Phần mở đầu
Dưới góc độ triết học- xã hội vấn đề môi trường sinh thái là một điều mới mẻ.Trong vài thập kỷ gần đây, vấn đề môi trường sinh thái nổi lên như một vấn đề mang tính toàn cầu, cấp bách của thời đại.
Vấn đề môi trường sinh thái ngày nay đang đụng chạm đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và liên quan đến nhiều khoa học.Những khía cạnh khác nhau của vấn đề môi trường như sinh học, kinh tế, địa lý, y học, tư tưởng, chính trị, đạo đức... Từ thực tiễn nghiên cứu và giải quyế
22 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1864 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa tự nhiên, xã hội & con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t vấn đề sinh thái của thời đại và trong điều kiện cụ thể của nước ta đã nảy sinh nhu cầu cần thiết phải có một cơ sở lý luận- phương pháp luận chung nền tảng cho việc xem xét mối quan hệ giữa con người và tự nhiên , đặc biệt là vai trò ngày càng to lớn của con người và xã hội trong việc biến đổi tự nhiên, và ngày nay là việc khắc phục những mặt tiêu cực của quá trình phát triển xã hội, để làm thế nào loài người có thể trở lại sống hài hoà thực sự với tự nhiên trong thế giới hiện đại.
Xuất phát từ góc độ triết học- xã hội, có 3 vấn đề chung nhất được nêu lên:
A-Thực chất của vấn đề môi trường sinh thái hiện nay
B- Mối quan hệ giữa tự nhiên,xã hội và con người.
C-Vấn đề môi trường sinh học ở việt Nam.
Do phạm vi đề tài rộng, lượng kiến thức có hạn nên trong bài viết của em không tránh khỏi những sai sót.Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn.
Phần nội dung
A.Thực chất của vấn đề môi trường sinh thái hiện nay
1- Sinh thái, sinh thái học và môi trường sinh thái
Theo cách hiểu chung nhất thì sinh thái học đó là khoa học về các mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau giữa các cơ thể sống và môi trường xung quanh chúng. Sinh thái học và phép biện chứng rất gần nhau. Nếu như phép biện chứng nghiên cứu mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của tự nhiên, thì sinh thái học nghiên cứu các mối liên hệ ở phạm vi hẹp hơn, giữa cơ thể với môi trường sống của nó. Phép biện chứng còn bàn về mối quan hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong tự nhiên. Mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường sống cũng là một mối quan hệ phổ biến, mà sinh thái học chuyên bàn về mối quan hệ đó.
Qua định nghĩa về sinh thái, sinh thái học cho phép chúng ta rút ra những hiểu biết về môi trường sinh thái. Môi trường sinh thái là bao gồm tất cả những điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội.
2- Vấn đề môi trường sinh thái ngày nay.
Ngày nay không có một nơi nào trên thế giới đã và đang có con người sinh sống, dù đó là miền hải đảo xa xôi hay vùng rừng núi cao hẻo lánh, mà môi trường tự nhiên không chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi sự tác động của con người. Hơn nữa, nước, không khí, hai yếu tố cơ bản nhất của môi trường sống không thể nào phân chia được ranh giới, song cả hai yếu tố đó ngày nay đều đang bị ô nhiễm rất nặng nề.
Mọi nghiên cứu của con người đều nhằm mục đích tối cao là bảo vệ sự sống, sự phát triển toàn diện của con người, sự sinh tồn và sự phát triển của xã hội.Môi trường sống của con người phải là môi trường tự nhiên- xã hội. Môi trường sinh thái là môi trường có liên quan trực tiếp đến sự sống của con người và xã hội. Do đó vấn đề môi trường sinh thái mà ngày nay con người đang tập trung nghiên cứu để tìm ra phương án tối ưu giải quyết nó, thực chất là vấn đề về mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên.
Sinh thái học đã tiến từ việc nghiên cứu mối quan hệ” cơ thể- môi trường” sang nghiên cứu mối quan hệ” con người, xã hội và tự nhiên”- sinh quyển, sinh thái học ngày nay đã đạt được những đổi mới lớn lao như đã” sinh thái hoá’ 1 số quan điểm lý luận chung, đặc biệt là ở khía cạnh thế giới quan và phương pháp luận.Bởi vì trước thực trạng phát triển của các vấn đề sinh thái hiện nay, đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản đối với những quan điểm truyền thống đã bám rễ hàng thế kỷ nay trong giới khoa học tự nhiên cũng như trong nhận thức của con người về ý nghĩa xã hội lớn lao của các quy luật sinh thái học.
