Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn. Lấy thực trạng tại VN để chứng minh

LỜI MỞ ĐẦU Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội luôn là mục tiêu của mọi nền kinh tế. Song muốn có tăng trưởng thì phải có đầu tư, làm thế nào để đầu tư có lợi nhuận và đem lại hiệu quả tăng trưởng kinh tế? Đây luôn là một bài toàn khó đối với mọi nhà kinh tế. Do đất nước ta đang trong quá trình chuyển mình từ một nước nghèo nàn lạc hậu sang một nền kinh tế thị trường hiện đại nên đầu tư càng đóng vai trò quan trọng. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách kinh tế, cá

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn. Lấy thực trạng tại VN để chứng minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c chính sách tự do thương mại, đầu tư và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và đang cải thiện dần các hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.Thực tiễn cho thấy, mỗi một nền kinh tế đều phải cạnh tranh rất khốc liệt để có thể tồn tại và phát triển, có thể có được chỗ đứng trên thương trường. Một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công đó là việc làm thế nào để có thể tạo lập, huy động nguồn vốn với chi phí thấp, với điều kiện và phương tiện thanh toán nhanh nhất, làm thế nào đế có thế sử dụng đồng vốn hiệu quả... Giữa tạo lập, thu hút và sử dụng nguồn vốn tồn tại một mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động đầu tư. Do đó, việc hiểu rõ mối quan hệ đó là yêu cầu rất quan trọng đối với các nhà kinh tế, các nhà quản lý. Xuất phát từ vấn đề trên, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Từ Quang Phương và thầy Phạm Văn Hùng, chúng em đã quyết định chọn đề tài “Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn. Lấy thực trạng tại Việt Nam để chứng minh”. Kết cấu đề tài của chúng em gồm 3 phần chính: Phần I: Các vấn đề lý luận chung về đầu tư và nguồn vốn đầu tư Phần II: Thực trạng mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư tại Việt Nam Phần III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tạo lập, thu hút và sử dụng vốn. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương và thầy Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài này. Chương 1: Các vấn đề lý luận chung về đầu tư và nguồn vốn đầu tư I. Khái niệm đầu tư và nguồn vốn đầu tư 1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển Đầu tư nói chung là sự bỏ ra hay sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Các nguồn lực sử dụng có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật chất (nhà cửa, đường xá), tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kĩ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn bộ xã hội. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.Hoặc xét trên tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu tư: đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. 2. Khái niệm nguồn vốn đầu tư Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và toàn xã hội. Vốn đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của vốn nói chung. Trên phương diện về kinh tế, vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác. Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 2.1. Nguồn vốn trong nước Xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắn chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư trong nước. Nguồn vốn đầu tư trong nước của mỗi quốc gia được hình thành chủ yếu từ: tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệm dân cư, tiết kiệm của các doanh nghiệp và vốn huy động thông qua các tài sản quốc gia. a. Nguồn vốn Nhà nước Vốn đầu tư Nhà nước được hình thành từ các nguồn vốn: nguồn vốn tích lũy từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ngân sách Nhà nước được hình thành từ việc thu thuế, phí, lệ phí, từ vay viện trợ ưu đãi của nước ngoài, vay trên thị trường vốn quốc tế và vay trong dân dựa trên việc phát hành trái phiếu chính phủ. Hiện nay có sự đa dạng vốn đầu tư Nhà nước, không có sự tách biệt giữa: đầu tư Nhà nước cho sự phát triển chung của xã hội và đầu tư Nhà nước cho sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà phải xác định cụ thể nguồn vốn ngân sách không thể đầu tư tràn lan được, mà phải hạn chế trong một số lĩnh vực chủ yếu nhất định. *Vai trò: Nguồn vốn được sử dụng cho các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, nguồn vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước. Ngoài ra, nguồn vốn dùng để chi cho công tác lập kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, vùng lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Vốn ngân sách là cơ sở để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác. Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Hình thức tín dụng tức là có vay có trả, và phải trả với một lãi suất nhất định, thường là lãi suất ưu đãi khi vay vốn hay sau khi đầu tư (đầu tư có hiệu quả mới được ưu đãi). Nguồn vốn này có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ. Hiện nay ở nước ta chính phủ sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm tập trung hỗ trợ đầu tư cho những ngành, lĩnh vực hoặc sản phẩm quan trọng, then chốt của nền kinh tế một cách có trọng tâm, trọng điểm; giảm sự bao cấp và tách bạch tín dụng ngân sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. *Vai trò: Với cơ chế tín dụng nhằm tránh sự thất thoát và lãng phí nguồn vốn, các doanh nghiệp vay vốn sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả hơn do phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước thường dùng để phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô, thông qua nguồn tín dụng đầu tư, Nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Điều này giúp tăng trưởng kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Phân bổ và sử dụng vốn vay tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo… Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước Nguồn vốn này được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước được hình thành do ngân sách Nhà nước cấp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp (đầu tư mới), từ quỹ khấu hao của doanh nghiệp đó (đầu tư thay thế), từ vốn vay (vay ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng đầu tư của cán bộ công nhân viên, từ cổ phần …) *Vai trò: Đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước thường được tập trung vào phát triển các lĩnh vực mà khu kinh tế khác không muốn làm, hoặc cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành công nghiệp then chốt. Việc phát triển những lĩnh vực trên là rất cần thiết để phát triển kinh tế, do đó hiệu quả chung, nhất là hiệu quả về mặt xã hội của nó có thể cao. Nguồn vốn này là một trong những nguồn vốn quan trọng đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, tạo việc làm, đóng góp quan trọng vào sản phẩm quốc nội của cả nước góp phần hình thành gộp về tài sản cố định rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế. b.Nguồn vốn từ khu vực tư nhân Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã và lượng kiều hối. Tiết kiệm của dân cư Tiết kiệm của dân cư được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của dân cư, sau khi đã đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước (nếu có) và đảm bảo tiêu dùng cho nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình họ. Phạm vi thu nhập của dân cư bao gồm: thu nhập từ kết quả lao động, từ sản xuất và kinh doanh dịch vụ của bản thân dân cư và gia đình họ, kể cả xí nghiệp gia đình có quy mô nhỏ (không phải là công ty); thu nhập do người thân từ nước ngoài gửi về; thu nhập do thừa kế; thu nhập được hình thành từ những cơ hội may mắn bất ngờ. Tiết kiệm khu vực dân cư là một bộ phận quan trọng của tiết kiệm trong nước, đóng góp vai trò chủ yếu trong việc hình thành vốn đầu tư của các quốc gia, đây là một bộ phận lớn, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng. Tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh Nguồn vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và tiết kiệm (các khoản thu nhập của doanh nghiệp sau khi trả thuế và trả cổ tức); từ vốn đi vay hoặc tăng vốn cổ đông bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phần tích luỹ của các doanh nghiệp này đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Hoạt động của các doanh nghiệp dân doanh đạt hiệu quả, tạo doanh thu cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động kinh doanh đa ngành với nhiều lĩnh vực khác nhau, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nguồn vốn kiều hối Nguồn vốn đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ những quốc gia có nền kinh tế cũng như mức thu nhập cao, đồng thời có nhiều nguời Việt Nam sinh sống, như: Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Thuỵ Sỹ, Pháp, Australia, Bỉ… Cùng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các doanh nhân nước ngoài đã và đang góp phần bổ sung nguồn vốn, tạo thế lực và phát triển kinh tế đất nước, góp phần mở rộng thị trường nội địa, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới. 2.2 Nguồn vốn nước ngoài Đối với các nước nghèo, để phát triển kinh tế, và từ đó để thoát ra khỏi cảnh nghèo thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt và từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng…Do đó trong những bước đi ban đầu, để tạo ra được cú “hích” đầu tiên cho sự phát triển, để có được tích lũy ban đầu từ trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế, không thể không huy động vốn nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Nó bao gồm: nguồn vốn hỗ trợ chính thức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn tín dụng thương mại, vốn đầu tư gián tiếp, nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế. a. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) * Khái niệm chung: Nguồn vốn ODF (Official Development Finance ): là nguồn tài trợ phát triển chính thức do các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ cung cấp. Nguồn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu. Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance ) là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này. Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%. ODA được thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương. Các tổ chức viện trợ đa phương hiện đang hoạt động gồm các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc (WTO), cộng đồng châu Âu (EU), các tổ chức phi Chính phủ và các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF). Các tổ chức viện trợ song phương thường là Chính phủ các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Đức, Úc... Hiện nay Việt Nam có quan hệ với 25 nhà tài trợ ODA song phương, trong đó có Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất chiếm tới khoảng 40% tổng số vốn ODA mà cộng đồng quốc tế cam kết viện trợ. Tiếp đến là các nhà tài trợ như Pháp, Tây Ban Nha, Cộng hoà Liên Bang Đức, Thuỵ Điển, Úc, Đan Mạch... * Nội dung viện trợ: Viện trợ không hoàn lại: yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác đinh dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Đối với loại viện trợ này chiếm 25% tổng vốn ODA, thường là hỗ trợ kĩ thuật, chủ yếu là chuyển giao công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt động của chuyên gia quốc tế. Đôi khi viện trợ này lại là viện trợ nhân đạo như lương thực, thuốc men hoặc các loại hàng hoá khác... nên chúng rất khó huy động vào mục đích đầu tư phát triển. Nhưng bên cạnh đó các khoản viện trợ này thường kèm theo một số điều kiện về tiếp nhận, về đơn giá... Viện trợ có hoàn lại: thực chất là cho vay ưu đãi với điều kiện “mềm” có thể sử dụng cho mục tiêu đầu tư phát triển. Tính chất ưu đãi thể hiện ở khía cạnh đó là: lãi suất thấp; thời hạn cho vay dài, Nhật Bản cho Việt Nam vay trong thời gian là 30 năm, Ngân hàng thế giới là 40 năm; thời gian ân hạn từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên khá dài, khoảng từ 5-10 năm trở lên, Nhật Bản ân hạn là 10 năm. Viện trợ hỗn hợp: bao gồm phần cấp không và phần còn lại thực hiện theo hình thức vay tín dụng ( có thể ưu đãi hoặc bình thường ). * Các hình thức viện trợ: Theo mục đích và cách tiếp cận nhận viện trợ thì ODA được thực hiện thông qua các hình thức sau. Hỗ trợ cán cân thanh toán thường có nghĩa là hỗ trợ tài chính trực tiếp nhưng đôi khi lại là hỗ trợ hiện vật hoặc hỗ trợ nhập khấu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá chuyển vào trong nước thông qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán có thể đựơc chuyển thành hỗ trợ ngân sách. Điều này xảy ra khi hàng hoá nhập vào nhờ hình thức này được bán ra trên thị trường trong nước, và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của chính phủ. Tín dụng thương mại với các điều khoàn mềm ( lãi suất thấp, hạn trả dài...). Trên thực tế là một dạng hỗ trợ có ràng buộc. Viện trợ chương trình là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không phải xác định nó sẽ phải được sử dụng như thế nào. Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của viện trợ chính thức. Hỗ trợ dự án thường liên quan đến hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kĩ thuật và trên thực tế thường có cả hai yếu tố này: Hỗ trợ cơ bản thường chủ yếu về xây dựng (đướng xá, cầu cống, trường học, bệnh viện ). Thông thường các dự án này có kèm theo một bộ phận của viện trợ kĩ thuật, dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó, hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho các đối tác nhận viện trợ; hỗ trợ kĩ thuật thường chủ yếu chỉ tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường lập cơ sở kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu trước khi đầu tư (quy hoạch, lập các luận chứng kinh tế, kĩ thuật...). Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ thông thường, nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kĩ thuật phân tích (kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính Nhà nước, các vấn đề xã hội...) b. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) * Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào quá trình sản xuất kinh doanh để trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý vào quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra.Đây là nguồn vốn quan trọng không chỉ đối với các quốc gia phát triển mà cả với những quốc gia đang phát triển. * Đặc điểm: Việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển giao vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển giao cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...( Công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kĩ thuật - công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường...( công nghệ mềm), nâng cao trình độ nguồn nhân lực, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động...vào các nước tiếp nhận. Như vậy: FDI ít lệ thuộc vào quan hệ chính trị giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ tuy nhiên vẫn phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư mang lại với người đầu tư theo mức đóng góp của họ. Do bên nước ngoài trực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp họ trực tiếp kiểm soát hoạt động và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho đầu tư nên mức độ khả thi của các công cuộc đầu tư thường khá cao đặc biệt trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu Quyền lợi của chủ đầu tư gắn chặt với lợi ích do đầu tư mang lại, cho nên để có hiệu quả đầu tư cao thì họ sẽ lựa chọn những công nghệ thích hợp và tiến tới nâng cao trình độ quản lý, tay nghề của công nhân ở những nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, vấn đề thực hiện không thành công đối với chính sách thu hút FDI hay chưa tận dụng triệt để và lãng phí nguồn lực này dưới góc độ tăng trưởng kinh tế, thực trạng này khiến cho các nhà kinh tế ngày càng quan tâm nhiều hơn tới việc đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là của các nước đang phát triển. c. Đầu tư gián tiếp nước ngoài Đầu tư gián tiếp nước ngoài là việc người nước ngoài mua cổ phiếu hoặc trái phiếu ở nước sở tại và thường không làm công việc quản lý. Đây là hình thức đầu tư nước ngoài rất quan trọng trong thế kỉ IXX và đầu thế kỉ XX song không kéo dài được lâu bởi số vốn mà Chính phủ và các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển vay của các ngân hàng thương mại đã thay thế một phần quan trọng cho đầu tư gián tiếp. Tuy nhiên những năm gần đây, nguồn vốn này đang có sự khởi sắc trở lại cùng với sự phát triển sôi động của thị trường chứng khoán Việt Nam. d. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau một thời gian sẽ phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay, các nước cho vay nhận lợi nhuận thông qua lãi suất tiền vay. Nguồn vốn tín dụng thương mại có những đặc điểm sau: Đối tượng vay vốn của nguồn vốn này thường là các doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp vay vốn nhưng hoạt động không hiệu quả, làm ăn thua lỗ hoặc phá sản thì rủi ro với các chủ đầu tư là rất cao. Vốn vay dưới dạng tiền tệ, các doanh ngiệp vay vốn có thể sử dụng tuỳ theo yêu cầu của doanh nghiệp.Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận thông qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế ước vay, độc lập với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn, chủ đầu tư có quyền sử dụng những tài sản đã thế chấp của bên vay vốn hoặc yêu cầu cơ quan bảo lãnh thanh toán các khoản vay trong trường hợp bên vay vốn không có khả năng thanh toán. Do vậy, các ngân hàng cung cấp vốn tuy không tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp nhưng trước khi nguồn vốn được giải ngân thì họ cũng đã nghiên cứu tình hình khả thi của dự án đầu tư và có yêu cầu về đảm bảo thế chấp đối với bên doanh nghiệp nhằm giảm bớt khả năng rủi ro. Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại, các nước tiếp nhận vốn không phải chịu bất cứ sự ràng buộc nào về chính trị xã hội và có toàn quyền sử dụng vốn vay này. Tuy nhiên, điều kiện ưu đãi của nguồn vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA, thủ tục vay lại tương đối khắt khe và nghiêm ngặt, có những quy định riêng về thời gian trả nợ, cộng với lãi suất cao nên gây cản trở không nhỏ đối với các nước nghèo. e. Thị trường vốn quốc tế. Hiện nay, với xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ngày càng tăng kéo theo sự gia tăng mối liên kết giữa thị trường vốn giữa các quốc gia. Với Việt Nam, ngoài những nguồn huy động bên ngoài như ODA, Quỹ đầu tư, lượng kiều hối, nguồn vay tín dụng thương mại thì việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế đang là một vấn đề quan tâm, đã và đang được xây dựng, xem xét và thực hiện. Hình thức huy động này còn mới mẻ, phức tạp và cần phải thận trọng trong khi thực hiện. Trái phiếu quốc tế là trái phiếu phát hành bằng đồng tiền không phải là đồng tiền Nhà nước, có nhà phát hành để vay vốn các nhà đầu tư nước ngoài.Việc phát hành các trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế của các quốc gia nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển hoặc bù đắp thiếu hụt về cán cân thương mại quốc tế. Trái phiếu chính phủ cho phép các quốc gia huy động vốn với khối lượng lớn, kỳ hạn dài.. Ưu điểm của trái phiếu quốc tế cũng như việc đi vay trong thị trường tài chính trong nước như nhà phát hành có khả năng độc lập về tài chính, có thể chủ động sử dụng vốn vay mà không bị phụ thuộc bởi những điều kiện đặt ra từ người cho vay. II. Khái niệm chung về thu hút vốn đầu tư 1. Các kênh thu hút vốn đầu tư 1.1 Huy động vốn qua hệ thống ngân hàng Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước có hạn, vốn tự có của doanh nghiệp và người sản xuất còn ít ỏi, thì vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn tín dụng ngân hàng. Để có vốn cho vay, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã huy động vốn trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Hệ thống ngân hàng huy động vốn cho đầu tư phát triển bằng đa dạng các phương thức, như: giải tỏa vốn đọng trong số nợ xấu, phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết kiệm và phát triển dịch vụ ngân hàng. Các NHTM mở rộng huy động vốn bằng nhiều hình thức và giải pháp khác nhau. Trước hết, mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch toàn quốc, bảo đảm thuận tiện cho huy động vốn. Thứ hai, hiện đại hóa công nghệ gắn liền với đổi mới phong cách giao dịch của nhân viên, tạo sự tôn trọng của ngân hàng đối với người gửi tiền.Thứ ba, đẩy mạnh các hoạt động maketing, tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại trong huy động vốn, tạo thông tin minh bạch, công bố thông tin rộng rãi cho người dân chủ động lựa chọn các hình thức gửi tiền với lãi suất, kỳ hạn khác nhau. Thứ tư, đa dạng hóa các sản phẩm gửi tiền tiết kiệm, các hình thức huy động vốn đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trong việc huy động vốn, các NHTM tạo sự chủ động lựa chọn linh hoạt cho khách hàng, như: gửi một lần nhưng rút gốc linh hoạt cho nhu cầu chi tiêu vẫn được lãi suất cao; gửi góp nhưng lĩnh ra một lần vào cuối kỳ với lãi suất hấp dẫn, gửi tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ; gửi tiền kèm theo cho vay mua ô-tô trả góp. Có thể khẳng định, hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đáng chú ý là các NHTM nhà nước chiếm phần lớn thị phần huy động vốn; thị phần của các NHTM cổ phần tuy còn khiêm tốn, nhưng đang có xu hướng tăng nhanh. Bên cạnh các kênh huy động vốn nói trên hệ thống ngân hàng còn là đầu mối đàm phán và ký kết, tổ chức tiếp nhận vốn và cho vay nhiều dự án của WB, ADB,... về điện lực, giao thông nông thôn, cải thiện môi trường, xóa đói giảm nghèo. 