tính tất yếu khách quan phải tạo lập huy động và sử dụng vốn đầu tư.
Tạo lập, huy động là nguồn gốc , cơ sở của sử dụng vốn đầu tư. Chỉ có thông qua tự tích luỹ và huy động tích luỹ các đầu tư mới có thể có được nguồn lực nguồn vốn để đầu tư. Theo Adam Smith thì : " Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu đi chăng nữa , nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên". Chính vì vậy tất yếu cần phải có tạo lập và huy động vốn trong bất kỳ một nền kinh tế nào. Chỉ khi đã thực hiện được qua trình tạo lập và huy động thì mới có thể có được nguồn vốn để tham gia vào hoạt động đầu tư duy trì và tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Đối với tạo lập thì đó là nguồn vốn ban đầu, tiềm lực khả năng tự tích luỹ. Đối với huy động vốn đó là nguồn đóng góp bên ngoài, là nguồn vốn cực kỳ quan trọng, động lực thúc đẩy hoạt động đầu tư. Đối với các nước đang phát triển thì khả năng tích luỹ còn kém cần thiết phải có nguồn hỗ trợ từ nước ngoài. Mặt khác do đòi hỏi giao lưu quốc tế hiện nay các nước công nghiệp phát triển cần có sự kết hợp nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài phục vụ công cuộc phát triển kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển thì khả năng tích luỹ, tạo lập và huy động vốn lại càng nâng cao.
Sử dụng vốn đầu tư là kết quả, mục tiêu tạo lập và huy động vốn. Khi đã có sự tích tụ và tập trung vốn đến một mức nhất định thông qua quá trình tạo lập và huy động thì nhà đầu tư đã có được " nguyên liệu " trong tay để tiến hành đầu tư. Mỗi cá nhân, tập thể hay một chính phủ đều có những mục tiêu, những kế hoạch khác nhau. Chủ đầu tư cá nhân và doanh nghiệp thì mong muốn thu được lợi nhuận; Nhà nước có mục tiêu tăng trưởng kinh tế nâng cấp cơ sở hạ tầng,cải tiến phúc lợi...Dù cho có mục đích khác nhau, nhưng để đạt được nhưng mục đích này thì đều cần phải sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư. Bất kể là đầu tư phát triển, đầu tư tài chính hay đầu tư thương mại thì đó đều là thành quả từ việc tập trung nguồn lực qua hoạt động tạo lập và huy động. Tuy nhiên nếu không có hoạt động đầu tư, hoạt động sử dụng vốn đầu tư thì sẽ không còn cần thiết phải tạo lập và huy động vốn đầu tư. Vì vậy tạo lập, huy động vốn đầu tư có mối quan hệ mật thiết, khăng khít là những điều kiện cần và thiết yếu cho hoạt động duy trì và tái sản xuất. Nếu thiếu đi bất kỳ một bước một hoạt động nào thì sẽ không thể có sự tăng trưởng kinh tế.
Nhất thiết cần có tạo lập và huy động vốn để sử dụng vốn đầu tư thông qua hoạt động đầu tư để duy trì và phát triển nền kinh tế của một quốc gia. Trong quá trình vận hành của nền kinh tế thì tất yếu phải có hoạt động đầu tư, để phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới. Do sự hao mòn của tài sản cố định và sự tham gia một lần của tài sản lưu động vào quá trình sản xuất, vì vậy cần phải tiến hành đầu tư để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn và duy trì dự trữ nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo. Do nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày càng mở rộng đòi hỏi phải tiến hành đầu tư tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài sản lưu động. Do ngày nay,tiến bộ công nghệ diễn ra khá mạnh mẽ, nhiều máy móc, thiết bị...nhanh chóng bị rơi vào trạng thái lạc hậu công nghệ. Nên cần phải tiến hành đầu tư mới nhằm thay thế các tài sản sản xuất đã bị hao mòn vô hình. Qua đây, ta nhìn rõ vai trò của hoạt động đầu tư là hết sức cần thiết, từ đó thấy được tầm quan trọng vai trò quyết định của vốn đầu tư trong quá trình duy trì và phát triển nền kinh tế.
2. Phân tích tác động của tạo lập, huy động đến việc sử dụng vốn đầu tư.
Tạo lập, huy động vốn là đầu vào là nguồn cung cung của vốn đầu tư. Chỉ khi tạo lập và huy động có hiệu quả thì mới có thể tich tụ tập trung được nguồn vốn để sử dụng. Tạo lập và huy động được đủ vốn cho yêu cầu của nền kinh tế thì quá trình đầu tư có thể mở rộng thực hiện đồng bộ, đa dạng cả về chiều dọc lẫn chiều sâu. Nếu tạo lập và huy động vốn kém sẽ dẫn tới thiếu vốn, khi đó nguồn vốn sẽ trở nên khan hiếm, hoạt động đầu tư trỏ nên khó khăn làm cho nền kinh tế trở nên trì trệ.