Nhiệm vụ của sinh thái học hiện đại là tổng hợp lại các khuynh hướng cơ bản, làm rõ các mối liên hệ ngược giữa tự nhiên và con người, sự biến đổi của tự nhiên bởi con người, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên lên con người và những khả năng thích nghi của con người lên môi trường đã bị biến đổi, sự cần thiết phải bảo vệ môi trường sống với tư cách môi trường dinh dưỡng của con người, và sử dụng hợp lý môi trường đó với tư cách là môi trường sản xuất của nó...Trong sinh thái học hiện đại, con người đã trở thành đối tượng nghiên cứu trực tiếp của khoa học tự nhiên, còn đối tượng của khoa học tự nhiên- giới tự nhiên trở thành đối tượng trực tiếp của khoa học về con người.
Sự hình thành sinh thái học- xã hội chủ yếu là do tính phức tạp của quá trình tác động qua lại giữa con người và môi trường tự nhiên từ giữa thế kỷ XX trở lại đây.
*Khái quát môi trường sinh thái ngày nay
-Nguồn nguyên liệu hoá thạch cũng như các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác không phải là vô hạn. Vấn đề là ở chỗ con người cần phải biết dự đoán trước các nguồn tài nguyên đó, vì đây là các nguồn tài nguyên không tái tạo được.Ngày nay ngoài nguồn năng lượng do nhiên liệu hoá thạch cung cấp như than dầu lửa, khí đốt, con người đang chuyển dần sang sử dụng các nguồn năng lượng khác như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, sức gió, sức nước, song chi phí rất lớn, đắt hơn so với nhiên liệu hoá thạch.
-Các nguồn tài nguyên thiên nhiên tái tạo được như không khí, rừng, đất, nước, động thực vật.
+Tài nguyên rừng: trong đó rừng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống con người.Bằng chứng là hơn 6 tr km2 rừng rộng bằng một nửa diện tích Châu âu bị đốn trụi trong 20 năm qua.Diện tích rừng ngày càng bị co hẹp lại vì tình trạng khai thác bừa bãi. Mỗi năm tổng số rừng nhiệt đới giảm 8000 km2. Hiện nay rừng toàn thế giới đang kêu cứu.Ngay từ đầu thế kỷ XVIII, nồng độ khí cacbonic đã tăng 27% và đang nhanh chóng tăng lên.Cứ mỗi phút trôi qua, có tới 21,5 héc ta rừng nhiệt đới bị phá huỷ ,hàng năm có tới 17 triệu ha rừng nhiệt đới bị hạ, sự cằn cỗi đất đai, hạn hán và lũ lụt, sự thất bát của mùa màng, dẫn đến tình trạng nghèo đói, là sự nghèo dần tính đa dạng sinh học, do nơi cư trú của chúng bị phá hoại, là sự tăng hàm lượng CO2 trong khí quyển- gây nên”hiệu ứng nhà kính”, tăng hàm lượng cacbonic trong khí quyển, mặt đất sẽ bị nung nóng thường xuyên và mất đi chất màu mỡ.Châu Phi, Châu á, Châu Mỹ La Tinh bị bóc lột thậm tệ phải bán rừng để cầm hơi, dù rừng là mạng sống của đất nướ, làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất.
-Tài nguyên đất: sự mất mát quá lớn của rừng dẫn đến nghèo kiệt đất đai và sự mất dần những sinh vật quí hiếm.Nhiều đất đai trồng trọt bị xói mòn, bùn cát lấp các con sông trên thế giới gấp 3 lần thế kỷ trước.Hàng năm trên toàn trái đất, hoạt động của con người đã rửa trôi khoảng 25400 triệu tấn lớp đất bề mặt của những vùng đất đang được sử dụng, làm mất đi khoảng21 triệu hécta đất đai phì nhiêu.Quả bom dân số sẽ tạo nên hiện tượng hoang mạc hoá đất đai.Hiện nay ở Châu Phi, Châu á, Châu Mỹ, mỗi năm có khoảng 6 tr ha đất đai bị hoang mạc hoá.
-Động thực vật: Con người không để cho nhau được sống yên lành,và cũng không để cho muôn loài tồn tại. Vậy mà trái đất vốn là nơi nương náu và sinh trưởng của muôn loài..Nhiều nhà chuyên môn dự đoán rằng trong vòng 20-30 năm tới có khả năng 1/4 số loài sinh vật trên hành tinh nghĩa là khoảng 1 triệu loài sẽ có nguy cơ bị tuyệt chủng, trung bình mỗi ngày mất khoảng 100 loài.Nhờ sự khám phá Châu Mỹ đã dẫn tới diệt chủng đàn bò bidông,nhiều loài thú đẹp đẽ khác,kể cả đàn sói.Đàn voi Châu Phi chỉ còn 1/10, mỗi năm có 5000 con voi bị giết .Từ đất nước của voi, tê giác 1 sừng, tê giác 2 sừng, bầy hổ báo, hươu nai. Hiện nay chúng ta chỉ còn khoảng500 con voi, dăm bảy con tê giác và vài chục con bò rừng.Chúng ta đang lấn chiếm môi trường sống của chúng, bắt giết chúng để mưu lợi lộc.Đã nhiều năm qua chúng ta dửng dưng và nương nhẹ lũ săn trộm tàn bạo.
