Mối quan hệ giữa thu nhập và giáo dục của hộ gia đình

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Các biểu số liệu Biểu 2.1: Thu nhập bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng chia theo thành thị - nông thôn giai đoạn 1998 – 2006 38 Biểu 2.2: Thu nhập bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng chia theo nhóm thu nhập giai đoạn 2002 – 2006 38 Biểu 2.3: Thu nhập bình quân đầu người chia theo giới tính của chủ hộ giai đoạn 2002 – 2006 40 Biểu 2.4: Thu nhập bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng chia theo năm nhóm thu nhập và giới tính của chủ hộ giai đoạn 2002 – 2006 41 Bi

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2641 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa thu nhập và giáo dục của hộ gia đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểu 2.5: Cơ cấu thu nhập bình quân đầu người 1 tháng chia theo nguồn thu 42 Biểu 2.6: Mối liên hệ giữa TNBQ đầu người 1 tuần và số giờ làm việc trung bình 1 tuần chia theo khu vực giai đoạn 2002 – 2006 43 Biểu 2.7: Mối liên hệ giữa TNBQ đầu người 1 tuần và số giờ làm việc trung bình 1 tuần chia theo nhóm thu nhập giai đoạn 2004 – 2006 44 Biểu 2.8: Mối liên hệ giữa TNBQ đầu người 1 tháng và số nhân khẩu trung bình chia theo khu vực giai đoạn 2002 – 2006 45 Biểu 2.9: Mối liên hệ giữa TNBQ đầu người 1 tháng và số nhân khẩu trung bình chia theo khu vực giai đoạn 2002 – 2006 46 Biểu 2.10: Mối liên hệ giữa TNBQ đầu người 1 tháng và tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết chữ theo khu vực giai đoạn 2002 – 2006 47 Biểu 2.11: Học lực của học sinh phổ thông chia theo vùng năm 2005 – 2006 49 Biểu 2.12: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo bằng cấp cao nhất và giới tính giai đoạn 1998 – 2006 50 Biểu 2.13: Chi cho giáo dục đào tạo bình quân 1 người theo vùng năm 2006 51 Biểu 2.14: Chi cho giáo dục đào tạo bình quân 1 người trong 12 tháng theo nhóm thu nhập năm 2006 53 Biểu 2.15: Bằng cấp cao nhất của dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo giới tính năm 2006 55 Biểu 2.16: Học lực của học sinh phổ thông chia theo giới tính năm học 2006 57 Biểu 2.17: Mối quan hệ giữa TNBQ và Trình độ trên CĐ phân theo nhóm thu nhập năm 2006 58 Biểu 2.18: Mối liên hệ giữa TNBQ đầu người 1 tháng với các nhân tố liên quan đến giáo dục 61 Các biểu đồ: Biểu đồ 2.1: Thu nhập bình quân đầu người chia theo giới tính của chủ hộ giai đoạn 2002 – 2006 40 Biểu đồ 2.2: Chi cho giáo dục đào tạo bình quân 1 người theo vùng năm 2006 51 Biểu đồ 2.3: Chi cho giáo dục đào tạo bình quân 1 người trong 12 tháng theo nhóm thu nhập năm 2006 53 Biểu đồ 2.4: Bằng cấp cao nhất của dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo giới tính năm 2006 55 Biểu đồ 2.5: Học lực của học sinh phổ thông chia theo giới tính năm học 2006 57 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT KSMS: Khảo sát mức sống TNBQ: Thu nhập bình quân THCS: Trung học cơ sở THPT: Trung học phổ thông CĐ, ĐH: Cao đẳng đại học ĐB: Đồng bằng LỜI MỞ ĐẦU “Dân giàu – nước mạnh, xã hội công bằng – dân chủ – văn minh” là chủ trương và cũng là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta theo tinh thần dân có giàu thì nước mới mạnh. Trong những năm đổi mới, dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước, Tổng cục Thống kê triển khai nhiều cuộc điều tra hộ gia đình để thu thập thông tin phản ánh mức sống của các tầng lớp dân cư phục vụ hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Khảo sát mức sống hộ gia đình được tiến hành định kỳ hai năm một lần và năm chẵn, từ năm 2002 đến năm 2010. Kết quả khảo sát được dùng làm cơ sở để đánh giá việc thực hiện các chủ trương, chính sách của chính phủ và hiệu quả của nó. Từ số liệu của cuộc khảo sát, em đã sử dụng số liệu về thu nhập và giáo dục để phục vụ cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp: “Phân tích thu nhập và giáo dục của hộ gia đình giai đoạn 2002 – 2006”. Trong đề tài này, trước hết về thu nhập, em sử dụng số liệu vào phân tích nhằm làm sáng tỏ sự khác biệt về thu nhập của từng vùng, từng thành phố, từng nhóm thu nhập,…, với nhau. Từ đó rút ra những đặc điểm chung nhất về sự khác biệt nêu trên. Đối với giáo dục, từ số liệu khảo sát em sẽ phân tích sự chênh lệch về chi phí dành cho giáo dục, trình độ học vấn, học lực…giữa các vùng, các nhóm thu nhập, các dân tộc…kết quả đạt được là cơ sở cho các kết luận mang tính khách quan nhất. Dựa vào những phân tích trên, em phân tích thêm mối quan hệ giữa thu nhập và giáo dục của hộ gia đình. Những phân tích này giúp em nắm bắt được sự tương quan giữa thu nhập và giáo dục, tầm quan trọng cũng như sức ảnh hưởng của hai yếu tố đến nhau. Thu nhập ảnh hưởng đến giáo dục như thế nào? Đây không phải là một câu hỏi khó nhưng không phải là ai cũng biết câu trả lời, và là một câu hỏi không phải chỉ một hai người quan tâm mà là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Tìm ra mối quan hệ giữa giáo dục và thu nhập, từ đó có thể tiến hành các chủ trương, chính sách tác động nhằm nâng cao thu nhập và giáo dục, hai yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh mức sống dân cư ở mọi quốc gia hiện nay. Đây không chỉ là mối quan tâm của một quốc gia mà của nhiều quốc gia trên thế giới. Mặc dù đề tài không mới nhưng là một khảo nghiệm cho chính em để kiểm tra kết quả học tập trong bốn năm vừa qua. Trong quá trình làm bài, không thể tránh khỏi những sai sót, kính mong sự góp ý của thầy cô để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các cô, các chú và các anh chị ở Vụ Xã hội và Môi trường đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian thực tập. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô Chu Thị Bích Ngọc đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ THU NHẬP VÀ GIÁO DỤC CỦA HỘ GIA ĐÌNH THU NHẬP Khái quát mức sống hộ gia đình Mức sống hộ gia đình (KSMS) hay mức sống dân cư là trình độ thỏa mãn nhu cầu toàn diện về vật chất và tinh thần thường xuyên tăng lên của dân cư. Nhu cầu về vật chất là những nhu cầu tối thiểu phục vụ cuộc sống hằng ngày của con người như ăn, mặc, ở, đi lại…Khi đầy đủ những nhu cầu về vật chất thì con người có những nhu cầu cao hơn, đó là những nhu cầu về tinh thần. Ví dụ như nhu cầu về giải trí, ăn ngon mặc đẹp, xe đẹp hơn…Những nhu cầu về tinh thần thì không bao giờ ngừng lại. Nó thay đổi theo không gian và thời gian. Chính vì nguyên nhân này nên mức sống dân cư là phạm trù có tính tương đối. Mức sống dân cư phụ thuộc vào hai điều kiện cơ bản là điều kiện kinh tế và trình độ phát triển của nền kinh tế. Khái niệm mức sống dân cư cho ta một cơ sở vững chắc để sử dụng các kết quả của điều tra mức sống hộ gia đình, từ đó rút ra những kết luận khách quan nhất về mức sống của các tầng lớp dân cư trong nước. Sau đây là một vài nét khái quát về khảo sát mức sống hộ gia đình: Khảo sát mức sống hộ gia đình Khảo sát mức sống hộ gia đình là cuộc khảo sát định kỳ 2 năm một lần vào các năm chẵn bắt đầu từ năm 2002 đến năm 2010 Mục đích khảo sát Khảo sát mức sống hộ gia đình nhằm mục đích thu thập các thông tin làm căn cứ đánh giá mức sống, đánh giá tình trạng nghèo đói và phân hóa giàu nghèo để phục vụ công tác hoạch định các chính sách, kế hoạch và các chương trình mục tiêu quốc gia của Đảng và Nhà nước nhằm không ngừng nâng cao mức sống dân cư trong cả nước, các vùng và các địa phương. Ngoài ra, khảo sát mức sống còn thu thập các thông tin phục vụ nghiên cứu, phân tích một số chuyên đề về y tế, giáo dục, việc làm, cung cấp số liệu để tính quyền số chỉ số giá tiêu dùng và phục vụ tính toán tài khoản quốc gia. Nội dung của cuộc khảo sát Các cuộc khảo sát bao gồm những nội dung chủ yếu phản ánh mức sống của người dân trong các hộ gia đình trên cả nước và những điều kiện kinh tế xã hội của xã/phường (năm 2002) và xã (năm 2004, 2006) có tác động đến người dân nơi họ sinh sống. Các nội dung cụ thể bao gồm: Đối với hộ gia đình: Một số đặc điểm về nhân khẩu học của các thành viên trong hộ gồm: tuổi, giới tính, dân tộc, tình trạng hôn nhân. Thu nhập của hộ gia đình gồm: mức thu nhập, thu nhập phân theo nguồn thu (tiền công, tiền lương; hoạt động sản xuất tự làm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; hoạt động sản suất kinh doanh dịch vụ tự làm của hộ gia đình; thu khác); thu nhập phân theo khu vực kinh tế và ngành nghề kinh tế. Chi tiêu hộ gia đình: mức chi tiêu, chi tiêu phân theo mục đích chi (chi cho ăn, mặc, ở, đi lại, giáo dục…và chi khác). Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của từng thành viên hộ gia đình. Trình độ ốm đau, bệnh tật và sử dụng các dịch vụ y tế. Tình trạng việc làm, thời gian nghỉ việc. Tài sản, nhà ở và các tiện nghi như đồ dùng, điện, nước, điều kiện vệ sinh. Tham gia chương trình xóa đói giảm nghèo, tình hình tín dụng. Riêng năm 2004 nội dung về các loại đất nông, lâm nghiệp, thủy sản và hoạt động sản xuất tự làm nông, lâm nghiệp, thủy sản; hoạt động ngành nghề sản xuất kinh doanh dịch vụ tự làm của hộ gia đình được mở rộng với những nội dung chi tiết hơn nhằm phân tích sâu sắc tác độn của chúng đến mức sống. Đối với xã/phường (năm 2002) và xã (năm 2004, 2006): Một số mô hình chung về nhân khẩu, dân tộc, tôn giáo. Tình trạng kinh tế chung, các chương trình trợ giúp, cơ hội làm phi nông nghiệp, tình hình sản xuất nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng gồm: hiện trạng điện, đường, trường, trạm, chợ, bưu điện, nhà văn hóa, nguồn nước… Một số thông tin cơ bản về trật tự an toàn xã hội. Phương pháp khảo sát Đối tượng khảo sát gồm các hộ gia đình, các thành viên hộ gia đình và các xã/phường (năm 2002) và xã năm (năm 2004, 2006). Đơn vị khảo sát gồm từng hộ gia đình và xã/phường (năm 2002) và xã (năm 2004, 2006) được chọn khảo sát. Phạm vi khảo sát bao gồm tất cả các địa bàn xã/phường (năm 2002) và xã năm (năm 2004, 2006) được chọn thuộc tất cả các tỉnh/thành phố trực thuộc thành phố thuộc trung ương (sau đây gọi tắt là tỉnh/thành phố). Mẫu khảo sát: xuất phát từ nhu cầu thông tin cả về số lượng và chất lượng ngày càng tăng ở cả hai cấp trung ương và địa phương để đánh giá mức sống, đặc biệt là các thông tin để đánh giá tình trạng nghèo đói và những kết quả đạt được trong xóa đói giảm nghèo; căn cứ vào ngân sách nhà nước dành cho cuộc khảo sát. Khảo sát mức sống được thiết kế với 2 mẫu: một mẫu lớn hơn với nội dung khảo sát tập trung chủ yếu vào thu nhập của hộ gia đình để đánh giá mức sống cho cấp trung ương, vùng, tỉnh/thành phố; và một mẫu nhỏ hơn nhưng với đầy đủ các nội dung khảo sát để đánh giá mức sống sâu hơn ở cấp trung ương và vùng. Thiết kế cụ thể như sau: Khảo sát năm 2002: Trong năm 2002 tổ chức khảo sát đầy đủ tất cả các nội dung trên mẫu quốc gia 30.000 hộ gia đình (gọi tắt là khảo sát thu nhập và chi tiêu). Mẫu này được chia thành 4 mẫu con, mỗi mẫu con gồm 7.500 hộ được khảo sát lần lượt vào tháng đàu của 4 quý trong năm 2002. Mẫu 30.000 hộ này sẽ cho các ước lượng ở cấp toàn quốc và cấp vùng cho năm 2001 – 2002. Trong 6 tháng đầu năm 2002 tổ chức khảo sát các nội dung trừ nội dung chi tiêu trên mẫu quốc gia 45.000 hộ (gọi tắt là khảo sát thu nhập). Mẫu này được chia thành 2 mẫu con gồm 22.500 hộ được khảo sát lần lượt vào quý I và II năm 2002. Mẫu khảo sát thu nhập (45.000) kết hợp với 15.000 hộ của mẫu khảo sát thu nhập và chi tiêu (30.000 hộ) được khảo sát trong tháng đầu của quý I và II năm 2002 sẽ tạo thành một mẫu 60.000 hộ cho phép đưa ra các ước lượng ở cấp toàn quốc, cấp vùng và cấp tỉnh/thành phố cho năm 2001. Cụ thể: Thời gian thu thập số liệu Khảo sát thu nhập và chi tiêu Khảo sát thu nhập Cộng TỔNG SỐ 30.000 45.000 75.000 Chia ra: Quý I/2002 7.500 22.500 30.000 Quý II/2002 7.500 22.500 30.000 Quý III/2002 7.500 7.500 Quý IV/2002 7.500 7.500 Khảo sát năm 2004: Tổ chức khảo sát đầy đủ tất cả các nội dung trên mẫu nhỏ gồm khoảng 9.300 hộ gia đình (gọi tắt là khảo sát thu nhập và chi tiêu). Mẫu này được chia thành 2 mẫu con, mẫu thứ nhất gồm 4.650 hộ được khảo sát vào tháng 5 năm 2004, mẫu thứ hai gồm 4.650 hộ, còn lại được khảo sát vào tháng 9 năm 2004. Tổ chức khảo sát các nội dung trừ nội dung chi tiêu và phần mở rộng các hoạt động sản xuất tự làm nông, lâm nghiệp, thủy sản và ngành nghề sản xuất kinh doanh dịch vụ trên mẫu lớn gồm khoảng 37.200 hộ (gọi tắt là khảo sát thu nhập). Mẫu này được chia thành 2 mẫu con, mẫu thứ nhất gồm 18.600 hộ được khảo sát vào tháng 5 năm 2004, mẫu thứ hai gồm 18.600 hộ, còn lại được khảo sát vào tháng 9 năm 2004. Cụ thể: Thời gian thu thập số liệu Khảo sát thu nhập và chi tiêu Khảo sát thu nhập Cộng TỔNG SỐ 30.000 45.000 75.000 Chia ra: Tháng 5/2004 4.650 18.600 23.250 Tháng 9/2004 4.650 18.600 23.250 Khảo sát năm 2006: Cỡ mẫu gồm 45.945 hộ được chọn từ 3.063 địa bàn của mẫu chủ, chia làm 2 mẫu độc lập: mẫu thu nhập gồm 36.756 hộ để thu thập các nội dung thông tin đã nêu trên, trừ chi tiêu của hộ gia đình, để đánh giá mức sống ở cấp quốc gia, vùng và tỉnh/thành phố; mẫu thu thập chi tiêu gồm 9.189 hộ để thu thập đầy đủ các nội dung thông tin đánh giá, phân tích mức sống một cách sâu hơn ở cấp quốc gia và vùng. Cụ thể: Thời gian thu thập số liệu Khảo sát thu nhập và chi tiêu Khảo sát thu nhập Cộng TỔNG SỐ 9.189 36.756 45.945 Chia ra: Tháng 5/2004 4.593 18.372 22.965 Tháng 9/2004 4.593 18.372 22.965 Mẫu khảo sát mức sống được chọn đại diện cho cả nước, 8 vùng và tỉnh/thành phố. Mẫu này chọn từ mẫu chủ được thiết kế cho các cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình giai đoạn 2002 – 2010. Phương pháp chọn mẫu được các chuyên gia mẫu của Viện Khoa học Thống kê, chuyên viên của Liên hiệp quốc, Ngân hàng Thế giới tư vấn. Chọn mẫu chủ Mẫu chủ bao gồm 3.000 xã/phường (2.300 xã và 700 phường) với 9.000 địa bàn khảo sát được chọn từ dàn mẫu các xã, phường, địa bàn điều tra của Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/1999. Mẫu chủ được chọn theo hai bước: Bước 1: Chọn xã, phường độc lập theo hai khu vực thành thị và nông thôn theo phương pháp xác suất tỷ lệ với số hộ trong mỗi xã, phường. Bước 2: Từ mỗi xã phường được chọn, chọn 3 địa bàn khảo sát theo phương pháp xác suất tỷ lệ với số hộ trong mỗi địa bàn. Năm 2004, do có 3 tỉnh mới thành lập với số hộ khảo sát cho mỗi tỉnh tối đa là 500 hộ nên mẫu chủ cần tăng thêm tối đa khoảng 100 xã/phường được chọn từ 3 tỉnh Điện Biên, Đắc Lắc, Cần Thơ và 3 tỉnh mới thành lập. Chọn mẫu cho Khảo sát mức sống hộ gia đình 2002 từ mẫu chủ: Đối với mẫu 30.000 hộ, áp dụng phương pháp chọn mẫu 2 bước: Bước 1: Chọn 1.500 địa bàn khảo sát (350 địa bàn thành thị và 1.150 địa bàn nông thôn) từ 9.000 địa bàn khảo sát của mẫu chủ độc lập theo hai khu vực thành thị và nông thôn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Bước 2: Chọn 20 hộ gia đình từ bản kê danh sách các hộ gia đình của địa bàn được chon (sau khi đã được cập nhật) theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Đối với mẫu 45.000 hộ, áp dụng phương pháp chọn mẫu 2 bước: Bước 1: Chọn 2.250 địa bàn khảo sát (525 đại bàn thành thị và 1.725 địa bàn nông thôn) từ 9.000 địa bàn khảo sát của mẫu chủ độc lập theo hai khu vực thành thị và nông thôn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Bước 2: Chọn 20 hộ gia đình từ bản kê danh sách các hộ gia đình của địa bàn được chọn (sau khi đã được cập nhật) theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Chọn mẫu cho Khảo sát mức sống hộ gia đình 2004 từ mẫu chủ: Bước 1: Chọn địa bàn Các địa bàn của