1.2 Huy động vốn qua các kênh khác trên thị trường Huy động vốn của ngân sách chủ yếu bằng hình thức phát hành tín phiếu Kho bạc nhà nước qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước, với sự tham gia của các ngân hàng, tổ chức bảo hiểm, quỹ đầu tư...; phát hành trái phiếu Chính phủ trong và ngoài nước.Thêm vào đó còn có nguồn vốn ODA do Ngân hàng Phát triển cho vay lại. Một kênh huy động vốn quan trọng khác là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hình thức bán đấu giá và bán cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hóa mà cổ phiếu có tính thanh khoản cao, lợi nhuận hấp dẫn, đã thu được hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước. Đó là chưa kể hàng chục ngàn tỉ đồng đã được huy động trong doanh nghiệp tư nhân. 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thu hút vốn đầu tư là 1 trong những nhân tố quan trọng mang tính tiên quyết song để có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư thì còn rất nhiều nhân tố ảnh hưởng. Thứ nhất: như chúng ta đều biết, đầu tư là hành động bỏ vốn ngày hôm nay để thu lại lợi nhuận trong tương lai. Trong quá trình đó môi trường đầu tư đóng vai trò như một chất xúc tác ban đầu cho việc lựa chọn quyết định bỏ vốn của nhà đầu tư, vì vậy môi trường đầu tư có một vị trí vô cùng quan trọng. Theo nghĩa chung nhất, môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư. Có nhiều cách phân loại môi trường đầu tư, song theo nhiều nhà kinh tế, môi trường đầu tư có thể chia ra môi trường cứng và môi trường mềm. Môi trường cứng liên quan đến các yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế, gồm: hệ thống hạ tầng giao thông (đường sá, cầu cảng hàng không, cảng biển, hệ thống thông tin liên lạc, năng lượng). Môi trường mềm bao gồm: hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư (đặc biệt các vấn đề liên quan đến chế độ đối xử và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại); hệ thống các dịch vụ tài chính - ngân hàng, kế toán và kiểm toán... Mọi hoạt động đầu tư suy cho cùng là để thu lợi nhuận, vì thế môi trường đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi ro thấp. Điều này lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi đầu tư của địa bàn được đầu tư, điều kiện phát triển về kết cấu hạ tầng kinh tế, mức độ hoàn thiện về thể chế hành chính - pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội, độ mở của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống thị trường... Các nhân tố trên có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả của môi trường đầu tư, nhất thiết phải quan tâm xử lý đồng bộ các yếu tố ảnh hưởng trên. Thứ hai: mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, chất lượng cung cấp dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh, mức độ cạnh tranh cuả thị trường trong nước cũng ảnh hưởng đến quá trình thu hút vốn đầu tư. Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô thấp dẫn tới các hiện tượng lạm phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng, thủ tục hành chính rườm rà, tăng trưởng kinh tế thấp,... là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng hoảng. Chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành các hoạt động sản xuất và kinh doanh cũng như đời sống của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao. Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính cũng là những yếu tố rất cần để thu hút các nhà ĐTNN. Tính cạnh tranh của các nước chủ nhà cao sẽ giảm được rào cản đối với ĐTNN, các nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vực đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình. Bên cạnh đó, môi trường luật pháp và chính sách đầu tư là một trong những điều đầu tiên mà các nhà đầu tư quan tâm khi lựa chọn thị trường đầu tư. Bởi quá trình đầu tư liên quan đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài, nên cần một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính sách, qui định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chống chéo nhau và có tính hiệu lực cao. Bao gồm các chính sách về sở hữu, thuế quan, lệ phí, quản lý ngoại hối. Rồi các vấn đề về chuyển đổi giữa đồng nội tệ và ngoại tệ cũng phải được qui định giữa các nước phụ thuộc vào chính sách tiền tệ. Việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, mỗi nước tùy theo tình hình cụ thể của mình có những qui định khác nhau. Và quan trọng nhất là hoạt động quản lý ĐTNN. Vì trong quá trình hình thành và triển khai dự án đầu tư, chủ dự án phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền đại diện cho nước chủ nhà từ khâu cấp giấy phép, thẩm định dự án đến quản lý thực hiện dự án. Ngoài ra còn có các chính sách và qui định khác như: Chính sách về công nghệ, bảo vệ môi trường, lao động tiền lương, việc sử dụng các tài nguyên, mặt đất, mặt nước, việc sử dụng đất, thủ tục khai báo hải quan, nhập cảnh, cư trú, qui định về việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tranh chấp.... 3. Điều kiện để thu hút vốn đầu tư Thứ nhất, cần tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế. Xét trong dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một cách hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với cả vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Nó thể hiện nguyên tắc mang tính chủ đạo trong thu hút vốn đầu tư: Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Thứ nhất, với năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích luỹ của nền kinh tế sẽ có khả năng gia tăng. Khi đó quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy động được cải thiện. Thứ hai, triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thứ hai, đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Đây được coi là điều kiện tiên quyết cho mọi ý định và hành vi đầu tư. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô, chính trị xã hội và môi trường kinh doanh ổn định. Đối với vốn đầu tư nước ngoài còn yêu cầu năng lực trả nợ tối thiểu của nước nhận vốn đầu tư. Sự ổn định kinh tế vĩ mô ở đây được hiểu là nền kinh tế có thể chủ động kiểm soát được quá trình tăng trưởng, chủ động tái lập được tráng thái cân bằng mới và đó đồng thời cũng là việc tạo ra cơ sở cho sự ổn định lâu dài và vững chắc. Và nó được cụ thể quá thông qua các yếu tố : Ổn định giá trị tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái, hay về lâu dài cần phải thực hiện tốt chức năng hoạch định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của nhà nước, xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường, nhằm đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định minh bạch, nhất quán và phù hợp với thông lê quốc tế. Thứ ba, xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả. Bên cạnh tiềm năng tăng trưởng và ổn định tế v._.ĩ mô, đề có thể huy động hiệu quả các nguồn vốn cần có các chính sách và giải pháp hợp lý và đồng bộ và hợp lý trên cơ sở có tính toán tổng hợp đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động thu hút và cung ứng vốn. III. Khái niệm chung về sử dụng vốn đầu tư 1.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế...do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Một trong những chỉ tiêu quan trọng biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR. Hệ số ICOR - tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng. Hệ số ICOR được tính như sau ICOR = Vốn đầu tư tăng thêm/GDP tăng thêm = Đầu tư trong kỳ/GDP tăng thêm. Hệ số ICOR cho biết muốn gia tăng một đồng sản lượng cần phải gia tăng bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Nếu hệ số ICOR có xu hường giảm dần qua các năm thì điều đó chứng tỏ rằng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ngày càng được nâng cao, còn ngược lại nếu hệ số ICOR lại không ngừng tăng chứng tỏ có sự thất thoát lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư. Hệ số ICOR của nên kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: Thứ nhất, do thay đổi cơ cấu ngành. Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh hưởng đến hệ số ICOR của từng ngành. Thứ hai, sự phát triển của khoa học công nghệ có ảnh hưởng hai mặt đến hệ số ICOR. Gia tăng đầu tư cho khoa học công nghệ, một mặt làm làm cho tử số của công thức tăng, mặt khác sẽ tạo ra nhiều ngành mới,làm cho máy móc hoạt động hiệu quả hơn, năng suất lao động tăng cao do đó kết quả đầu tư tăng lên ( tăng mẫu số của công thức ). Như vậy hệ số ICOR tăng hay giảm phụ thuộc vào xu thế nào chiếm ưu thế. Thứ ba, do thay đổi cơ cấu chính sách và phương pháp tổ chức quản lý. Cơ chế chính sách phù hợp, đầu tư hiệu quả hơn ( nghĩa là, kết quả đầu tư ở mẫu số tăng lớn hơn chi phí ở tử số) làm cho ICOR giảm và ngược lại. ICOR của mỗi nước lại khác nhau phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước, ở các nước phát triển ICOR thường lớn, từ 6-10 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Ở các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển, ICOR thấp hơn từ 3-5 do thiếu vốn thừa lao động nên có thể sử dụng nhiều lao động thay thế vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại giá rẻ. Và thường ICOR trong nông nghiệp thường thấp hơn trong công nghiệp. * Ưu điểm của hệ số ICOR: Thứ nhất, là chỉ tiêu quan trọng để dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc dự báo quy mô vốn cần thiết để đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định trong tương lai. Thứ hai, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sự dụng vốn đầu tư của nện kinh tế. Hệ số ICOR nhỏ thì muốn gia tăng một đơn vị GDP cần sử dụng một lượng vốn đầu tư ít hơn, các điều kiện khác không đổi. * Nhược điểm của hệ số ICOR: Thứ nhất, nó chỉ phản ánh ảnh hưởng của yếu tố vốn đầu tư ma chưa tính đến ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất khác trong việc tạo ra GDP tăng thêm. Thứ hai, ICOR cũng bỏ qua sự tác động của các ngoại ứng như điều kiện tự nhiên, xã hội, cơ chế chính sách... Thứ ba, ICOR chưa tính đến yếu tố độ trễ thời gian của kết quả và chi phí(tử số và mẫu số của công thức), vấn đề tái đầu tư... 2.Nguyên tắc sử dụng vốn Đối với sử dụng vốn cho đẩu tư xây dựng phát triển cần đảm bảo các nguyên tắc sau: Đúng đối tượng, cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách nhà nước theo phương thức cấp không hoàn trả đảm bảo vốn để đầu tư các dự án cần thiết phải đầu tư thuộc kết cấu hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh....từ đó tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển toàn diện và cân đối của nền kinh tế quốc dân. Do ngân sách có hạn nên đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đòi hỏi cấp phát vốn đúng đối tượng là các công trình,dự án đầu tư theo quy định của luật ngân sách nhà nước và quy chế quản lý đầu tư xây dựng. Thực hiện nghiêm chỉnh trình tự đầu tư và xây dựng, có đầy đủ các tài liệu thiết kế và dự toán được duyệt: các dự án không phân biệt quy mô và mức vốn đầu tư đều phải trải qua ba giai đoạn là chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, kết thúc dự án đưa dự án vào hoạt động khai thác sử dụng. Vốn sử dụng đúng mục đích đúng kế hoạch: nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình, các dự án được xác định trong kế hoạch ngân sách nhà nước hàng năm dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kế hoạch xây dựng của từng bộ từng ngành địa phương, đảm bảo tính kế hoạch,cân đối. Đảm bảo sử dụng vốn theo đúng kế hoạch tiến độ, kiểm tra chặt chẽ đảm bảo chất lượng công trình hoàn thành, tránh ứ đọng vốn trong quá trình đầu tư gây thất thoát lãng phí khi sử dụng vốn. Sử dụng nguồn vốn phải đúng mục tiêu và tiến độ đầu tư của từng sự án nhằm duy trì sự điều tiết vĩ mô như mong muốn và đảm bảo cho dự án đầu tư hiệu quả. Việc phân bổ nguồn vốn sai đối tượng sẽ làm mất cơ hội đầu tư vào các lĩnh vực cần điều tiết của nhà nước vì nguồn vốn tín dụng dầu tư nhà nước chịu các giới hạn nhất định và việc phân bổ nguồn vốn không đúng với dự toán sẽ ảnh hưởng tới kết quả đầu tư của dự án... Quản lý và sử dụng nguồn vốn phải đảm bảo duy trì hoàn nguồn vốn tín dụng. Thẩm định tính hiệu quả của dự án để quyết định thực hiện việc đầu tư tín dụng mới là điều kiện cần trong hoạt động tín dụng. Vấn đề quyết định đối với việc truy hoàn vốn trong hoạt động tín dụng là quá trình kiểm tra giám sát việc sử dụng nguồn vốn. Lãi suất cho vay linh hoạt theo khả năng sinh lời của từng dự án, theo diễn biến của thị trường nhưng thấp hơn lãi suất thị trường cùng kỳ. Đối với doanh nghiệp theo dõi chặt chẽ các khoản phát sinh chi tiêu trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Tìm các biện pháp lặp lại sự cân bằng trong thu chi bằng tiền để đảm bảo doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán. Cần xác định rõ các loại chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, các khoản thuế phải nộp, xác định chi phí nào là chi phí cho hoạt động kinh doanh và chi phí nào thuộc về các hoạt động khác. Đối với nguồn vốn cố định, để sử dụng hiệu quả vốn cố định trong các hoạt động đầu tư dài hạn, doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ quy chế quản lý đầu tư từ khâu chuẩn bị đầu tư, lập dự án, thẩm định dự án, quản lý thực hiện dự án đầu tư. Cấn phát triển được nguồn vốn cố định sau mỗi chu kỳ kinh doanh, thực chất là phải đảm bảo duy trì được giá trị thực của vốn cố định để khi kết thúc một vòng tuần hoàn bằng số vốn này doanh nghiệp có thể bù đắp hoặc mở rộng được số vốn cố định mà doanh nghiệp đã bỏ ra ban đầu theo giá trị hiện tại. Đối với vốn lưu động, mọi khoản thu chi vốn tiền mặt của doanh nghiệp đều phải thực hiện thông qua quỹ, không được thu chi ngoài quỹ tự thu chi. Phải có sự phân định trách nhiệm rõ ràng trong quản lý vốn tiền mặt nhất là thủ quỹ và kế toán quỹ. Đối với vốn từ nước ngoài sử dụng, vốn đúng mục đích, tiết kiệm và xoá bỏ bao cấp trong việc quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài. Cần tranh thủ nguồn vốn vay ODA phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và khả năng hấp thụ của nền kinh tế nói chung và của từng ngành, địa phương nói riêng. Vốn vay ODA phải được ưu tiên tập trung đầu tư vào các ngành và lĩnh vực cụ thể phù hợp với từng thời kỳ phát triển. Đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng không có điều kiện thu hồi vốn trực tiếp, việc sử dụng vốn phải dựa trên hiệu quả kinh tế - xã hội. Đối với các dự án đầu tư cho sản xuất kinh doanh phải lấy hiệu quả tài chính làm thước đo chủ yếu. 3. Nguyên tắc phân bổ sử dụng vốn đầu tư Tiêu chí, định mức phân bổ ngân sách Nhà nước có vai trò rất quan trọng, là thước đo, là cơ sở để Quốc hội phân bổ NS một cách công khai, minh bạch. Điều đó đồng nghĩa nếu có hệ thống tiêu chí, định mức rõ ràng mới giải quyết tốt mối quan hệ giữa NSTW và NSĐP, phân chia ngân sách giữa Trung ương và địa phương một cách hợp lý, nhất là các Bộ. Việc phân bổ NSNN có 2 lĩnh vực quan trọng nhất là chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Tuy nhiên,chỉ có một số chương trình, dự án đầu tư lớn là có định mức cụ thể, khiếm khuyết này đã dẫn tới việc phân bổ NS dù đã thể hiện được tính công khai, minh bạch nhưng chưa thật sự công bằng. Trong đó tiêu chí chính dự kiến sử dụng là dân số với lý do đây là tiêu chí liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Đi đôi với việc xác định tiêu chí chính là các hệ số phụ khác như: điều kiện tự nhiên; số đơn vị hành chính xã phường; tỷ lệ hộ nghèo; vùng miền núi, vùng cao, hải đảo; vùng đồng bào dân tộc; các tỉnh có biên giới; vùng kinh tế trọng điểm; thành phố đặc biệt, thành phố loại I; khả năng tự cân đối NSĐP; khả năng điều tiết của NSĐP cho NSTW. GDP vẫn được xem là một chỉ tiêu quan trọng không được tính vào đây vì không chính xác, vì nếu tổng hợp theo cách tính của các địa phương thì kết quả GDP bình quân cả nước lên tới 11,3%, gấp rưỡi con số thực tế. Tuy nhiên nếu lấy dân số là tiêu chí chính chỉ phù hợp với việc phân bổ vốn địa phương, còn với các Bộ, ngành phải xây dựng một tiêu chí mang tính tổng hợp trên cơ sở các mục tiêu, định hướng phát triển tổng thể nền kinh tế, của ngành, lĩnh vực và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Hầu hết các địa phương, Bộ, ngành đều nói rằng định mức phân bổ NS mới chỉ đáp ứng được phần nhỏ nhu cầu chi tiêu của mình. Trong bối cảnh ấy, một trong những căn cứ để xây dựng tiêu chí và định mức phân bổ NS là vừa ưu tiên các vùng kinh tế trọng điểm, những “đầu tàu” của cả nước, vừa quan tâm đến các tỉnh nghèo để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Đây là điều lý giải tại sao lâu nay vẫn tồn tại tình trạng đầu tư dàn trải, bình quân trong phân bổ chi đầu tư đã được nói đi nói lại khá nhiều. Tất nhiên phải chú ý những tỉnh khó khăn nhưng rất cần thiết ưu tiên những vùng động lực để tăng GDP, tạo sức lan tỏa kéo theo các vùng khác phát triển, nước ta nghèo không nên đầu tư dàn trải. Trong khi đó, ngay cả những những địa phương khá giả cũng mong muốn “nước chảy chỗ trũng”.  Theo đó, một trong những nguyên tắc cơ bản là phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ vốn đầu tư phát triển của các bộ, cơ quan Trung ương cho các công trình, dự án. Theo Quyết định này, các Bộ, cơ quan trung ương  cần bố trí vốn tập trung, bảo đảm hiệu quả đầu tư. Ưu tiên bố trí cho các dự án quan trọng quốc gia và các dự án lớn khác, các công trình, dự án hoàn thành trong kỳ kế hoạch, vốn đối ứng cho các dự án ODA; đảm bảo thời gian từ khi khởi công đến khi hoàn thành các dự án nhóm B không quá 4 năm, dự án nhóm C không quá 2 năm; không bố trí vốn cho các dự án khi chưa xác định được rõ nguồn vốn. Đối với các địa phương, tiêu chí phân bổ vốn đầu tư gồm số dân của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và số người dân tộc thiểu số. Đồng thời, các khoản mục bổ sung có mục tiêu không  bố trí đồng đều, bình quân đối với tất cả các địa phương. Tập trung đầu tư cho các địa phương có các huyện đảo, xã đảo, các đảo có dân, các đảo cần đưa dân ra sinh sống để phát triển sản xuất, làm chủ đảo và vùng biển; hỗ trợ một số địa phương có điều kiện và yêu cầu cấp bách để phát triển nghề cá xa bờ ở các vùng biển có yêu cầu tăng cường sự có mặt dân sự để làm chủ và quản lý, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia. Ưu tiên hỗ trợ các địa phương nghèo, kinh tế kém phát triển. Đối với xã khó khăn nhất: dân số ít, mật độ dân cư thưa thớt, tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số cao; đất rộng, địa bàn hiểm trở, diện tích đất lâm nghiệp trên 80% đất tự nhiên; nhiều thôn bản xa xôi, điều kiện sản xuất phân tán, sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp, chưa tạo được sản phẩm hàng hóa; hạ tầng thiếu nhiều, nhất là đường giao thông nối về trung tâm xã; đời sống dân cư thấp, tỷ lệ hộ nghèo trên 50%, trình độ dân trí thấp, trình độ cán bộ còn yếu thì được ưu tiên đầu tư nhiều hơn và đầu tư liên tục trong 5 năm. IV.Mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn Trong nền kinh tế thị trường, để nâng cao năng lực cạnh tranh, khai thác lợi thế của doanh nghiệp nhằm tối đa hóa lợi nhuận, thì vốn được coi là chìa khóa, là điều kiện quan trọng hàng đầu quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Do đó mà vấn đề tạo lập, thu hút, sử dụng nguồn vốn luôn là một bài toán khó và nắm bắt được mối quan hệ giữa chúng là một yêu cầu bức thiết đối với các nhà kinh tế. 1. Tính thuận chiều trong mối quan hệ thuận giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư Xét trong tiến trình hoạt động và chu