-Nước là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô giá: 3/4bề mặt của trái đất là nước nhưng trong đó nứơc ngọt cần cho sự sống của các sinh vật trên cạn, cho con người và nền sản xuất xã hội lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất không đáng kể. Ước tính trong vòng 30 năm tới, khoảng 1/3dân số trên thế giới sẽ bị thiếu nước thường xuyên. Nguyên nhân thiếu nước là do dân số tăng nhanh, do sự gia tăng nhu cầu về nước cho phát triển công nghiệp và nông nghiệp.(Theo thông điệp của VNEP nhân ngày thế giới về nước 22-3-1996).
-Nạn ô nhiễm nặng nề môi trường sinh thái đang hàng ngày hàng giờ bào mòn cơ thể tự nhiên, lẫn xã hội, nhưng cho đến nay con người vẫn chưa thể kiểm soát được.
-Trong các hiện tượng ô nhiễm môi trường, trong đó phải kể đến sự suy thoái tầng ôzon,tấm áo giáp của con tàu trái đất đã bị chọc thủng nhiều nơi, tia cực tím của mặt trời không thể huỷ hoại sinh vật sống trên trái đất là nhờ tầng ozon bảo vệ, không có tầng ôzon cùng với nước và oxy thì sự sống trên hành tinh của chúng ta không thể tồn taị được.Với tốc độ phát triển công nghiệp như hiện nay, các hoá chất như methane, oxyde azote,chlorofluoro cảbone.. do nhà máy, xe cộ thải ra, đang chọc thủng tầng ozon.Theo dự báo của tổ chức IPCC, năm 2010, nhiệt độ trái đất sẽ tăng thêm 4,5 độ.Hoang mạc sẽ bành trướng và diện tích rừng phòng hộ sẽ co lại.Chưa kể nếu xảy ra cuộc chiến tranh hạt nhân trên quy mô toàn thế giới, cháy lớn sẽ xảy ra, bụi và mụi than sẽ che lấp ánh sáng mặt trời và trái đất sẽ rơi vào thời kỳ băng giá.
-Một hiểm hoạ quan trọng nhất nưâ do con người tạo ra đó là vấn đề dân số.Dân số thế giới tăng với tốc độ khủng khiếp .Thời phục hưng, dân số thế giới mới có 450 tr người,năm 1900 là 1,5 tỷ;năm 1950 là 2,5 tỷ và hiện nay là 5,4 tỷ.Theo dự báo của Liên hợp quốc, đến năm 2075 dân số thế giớ là 10 tỷ người, 10 tỷ người sẽ khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nạn ô nhiễm môi trường sinh thái gia tăng và áp lực của làn sóng nhập cư từ các nước nghèo sang nước giàu ngày càng khốc liệt hơn, từ đó gây ra các cuộc xung đột vũ trang triền miên.
Bước vào năm 2000, nạn ô nhiễm môi trường đã đến giới hạn cuối cùng mà trái đất có thể chịu đựng được.
3.Một số giải pháp cơ bản đối với vấn đề môi trường sinh thái ngày nay:
-Thay đổi về nhận thức- xây dựng ý thức sinh thái.
-Tiến hành những lhoạt động có ý thức nhằm tái sản xuất và tiến đến tái sản xuất mở rộng chất lượng môi trường sinh thái.
-Sự kết hợp các mục tiêu kinh tế và sinh thái.
-Hướng mọi hoạt động của con người vào mục đích phát triển bền vững của xã hội.
-Vai trò của thông tin và hệ thống điều khiển môi trường sinh thái.
B.Mối quan hệ giữa tự nhiên,xã hội và con người.
Một trong những biểu hiện quan trọng nhất, rõ ràng nhất tính thống nhất vật chất của thế giới là sự thống nhất bền vững và biện chứng giữa các yếu tố trong hệ thống”Tự nhiên-Con người-Xã hội”. Sự thống nhất đó được thực hiện thông qua mối quan hệ, sự tác động và qui định lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên, trong quá trình hoạt động sống và làm nên lịch sử loài người.
Để có được sự hiểu biết đầy đủ và sâu sắc những vấn đề đang đặt ra trong lĩnh vực môi trường sinh thái cũng như tìm kiếm các con đường đúng đắn giải quyết chúng, cần phải có cách tiếp cận triết học-xã hội đối với vấn đề về mối quan hệ giữa con người- xã hội-tự nhiên.Bởi vì môi trường sinh thái ngày nay không chỉ là nghiên cứu của các khoa học tự nhiên, mà còn là đối tượng nghiên cứu của các khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và của triết học,ở đây, dựa trên những di sản tư tưởng của triết học Mác-Lê-Nin, trên những tri thức của thời đại, và ba nguyên lý cơ bản đã được đưa ra làm cơ sở cho việc nghien cứu mối quan hệ giữa con người-xã hội-tự nhiên.
1. Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giơi.
Thế giới vô cùng phức tạp, muôn hình muôn vẻ, muôn màu, muôn sắc nhưng đều có 1 tính chất chung- đó là vật chất, giới tự nhiên là vật chất; con người là sản phẩm của tự nhiên, là một bộ phận đặc thù của tự nhiên; xã hội là sản phẩm của các sự tác động giữa người và người, nên xã hội không thể là một cái gì khác,mà chính là một bộ phận được tách ra một cách hợp quy luật của tự nhiên.Như vậy,tự nhiên con người và xã hội đều là vật chất đã gắn kết tất cả các yếu tố của thế giới thành một chủ thể toàn vẹn một hệ thống tự nhiên, con người, xã hội.Đây là một nguyên lý có tính phương pháp luận quan trọng nhất, bởi vì,với nguyên lý này cho phép chúng ta hiểu được bản chất của mối quan hệ giữa con người xã hội và tự nhiên,hướng các khoa học vào việc nghiên cứu bản chất đó để tìm ra các cách thức, các biện pháp giải quyết mâu thuẫn giữa các yếu tố của hệ thống nhằm giữ vững sự thống nhất vật chất của thế giới.
2-Nguyên lý về sự phụ thuộc của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên vào trình độ phát triển của xã hội.
Thế giới là vật chất, luôn vận động,biến đổi và phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ,ràng buộc lẫn nhau giữa các yếu tố.Nguyên lý này khẩng định rằng mối quan hệ giữa con người và tự nhiên mang tính chất lịch sử cụ thể, nghĩa là mối quan hệ này có tính chất khác nhau trong thời đại khác nhau.Sự khác nhau này phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội,trước hết là phương thức sản xuất với tư cách là động lực phát triển của xã hội,trong đó lực lượng sản xuất xã hội giữ vai trò chủ đạo.Trong sự phát triển của xã hội đã từng diễn ra bốn cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất đã đưa ra nhân loại từ mông muội,dã man sang văn minh nông nghiệp,văn minh công nghiệp và văn minh trí tuệ.Trong qúa trình đó,mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng diễn ra ở bốn mức độ: Sự phụ thuộc hoàn toàn mù quáng của con người vào tự nhiên, hay sự hài hòa tuyệt đối giữa con người và tự nhiên, tiếp đến là giai đoạn con người đã bắt đầu phân biệt sự khác nhau giữa họ và tự nhiên, song lúc này con người chỉ mới biết khai thác tự nhiên trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp,cùng với cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVII, cách mạng khoa học-kỹ thuật đã xuất hiện mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên và mâu thuẫn đó càng ngày càng gay gắt.Chính mâu thuẫn đó là nguồn gốc của thực trạng môi trường sống hiện nay trên thế giới.Qúa trình lịch sử vẫn tiếp tục, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,con người có được những điều kiện,cả về nhận thức lẫn phương tiện để giải quyết những mâu thuẫn giữa xã hội với tự nhiên.
3-Nguyên lý về sự điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Hệ thống tự nhiên con người- xã hội là một hệ thống vật chất thống nhất.Trong hệ thống này con người đang là dạng vật chất có tổ chức cao nhất và đồng thời cũng là dạng vật chất duy nhất có ý thức.Bởi vậy, chỉ có con người mới là khả năng giải quyết những mâu thuẫn gay gắt giữa xã hội và tự nhiên.Hơn nữa,bản thân tự nhiên về mặt cấu trúc cũng như chức năng hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với con người với xã hội,mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên chỉ xuất hiện trong qúa trình hoạt động sống và phát triển xã hội của con người,quan trọng nhất là qúa trình sản xuất ra của cải vật chất điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên nghĩa là phải nắm bắt được những quy luật của tự nhiên đồng thời phải biết vận đụng những quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của xã hội.Với mục đích đưa xã hội trở lại với tự nhiên,con người trong các hoạt động thực tiễn của mình phải biết tuân thủ theo các nguyên tắc tự tổ chức,tự điều chỉnh,tự làm sạch,tự bảo vệ tự nhiên.Để có thể xây đựng được mối quan hệ thật sự giữa xã hội và tự nhiên,con người cần phải thay đổi chiến lược phát triển xã hội,từ chỗ chỉ vì lợi ích của xã hội,của con người sang vì lợi ích,vì sự tồn tại và phát triển của cả hệ thống tự nhiên-con người-xã hội,nghĩa là thực hiện chiến lược phát triển bền vững ví sự sống sự tồn tại không chỉ của thế giới hôm nay, mà còn vì sự sống và cơ hội phát triển của thế hệ mai sau.