KSMS 2004 sẽ được chọn theo cách luân phiên 50% số địa bàn của KSMS 2002. Cụ thể là: căn cứ vào số địa bàn của KSMS 2002 có ở mỗi tỉnh/thành phố chọn một nửa số địa bàn để điều tra cho năm 2004. Một nửa số địa bàn của KSMS 2002 còn lại sẽ được thay thế bằng các địa bàn mới của mẫu chủ, phần chưa được chọn vào mẫu của KSMS 2002. Số địa bàn đề nghị điều chỉnh không vượt quá 5% tổng số địa bàn của tỉnh/thành phố. Các địa bàn sẽ được chọn độc lập theo hai khu vực thành thị và nông thôn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Bước 2: Chọn hộ Đối với những địa bàn có 20 hộ thu nhập và 5 hộ thu nhập chi tiêu của KSMS 2002, chọn 15 hộ thu nhập (12 hộ chính thức, 3 hộ dự phòng) trong số 20 hộ thu nhập. Trong số 5 hộ thu nhập chi tiêu chọn 3 hộ chính thức, 2 hộ dự phòng. Việc chọn hộ trên tiến hành theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Đối với những địa bàn có 25 hộ thu nhập chi tiêu của KSMS 2002, chọn trong số này 20 hộ. từ 20 hộ được chọn, chọn 15 hộ (12 hộ chính thức, 3 hộ dự phòng) để khảo sát thu nhập; 5 hộ còn lại (3 hộ chính thức, 2 hộ dự phòng) để khảo sát thu nhập chi tiêu. Việc chọn hộ trên tiến hành theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Đối với những địa bàn mới, chọn 20 hộ từ danh sách hộ đã cập nhập của địa bàn. Từ 20 hộ được chọn, chọn 15 hộ (12 hộ chính thức, 3 hộ dự phòng) để khảo sát thu nhập; 5 hộ còn lại (3 hộ chính thức, 2 hộ dự phòng) để khảo sát thu nhập chi tiêu. Việc chọn hộ trên tiến hành theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Chọn mẫu cho Khảo sát mức sống hộ gia đình 2006 từ mẫu chủ: Bước 1: Chọn địa bàn Các địa bàn của KSMS 2006 được chọn theo cách luân phiên, cụ thể: chọn lại 50% số địa bàn của KSMS 2004 (trong đó có một nửa số địa bàn đã được khảo sát trong cả KSMS 2002 và KSMS 2004 và nửa số địa bàn còn lại chỉ được khảo sát trong KSMS 2004) và 50% số địa bàn còn lại được chọn mới hoàn toàn từ mẫu chủ, phần chưa được chọn vào mẫu của KSMS 2002 và 2004 để khảo sát năm 2006. Bước 2: Chọn hộ Đối với những địa bàn chọn lại từ KSMS 2004, chọn tất cả 15 hộ, trong đó 12 hộ đã khảo sát thu nhập (hộ thu nhập) năm 2004 để khảo sát thu nhập cho KSMS 2006 và 3 hộ đã khảo sát thu nhập chi tiêu (hộ thu nhập chi tiêu) năm 2004 để khảo sát thu nhập chi tiêu cho năm 2006. Trong trường hợp hộ đã được khảo sát năm 2002 hoặc 2004 nhưng nay đã đi khỏi địa bàn thì phải chọn hộ dự bị thay thế để có đủ số lượng 12 hộ thu nhập và 3 hộ chi tiêu ở mỗi địa bàn khảo sát. Đối với những địa bàn mới, chọn 20 hộ từ danh sách hộ đã cập nhập của địa bàn. Từ 20 hộ được chọn, chọn 15 hộ (12 hộ chính thức, 3 hộ dự phòng) để khảo sát thu nhập; 5 hộ còn lại (3 hộ chính thức, 2 hộ dự phòng) để khảo sát thu nhập chi tiêu. Việc chọn hộ trên tiến hành theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Cục thống kê tỉnh/thành phố sẽ chia đều số địa bàn được phân bổ của từng khu vực thành thị/nông thôn và vùng địa lý cho 2 kỳ khảo sát vào tháng 5 và tháng 9. Các xã có địa bàn được chọn tiến hành phỏng vấn hộ sẽ đồng thời tiến hành phỏng vấn phiếu phỏng vấn xã Phương pháp thu thập số liệu Các cuộc KSMS từ năm 2002 đến năm 2006 đều sử dụng hai loại phiếu phỏng vấn là phiếu phỏng vấn hộ gia đình và phiếu phỏng vấn xã. Phiếu phỏng vấn hộ gia đình sẽ gồm hai loại: phiếu phỏng vấn thu nhập chi tiêu (áp dụng cho mẫu thu nhập chi tiêu) bao gồm tất cả các thông tin của nội dung khảo sát; phiếu phỏng vấn thu nhập(áp dụng cho mẫu thu nhập) gồm các loại thông tin của nội dung khảo sát trừ các thông tin về chi tiêu của hộ. Phiếu phỏng vấn được thiết kế tương đối chi tiết giúp điều tra viên ghi chép thuận lợi, đồng thời tránh bỏ sót các khoản mục và tăng tính thống nhất giữa các điều tra viên, từ đó nâng cao chất lượng khảo sát. Phương pháp phỏng vấn là phương pháp phỏng vấn trực tiếp. Điều tra viên đến hộ, gặp chủ hộ và những thành viên trong hộ có liên quan để phỏng vấn và ghi thông tin vào phiếu phỏng vấn hộ gia đình. Đội trưởng đội khảo sát sẽ gặp lãnh đạo xã và các cán bộ địa phương có liên quan để phỏng vấn và ghi thông tin vào phiếu phỏng vấn xã. Để đảm bảo chất lượng thông tin thu thập, cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình không chấp nhận phương pháp khảo sát gián tiếp hoặc sao chép các thông tin từ các nguồn có sẵn khác vào phiếu phỏng vấn. Kết quả khảo sát Khảo sát mức sống hộ gia đình bao gồm những nội dung chủ yếu để kháo sát mức sống dân cư. Kết quả khảo sát mức sống dân cư được thể hiện qua 13 chỉ tiêu. Sau đây là tóm lược kết quả của cuộc khảo sát mức sống năm 2006: - Nhân khẩu học cho biết số nhân khẩu bình quân trong một hộ gia đình. Từ đó có thể nắm bắt được hiệu quả của công tác kế hoạch hóa gia đình.: Nhân khẩu bình quân chung của cả nước năm 2006 là 4,2 người, giảm dần qua các năm: năm 2004 là 4,36 người, năm 2002 là 4,4 người, năm 1998 là 4,7 người, năm 1993 là 4,97 người. Nhân khẩu bình quân một hộ gia đình thuộc khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị, của hộ gia đình nghèo cao hơn hộ giàu. Nhóm hộ nghèo nhất (nhóm 1) có số nhân khẩu bình quân một hộ là 4,6 người, cao gấp 1,2 lần so với nhóm hộ giàu nhất (nhóm 5). Đối với các vùng, vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có số nhân khẩu bình quân một hộ cao hơn các vùng khác. - Giáo dục: Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 10 tuổi trở lên đạt mức cao (93,1%). Tỷ lệ này cao hơn đáng kể ở nhóm hộ giàu nhất so với nhóm hộ nghèo nhất, thành thị so với nông thôn và ở nam so với nữ. Tỷ lệ không có bằng cấp hoặc chưa bao giờ đến trường của dân số từ 15 tuổi trở lên của nhóm hộ nghèo nhất là 38%, cao hơn 3,5 lần so với nhóm hộ giàu nhất. Chi tiêu cho giáo dục cho một thành viên hộ đi học trong 12 tháng tăng so với năm 2004 là 47%, so với năm 2002 là 93%. Trung bình năm 2006, các hộ phải chi 1,211 triệu cho một người đi học, năm 2004 là 0,826 triệu, và năm 2002 là 0,627 triệu. Nhóm hộ gia đình giàu nhất chi cho giáo dục bình quân một người đi học cao gấp hơn 5 lần nhóm nghèo nhất, và thành thị chi gấp 2,3 lần so với nông thôn. Tỷ lệ học sinh có học lực khá giỏi tại các hộ gia đình thuộc khu vực thành thị cao gấp 2,5 lần các hộ thuộc khu vực nông thôn. Đối với nhóm thu nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất thì con số này là 5 lần. - Lao động việc làm: đây là yếu tố quan trọng nhất tác động đến mức sống của dân cư thông qua vai trò tạo thu nhập cho hộ gia đình. Tỷ trọng dân số hoạt động kinh tế ở tuổi từ 15-19 ở hộ nghèo nhất cao hơn hộ giàu, ở hộ nghèo là 13,5% (năm 2002 là 16,5%; năm 2004 là 15,6%) và hộ giàu là 3,8% (năm 2002 là 6,8%; năm 2004 là 5,3%). Tỷ lệ này có giảm so với hai cuộc KSMS trước đó là đáng mừng vì độ tuổi 15-19 đang là độ tuổi đến trường. Tuy nhiên, tỷ lệ ở hộ nghèo nhất vẫn cao là do kinh tế khó khăn nên trẻ em ở các hộ này phải đi làm sớm. Về cơ cấu ngành nghề, mặc dù đã có những thay đổi tích cực là phát triển thêm nhiều ngành nghề phi nông – lâm – thủy sản , tuy nhiên vẫn có sự khác biệt lớn giữa những hộ nghèo nhất và hộ giàu. Tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên làm công, làm thuê hoặc tự làm phi nông – lâm – thủy sản của nhóm nghèo nhất lần lượt là: 9,1% và 5,9%, còn ở nhóm giàu nhất lần lượt là: 47,2% và 29,7%. Y tế và chăm sóc sức khỏe: Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ người dân đi khám chữa bệnh đã tăng nhưng tăng không nhiều so với năm 2004 (năm 2006 là 34,3%, năm 2004 là 33%). Chi phí cho khám chữa bệnh đều tăng. Ngoài ra, kết quả mô-đun mở rộng về y tế trong cuộc KSMS 2006 đã chỉ ra tình trạng thiếu thốn các y, bác sĩ có tay nghề ở các trạm y tế thôn bản và chỉ có 65% số trạm y tế các xã điều tra có bác sĩ. Kết quả còn cho thấy