Tạo lập và huy động vốn rất cần thiết cho hoạt động đầu tư, nếu tạo lập và huy động được ít vốn sẽ làm cho hoạt động đầu tư khó thực hiện. Tuy nhiên tạo lập và huy động được nguồn vốn quá nhiều vượt quá nhu cầu hiện tại thì vừa làm giảm đi tiêu dùng trong nền kinh tế, gây tác động xấu cho tăng trưởng kinh tế, vừa gây khó khăn trong việc sử dụng, hấp thụ, giải ngân nguồn vốn. Khi đó việc kiểm soát vốn đầu tư và hoạt động vốn đầu tư rất khó khăn, hoạt động đầu tư tràn lan thiếu hiệu quả dễ gây ra thất thoát lãng phí.
3. Phân tích tác động ngược lại giữa sử dụng đối với tạo lập và huy động vốn đầu tư.
Nhu cầu về sử dụng vốn đầu tư đòi hỏi cần có lượng vốn đầu tư như thế nào giúp chúng ta xác định được nhiệm vụ, khối lượng vốn cần tạo lập và huy động. Khi nhu cầu sử dụng vốn lớn thì cần có những chính sách khuyến khích để tăng cường tạo lập và huy động vốn đáp ứng đủ yêu cầu. Tuỳ từng quốc gia với nền tảng phát triển, cơ cấu sử dụng vốn khác nhau mà việc tạo lập và huy động vốn có sự khác nhau. Trong mỗi nứơc thì hệ số ICOR của từng ngành , từng vùng, từng nền kinh tế có sự khác nhau. Và qua đó thì tỷ trọng vốn đầu tư của từng ngành từng khu vực là khác nhau. Theo công thức dự báo : Tổng nhu cầu vốn đầu tư.
Tổng nhu cầu vốn đầu tư = GDP tăng thêm x Hệ số ICOR
do đầu tư mới.
Khác với nước phát triển thường thì các nước đang phát triển có hệ số ICOR ngành nông nghiệp thấp hơn công nghiệp. Tuỳ theo hệ số ICOR và chính sách kinh tế của mỗi ngành mỗi nước mà nhu cầu vốn đầu tư là khác nhau, nên việc tạo lập và huy động vốn quá nhiều vốn vào một ngành đã bão hoà thiếu hiệu quả trong khi đó những ngành khác lại khan hiếm vốn.
Khi việc sử dụng vốn đạt hiệu quả sẽ làm tăng thêm niềm tin của nhà đầu tư về khả năng sinh lời của số vốn họ bỏ ra. Có nghĩa khi vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút của nó càng lớn.Do đó đối với các nguồn vốn đầu tư phải xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng của việc huy động vốn trong lâu dài.
Tuy nhiên, nếu việc sử dụng vốn thiếu hợp lý không chỉ gây thất thoát, lãng phí, thiếu niềm tin ở nhà đầu tư mà còn là nguyên nhân lớn thúc đẩy lạm phát trong nước.Dễ đưa nền kinh tế vào tình trạng khó khăn ảnh hưởng lớn tới việc thu hút, tạo lập nguồn vốn
Chương II- Thực trạng tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư
ở Việt Nam
1. Tạo lập vốn đầu tư
Đứng trên quan điểm doanh nghiệp thì tạo lập vốn được chia thành hai thời kì:
Trước khi doanh nghiệp được thành lập nguồn tạo lập vốn là từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn đi vay.
Nguồn vốn doanh nghiệp được hình thành từ:
Vốn chủ sở hữu: đối với doanh nghiệp nhà nước thì nguồn vốn này có được do Nhà nước.Nguồn vốn này được tài trợ từ ngân sách nhà nước và nguồn thu ngân sách không gì khác ngoài thuế.
Hiện nay, vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ vào khoảng trên 200.000 tỷ đồng, nhưng nếu được định giá theo thị trường và bán ra bên ngoài thì có thể sẽ lên tới 300.000 - 400.000 tỷ đồng. Cụ thể, số lượng doanh nghiệp Nhà nước hiện chỉ còn chiếm 3.61% tổng số doanh nghiệp trong cả nhà nước .
- Lợi nhuận giữ lại có xu hướng tăng.Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 doanh thu tăng bình quân 11.2%/năm. Đây la tín hiệu tốt của doanh nghiệp vì lợi nhuận giữ lại là một phần của lợi nhuận doanh nghiệp sau khi trừ đi phần thuế nộp cho nhà nước và chi cổ tức chô các cổ đông.Nó trực tiếp làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tạo sự chủ động và an toàn cho các mục tiêu đầu tư trong tương lai của doanh nghiệp.