*Ba nguyên lý trên đây là nguyên lý triết học-xã hội về mối quan hệ giữa con người xã hội và tự nhiên.Chúng cho ta một thế giới quan và phương pháp luận chung nhất để nghiên cứu vẫn ở môi trường sinh thái ngày nay.Song việc chuyên nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực mối quan hệ con người, xã hội và tự nhiên thuộc về một khoa học mới: Sinh thái học-xã hội học hay còn có thể gọi là sinh thái học nhân văn.
C.Vấn đề môi trường sinh thái ở việt Nam.
Trái đất chúng ta là một mái nhà. Việt Nam với tư cách là một thành viên của ngôi nhà trái đất, vì vậy phải có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn và tôn tạo vẻ sạch đẹp của ngôi nhà trái đất như mọi thành viên khác của thế giới.
1-Môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay thực trạng và đặc điểm.
Đối với nước ta, khi xem xét hiện trạng và đặc điểm của môi trường sinh thái cần phải xuất phát từ việc phân tích những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tác động qua lại giữa con người và tự nhiên trong điều kiện của một nước còn chậm phát triển, nhưng lại đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố hiện đại như kỹ thuật, công nghệ, cơ chế thị trường , và cả những yếu tố truyền thống văn hoá dân tộc như quan niệm của con người về tự nhiên, về mối quan hệ của họ với tự nhiên.Chính những quan niệm đó là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên những mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên trong các quá trình khai thác và sử dụng thiên nhiên trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Nước ta có nhiều ưu thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên và những điều kiện địa lý tự nhiên, đặc biệt là có thế mạnh về nguồn tài nguyên tái tạo (rừng, đất đai, động thực vật), một số loại tài nguyên khoáng sản( dầu mỏ, than đá, đất hiếm..). Khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, ẩm, mặt trời chiếu sáng quanh năm là nguồn cung cấp năng lượng vô tận cho sự sống của con người và mọi sinh vật.Song, trong mấy chục năm qua , với số tài nguyên sẵn có, một mặt chúng ta chưa biết khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm dẫn đến sự nghèo nàn và cạn kiệt số tài nguyên đó, và mặt khác còn gây ra ô nhiễm môi trường sinh thái.
2-Khái quát hiện trạng môi trường việt Nam :một số vấn đề và những giải pháp.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề môi trường trong mối liên quan đến quá trình phát triển bền vững, mọi chính sách phát triển kinh tế- xã hội đều đã được xem xét gắn liền với bảo vệ môi trường.Việt Nam là một nước nông nghiệp, hơn nữa, sự phát triển của xã hội ta hiện nay vẫn chưa vượt ra khỏi trình độ của nền văn minh nông nghiệp, do đó các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất đai, các nguồn nước có một giá trị đặc biệt quan trọng đối với sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội.
-Tài nguyên rừng: rừngkhông chỉ là kho tài nguyên thiên nhiên phong phú, mà còn là kho tư liệu sống vô giá.Tổng diện tích đất đai cả nước có hơn 330.000 km trong đó diện tích rừng nguyên thuỷ theo tài liệu của WWF-1989 chiếm tới 332.116 km có nghĩa toàn bộ diện tích cả nước đề được rừng che phủ.Rừng Việt Nam không chỉ nhiều mà còn đa dạng về chủng loại và rất phong phú động thực vật.Ngày nay, rừng Việt Nam đã và đang bị phá hoại nặng nề.Rừng nguyên thuỷ chỉ còn chiếm khoảng 66.432 km , trong đó rừng bảo vệ là 7365km .Nguyên nhân đưa đến thảm cảnh của rừng Việt Nam hiện nay có nhiều, nhưng do hai nguyên nhân chủ yếu là:
+Do chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hoá học của Mỹ đã để lại di hại trên 48% diện tích trồng trọt, lâm nghiệp ở miền Nam. Mức độ mất rừngquálớn:200.000ha/năm, trong đó có 60.000ha bị chặt phá làm nông nghiệp,50.000ha bị cháy,còn lại là do khai thác lấy gỗ, củi.Mức trồng rừng hàng năm 80.000-100.000ha không đủ bù đắp lại số rừng bị mất. Hơn nữa, rừng tái sinh và rừng trồng có giá trị kinh tế và đặc biệt là giá trị sinh thái không cao.
+Do lối suy nghĩ thiển cận và sự hiểu biết kém cỏi của người sản xuất nhỏ trong điều kiện dân số tăng nhanh, đưa kỹ thuật vào khai thác rừng và sự tấn công của cơ chế thị trường vào cuộc sống con người.