chỉ có 1/3 số trạm y tế thực hiện xử lý rác thải trước khi xả thải. Hơn 60% trạm y tế gặp vấn đề trong khử trùng, và 45% số trạm y tế thiếu các dụng cụ cần thiết. - Tỷ lệ người khuyết tật: cuộc khảo sát năm 2006 là cuộc khảo sát mức sống đầu tiên có các câu hỏi về khuyết tật theo phương pháp đánh giá chức năng dựa trên bảng phân loại chức năng (ICF) của tổ chức Y tế thế giới (WHO). Mỗi thành viên từ 5 tuổi trở lên của hộ gia đình được hỏi 6 câu hỏi để đánh giá các chức năng cơ bản của con người là: nghe, nhìn, vận động, nhận thức, khả năng ghi nhớ, tự chăm sóc bản thân và chức năng giao tiếp. Các chức năng được đánh giá theo 4 nấc là không khó khăn, khó khăn, rất khó khăn, và không thể thực hiện được. Nếu một trong 6 chức năng trên được người phỏng vấn chọn câu trả lời không phải là “không khó khăn” thì người đó được coi là khuyết tật. Tỷ lệ khuyết tật chung của cả nước là 15,3%. Vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ khuyết tật cao nhất, và thấp nhất là Tây Bắc. Tỷ lệ khuyết tật ở thành thị cao hơn nông thôn. Tỷ lệ người khuyết tật nữ là 16,6%cao hơn nam (13,9%), nguyên nhân là do dân số nữ cao tuổi chiếm nhiều hơn nam. Sinh đẻ: Số con đẻ bình quân của một phụ nữ 15-49 tuổi là 2,3 con. Số con đẻ bình quân của một phụ nữ 15-49 tuổi ở nhóm hộ nghèo (2,75 con) cao hơn so với nhóm hộ giàu (2,05 con); cao hơn ở nông thôn, ở nhóm dân tộc thiểu số và những bà mẹ có trình độ học vấn thấp. Hút thuốc: Tỷ lệ dân số hút thuốc từ 15 tuổi trở lên hàng ngày là 19,5%, trong đó chủ yếu là nam giới. Tỷ lệ này cao hơn ở nông thôn, nhóm hộ nghèo và nhóm người có trình độ học vấn thấp. Thu nhập: Thu nhập bình quân một người một tháng chung của cả nước tăng 31,4% so với năm 2004. Thu nhập ở khu vực thành thị và nông thôn đều tăng so với năm 2004, tuy thu nhập của hộ gia đình ở khu vực thành thị cao hơn nhưng so với các năm trước thì mức độ chênh lệch đã giảm đi. Chênh lệch thu nhập bình quân một người một tháng năm 1999, 2002, 2004, 2006 lần lượt là 2,3; 2,26; 2,15; 2,09 lần và có xu hướng giảm dần. Điều này thể hiện sự bất bình đẳng đã có xu hướng giảm dần. Do thu nhập bình quân đầu người tăng nên đời sống ở các vùng, các hộ được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn nghèo mới của chính phủ là 15,5% giảm so với năm 2004 (tỷ lệ ở năm 2004 là 18,4%) Chi tiêu: Chi tiêu của cả nước tính theo giá hiện hành năm 2006 tăng 27,9% so với năm 2004. Chi tiêu cho đời sống bình quân đầu người một tháng tăng so với năm 2004: ở nông thôn tăng 27%, thành thị tăng 24%. Mức chi tiêu cho đời sống của khu vực thành thị gấp 2,06 lần khu vực nông thôn, và của hộ giàu nhất gấp 4,54 lần nhóm hộ nghèo nhất. Tỷ trọng chi cho ăn uống trong chi tiêu đời sống giảm xuống còn 52,8% (năm 2004 là 53.5%; năm 2002 là 57%). Điều này thể hiện tỷ lệ các hộ khá và hộ giàu tăng lên, vì đây là những đối tượng có xu hướng tiếp cận và sử dụng những dịch vụ xã hội chất lượng cao hơn. Nhà ở, điện nước, phương tiện vệ sinh và đồ dùng lâu bền: Tỷ lệ hộ có nhà kiên cố tăng lên rõ rệt, năm 2002 là 12,7%; năm 2004 là 20,8%; năm 2006 là 23,7%. Tuy nhiên có sự chênh lệch về chất lượng nhà ở, tỷ lệ nhà ở kiên cố của nhóm hộ giàu nhất là 46%, ở nhóm hộ nghèo nhất là 7,5%. Tỷ lệ hộ có điện thắp sáng tăng từ năm 2002 là 86,5% đến năm 2006 là 96%. Tỷ lệ này ở nông thôn tăng mạnh từ 83% đến 95%. Tuy nhiên ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Bắc và Tây Nguyên vẫn còn nhiều hộ chưa có điện lưới. Tỷ lệ hộ được dùng nước sạch tiếp tục tăng. Tỷ lệ hộ có đồ dùng lâu bền đều tăng ở các vùng miền. Tuy nhiên tỷ lệ này ở thành thị vẫn cao hơn nông thôn, lần lượt đối với các loại đồ dùng lâu bền: xe máy là 72% và 46%; tủ lạnh là 53% và 11%; tivi là 92% và 73%... Chênh lệch thu nhập và phân hóa giàu nghèo: Sự chênh lệch thể hiện qua hệ số GINI hoặc tiêu chuẩn “40%”. Về hệ số GINI được tính trong KSMS 2006 về thu nhập tính chung cho cả nước là 0,42, tương đương so với năm 2004, hệ số năm 2002 là 0,418, năm 1999 là 0,39. Thể hiện sự bất bình đẳng về thu nhập ở mức thấp nhưng có xu hướng tăng. Sử dụng tiêu chuẩn “40%” của Ngân hàng thế giới cũng có kết quả tương tự Tham gia các chương trình xóa đói giảm nghèo và tín dụng: Trong năm 2006, đã có 90% số hộ nghèo được hưởng lợi từ dự án/chính sách Chương trinh 135 hoặc Chương trình 143 của Chính phủ. Có 85% số hộ tự đánh giá là cuộc sống gia đình có cải thiện so với năm năm trước, 10% không thay đổi và 5% giảm sút. Tỷ lệ người đi vay dành cho mục đích kinh doanh (54%) tương đối cao so với các mục đích khác (11% cho ăn uống, 11% cho học hoặc chữa bệnh, 19% để sửa chữa nhà ở). Các đặc điểm của xã: Trong KSMS 2006, theo đánh giá của cán bộ chủ chốt của xã thì 99,1% xã điều tra có mức sống khá hơn so với 5 năm trước. Tăng hơn so với các cuộc điều tra trước, tự đánh giá năm 2004 là 98,7%, năm 2002 là 97,7%. Các mặt khác như thu nhập, cơ sở hạ tầng… của xã đều tăng. Có 80% các xã đã được các dự án chương trình của chính phủ hoặc các tổ chức khác đầu tư. Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều mặt tiêu cực như cờ bạc, rượu chè, ma túy. Thu nhập hộ gia đình Khái niệm thu nhập Thu nhập theo định nghĩa của kinh tế học vi mô, là phần chênh lệch giữa khoản thu về và khoản chi phí đã bỏ ra. Bao gồm thu nhập từ lao động (tiền công, tiền lương bao gồm cả lương hưu, các khoản trợ cấp bao gồm cả học bổng) và thu nhập tài chính (lãi tiết kiệm, lãi mua bán chứng khoán, thu từ cho thuê bất động sản) và các thu nhập khác (tiền thưởng…). Theo thống kê kinh tế, thu nhập là khoản thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh mà có. Nói cách khác nó là thu nhập do lao động. Bao gồm: tiền lương và các khoản có tính chất lương (phụ cấp, lương…), tiền công (bằng tiền hoặc hiện vật), thu nhập từ kinh tế phụ gia đình và kinh tế cá thể… Khái niệm thu nhập hộ gia đình Thu nhập của hộ bao gồm các khoản tiền mặt, hiện vật theo thông lệ và mang tính chất đều đặn mà hộ hoặc các thành viên của hộ nhận được một cách thường xuyên trong một năm hoặc những khoảng thời gian ngắn hơn. Hay thu nhập hộ gia đình là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành viên nhận được trong một thời gian nhất định. Hai khái niệm chính về thu nhập được định nghĩa là: tổng thu nhập của hộ gia đình và tổng thu nhập có thể sử dụng của hộ gia đình. Tổng thu nhập của hộ gia đình được định nghĩa là tổng của thu nhập ban đầu, thu nhập tài sản và tiền trợ cấp khác nhận được. Nó chỉ ra tổng thu nhập hiện tại của hộ gia đình trước khi nộp thuế trực tiếp và đóng góp bảo hiểm xã hội và các quỹ trợ cấp. Thu nhập ban đầu gồm: các khoản trả cho người làm thuê – lao động được trả tiền (tiền công, tiền lương và các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội hoặc tương tự của chủ), thu nhập từ công việc tự làm phi nông nghiệp và nông nghiệp sau đã trừ thuế sản xuất và chi phí sản xuất. Thu nhập tài sản nhận được gồm: thu từ cho thuê nhà ở và cho thuê khác, tiền lãi tiết kiệm, cổ phần. Tiền trợ cấp khác nhận được gồm: trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hưu trí, bảo hiểm tính mạng, và các khoản trợ cấp hiện hành khác. Tổng thu nhập có thể sử dụng của hộ gia đình là khoản sẵn có để hộ gia đình sử dụng cho chi tiêu cuối cùng, các khoản chi không bắt buộc khác và để tiết kiệm. Nó được lấy ra từ tổng thu nhập của hộ gia đình sau khi trừ thuế trực tiếp và các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội và quỹ trợ cấp. Để tính một số khoản thu nhập, không thể thu thập tất cả các thông tin cần thiết từ hộ gia đình dưới dạng tiền mặt. Một phần của thu nhập có thể nhận bằng hiện vật. Khi tính thì những thu nhập bằng hiện vật sẽ được quy đổi sang tiền mặt. Nội dung của thu nhập hộ gia đình Cấu thành của thu nhập bao gồm: Thu từ tiền công, tiền lương Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản (sau khi đã trừ chi phí sản xuất). Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thủy sản(sau khi đã trừ chi phí sản xuất). Các khoản thu khác tính vào thu nhập, gồm: các khoản cho, biếu, mừng, giúp, cho thuê nhà, đất tài sản và các khoản làm tăng thu nhập khác của hộ. Nội dung cụ thể của các khoản đó là: Thu từ tiền công, tiền lương của các thành viên hộ từ công việc chính, việc phụ và việc khác (nếu có). Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản: đây là thu nhập từ hoạt động sản xuất hoặc dịch vụ về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản cho hộ (các hoạt động tự làm: nông, lâm, thủy sản). Để hiểu rõ hơn cách tính nguồn thu này, ta xem xét ._.từng phần một, trước hết là tổng thu, sau đó là chi phí sản xuất. cuối cùng lấy tổng thu trừ đi chi phí sản xuất chi phí sản xuất ta có kết quả của thu nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản. Tổng thu cho hoạt động sản xuất hoặc dịch vụ về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản cho hộ (các hoạt động tự làm: nông, lâm, thủy sản) của hộ gồm các khoản: Thu nhập từ trồng trọt của hộ gia đình: là kết quả của tổng thu về trồng trọt trừ chi phí trồng trọt của hộ. Tổng thu từ trồng trọt là các khoản thu từ các loại cây trồng được liệt kê trong 55 mã cây trong bảng hỏi hộ gia đình (gồm: lúa, cây lương thực, cây thực phẩm hàng năm, các cây công nghiệp lâu năm và hàng năm, cây ăn quả), và các sản phẩm phụ khác từ trồng trọt như rơm/rạ, thân cây, ngọn lá củ… Các khoản thu từ trồng trọt được tính trên tổng trị giá sản phẩm đã thu hoạch trong 12 tháng qua của các loại cây trồng của hộ (bao gồm cả trị giá sản phẩm sử dụng cho tiêu dùng tự túc trong hộ, làm giống, bán đổi…) Trị giá SP thu được trong 12 tháng qua = Trị giá SP bán (đổi) trong 12 tháng qua + Tổng sản lượng  Số bán (đổi) x Giá bình quân năm tại thị trường địa phương các sản phẩm phụ mà hộ có thu hoạch và sử dụng để bán, đổi hàng làm tăng thu nhập của hộ hoặc sử dụng làm thức ăn cho chăn nuôi hoặc sử dụng cho đời sống (ví dụ: rơm rạ hoặc củi để bán hoặc nấu ăn, dây khoai lang, rơm rạ làm thức ăn chăn nuôi…) cũng được tính vào thu nhập. Chi phí trồng trọt bao gồm các khoản chi phí vật chất, chi phí dịch vụ và các khoản chi phí khác phục vụ quá trình sản xuất, kinh doanh của hộ bao gồm phần mua vào, hộ tự túc và có được không phải trả tiền. Để tính chi phí sản xuất của hộ, quy định chỉ tính các khoản chi phí do hộ tự túc hoặc nhận được đã được tính vào thu của hộ. Ví dụ: thóc đã được tính vào sản lượng thu hoạch, tức là đã tính vào thu, nay đem ra làm giống để gieo trồng. Không ghi những khoản chi phí do hộ tự túc hoặc nhận được (không phải mua) nhưng chưa được tính vào thu của hộ ở bất kỳ chỗ nào trong phiếu phỏng vấn hộ gia đình này, ví dụ: không cần ghi vào chi phí trồng trọt dụng cụ nhỏ tự làm dùng cho sản xuất chưa được tính vào thu của hộ. Chi phí trồng trọt bao gồm: Hạt giống, cây trồng dùng trong sản xuất nông nghiệp. Phân hóa học, phân hữu cơ. Thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Dụng cụ nhỏ, vật rẻ tiền mau hỏng (trừ các dụng cụ hộ tự làm mà chưa tính vào thu nhập). Năng lượng, nhiên liệu sử dụng trong hoạt động trồng trọt (năng lượng nhiên liệu tự túc của hộ mà chưa tính vào thu nhập thì không tính). Sửa chữa nhỏ, bảo dưỡng các nông cụ. Khấu hao tài sản cố định của hộ trong quá trình tham gia sản xuất (không tính khấu hao cho đất trồng cây lâu năm). Thuê và đấu thầu đất dành cho trồng trọt. Thuê tài sản, máy mọc, thiết bị và các công việc bằng máy, thuê vận chuyển dùng cho hoạt động trồng trọt. Thuê súc vật cày kéo. Trả công lao động thuê ngoài. Thủy lợi phí, thủy nông nội đồng. Thuế nông nghiệp (nếu có). Trả lãi tiền vay cho sản xuất trồng trọt. Các khoản chi phí khác (lệ phí gia thông, quỹ cải tạo đồng ruộng, bảo hiểm sản xuất…) Thu nhập từ chăn nuôi của hộ gia đình (= tổng thu cho chăn nuôi trong 12 tháng qua – chi phí cho chăn nuôi của hộ trong 12 tháng qua) Thu từ chăn nuôi: gồm tất cả các khoản thu cho từng loại sản phẩm chăn nuôi đã xuất chuồng hoặc kết thúc quá trình chăn nuôi trong 12 tháng qua. Sản phẩm chăn nuôi xuất chuồng trong 12 tháng qua (không tính thủy sản) gồm: sản phẩm qua giết mổ tính bằng trọng lượng thịt hơi của trâu, bò, lợn, lợn sữa, gia cầm…; Sản phẩm chăn nuôi khác gồm: cừu, dê, thỏ, bồ câu, chó, mèo, bò sát, côn trùng, ếch, baba, ốc vàng, nuôi tằm ấp trứng… và sản phẩm không qua giết mổ (trứng, sữa, con giống, mật ong, kén tằm, lông cừu, mật gấu nuôi…); Thu chăn nuôi khác bao gồm cả khoản thu được nhà nước đền bù do tiêu hủy gia cầm. Sản phẩm phụ chăn nuôi (phân trâu, bò, lợn, gia cầm…); sản phẩm tận thu (lông, da, xương, sừng…của gia súc giết mổ hoặc bị chết). Trong cuộc điều tra này, khi tính thu nhập của hộ quy ước đối với sản phẩm phụ chăn nuôi chỉ tính những sản phẩm hộ thực tế có thu hoạch và sử dụng cho sản suất: bán ra, đổi hàng làm tăng thu nhập của hộ hoặc sử dụng cho đời sống, ví dụ dùng phân gia súc, gia cầm làm khí ga để đun nấu. Nếu phân gia súc được sử dụng làm khí ga thì tính vào thu nhập sản phẩm phụ chăn nuôi, ga được tính vào chi phí chất đốt tự túc của hộ. Số ga này quy theo giá thực tế tại địa phương để tính giá trị của nó. Chi phí chăn nuôi: thu thập tất cả các loại chi phí cho chăn nuôi những loại gia súc, gia cầm (như lợn, trâu, bò, cừu, gà…gia cầm khác, ong tằm…và chăn nuôi khác). Chi phí cho chăn nuôi bao gồm các loại chi phí: Giống gia súc, gia cầm, vật nuôi. Thức ăn (bao gồm tất cả các khoản thức ăn tinh như gạo, sắn, ngô…các loại củ có bột và các chất bột; thức ăn tổng hợp, thức ăn thô như cám, rau, bèo…; thức ăn khoáng (muối) và các loại thức ăn khác như tôm, cua, cá…kể cả thuốc tăng trọng) thực tế đã dùng chăn nuôi gia súc gia cầm trong 12 tháng qua kể cả phẩn tự túc đã tính vào thu của hộ. Thuốc phòng chữa bện gia súc, gia cầm. Năng lượng, nhiên liệu (điện, nước, xăng dầu, chất đốt) được dùng cho chăn nuôi. Khấu hao tài sản cố định dùng trong chăn nuôi. Thuê và đấu thầu đất cho chăn nuôi. Thuê tài sản, máy móc, phương tiện giết mổ, vận chuyển. Trả công lao động thuê ngoài. Trả lãi tiền vay cho hoạt động chăn nuôi. Thuế kinh doanh và chi phí khác. Thu nhập từ dịch vụ nông nghiệp của hộ: Thu từ dịch vụ nông nghiệp: là những hộ có máy móc thiết bị công cụ để làm công việc dịch vụ trong 12 tháng qua, ví dụ như hộ có máy cày, máy tuốt lúa… Chi phí dịch vụ nông nghiệp gồm các chi phí về nguyên vật liệu; dụng cụ nhỏ, vật rẻ tiền mau hỏng; năng lượng, nhiên liệu, sửa chữa nhỏ, bảo dưỡng; thuê nhà xưởng, máy móc, phương tiện, trả công lao động thuê ngoài; trả lãi vay cho hoạt động dịch vụ nông nghiệp, thuê kinh doanh, chi phí khác (lệ phí, bưu điện, quảng cáo, bảo hiểm xã hội…) Thu từ lâm nghiệp săn bắn, thuần dưỡng chim, thú = tổng thu từ các hoạt động lâm nghiệp - tổng chi từ các hoạt động lâm nghiệp. Thu từ lâm nghiệp, săn bắn, thuần dưỡng chim, thú: khoản này chỉ tính cho những khoản đã thu trong 12 tháng qua của các hoạt động lâm nghiệp; không tính sản phẩm dở dang hoặc đang hoạt động chưa có thu. Thu từ lâm nghiệp gồm: thu từ trồng rừng, chăm sóc, tu bổ, cải tạo rừng; Dịch vụ lâm nghiệp khác như ghi doanh thu thực tế của các hoạt động bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy…; Thu về các hoạt động săn bắn, thuần dưỡng chim, thú. Chi phí lâm nghiệp săn bắn, thuần dưỡng chim, thú: tính mọi khoản sử dụng để có được các khoản đã thu về lầm nghiệp săn bắn, thuần dưỡng chim, thú trong 12 tháng qua. (Các khoản chi tương tự như chi phí trồng trọt). Thu nhập từ thủy sản = tổng thu từ nuôi trồng, đánh bắt dịch vụ thủy sản của hộ - tổng chi phí cho nuôi trồng, đánh bắt dịch vụ thủy sản của hộ. Thu từ thủy sản bao gồm tất cả các loại sản phẩm đã thu trong vòng 12 tháng qua. Các sản phẩm bao gồm: nuôi trồng, đánh bắt và dịch vụ thủy sản. Chi cho thủy sản được ghi chép và hạch toán tương tự như chi phí chăn nuôi. Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thủy sản: là thu từ ngành nghề tự sản xuất kinh doanh, dịch vụ phi nông lâm nghiệp, thủy sản, chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản và là hiệu giữa tổng thu và tổng chi cho ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thủy sản. Tổng thu bao gồm các loại doanh thu sau: Doanh thu của hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Doanh thu về hoạt động xây dựng là tổng trị giá các công trình xây dựng hoàn thành trong 12 tháng (không tính các hoạt động hộ tự xây dựng). Doanh thu của hoạt động thương nghiệp gồm doanh thu hàng hóa bán ra, doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ… Doanh thu về hoạt động vận tải là tổng số tiền thu được trong 12 tháng qua của hộ về cước phí vận tải hàng hóa của hành khách và chuyên chở hành khách. Doanh thu hoạt động phi nông, lâm nghiệp, thủy sản khác là thu nhập từ các hoạt động dịch vụ: khách sạn, tài chính tín dụng, giáo dục đào tạo… Chi cho ngành nghề tự SXKD, dịch vụ phi nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, chế biến của hộ: Nguyên vật liệu chính, phụ, thực liệu (thực liệu là những nguyên liệu để chế biến thức ăn, nước giải khát…) Dụng cụ nhỏ, vật rẻ tiền mau hỏng: đối với dụng cụ chưa đủ điều kiện trở thành tài sản cố định nhưng dùng trong một số năm thì phải phân bổ theo thời gian sử dụng. Điện, nước, xăng dầu, mỡ, chất đốt: không tính phần dành cho đời sống và phần phục vụ những ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản. Sửa chữa nhỏ, duy trì bảo dưỡng: bao gồm sửa chữa nhỏ, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định, máy móc… Khấu hao tài sản cố định: tất cả các tài sản cố định của hộ tham gia vào quá trình sản xuất bao gồm nhà xưởng, máy móc, thiết bị… Chi thuê đất, nhà xưởng, cửa hàng, máy móc và phương tiện sản xuất khác. Vận chuyển: gồm thuê phương tiện để vận chuyển nguyên vật liệu hoặc sản phẩm của hoạt động đi tiêu thụ và các loại phí cầu, phà… Chi phí nhân công: gồm toàn bộ chi phí trả cho các lao động thuê ngoài (thường xuyên hoặc tạm thời) về tiền lương, tiền công và các khoản phụ, trợ cấp có tính chất lương… Trả lãi tiền vay (nếu trả lãi khoản vay cho nhiều năm thì số tiền trả lãi được phân bổ theo năm vay). Thuế, phí và các khoản lệ phí coi như thuế. Chi phí cho xử lý nước thải, chất thải rắn. Chi phí khác: chi cho bưu điện, đi lại, quảng cáo, tiếp thị… Thu khác tính vào thu nhập gồm các khoản thu khác các nguồn kể trên và làm tăng thu nhập của hộ, bao gồm các khoản mục sau: Trị giá hiện vật, tiền mặt của người từ nước ngoài cho biếu, mừng, giúp trong 12 tháng qua. Trị giá hiện vật, tiền mặt của người ngoài thành viên hộ cho biếu, mừng, giúp… Các khoản lương hưu, trợ cấp mất sức, trợ cấp thôi việc một lần của các thành viên trong hộ. Các khoản trợ cấp xã hội khác là các khoản được nhận từ nhà nước, các tập thể, quỹ phúc lợi… Trợ cấp khắc phục thiên tai hỏa hoạn (nhận từ nhà nước để khắc phục hậu quả về thiên tai). Các khoản nhận được từ các hình thức bảo hiểm. Tiền lãi nhận được từ tiền gửi ngân hàng, cổ phiếu, tín phiếu và lãi từ các hình thức cho vay, góp vốn khác. Các khoản nhận được từ cho thuê tài sản như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện chưa tính ở phần hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ hộ. Không tính các khoản tiền thu được do cho thuê, mượn đất trong 12 tháng qua. Các khoản nhận được từ các tổ chức nhân đạo, từ thiện, hiệp hội, các đơn vị sản xuất kinh doanh ủng hộ. Các khoản thu khác làm tăng thu nhập chưa kể trên như trúng sổ xố, vui chơi có thưởng, các khoản thu từ kinh tế ngầm (nếu có). GIÁO DỤC Khái niệm giáo dục và đào tạo Sự giáo dục của mỗi con người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời. Có người còn cho rằng, sự giáo dục còn bắt đầu từ khi họ cho trẻ nghe những bản nhạc, đọc những câu chuyện hay từ khi chúng còn trong bụng mẹ. Vậy giáo dục là gì? Nó có vai trò và ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống con người? Khái niệm Giáo dục đào tạo là một ngành hoạt động xã hội nhằm nâng cao dân trí, tạo nguồn lao động có kỹ năng thích hợp và tạo nhân tài cho đất nước. Trước hết giáo dục là một ngành hoạt động xã hội. Để nghiên cứu vấn đề này, ta sẽ bắt đầu từ nguồn gốc của từ “giáo dục”. Bắt nguồn từ tiếng Anh, “giáo dục” có nghĩa là “Education” – vốn có gốc từ tiếng La tinh “Educare” có nghĩa là “làm bộc lộ ra”. Có thể hiểu “giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục”. Ngoài ra còn nhiều định nghĩa khác về giáo dục như: “giáo dục là việc truyền dạy kinh nghiệm sống của thế hệ trước cho thế hệ sau”, “giáo dục là dạy cho người ta biết hành động”, “giáo dục thực sự là làm bộc lộ năng khiếu của trẻ ra chứ không phải là nhồi nhét thông tin vào”…Mà định nghĩa thì không phải do ai quy định, nó là những nhận định khách quan nhất được rút ra từ thực tế. Vậy, từ đâu ta có thể học được kinh nghiệm sống, làm sao có thể bộc lộ được năng khiếu bản thân…Những kinh nghiệm ấy không thể học được ở trong sách vở, học ở nhà trường. Đó là những kiến thức thực tế chỉ có thể học được trong quá trình lao động, trong cuộc sống, qua giao tiếp giữa con người với con người. Những lý do trên đã thể hiện giáo dục là ngành của xã hội chứ không riêng gì của ngành giáo dục. Nhiệm vụ hàng đầu của giáo dục luôn là nâng cao dân trí. Trong bất kì một xã hội nào việc nâng cao dân trí cũng là rất quan trọng, hiện nay trình độ dân trí còn là một trong những điều kiện để đánh giá trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Một nước có trình độ dân trí cao là một nước có nền kinh tế phát triển mạnh, có chế độ chính trị ổn định, là nước có khả năng nhanh chóng áp dụng được những thành tựu khoa học công nghiệp. Bác Hồ đã từng nói “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, đối với ngành giáo dục nước ta nói riêng, nâng cao dân trí là mục tiêu quan trọng nhất và việc này đã được thực hiện một cách tương đối tốt. Kết quả KSMS 1992-1993, khi đó nước ta đang nằm trong số những nước có nghèo nhất thế giới, nhưng tỷ lệ người lớn biết chữ là 88%, tỷ lệ này cao ngang tầm với những nước có thu nhập trung bình. Hiện nay, nhiệm vụ này vẫn đang được thực hiện tích cực: tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết chữ tăng, tỷ lệ này năm 2002 là 92,1%, năm 2004 là 93%, năm 2006 là 93,1%. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường giảm dần, tỷ lệ này năm 2002 là 11.6%, năm 2004 là 9,3%, năm 2006 là 8,1%. Bên cạnh đó, giáo dục đào tạo còn là nơi tạo nguồn lao động có kỹ năng và đào tạo nhân tài cho đất nước. Hiện nay, khoa học – công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, nó tác động trực tiếp lên sự phát triển của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đứng trước những yêu cầu cấp bách của thị trường nhân lực, ngành giáo dục trong nước đã đưa ra nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng của lực lượng lao động. Như thay đổi phương pháp dạy truyển thống (giáo viên độc thoại, chủ động truyển đạt kỹ năng còn người học tiếp thu một cách thụ động, giáo viên làm mẫu còn học viên làm theo) bằng phương pháp giáo dục hiên đại (giáo viên là người thiết kế tổ chức còn bản thân học viên tự tìm kiếm tri thức, tự hoạt động theo cách riêng độc lập và sáng tạo). Mở rộng các hình thức học tập: dạy và học trực tuyến, đào tạo tín chỉ (cách này đang đươc các trường đại học sử dụng rộng rãi)…Ngoài ra, Nhà nước còn khuyến khích đi du học để mở mang kiến thức và tiếp cận với những nền giáo dục khác nhau trên thế giới. Bằng những phương thức này, việc đào tạo lực lượng lao động có tay nghề cao và lực lượng cán bộ quản lý giỏi đã không còn là vấn đề quá khó khăn nữa, tuy nhiên vẫn cần sự đầu tư phù hợp và những kế hoạch cụ thể để đáp ứng đúng và đủ nhu cầu của từng ngành, từng chuyên môn. Tóm lại, giáo dục là nền tảng cho sự phát triển vững mạnh của một quốc gia, là yếu tố quan trọng để đưa một dân tộc yếu đi lên ngang tầm với các dân tộc khác. Vai trò của giáo dục Nhà nước ta luôn nhấn mạnh giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Mục tiêu giáo dục Mục tiêu chung của toàn ngành giáo dục là: Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương; hướng tới một xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu trên một số lĩnh vực so với các nước phát triển trong khu vực. Ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học – công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, công nhân giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy nhanh tiến độ thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các cấp bậc học và trình độ đào tạo; phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả đổi mới phương pháp dạy và học; đổi mới quản lý giáo dục đào tạo cơ sở pháp lý và phát huy nội lực phát triển giáo dục. Hệ thống giáo dục nước ta hiện nay Để xem xét hệ thống giáo dục của nước ta, có thể xem xét trên 2 góc độ là xem xét theo hệ thống giáo dục theo cấp bậc học hay trình độ, và các thứ hai là xem xét theo loại hình giáo dục. Hệ thống giáo dục theo cấp bậc học, trình độ Hệ thống giáo dục của nước ta hiện nay xét theo ngành dọc (theo cấp bậc học, trình độ giáo dục) có các cấp bậc : Giáo dục mầm non là thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi. Đây là nơi trang bị cho trẻ hành trang để bước vào lớp 1, là nơi dạy trẻ những tri thức đầu đời về văn – thể − mỹ. Đây có thể được coi là cấp bậc học quan trọng nhất vì nó là nơi hình thành cho trẻ những yếu tố nhân cách đầu tiên. Việc giáo dục trẻ không gò bó theo một khuôn khổ nào mà thông qua các hoạt động vui chơi trong tập thể từ đó dạy trẻ những lễ giáo đầu tiên (như lễ phép với người lớn, biết vâng lời…). Hiện nay có những môn học đề cao tính tự giác đã được cho trẻ học từ cấp mầm non để hình thành tính tự giác. Ví dụ như thông qua trò chơi mô hình mô phỏng giao thông trẻ được dạy về luật an toàn giao thông (sang đường khi có đèn xanh dành cho người đi bộ, đèn đỏ phải đứng lại, phải đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy…). Giáo dục phổ thông bao gồm các bậc giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. Kiến thức ở bậc giáo dục phổ thông được hình thành dựa theo vòng tròn đồng tâm. Các môn được học ở cấp trung học phổ thông và trung học cơ sở đều được phát triển dựa trên cơ sở các môn học ở bậc tiểu học. Trong quá trình học, dưới sự giúp đỡ của thầy cô, học sinh có nhiều cơ hội để phát huy khả năng của mình nhằm nâng cao chất lượng việc học. Sau khi kết thúc các khóa học phổ thông, học sinh có thể tiếp tục học lên cao nữa hoặc tham gia lao động, góp phần xây dựng nền kinh tế nước nhà. Giáo dục nghề nghiệp giáo dục nghề nghiệp bao gồm các trường trung cấp chuyên nghiệp, các trường dạy nghề. Giáo dục nghề nghiệp có nhiệm vụ đào tạo các lao động có kỹ năng, có tay nghề cao nhằm đáp ứng được nhu cầu về nhân công của thị trường lao động. Giáo dục nghề nghiệp, ngoài chú trọng vào giáo dục tay nghề thì cũng phải chú trọng đến đạo đức của người học. Người học có phát triển cân bằng cả hai khía cạnh này thì đó là sự thành công của quá trình đào tạo. Dạy nghề chuyên nghiệp ngoài giảng dạy lý thuyết thì cũng phải kết hợp thực hành để rèn luyện kỹ năng. Giáo dục đại học bao gồm đào tạo trình độ cao đẳng (từ 2 đến 3 năm tùy ngành nghề đào tạo), đại học (từ 4 đến 6 năm, tùy vào ngành ngề), thạc sĩ (từ 1 đến 2 năm đối với người có bằng đại học), tiến sĩ (4 năm đối với người có bằng đại học và 2 đến 3 năm với người có bằng thạc sĩ). Giáo dục đại học có nhiệm vụ đào tạo lực lượng lao động có kiến thức chuyên môn và các chuyên gia để cung cấp lao động trình độ cao nhằm củng cố bộ máy quản lý của nhà nước nói chung và bộ máy quản lý của từng ngành nghề, từng cơ sở kinh doạnh nói riêng. Nội dung giáo dục của giáo dục đại học phải vừa đảm bảo được nội dung vừa đảm bảo được tính hiện đại. Về nội dung cơ bản phải đảm bảo đủ kiến thức chuyên môn, về phương thức ứng dụng các kiến thức chuyên môn phải đảm bảo cập nhật những phương pháp, cách thức mới nhất trên thế giới. Tránh trường hợp sau khi học xong mọi phương pháp thực hành đều trở thành quá lạc hậu với thời đại. Song song với việc giảng dạy, khuyến khích người học tự tìm tòi tham khảo tài liệu nhằm bổ sung nhiều kiến thức khác. Giáo dục thường xuyên là hình thức đào tạo giúp mọi người vừa làm vừa học nhằm nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức chuyên môn…Bao gồm các trường bổ túc văn hóa, các cơ sở giáo dục xóa bỏ nạn mù chữ…của nhà nước. Nhà nước đã có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập. Hệ thống giáo dục theo loại hình tổ chức Từ một loại hình tổ chức truyền thống là trường công lập, hiện nay nước ta đã có thêm nhiều loại hình tổ chức giáo dục. Trường công lập là trường do nhà nước thành lập và ngành Giáo dục trực tiếp quản lý về nghiệp vụ và tài chính. Trường bán công là loại trường do nhà nước bỏ vốn ra xây dựng hoặc một nửa vốn. Nhưng sau đó trường tự hoạt động theo cơ chế tự trang trải bằng đóng góp của dân và học phí của học sinh. Trường dân lập là trường được thành lập bởi nguồn kinh phí hình thành do cha mẹ học sinh đóng góp; và dưới sự bảo trợ của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội… Nội dung về giảng dạy do ngành Giáo dục trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn. Trường tư thục là trường do tư nhân tổ chức điều hành, đầu tư cơ sở vật chất, trả lương cho nhân công và chi cho các hoạt động thường xuyên của đơn vị. Chi phí này có thể được thu dần qua học phí của học sinh đóng góp nhưng cũng có thể được sự hỗ trợ từ nhà nước. Trường liên doanh, liên kết là loại trường mới xuất hiện thời gian gần đây, được điều hành bởi một tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, với nguồn vốn đầu tư của nước ngoài có thể là một phần hoặc tất cả. Tình hình giáo dục nước ta hiện nay Những thành tựu Trải qua 15 năm đổi mới, ngành giáo dục nước ta đã thu được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Trình độ dân trí được nâng cao. Chất lượng giáo duc có những chuyển biến bước đầu. Các thành tựu: Một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng hóa đã được hình thành với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng rộng khắp trên toàn quốc. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú và bán trú cho con em dân tộc ít người. Các trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức. Các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở hầu hết các khu dân cư lớn của cả nước. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường được cải thiện, số trường đạt chuẩn quốc gia tăng…Hệ thống giáo dục đã từng bước hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Từ một hệ thống chỉ có trường công lập và hệ chính quy là chủ yếu, đến nay đã có các trường ngoài công lập, nhiều loại hình không chính quy, các trường liên kết với nước ngoài… Quy mô giáo dục tăng nhanh, bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội. Công bằng xã hội trong giáo dục cơ sở về cơ bản được đảm bảo: giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số có những chuyển biến tích cực. Công tác xóa mù chữ và phổ cập tiểu học đã được hoàn thành. Và sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục đã đạt được một cách tương đối. Công tác xã hội hóa giáo dục đã đem lại kết quả bước đầu: các lực lượng tham gia đóng góp xây dựng cơ sở vật chất của trường học, đầu tư mở trường mới… ngày càng tăng. Chất lượng giáo dục có chuyển biến trên một số mặt như trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được nâng cao. Giáo dục trung học phổ thông chuyên đạt trình độ cao của khu vực và thế giới (thể hiện ở số học sinh đi thi học sinh giỏi cấp quốc tế ngày càng tăng và các giải thưởng nhiều hơn). Giáo dục đại học và sau đại học từng bước vươn lên, đào tạo nhiều cử nhân, thạc sỹ… Những vấn đề còn tồn tại Mặc dù đã đạt được những thành tựu trên, nhưng nhìn chung, giáo dục nước ta còn một số vấn để sau: Chất lượng giáo dục nói chung còn thấp: một mặt chưa tiếp cận được với trình độ tiên tiến trên thế giới, mặt khác chưa đáp ứng được với các ngành nghề trong xã hội. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp, tinh thần lao động… Hiệu quả giáo dục chưa cao: tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so với nhập học đầu cấp là thấp, đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa… Cơ cấu trình độ, cơ cấu tay nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc phục một bước song vẫn còn mất cân đối: chú trọng đào tạo đại học nhưng chưa quan tâm đúng mức đến đào tạo nghề (đặc biệt là thợ tay nghề cao) phát sinh ra tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng (đặc biệt là ở vùng cao) và chất lượng chưa cao do ít có điều kiện tiếp cận công nghệ tiên tiến. Chương trình đào tạo, giáo trình, phương pháp giáo dục nhìn chung là chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa. Cụ thể là chương trình còn nặng tính lý thuyết, nặng về thi cử, chưa chú trọng đến năng lực thực hành và hướng nghiệp, chưa gắn với nhu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - giáo dục… Công tác quản lý giáo dục còn kém hiệu quả: một số hiện tượng tiêu cực chưa được ngăn chặn như nạn mua bán điểm tràn lan, mua bằng, gian lận trong thi cử… Nguyên nhân của các yếu kém này, trước hết là do yếu tố chủ quan, trình độ quản lý chưa theo kịp với thực tiễn và nhu cầu phát triển khi nền kinh tế mới bước đầu hội nhập với thế giới. Về mặt khách quan, do dân số tăng và nhu cầu học tập ngày càng tăng khiến trình độ dân trí tăng nên ngành giáo dục mới chỉ có thể đáp ứng nhu cầu học về số lượng chứ chưa kịp tăng cường chất lượng. Bên cạnh đó những chậm trễ trong cải cách hành chính nhà nước cũng góp phần vào quá trình chậm bước tiến của ngành giáo dục. Giải pháp phát triển giáo dục Để nâng cao chất lượng giáo dục, cần tập trung thực hiện 7 nhóm giải pháp lớn sau: Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, đồng thời thích ứng với nhu cầu của từng vùng, từng ngành, từng địa phương. Phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục: phát triển đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng đáp ứng nhu cầu tăng về quy mô số lượng và chất lượng của ngành giáo dục. Hiện đại hóa các phương pháp giáo dục: chuyển từ cách học truyền thống (thầy giảng trò ghi) sang phương pháp giảng dạy hướng dẫn cho người học cách tự tư duy. Đổi mới quản lý giáo dục: giải pháp đổi mới quản lý giáo dục là khâu đột phá. Chú trọng nhiều đến công tác thanh tra, kiểm tra giáo dục; tăng cường chất lượng của công tác lập kế hoạch (ví dụ như thường xuyên cung cấp thông tin về nhân lực của xã hội để ngành giáo dục có kế hoạch đào tạo phù hợp…); xây dựng và thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển mạng lưới trường lớp. cơ sở giáo dục. Hoàn thiện theo hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa, liên thông liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến đại học, cao đẳng; phát triển mạng lưới giáo dục rộng khắp cả nước; củng cố và mở thêm nhiều cơ sở dạy nghề. Và còn nhiều biện pháp khác áp dụng cho mỗi cấp học. Tăng cường nguồn tài chính, cơ sở vật chất cho giáo dục bằng cách tăng ngân sách cho ngành giáo dục và có kế hoạch sử dụng ngân sách hợp lý. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục: hoàn thiện cơ sở lý luận thực tiễn, cơ chế chính sách và các giải pháp xã hội hóa giáo dục, nhằm tạo sự nhất trí cao nhất trong xuất hiện về nhận thức; bổ sung và hoàn thiện những văn bản quy phạm pháp luật; khuyến khích các cá nhân tổ chức đầu tư cho giáo dục. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục: huy động nguồn vốn từ nước ngoài, hợp tác xây dựng nhiều trung tâm công nghệ cao, tạo điều kiện để du học trở nên dễ dàng hơn… Thu nhập và giáo dục là hai vấn đề mà khi mới đọc làm cho ta có cảm giác chúng hoàn toàn độc lập với nhau, song trong thực tế giữa chúng lại tồn tại một mối liên hệ hoàn toàn khác. Chương 2 sẽ làm rõ mối liên hệ giữa thu nhập và giáo dục. CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH THỐNG KÊ THU NHẬP VÀ GIÁO DỤC CỦA HỘ GIA ĐÌNH VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI TIÊU THỨC NÀY THỰC TRẠNG NGUỒN SỐ LIỆU Số liệu dựa vào kết quả của các cuộc khảo sát mức sống dân cư. Cuộc khảo sát mức sống năm 1992 – 1993 là cuộc khảo sát mức sống dân cư đầu tiên ở Việt Nam thực hiện từ tháng 10 năm 1992 đến tháng 10 năm 1993. Cuộc khảo sát do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Tổng cục Thống kê thực hiện bằng nguồn tài trợ của Liên Hiệp Quốc và Thụy Điển, với sự tư vấn kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới (World Bank). Cuộc điều tra này đã sử dụng quy trình chọn mẫu cụm nhiều tầng để chọn ra 4800 hộ ở thành thị và nông thôn. Do thời kì này dân số nước ta có đến 4/5 dân số sống ở nông thôn nên cuộc điều tra mức sống dân cư này đã lấy 80% số hộ trong mẫu từ khu vực nông thôn. Để chọn các hộ thuộc khu vực nông thôn, tổng số khoảng 10.000 xã trong cả nước được liệt theo danh sách từ Bắc xuống Nam cùng số dân của từng xã lấy từ cuộc điều tra dân số năm 1989. Tiếp theo là chọn 120 xã theo khoảng cách cố định, lấy xã đầu tiên làm mốc và xã đầu tiên được chọn ngẫu nhiên. Trong mỗi xã, chọn ngẫu nhiên 2 thôn/ấp theo phương pháp xác xuất tỷ lệ với quy mô dân số. Trong mỗi thôn/ấp, chọn tiếp 16 hộ trong danh sách hộ được lãnh đạo địa phương cập nhập để điều tra. Việc chọn mẫu được tiến hành một cách rất cẩn thận, chính xác. Chuyên viên của Ngân hàng Thế giới đã làm việc kĩ lưỡng với KSMS và xác nhận khảo sát đã được thực hiện tốt nhất so với những KSMS khác đã tiến hành trên thế giới. Vào tháng 12 năm 1997, cuộc KSMS dân cư lần thứ hai bắt đầu được thực hiện, quá trình thực hiện tương tự cuộc KSMS 1992 – 1993, và kết thúc vào tháng 11 năm 1998. Trong cuộc KSMS lần 2 này có một số nguyên tắc khác cuộc điều tra lần 1. Thứ nhất là điều tra lại tất cả các hộ đã được điều tra năm 1993. Thứ hai là mẫu thuộc 1 trong 10 tầng – các thành phố lớn, các thành phố nhỏ, các thị xã, thị trấn; và 7 tầng còn lại là khu vực nông thôn thuộc 7 vùng (khi đó Đông Bắc và Tây Bắc vẫn được tính chung với nhau) – có độ lớn đủ để cho phép thực hiện các phân tích ở cấp tầng. Bắt đầu từ năm 2002, Tổng cục Thống kê đã tiến hành các cuộc KSMS theo chu kỳ 2 năm một lần vào các năm chẵn, từ năm 2002 đến năm 2010. Nhằm mục đích theo dõi, giám sát một cách có hệ thống mức sống các tầng lớp dân cư Việt Nam. Đồng thời, kết quả của các cuộc KSMS còn giúp đánh giá việc thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo được quy định trong Văn kiện Chiến lược đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, và góp phần đánh giá các mục tiêu phát triển ngắn hạn và dài hạn mà Chính phủ Việt Nam đã đề ra. Vì các mẫu khảo sát được sử dụng tron._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2155.doc