- Vốn vay từ các ngân hàng thương mại đây là phần quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng vốn má doanh nghiệp hiện nay đang thu hút. Nó chiếm khoảng trên 20% nguồn vốn của doanh nghiệp và ngày càng tăng. Hiện nay doanh nghiệp nhá nước vẫn là khách hàng thường xuyên của các ngân hàng thương mại chiếm 30% tổng số vốn cho vay.
Sau khi doanh nghiệp thành lập thi tạo lập vốn được hình thành từ vốn chủ sở hữu và vốn từ quỹ đầu tư phát triển được trích từ lợi nhuận sau thuế được giữ lại.
Nếu nhà nước đánh thuế quá cao sẽ dẫn dến khả năng tạo lập vốn của các doanh nghiệp bị thu hẹp.
2. Huy động vốn đầu tư
Việc thực hiện hoạt động thu hút vốn đầu tư đã đạt được một số kết quả tích cực về bốn mặt:
- Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP liên tục tăng qua các năm và đến nay đã đạt 38,7%, thuộc loại cao nhất thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 40% của Trung Quốc. Đối với nước có điểm xuất phát còn thấp, muốn tăng trưởng cao và chống tụt hậu xa hơn thì đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn là rất có ý nghĩa.
- Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, với tỷ trọng trong tổng số vốn đã lên đến 32,4%, cao hơn mười điểm phần trăm so với cách đây 5 năm. Đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách... Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe... đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư, có tác động là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác...
- Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo.
- Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã có những đổi mới trong việc phân cấp, trong công tác giám sát
2.1.Thu hút vốn đầu tư trong nước
Vốn đầu tư trong nước dự kiến huy động khoảng 21-22% GDP, khoảng 560 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 2/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tương đương khoảng 40 tỷ USD.
Các nhà kinh tế cho rằng vốn nhàn rỗi trong dân cư là 60.000 tỷ đồng có thể huy động được còn con số thực sự có thể còn cao hơn nhiều. Hơn nữa, con số này cũng sẽ gia tăng theo từng năm. Vì vậy, các doanh nghiệp, kể cả các tổng công ty nhà nước, các công ty cổ phần trong tất cả các lĩnh vực: thủy điện, xi măng, bưu chính - viễn thông, công nghệ thông tin... đều có thể lập dự án để phát hành trái phiếu, cổ phiếu, nhằm huy động vốn trong dân. Tuy nhiên, không dễ để huy động nguồn vốn đầy tiềm năng trong dân cư nếu như các doanh nghiệp chưa tạo đựơc niềm tin cho dân cư. Một trong những giải pháp cần thiết là phải tạo được sự công khai, minh bạch. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa, việc định giá doanh nghiệp theo thị trường là rất quan trọng. Nếu được đánh giá đúng và mọi thông tin trước khi bán cổ phần ra bên ngoài được công khai, minh bạch thì chắc chắn là hiệu quả thu hút vốn từ công chúng sẽ cao hơn nhiều. Chẳng hạn, cổ phần của Công ty Bảo Minh khi bán ra bên ngoài đã gấp 2,16 lần so với giá ban đầu. Hay như Ngân hàng Ngoại thương cũng vậy. Nếu mà đem đấu giá ngân hàng này, hay mời các nhà đầu tư quốc tế vào đánh giá thì giá trị của nó sẽ không chỉ là 5.000 tỷ đồng theo vốn điều lệ nữa, mà chắc chắn sẽ cao hơn nhiều.
2.2.Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Qua tính toán sơ bộ của các Bộ, địa phương, qua các chương trình, dự án, và các cam kết hợp tác đầu tư với nước ngoài, dự kiến vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm tới có thể huy động (tương đối khả thi) là 840 nghìn tỷ đồng.
Huy động nguồn vốn từ bên ngoài: Dự kiến khoảng 20 tỷ USD, trong đó vốn đăng ký các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép và các dự án tăng vốn khoảng trên 15 tỷ USD, (vốn đăng ký của các dự án cấp mới là 12 tỷ USD, các dự án tăng vốn đạt trên 3 tỷ USD). Ước tính vốn đưa vào thực hiện có thể đạt khoảng 11 tỷ USD và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) dự kiến đưa vào khoảng 9 tỷ USD (vốn vay khoảng 7,5 tỷ USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 1,5 tỷ USD).
Trong tổng vốn nêu trên, khả năng huy động của khu vực Nhà nước (đầu tư công cộng) đạt 467 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,5%, trong đó vốn Ngân sách (không kể ODA) khoảng 123 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,7%, tín dụng nhà nước (không kể ODA cho vay lại) gần 56 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,6%, doanh nghiệp nhà nước 162 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,3%; vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đạt 126 nghìn tỷ đồng, chiếm 15%; khu vực tư nhân trong nước khoảng 220 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,2%; khu vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 153 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Như vậy, khu vực nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn (55,5%), khu vực tư nhân trong nước tuy tỷ lệ có tăng từ 21,9% (1996-2000) lên 26,2% (2001-2005), nhưng vẫn còn rất thấp, m._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24914.doc