*Việc mở rộng canh tác để nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho một số dân quá đông lại tăng nhanh (2,2%/năm). Việc duy trì lối sống du canh, du cư của một số dân tộc ít người, cộng với việc đưa kỹ thuật hiện đại vào khai thác rừng bừa bãi.Sự mất mát nhanh chóng của rừng đã đưa đến những hậu quả hết sức tiêu cực cho môi trường sinh thái như làm biến đổi khí hậu, gây hạn hán, lũ lụt, xói mòn đất, làm ảnh hưởng xấu đến các công trình kinh tế và năng lượng, trực tiếp đe doạ cuộc sống hàng triệu con người.
+Theo tài liệu gần đây, qua 5 năm phát động ta đã trồng lại được750000 ha rừng tập trung và 2 tỷ cây phân tán,nhất là sau dự án 237 diện tích rừng được trồng tăng.Thế nhưng diện tích rừng bị phá vẫn còn tiếp tục tăng do dân di cư tự do ở miền núi phía Bắc vào Nam ,do phá rừng lấy gỗ lậu,đốt than trồng tỉa.Nguy hiểm nhất là rừng đầu nguồn bị phá huỷ bằng các cách tạo cháy rừng, để rồi lập biên bản thanh lý và thừa cơ “đục nước béo cò”. Do vậy mà khí hậu thời tiết thay đổi, hiệu ứng nhà kính tăng, lũ lụt xảy ra mạnh hơn, một số sông ở miền Trung lại khô cạn về mùa khô và giận dữ về mùa mưa.
Sự cạn kiệt rừng ở nước ta hiện nay thực sự là vấn đề kinh tế và sinh thái nhức nhối và cấp bách nhất.
-Tài nguyên đất: rừng có mối quan hệ chặt chẽ với đất đai. Vốn đất đai nước ta không phải là ít. Với hơn 33 triệu ha,đất đai Việt nam đứng thứ 12 trên thế giới, nhưng tính bình quân đầu người thì rất thấp, còn bình quân diện tích đất canh tác theo đầu người vào loại thấp nhất thế giới.
+Mặc dù sản xuất nông nghiệp đã và đang phát triển rõ rệt, nhưng môi trường đất cũng đã và đang suy thoái nghiêm trọng.Biểu hiện quan trọng nhất là 2 quá trình:
.Quá trình đá ong hoá ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, miền núi phía Bắc: như ta đã biết thì sau khi quá trình này hoàn tất thì môi trường sinh thái hoàn toàn bị phá huỷ, thay vào đấy là sinh thái vùng đất chết.
.Quá trình xói mòn đất cũng không kém phần quyết liệt, nhất là trên vùng đất đồi phù sa cổ hoặc đất badan. Sau 6-7 năm môi trường bị phá huỷ, đất trở thành sỏi đá.Muốn khôi phục môi trường đó phải cần 70-80 năm trồng rừng tu bổ. Nguyên nhân chủ yếu là do chặt phá rừng, phá huỷ môi trường sinh thái, canh tác bừa bãi.
*Những thay đổi trong chiến lược sử dụng đất đai(1990-1997):
-Tăng diện tích rừng, diện tích cây lâu năm và cây công nghiệp phát triển70% và cây ăn quả 37%.
-Thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng, tăng thu nhập, việc làm cho người dân.
-Chính phủ Việt Nam thực hiện đóng cửa rừng tự nhiên, đề ra chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, để đạt mục tiêu đưa tỷ lệ che phủ rừng của Việt Nam đạt 43%(tỷ lệ của năm 1943).Tuy nhiên quỹ đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp và ngày càng giảm do đất đai được chuyển đổi sang các mục đích sử dụng khác(1980:0,1318 ha-1983:0,1159ha-1990:0,1080ha-1993:0,099ha...)
-Cải thiện về cung cấp nước sạch
+Bản thân các hoạt động sản xuất nông nghiệp đang đóng góp nhiều hoá chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, sản xuất công nghiệp đặc biệt là các nhà máy sản xuất phân bón hoá học đã góp phần quan trọng làm ô nhiễm đất và nước.
+Là một nước nhiệt đới gió mùa, sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, vấn đề nước lẽ ra không có gì đáng bàn.Thế nhưng ngày nay, nước ngọt, sạch không chỉ là vấn đề kinh tế-xã hội mà còn là vấn đề sinh thái-xã hội gay cấn.Nguồn nước ngọt, sạch hiện nay ở nước ta vừa rất khan hiếm, vừa rất thừa thãi, thừa đến mức thành giặc nước tàn phá cả đất đai, mùa màng.
+Theo số liệu điều tra hộ gia đình đa mục tiêu của Tổng cục thống kê, tính đến 1997 có 42% dân số cả nước được sử dụng nước sạch(thành thị 60%- riêng nước máy 47%). Nhìn chung việc sử dụng nước sạch tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã, còn ở các thị trấn và vùng nông thôn chưa được cải thiện nhiều.ở nông thôn có khoảng 80% dân số đang hoạt động nông nghiệp và sinh sống, là nơi có trình độ dân trí thấp, tỷ lệ sinh đẻ cao. Vấn đề môi trường nổi lên ở nông thôn hiện nay là vấn đề cung cấp nước sạch vì hiện nay mới có 37% dân số nông thôn sử dụng nước sạch, còn lại phần lớn dùng nước giếng, hồ ao, sông suối.. không qua xử lý.
+Những năm qua vấn đề cung cấp nước sạch đã được các cấp, các ngành quan tâm nhằm nâng cao tỷ lệ dân cư được cung cấp nước sạch. Từ 1982-1997 Nhà nước đã đầu tư khoảng trên 400 tỷ đồng(chiếm khoảng 60%tổng số vốn đầu tư cho cấp nước sạch nông thôn) để thực hiện chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, số còn lại là huy động đóng góp của nhân dân.
-Hiện tượng khai thác nước ngầm vô tổ chức
+Tốc độ đo thị hoá nhanh, dân số tăng, khu dân cư mới mọc lên nhiều, mà cấp nước thì không kịp, đẻ ra hiện tượng” người người khoan giếng ,nhà nhà có giếng”. Điều tất yếu đã và đang xảy ra là nguồn nước ngần bị ô nhiễm. Bởi vì công cụ khai thác không bảo đảm, một số bị ô nhiễm hữu cơ hoặc vô sinh. Mặt khác gây ra hiện tượng sụt, lở đất- điều đã tháy ở ngoại thành TPHCM.Như ta biết, nguồn nước ngầm bị ô nhiễm thì khó lòng cứu chữa vì đó là tài sản vô giá.3
-Đô thị hoá làm tăng nguồn phát thải và chất thải
+Sự thừa nước đã khổ, sự thiếu nước càng khổ hơn.Các nguồn nước ngọt sạch đang bị thu hẹp và giảm chất lượng do bị ô nhiễm bởi các chất thải sinh hoạt và đặc biệt là các chất thải của sản xuất công nghiệp.Các chất thải từ các bệnh viện, các phòng thí nghiệm khoa học, khu chăn nuôi- đều không được xử lý ,gây nên ô nhiễm rất nguy hiểm cho môi trường nước.Nền công nghiệp nước ta tuy phát triển chưa mạnh, nhưng những chất thải của nó góp phần quan trọng vào việc gây ô nhiễm các nguồn nước và không khí.Hầu hết các chất thải từ các nhà máy đều chưa được xử lý nghiêm túc đã tung vào môi trường.Xung quanh khu vực các nhà máy,đất và nước đều bị ô nhiễm nặng bởi các chất hóa học độc hại, kim loại mạnh.ở nhiều nơi,ô nhiễm nguồn nước ngọt do các chất thải của sản xuất,đạt đến mức rẩt nguy hiểm cho người, gia súc,các sinh vật nước.
+Việc tăng nhanh dân số thành thị đã làm tăng sức ép về nhà ở,vệ sinh môi trường,hiện nay ở các thành phố ở Việt Nam các tiêu chuẩn đô thị đều đạt dưới mức quá xa so với yêu cầu tối thiểu.Mặc dù nhà ở và các công trình công cộng đã tăng khá nhiều nhưng không theo kịp với tốc độ gia tăng đân số nói chung ở các đô thị.Nạn thiếu nhà ở hoặc nhà ở chật chội đang trở thành vấn đề trầm trọng,bình quân nhà ở của đô thị các tỉnh phía bắc khỏang 4m2/người,các tỉnh phía Nam khỏang 5m2/người nhưng phân bố không đều.Sau vần đề nhà ở là vấn đề rác thải,mặc dù nhiều năm qua,các cấp chính quyền địa phương, các ngành liên quan quan tâm đến việc thu gom và xử lý rác thải đô thị nhưng hiện nay đó vẫn đang là một vấn đề bức xúc,ứơc tính khối lượng rác thải đô thị phát sinh của cả nước có khoảng 190.000 tấn mỗi ngày nhưng khả năng thu gom mới chỉ đạt 50% khối lượng ,cá biệt có một số nơi tỷ lệ thu gom mới chỉ đạt từ 20-30%.Tình trạng thu gom và xử lý chất thải đô thị kém đang là nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm môi trường nước, đất, vệ sinh đô thị và ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị và sức khỏe cộng đồng.
-Hệ thống kênh rạch chằng chịt
+Hiện tượng mặn hoá, phèn hoá ở nông thôn Việt Nam là những nguy cơ của môi truờng. Vào các giai đoạn cuối mùa khô, nước mặn xâm nhập sâu hàng chục km.Vài năm gần đây có biểu hiện nước mặn ăn sâu hơn, người dân thiếu nước ngọt, sinh hoạt khó khăn.Một vài điểm tập trung thị tứ ở nông thôn lại trở nên những trung tâm ô nhiễm do nhà ở dọc bờ kênh: người ta thải bất cứ thứ gì thải được xuống dòng kênh.
-Một số con sông cần lưu ý
+Nhiều sông ở miền Trung bị ô nhiễm đáng ngại do hiện tượng khai thác vàng.Xưa nay các con sông này nhất là vùng cửa sông, cá và thuỷ sản rất phong phú, nay nghèo kiệt.Đấy là chưa kể ô nhiễm do chất thải công nghiệp và nông nghiệp.
+Các con sông ở đồng bằng sông cửu long thì có hiện tượng sụt lở dọc sông. Có nhiều nơi lở sâu50-100m và dài vài trăm mét.
-Bờ biển đang bị biến dạng
+Hiện tượng ô nhiễm dầu do sự cố môi trường và chất thải có dầu đã kàm ô nhiễm hầu hết các bãi tắm. Lượng dầu đã tăng quá 2-5 lần cho phép.
+Hiện tượng cạn kiệt tài nguyên: bờ biển miền Trung và cả Kiên Giang mà hằng năm khai thác trên 2000 tấn hải sản nay đã đến mức báo động.Cách đây 5-7 năm, tàu lưỡi rê 40-50 mã lực đi biển 20-22 ngày thu dược 5-10 tấn cá thu, ấy vậy mà nay chỉ còn là huyền thoại.
Theo dự báo khi quả đất nóng lên thì nước biển ở vùng nhiệt đơi sẽ dâng lên 50-70cm .Vậy thì điều gì sẽ xảy ra cho vùng ven biển nước ta?
-Vấn đề ô nhiễm không khí.
+Trong các yếu tố của môi trường sống, không khí được coi là yếu tố quan trọng nhất. Vấn đề ô nhiễm không khí ở nước ta đã có,song nhìn chung chưa đạt đến mức nguy hiểm và cũng chưa phải là hiện tượng phổ biến, vì quá trình công nghiệp hóa đô thị chưa phát triển mạnh.Hiện tượng ô nhiễm không khí chủ yếu tập chung ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp lớn và các khu dân cư suy thoái,nguyên nhân chủ yếu là do các chất thải sinh hoạt và do chất thải của các phương tiện giao thông vận tải.Lượng xe ô tô và xe gắn máy tăng vùn vụt hàng năm sẽ góp phần làm tăng nồng độ các chất ô nhiễm trong không khí và chất thải xăng dầu cho nguồn nước,làm tăng mức ồn,tăng hàm lượng bụi lơ lửng do quá trình di chuyển của phương tiện vận tải,ảnh hưởng tiêu cực không nhỏ đến sức khoẻ của con người.Hiện nay ở một số điểm nút giao thông của một số thành phố lớn hàm lượng các chất ô nhiễm nói trên và mức ồn đã vượt mức cho phép nhiều lần.ở cácđô thị lớn như TPHCM, Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì nồng độ cacbonic đã vượt 2-10 lần cho phép.Riêng các khu vực như nhà máy ximăng hoặc các trục giao thông chưa được tráng nhựa, ô nhiễm bụi đã gấp 50-60 lần cho phép.
+Bên cạnh đó,nền công nghiệp của nước ta phần lớn thiết bị và công nghệ sản xuất lạc hậu nên hiệu qủa sử dụng nguyên nhiên liệu thường rất thấp.Hệ số chất thải tính trên sản phẩm thường rất lớn,rất nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, bệnh viện... đều được xây dựng trước thời kỳ đổi mới,trang thiết bị lạc hậu về kỹ thuật và hầu như không có thiết bị xử lý nước thải.Phần lớn các chất thải lỏng đều đổ trực tiếp vào kênh, mương thoát nước gây ra ô nhiễm nguồn nước mặn và nước ngầm.Những năm gần đây, do nhận thức được tầm quan trọng của sự phát triển bền vững trong chính sách đầu tư, các công trình mới,nhà nước đã chú trọng nghiêm ngặt đến yêu cầu bảo vệ môi trường,đồng thời thường xuyên yêu cầu các cơ sở sản xuất phải tiến hành đánh giá tác động môi trường để có kế hoạch giảm thiểu ô nhiễm môi trường,nhờ đó chất lượng môi trường bước đầu đã được cải thiện.
-Điều kiện môi trường nông thôn.
+Bên cạnh tỷ lệ dân cư nông thôn được cung cấp nước sạch còn thấp thì vấn đề môi trường nổi lên ở nông thôn hiện nay là chất thải và rác thải của các làng nghề,sự lạm dụng nông dược của nông dân trong sản xuất nông nghiệp và một số hoạt động kinh tế không bình thường như săn bắt các loại rắn, mèo để chế biến thức ăn đặc sản hoặc xuất khẩu... đang gây ra sự mất cân bằng sinh thái.Đặc biệt là dịch chuột gây hại cho sản xuất nông ngh._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0159.doc