chuyển của luồng vốn, giữa việc tạo lập, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư có mối quan hệ thuận chiều xuyên suốt. Tất cả các nguồn vốn được tạo lập và duy trì thông qua tích luỹ, với mục tiêu nhất định là sử dụng nguồn vốn đó để đầu tư có hiệu quả, trong đó việc thu hút vốn đóng vai trò là bước trung gian hay công cụ thực hiện. Tính thuận chiều này tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa các giai đoạn tạo lập, thu hút, sử dụng vốn với nhau và đảm bảo tính lưu thông của nguồn vốn đầu tư. Với nguồn vốn tạo lập càng lớn, trong điều kiện môi trường đầu tư lý tưởng thì việc thu hút càng nhiều các nguồn vốn sẽ đem lại hiệu quả cao trong sử dụng vốn. Tuy nhiên giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn lại thường vấp phải các trở ngại về năng lực đầu tư, môi trường đầu tư, rủi ro tài chính…trong các hoạt động của nguồn vốn. Điều này đã gây nên xu hướng giảm dần về lượng vốn đầu tư trong suốt quá trình tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Tạo lập vốn chính là phương thức để tạo ra sự tăng trưởng và phát triển đối với nền kinh tế. Trên thị trường vốn, có rất nhiều phương thức tạo lập vốn (hay còn gọi là phương thức tài trợ vốn) mà nhà nước và các doanh nghiệp có thể tiếp cận và khai thác như: huy động vốn cổ phần, vay vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại, nguồn vốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu, cho thuê tài chính hay tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ, nguồn vốn đầu tư nước ngoài…Từ rất nhiều phương thức tạo vốn đó, nguồn vốn tạo lập được là rất lớn. Tuy nhiên lượng vốn thu hút được từ nguồn huy động lại thấp hơn so với nguồn vốn ban đầu. Mặc dù có nhiều phương thức khác nhau để tiếp cận các nguồn vốn đầu tư, nhưng các doanh nghiệp có thu hút được vốn hay không lại phụ thuộc vào việc các doanh nghiệp đó có hội đủ các điều kiện cần thiết để vay vốn hay không và có nhận được sự tin tưởng từ phía các nhà tài trợ vốn hay không. Trong đó các điều kiện cần thiết để vay vốn bao gồm: năng lực tài chính như khả năng huy động vốn lớn, có khả năng trả nợ cao, khả năng thanh toán tiện lợi nhanh chóng, cân đối thu chi tốt, phân phối lợi nhuận hiệu quả…; năng lực kinh doanh như kỹ năng bán hàng chuyên nghiệp, khả năng phân phối sản phẩm rộng, marketing hiệu quả cao; năng lực quản lý như đáp ứng tốt dịch vụ khách hàng, quản trị nhân sự hợp lý…; năng lực hoạt động như khả năng nghiên cứu tìm kiếm thị trường mới, xây dựng chiến lược cạnh tranh, dự báo đánh giá được các cơ hội đầu tư… Như vậy nếu chúng ta chứng minh được với các nhà tài trợ vốn về khả năng quản lý, kỹ năng hoạt động, năng lực tài chính cũng như sự nhạy bén trong kinh doanh, thì sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn, bởi năng lực doanh nghệp là một trong những yếu tố tiên quyết mà các nhà tài trợ vốn xem xét và cân nhắc trước khi đưa ra quyết định tài trợ vốn. Đồng thời tạo sự tin tưởng từ phía các nhà tài trợ trong việc kêu gọi, thu hút vốn là điều cần phải chú trọng. Đó chính là sự công khai, minh bạch trong các bản báo cáo tài chính về hiệu quả kinh doanh, năng lực quản lý (chứng nhận tiêu chuẩn ISO, TQM...), về doanh thu, lợi nhuận, các hoạt động phát triển cũng như bản giải trình về các tài sản (nhà cửa, cổ phiếu, quỹ hưu trí, tài khoản tiết kiệm…) và các khoản nợ (cầm cố, vay tiêu dùng, nợ thẻ tín dụng…) của doanh nghiệp, thể hiện các cam kết tài chính đối với những hoạt động kinh doanh cụ thể. Báo cáo tài chính sẽ "tiết lộ" hoạt động của doanh ngiệp, đồng thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, các chủ nợ,... về tình hình tài chính. Vì vậy, tính trung thực trong báo cáo tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các doanh nghiệp nên có các phương án giải thích rõ ràng về tính tối ưu và khả thi của khoản tiền huy động, đồng thời việc giải thích càng chi tiết, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho doanh nghiệp bấy nhiêu. Để tối ưu hoá hoạt động huy động vốn, doanh nghiệp cần đề ra cho mình những nguyên tắc nhất định, "đánh bóng" chính bản thân mình, từ đó tạo ra sự tin cậy trong con mắt các nhà tài trợ vốn. Đa số các doanh nghiệp lại chưa thể hiện hoặc chứng minh rõ được những điều trên dẫn đến sự hạn chế trong thu hút vốn tài trợ cũng như khơi thông nguồn vốn. Bên cạnh đó, những rủi ro tài chính do sự biến động của thị trường như giá ngoại tệ lên xuống thất thường, đồng nội tệ mất giá, thị trường bất động sản thay đổi, tình trạng trượt giá phi mã,... khiến cho lượng vốn thu hút được không như mong đợi. Chính sự kém hiệu quả trong thu hút nguồn vốn đầu tư đã làm cho việc sử dụng vốn không phát huy hết hiệu quả của nguồn vốn. Tuy nhiên, xét trên tổng thể một quốc gia, việc thu hút được một lượng vốn lớn vẫn chưa đảm bảo được tính hiệu quả trong sử dụng lượng vốn đó. Bởi vì khi đó các vấn đề về cơ sở hạ tầng (điện, đường sá…), nhân lực, thủ tục hành chính và sự đồng bộ của thị trường lại trở thành những thách thức đối với việc tăng hiệu quả thực tế của việc sử dụng vốn đầu tư. Đồng thời sự lỏng lẻo cũng như tiêu cực trong công tác quản lý nguồn vốn của nhà nước (như vốn ngân sách, vốn viện trợ, quỹ đầu tư…) thường dẫn đến tình trạng thất thoát, lãng phí vốn gây ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng của đồng vốn bỏ ra cũng như chất lượng dự án thực hiện. Đặc biệt là sự chậm trễ trong công tác giải ngân vốn đầu tư cho các dự án. Nguyên nhân chậm trễ là do bất cập ở rất nhiều khâu từ vướng mắc về thủ tục, tư vấn của dự án yếu, khó khăn trong giải phóng mặt bằng, năng lực nhà thầu kém, không đảm bảo đủ vốn đối ứng, thời gian thực hiện các dự án quá dài đến năng lực điều hành của các ban quản lý dự án còn nhiều hạn chế... Xét tầm vi mô, khi vốn thu hút được đầu tư vào dự án thì các doanh nghiệp lại thường chậm trễ trong tiến độ thực hiện, công việc giải ngân chậm chạp cùng với những vướng mắc trong công tác đấu thầu khiến cho hiệu quả của đồng vốn bỏ ra không cao, tỷ lệ vốn hoạt động có hiệu quả trong tổng nguồn vốn thu hút được thường thấp. Qua việc phân tích xu hướng trên, ta thấy thu hút hiệu quả nguồn vốn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong tạo lập và sử dụng vốn có hiệu quả. Nó chính là công cụ hữu hiệu để thực hiện liên kết giữa tạo lập và mục tiêu sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Mối quan hệ chặt chẽ từ việc tạo lập v ốn đến thu hút và sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển đã tạo nên sự xuyên suốt trong quá trình lưu thông nguồn vốn đáp ứng sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. 2. Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư là cơ sở duy trì sự tăng trưởng kinh tế đẩy mạnh tạo lập vốn và tăng khả năng thu hút vốn Tính hiệu quả của việc sử dụng vốn đươc thể hiện thông qua các tác động tích cực đến nên kinh tế. Cụ thể ở: Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế… được thể hiện chủ yếu thông qua chỉ tiêu GDP với sự gia tăng đều đặn của tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp, đồng thới với mức suy giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp (trong khi giá trị tuyệt đối và quy mô của khu vục nông nghiệp vẫn tăng lên), hay sự tập trung phát triển các vùng có trọng điểm. Mức đầu tư của nền kinh tế cũng như của từng thành phần trong các năm liên tục tăng. Cơ cấu đầu tư tuy chưa có nhiều biến đổi, nhưng đã có những dấu hiệu tích cực: phần vốn đầu tư của thành phần kinh tế kinh tế nhà nước dần giảm tỷ trọng, thay vào đó là tỷ trọng vốn của thành phần kinh tế ngoài nhà nước đang dần tăng lên. Điều đó thể hiện chúng ta đang ngày huy động được nhiều nguồn lực của đất nước… Ngoài ra chúng ta còn hình thành cơ cấu vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Cơ sở hạ tầng được cải thiện đáng kể: giao thông đường xá cầu cống thuận lợi hơn hiện đại hơn, hệ thống thông tin liên lạc nhanh chóng, xã hội được điện khí hoá. Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển: ngày càng nhiều các nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng ra đời phục vụ đắc lực cho kinh tế xã hội. Chính vì lý do đó mà năng suất xã hội tăng nhanh do cơ khí hoá tự động hoá, các thành tựu khoa học tiên tiến và các phương pháp quản lý hiện đại. Cơ cấu nguồn vốn huy động đã có bước chuyển dịch quan trọng. Điểm nổi bật nhất là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân, đó là kết quả của việc thực hiện Luật Doanh nghiệp. Một điểm nổi bật khác là đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp (FDI) với tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung tính từ năm 1988 đến nay đạt trên 66 tỉ USD, với số vốn thực hiện đạt được một nửa. Nguồn vốn này đã góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách... Đã có 45 nước và định chế tài chính quốc tế đã cam kết với số vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lên đến 30 tỉ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 16 tỉ USD. Nguồn vốn này đã được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Nhiều công trình quan trọng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, thủy lợi quy mô lớn, giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, chăm sóc sức khỏe... đã được xây dựng và nâng cấp. Nguồn vốn này đã góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, xây dựng chính sách và cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Tỷ trọng nguồn vốn Nhà nước tuy đã giảm nhưng vẫn còn chiếm quá nửa tổng vốn đầu tư, có tác dụng hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư, có tác động là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn khác... Nhờ những kết quả trên mà tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, năm sau cao hơn năm trước; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ sở hạ tầng được xây dựng, nâng cấp... Cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội; vừa tập trung cho tăng trưởng kinh tế, vừa quan tâm đến phát triển xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng; vừa tập trung cho vùng động lực, vừa tăng cho vùng nghèo, xã nghèo. Đặc biệt thể hiện ở đời sống nhân dân không ngừng nâng cao: các chỉ tiêu đánh giá mức sống như chỉ số HDI bao gồm thu nhập bình quân đầu người, các chỉ số về tuổi thọ sức khoẻ, giáo dục...Và chính việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư đã tác động trở lại đối với quá trình tạo lập và thu hút vốn thể hiện như sau: Thứ nhất: việc sử dụng vốn hiệu qủa với năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích luỹ của nền kính tế sẽ có khả năng gia tăng. Khi đó quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy động sẽ được cải thiện: Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục do sử dụng hiệu quả đồng vốn thì tổng GDP của xã hội ngày càng lớn và tỷ lệ dành để tái đầu tư cũng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP sẽ liên tục tăng trong các năm. Và khi có tăng tái đầu tư thì lại duy trì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế do đó và lại tăng khả năng tích luỹ vốn. Trên góc độ vi mô khi mà 1 doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó sẽ không ngừng tăng doanh thu và lợi nhuận. Trước tiên doanh nghiệp sẽ trích 1 phần lợi nhuận đó vào các quỹ khấu hao tài sản cố định, 1 phần để tái mở rộng sản xuất như vậy là quy mô vốn sản xuất đã tăng. Mặt khác khi các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả thì lượng thuế mà nhà nước thu được lớn hơn từ đó làm tăng nguồn vốn ngân sách. Khi tăng trưởng kinh tế cao sẽ đi kèm là chất lượng cuộc sống không ngừng tăng lên: sẽ có một bộ phận không nhỏ dân cư có thể tiêt kiệm được 1 lượng tiền nhất định, và khi đó trong môi trường kinh tế phát triển hiệu quả sử dụng của đồng vốn được đảm bảo thì hoặc là 1 bộ phận dân cư sẽ đầu tư trực tiếp vào hoạt động kinh doanh, hoặc 1 bộ phận khác có thể đầu tư gián tiếp thông qua gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Thứ hai, triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng sẽ là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Dấu hiệu để các nhà đầu tư nước ngoài chú ý đến 1 nước là hiều quả sử dụng vốn của nước đó như thế nào. Họ sẽ xét đến rất nhiều yếu tố vĩ mô của nền kinh tế mà tổng quát nhất là tốc độ phát triển của nền kinh tế đó tình hình kinh tế xã hội. Thường các nhà đầu tư sẽ chú ý tới những nước mà có những điều kiện thuận lợi cho đầu tư như cơ sở hạ tầng, trình độ khoa học kĩ thuật, năng suất lao động xã hội. Khi nguồn vốn đầu tư đựoc sử dụng 1 cách hiệu quả thì trước tiên là cơ sở hạ tầng của xã hội sẽ ngày càng hiện đại, trình độ khoa học kĩ thuật nâng cao, trình độ dân trí chất lượng nguồn nhân lực được đảm bảo. Trình độ quản lý ngày càng hoàn thiện. thong thoáng hợp lý. Và các nhà đầu tư trực tiếp họ có thể yên tâm đầu tư khi mà cơ sở hạ tầng nguồn nhân lực đáp ứng được. Họ có thể đầu tư và thu lợi nhuận 1 họ có niềm tin sẽ kinh doanh đầu tư thành công khi các điều kiện vĩ mô và vi mô đều thuận lợi. Đối với các nguồn vốn vay ưu đãi, các nước chỉ cho nước nào vay khi nước đó sử dụng đồng vốn đạt hiệu quả, bởi vì nhu cầu về vốn hiện nay ở các nước đang phát triển là rất lớn. Không 1 nước nào cho vay không hay là cho vay mà khả năng trả nợ của nền kinh tế đó không được đảm bảo. Bởi thế khi đồng vốn được sử dụng hiệu quả, đồng nghĩa với việc nền kinh tế đó đang tăng trưởng và hoàn toàn sẽ hoàn trả vốn cho nước đi vay, nước cho vay cũng thu được nhiều ưu đãi của nước đi vay, khi niềm tin vào khả năng sử dụng nguồn vốn thì các nước sẵn sàng đầu tư hoặc cho nước đó vay tiền, do vậy chúng ta sẽ thu hút được nhiều hơn các nguồn vốn từ bên ngoài. Chương 2 : Thực trạng mối quan hệ giữa tạo lập, thu hút và sử dụng vốn đầu tư tại Việt Nam I. Khả năng tạo lập vốn ngày càng được cải thiện tạo điều kiện tốt để thu hút vốn ngày càng nhiều. 1. Khả năng tạo lập vốn ngày càng được cải thiện 1.1 Đối với nền kinh tế Hiện nay khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế nước ta đã được nâng lên rất nhiều. Trước đây khi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp các doanh nghiệp nhà nước chiếm hầu hết các ngành chủ chốt của nền kinh tế nhưng lại làm ăn không hiệu quả, luôn xảy ra tình trạng thua lỗ. Chính vì vậy mà nền kinh tế luôn trong tình trạng trì trệ, không có khả năng tích luỹ, đó là chưa kể đến đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn và chính sách cấm tư nhân hoá do đó người dân không có tiền để đầu tư hoặc có tiền nhưng đó lại là những đồng tiền nhàn rỗi. Tuy nhiên khả năng tạo lập vốn của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay có những dấu hiệu rất tốt. Từ năm 1986 khi đương lối cơ chế được thay đổi toàn bộ nền kinh tế đã chuyển sang một giai đoạn mới. Trước tiên là luật doanh nghiệp cho phép thành lập các công ty tư nhân, cho phép phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và do đó nâng cao tính cạnh tranh của các đơn vị trong nền kinh tế. Nhà nước không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và do đó cac doanh nghiệp này tự chủ về sản suất làm ăn hiệu quả hơn, từ đó nguồn vốn dùng tích luỳ mở rộng sản xuất tăng sản lượng ngày càng tăng. Đó là chưa kể đến khi cho phép các thành phần kinh tế tư nhân phát triển đã tạo lập được một nguồn vốn nhàn rỗi đáng kể từ dân cư trong xã hội có tiền tiết kiệm và muốn đầu tư. Nhà nước luôn có chủ trương khuyến khích xã hội hoá huy đông tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi. Với sự gia tăng không ngừng của các ngân hàng thương mại nguốn vố tiết kiệm của nhân dân ngày càng nhiều góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế. Bước ngoặt nữa đó là sự ra đời của luật đầu tư nước ngoài được ra đời vào năm 1987 đã thúc đẩy các nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam. Khi luật đầu tư nước ngoài ra đời tức là chúng ta đã có những cở sở pháp lý để các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam và chúng ta đã tạo lập được một kênh nguồn vốn thực sự quan trọng đó là nguồn vốn FDI. Bên cạnh đó nhờ chính sách bình đẳng, Việt Nam luôn muốn quan hệ với tất cả các nước trên quan điểm bình đẳng đôi bên cùng lợi, cùng sự tham gia cua Việt Nam vào các tổ chức quốc tế đã nâng cao vai trò của Việt Nam. Chính vì vậy mà chúng ta đã dành được sự quan tâm giúp đỡ của rất nhiều nước, đặc biệt là nguồn vốn ODA, các nguồn vốn vay hổ trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB,ADB… Kênh huy động qua thị trường chứng khoán cũng là một hình thức giúp tạo lập được các nguồn vốn của xã hội cho sản xuất. Chính sự tạo lập nguồn vốn tốt là tiền đề để thu hút vốn cho đầu tư phat triển và với tốc độ phát triển rất cao như của Việt Nam hiện nay khả năng tích luỹ của nền kinh tế càng cao, khả năng huy đông các nguồn vốn ngày càng mở rộng, các nguồn vốn ngày càng được tạo lập lớn hơn, đa dạng hơn. 1.2 Đối với các doanh nghiệp (góc độ vi mô) * Tạo vốn từ chính vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu được hình thành từ nguồn vốn ban đầu và các quỹ chuyên dùng của doanh nghiệp. Khi mới thành lập các doanh nghiệp đều có một số vốn nhất định có thể của nhà nước nếu đó là doanh nghiệp nhà nước hoặc vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp đóng góp nếu là doanh nghiệp liên doanh. Đối với công ty cổ phần thì nguồn vốn huy động từ các cổ đông dưới hình thức cổ phần. Ngoài ra vốn của doanh nghiệp còn được tạo ra từ các khoản lợi nhuận không chia, các quỹ khấu hao, quỹ dự phòng tài chính, quỹ tái đầu tư. * Tạo vốn từ ngân hàng và các tổ chức tài chính khác Để tạo lập vốn các công ty thường nghĩ ngay đến ngân hàng, đối tác kinh doanh ... với những khoản vay dài hạn. Tuy nhiên, khoản vay này chỉ thực sự hữu ích, nếu hoạt động kinh doanh của công ty hiện đang mang lại lợi nhuận, đồng thời dựa trên cơ sở tính toán là việc hoàn trả tiền vay sẽ không “làm nghẹt thở” hoạt ._. tế, kỹ thuật, xã hội có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Tiếp tục thực hiện các chủ trương đổi mới trong đầu tư, tạo môi trường đầu tư kinh doanh, bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng và có tính cạnh tranh cao. Đây là tiền đề quan trọng để các doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ về tài chính, mạnh dạn đầu tư vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài; xử lý dứt điểm những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư và bố trí đầy đủ vốn đối ứng để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ODA; đồng thời quản lý chặt chẽ nguồn vốn này từ khâu quy hoạch, lựa chọn mục tiêu đầu tư gắn với hiệu quả sử dụng vốn vay và thu hồi vốn. II. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập vốn Nhằm thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, cần phải hoàn thiện hơn nữa các chính sách về đầu tư để tạo môi trường thông thoáng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước để phát huy hết nội lực và ngoại lực. Không chỉ khắc phục những tồn tại về khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài mà chúng ta cần nghiên cứu kĩ để đưa ra những chính sách hợp lý nhằm tạo một môi trường thuận lợi tức là tạo lập cơ sở để thu hút vốn đầu tư. Tạo một môi trường chính trị ổn định, xã hội công bằng và không có bạo loạn. Tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư: để bảo đảm cho thị trường vốn, thị trường tài chính trong nước phát triển ổn định, Chính phủ tiếp tục ổn định chính sách vĩ mô để tạo môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn cho mọi thành phần kinh tế, tạo niềm tin của các nhà đầu tư đối với chính sách của Chính phủ. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt các tổng công ty nhà nước lớn, các tập đoàn, các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước để đa dạng hóa hình thức sở hữu, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Tạo một môi trường kinh tế trong sạch, minh bạch trong quản lý, thẩm định dự án đầu tư và không có tham nhũng. Cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư: Cải cách thủ tục xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà ở, quan tâm hơn tới công tác quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông, điện nước, nhà xưởng bến bãi. Chú trọng hơn nữa về mặt chất lượng trong việc nhận đầu tư nước ngoài thu hút vào phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp nặng; với những vùng miền có thế mạnh ở những ngành nhất định thì nên thu hút đầu tư vào những ngành đó để chuyên môn hoá theo từng ngành, từng vùng, từng lãnh thổ. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài; xây dựng hệ thống chính sách để cải thiện môi trường kinh doanh; thực hiện thí điểm cổ phần hóa một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nâng cao năng lực quản lý của nhà nước đối với đầu tư nước ngoài; đơn giản hóa thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các qui trình, thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư; tập trung cao công tác điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho các dự án đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, giảm thời gian nội địa hoá, cần có chính sách chuyển giao công nghệ đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cần ngăn chặn việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trong một số lĩnh vực để giảm chi phí đầu vào. Khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh áp dụng hình thức thuế, coi đó là một tiêu chuẩn để khuyến khích đầu tư. Phải sớm tổng kết thực tế thi hành Luật doanh nghiệp để có những sửa đổi bổ sung cần thiết và thống nhất áp dụng những quy định của luật này chi việc thành lập và tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: mối quan hệ giữa Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp và người quản lý doanh nghiệp. Luật Đầu tư nước ngoài cần được sửa đổi, mở rộng những quy định về hình thức pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ giữ lại các quy định về lĩnh vực, địa bàn đầu tư, khuyến khích và bảo vệ. Sửa đổi, bổ sung cũng như ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế đảm bảo yêu cầu đúng đắn, cụ thể, rõ ràng, minh bạch. Quan tâm tới công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích, hướng dẫn thi hành pháp luật. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục đầu tư, nhất là thủ tục sau giấy phép đầu tư đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và sau đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp trong nước. III. Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút nguồn vốn đầu tư Theo thực trạng thu hút vốn của Việt Nam, kết quả thu hút vốn đầu tư vần còn chưa tương xứng với nhu cầu huy động vốn đáp ứng cho tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời chưa tương xứng với tiềm năng của nước ta. Vì vậy cần có những biện pháp để nâng cao hiệu quả thu hút vốn,cụ thể: Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa các giải pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vốn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Đánh giá về hiệu quả kinh tế của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đợt cuối năm 2005 và việc phát hành và sử dụng vốn phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ để có biện pháp điều chỉnh trong huy động vốn trong thời gian tới. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ nên được ưu tiên phát hành trong nước để thu hút mọi nguồn ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế. Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Các tỉnh, thành phố cũng cần tránh tình trạng nôn nóng, hay đầu tư theo kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí. Chấm dứt tình trạng dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kế hoạch vốn đầu tư, đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư, để lại hậu quả nặng nề cho việc cân đối vốn ngân sách, dàn trải về hiệu quả sử dụng vốn. Rà soát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong quản lý nguồn vốn tài trợ này. Vốn ngân sách nhà nước, vốn tài trợ quốc tế và các nguồn vốn khác cho vay xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ sinh viên nghèo vay vốn học tập, cho các mục tiêu chính sách xã hội khác,... chủ yếu cần được tập trung qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để giải ngân cho các đối tượng theo được quy định. Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nên xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ không quá 49% vốn cổ phần của ngân hàng đó và một nhà đầu tư mua không quá 30% vốn cổ phần của một ngân hàng Việt Nam. Việc nâng tỷ lệ này, vẫn đảm bảo tỷ lệ chi phối của phía Việt Nam trong ngân hàng, mặt khác cho phép thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Hơn thế nữa, gắn liền với huy động vốn, chúng ta còn thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ quản trị điều hành ngân hàng tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm,... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức khác, như: thu cước phí bưu chính viễn thông, thu tiền điện nước, phí sử dụng cáp truyền hình, các hoạt động thu phí và thanh toán ổn định khác,... cũng cần chủ động và sẵn sàng phối hợp với ngân hàng trong sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức có khối lượng chi tiền mặt lớn, như: Bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp và tổ chức có đông người lao động,...sử dụng việc chi trả lương qua hệ thống ATM của ngân hàng. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, quy định mức giá trị của các khoản thanh toán không được sử dụng tiền mặt. Về phía hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động ATM,... Thực hiện giải pháp này không những huy động được khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hóa danh mục tài sản có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điều kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trường mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác. IV. Giải pháp nâng cao sử dụng nguồn vốn đầu tư tại Việt Nam 1. Vốn trong nước Có thể nói, nguồn vốn nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và thu hút các nguồn vốn huy động cho đầu tư và phát triển. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn này trong thời gian qua còn nhiều bất cập và gây lãng phí. Do đó, nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước là vấn đề đang được cả xã hội, các cấp, các ngành quan tâm và đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng. Để nâng cao hiệu quả đầu tư, phát huy tối đa ưu thế của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong tạo lập và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cần phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, nhưng trước hết cần tập trung vào các giải pháp sau: Một là, tổ chức, nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính sách theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín, tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng ở từng Bộ, từng tỉnh, thành phố ở tất cả các khâu. áp dụng cơ chế, giải pháp mạnh trong quản lý dự án, quản lý công trình đầu tư xây dựng công trình; phân định rõ quyền và trách nhiệm của cá nhân, của tổ chức trong từng khâu như chủ đầu tư, chủ dự án, tư vấn, thiết kế, nhà thầu, giám định, thẩm định, nghiệm thu, cấp phát, giải ngân, thanh toán, quyết toán và quản lý công trình sau đầu tư. áp dụng rộng rãi cơ chế đấu thầu lựa chọn chủ dự án, chủ đầu tư, lựa chọn tư vấn, nhà thầu, giám sát, thẩm định dự án. Những chủ thể được chọn phải chịu trách nhiệm về pháp lý, về kinh tế từng khâu, từng việc trong quá trình triển khai dự án. Đẩy nhanh việc tổ chức, sắp xếp lại các nhà thầu trong nước đủ mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh trong cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, khắc phục tình trạng có quá nhiều nhà thầu phụ, mua đi, bán lại công trình, hạng mục công trình đã trúng thầu, thông thầu, móc ngoặc, nội gián trong đấu thầu và việc bỏ giá thầu quá thấp.     Đồng thời siết chặt kỷ cương trong bộ máy nhà nước, nâng cao trách nhiệm và thẩm quyền của chủ đầu tư. Bố trí nhân sự Ban quản lý dự án phải đủ năng lực để quản lý, điều hành dự án. Chú trọng nâng cao phẩm chất của cán bộ, công chức đảm trách từng khâu trong đầu tư xây dựng.     Hai là, nâng cao chất lượng, tầm nhìn dài hạn, tính đồng bộ, tính liên kết pháp lý trong công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng.     Tiến hành rà soát toàn bộ quy hoạch đã có, bao gồm quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch  ngành, vùng lãnh thổ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, quy hoạch lĩnh vực, quy hoạch sản phẩm chủ yếu để điều chỉnh, bổ sung gắn với mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở đó loại bỏ quy hoạch “treo”. Đồng thời phải có tầm nhìn dài hạn, mang tính chiến lược trong công tác quy hoạch, quan tâm và đề cao tính liên vùng, khắc phục tình trạng khép kín trong địa giới hành chính tỉnh, thành phố.     Tăng cường phân cấp, phân quyền, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng; gắn quyền với trách nhiệm trong công tác quy hoạch giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các Bộ quản lý ngành, các tỉnh, thành phố. Có quy định pháp lý về việc các Bộ, ngành, địa phương khi xây dựng và quyết định kế hoạch đầu tư phải tuân thủ quy hoạch, kế hoạch đã được cơ quan, cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm mục tiêu ưu tiên; bố trí vốn tập trung; chỉ bố trí kế hoạch đầu tư khi đã xác định chắc chắn khả năng nguồn vốn và chỉ triển khai thực hiện khi có đủ thủ tục đầu tư theo quy định. Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các Bộ, các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị trong nghiên cứu, lập, thẩm định, tư vấn, tham gia ý kiến, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng.     Ba là, tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát, trước hết là các biện pháp giám sát và kiểm soát nội bộ, sau đó là các biện pháp kiểm tra, thanh tra từ bên ngoài. Hình thành, duy trì và nâng cao tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ bằng chính quy trình đầu tư, quy trình nghiệp vụ quản lý vốn, quản lý đầu tư, bằng các quy tắc tổ chức, bố trí cán bộ, quy định trách nhiệm và quyền hạn từng khâu, từng công việc của quá trình đầu tư, từ chuẩn bị đầu tư đến tổ chức thi công, quyết toán công trình, dự án.     Tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán các dự án công trình, tập trung những khâu yếu kém, dễ xảy ra tiêu cực, phát hiện và làm rõ, xử lý nhanh, dứt điểm nghiêm minh các sai trái, vi phạm. Tăng cường vai trò của cơ quan dân cử, của tổ chức nghề nghiệp, của đoàn thể quần chúng trong giám sát, phát hiện và đánh giá hoạt động đầu tư.     Bốn là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư, trước mắt tập trung triển khai có hiệu quả Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán... Thực hiện nghiêm các quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đất đai, Luật Xây dựng và sử dụng vốn đầu tư xây dựng, vốn ODA, vốn tín dụng nhà nước và các nguồn vốn công trái, trái phiếu... Sớm có quy định pháp lý về công tác quy hoạch, kế hoạch, về quản lý nợ chính phủ, nợ quốc gia... Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế phân bổ vốn đầu tư, vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc đầu tư, tôn trọng tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức theo hướng công khai minh bạch và có chủ định rõ rệt, hạn chế tối đa sự tuỳ tiện trong bố trí, phân bổ vốn, chấm dứt cơ chế xin cho vừa không có hiệu quả vừa làm hư hỏng bộ máy, hư hỏng cán bộ.     Năm là, tiếp tục cải cách hành chính trong đầu tư xây dựng, trước hết tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư, thủ tục xem xét, phê duyệt dự án, phân bổ và bố trí vốn, thủ tục giải ngân và thanh toán... Nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch, công khai của bộ máy quản lý đầu tư, quản lý dự án. Tăng cường phối hợp thông tin giữa các Bộ, ngành và địa phương, làm tốt chức năng quản lý ngành trong đầu tư xây dựng, hỗ trợ tích cực cho địa phương trong nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư, khắc phục yếu kém và lúng túng trong quy hoạch. 2. Vốn nước ngoài Việt Nam đang trên con đường thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện đất nước còn nghèo. Nếu chỉ dựa vào nội lực để phát triển thì không đủ và không theo kịp được những bước tiến mạnh của các nước trên thế giới.Giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chủ trương quan trọng trong việc tìm cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Để tăng cường thu hút vốn nước ngoài thì điều quan trọng là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã thu hút được, làm cho vốn đã thực hiện phát huy cao nhất hiệu quả và mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư cũng như mang lại lợi ích cho quốc gia. Muốn vậy cần thực hiện các giải pháp sau: Một là, tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, xã hội. Giữ vững ổn định về chính trị có ý nghĩa quyết định đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, yếu tố này luôn được các nhà đầu tư xem xét đầu tiên, họ chỉ muốn đầu tư ở những khu vực, những quốc gia có sự ổn định về chính trị xã hội, có đủ năng lực và điều kiện thực hiện đầy đủ các cam kết của mình với độ tin cậy cao. Điều này không mới, nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện còn những thế lực rắp tâm gây mất ổn định ở Việt Nam. Hai là, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế và hệ thống pháp luật có liên quan tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài Sau gần 20 năm đổi mới nền kinh tế, Nhà nước ta đã ban hành và sửa đổi rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta còn phải nhanh chóng ban hành các luật mới như: Luật thương mại, Luật lao động, Luật sở hữu trí tuệ, Luật đất đai, Luật cạnh tranh, Luật phá sản, Luật chống bán phá giá.... để có thể điều chỉnh một cách đồng bộ các mối quan hệ trong nền kinh tế. Đồng thời, cần sớm nghiên cứu và ban hành các luật có liên quan tới lĩnh vực đầu tư nói chung như Luật đầu tư, Luật chống độc quyền, Luật kinh doanh bất động sản, Luật tín dụng, Luật kinh doanh chứng khoán... nhằm tạo mặt bằng pháp lý cho một môi trường đầu tư và kinh doanh bình đẳng, thông thoáng giữa các loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau. Hơn nữa, phải nhanh chóng ký kết và tham gia các công ước quốc tế, mhư công ước Washington 1965, nhằm giải quyết các tranh chấp với các nhà đầu tư nước ngoài. Xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể về đầu tư của cả nước, của từng khu vực và địa phương, của từng ngành; công bố danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài; phát triển hệ thống thông tin xúc tiến đầu tư gắn với chương trình đầu tư và các đối tác cụ thể. Ba là, tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện các chính sách về tài chính đối với lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo môi trường thông thoáng về tài chính, đảm bảo tính rõ ràng, đơn giản, ổn định trong chính sách tài chính với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cần nhanh chóng xóa bỏ những khác biệt về đầu tư trong nước và nước ngoài, ban hành luật khuyến khích đầu tư áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp. Hoàn thiện các loại thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu theo yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế theo hướng đảm bảo nguồn thu cho NSNN nhưng phải ưu tiên đầu tư, khuyến khích phát triển sản xuất và áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhanh chóng cải cách giá dịch vụ và xoá bỏ chế độ hai giá. Rà soát và thống nhất mức tiền thuê đất theo từng khu vực, từng địa bàn phù hợp với yêu cầu phát triển và thu hút đầu tư. Giải quyết dứt điểm vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng. Thực hiện việc giao đất đã đền bù giải phóng mặt bằng cho các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, tránh việc đẩy giá đất lên cao quá mức như hiện nay. Có các văn bản pháp quy về cầm cố, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang chế độ Nhà nước cho thuê đất. Có các quy định về vay vốn rõ ràng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dễ dàng tiếp cận thị trường vốn, thị trường tín dụng trung và dài hạn. Thí điểm việc cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và đa dạng hóa các hình thức đầu tư như cho phép thành lập công ty cổ phần có vốn đấu tư nước ngoài, công ty hợp doanh, thực hiện hình thức mua lại, sáp nhập và cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá trình sắp xếp lại các DNNN. Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ, tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện, từng bước thực hiện mục tiêu hoán chuyển ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. Có chính sách bổ sung đảm bảo việc bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp đã thực hiện nghĩa vụ kết hối để đáp ứng nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp. Xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng các chuẩn mực về định giá tài sản, đánh giá tài sản đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước. Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Cải cách hành chính có liên quan chặt chẽ đến việc lành mạnh hoá môi trường đầu tư, giảm các thủ tục phiền hà của hệ thống hành chính với quá trình đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư vốn. Cần thực hiện việc đơn giản hoá các thủ tục cấp phép đầu tư, công khai hoá và minh bạch hoá quá trình cấp phép, giải quyết các thủ tục hành chính; kiên quyết xử lý những trường hợp sách nhiễu, vô trách nhiệm của các cán bộ, cơ quan công quyền. Cần thực hiện tốt sự kết hợp giữa việc chỉ đạo tập trung, thống nhất và kiên quyết của Chính phủ với việc chấp hành nghiêm túc, đúng pháp luật của các bộ, các ngành, các địa phương. Xây dựng quy chế phối hợp, các bộ chủ quản và UBND các địa phương theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng đơn vị theo sự phân cấp của Nhà nước để các đơn vị chủ động giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp. Cần rà soát và kiên quyết xử lý những văn bản dưới luật của các ngành, các địa phương ban hành trái với quy định chung của nhà nước; dần tiến tới “Xoá bỏ chức năng chủ quản của các bộ, ngành đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh”, quán triệt nguyên tắc “một cửa, một dấu”; đồng thời , khắc phục tình trạng quản lý chồng chéo, phân tán, kém hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước. Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh, trong phạm vi thẩm quyền sản xuất kinh doanh của mình, các cơ quan quản lý cần có các biện pháp quản lý và động viên kip thời; đồng thời sẵn sàng tháo gỡ những khó khăn của doanh nghiệp về đầu vào, thị trường tiêu thụ, thuế để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các cơ quan quản lý cần cùng các đơn vị tháo gỡ khó khăn về giải phóng mặt bằng, thủ tục nhập máy móc thiết bị, nguyên liệu phục vụ dự án để đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Đối với những dự án chưa triển khai, nhưng xét thấy vẫn có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy việc triển khai dự án trong một thời gian nhất định; đồng thời, giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án. Đối với các dự án chưa triển khai hoặc không có khả năng hoạt động cần kiên quyết thu hồi giấy phép, dành địa điểm cho các nhà đầu tư khác. Năm là, cần chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu của cách mạng khoa học – công nghệ và của các doanh nghiệp. Đối với cán bộ quản lý cần chú trọng đào tạo cả kiến thức chuyên môn, trình độ ngoại ngữ lẫn phẩm chất đạo đức. Việc nắm vững các kiến thức về luật pháp quốc tế, về thương trườngthế giới cũng cần được lưu tâm. Việc đào tạo và đào tạo lại công nhân kĩ thuật để phù hợp với yêu cầu tuyển dụng của các nhà đầu tư nước ngoài là rất cấp thiết để giải quyết tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động có trình độ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần chủ động cùng các bộ tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước và cán bộ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức đào tạo chính quy các cán bộ làm công tác quản lý đầu tư nước ngoài, các cán bộ quản lý tại các doanh nghiệp. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở rộng phạm vi đào tạo dạy nghề cho đội ngũ công nhân kĩ thuật tại các địa phương, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, hoặc những địa phương có thế mạnh về lao động. Việc đào tạo cần được tiến hành đồng thời, có hệ thống cả về chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá, ngoại ngữ, luật pháp... Cần cải tiến nội dung chương trình đào tạo theo hướng coi trọng thực hành, thường xuyên kiểm tra phân bậc tay nghề thông qua hình thức thi tay nghề, thi tuyển công nhân tài năng .... Cần gắn chặt vịệc đào tạo nghề tại các trường với các doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động phù hợp với đặc thù doanh nghiệp. Cần nghiên cứu, rút kinh nghiệm và phát triển mô hình liên doanh đào tạo như dự án Trung tâm đào tạo kĩ thuật Việt Nam – Singapore (VSTTC) tại Bình Dương. Tranh thủ tối đa sự hợp tác, đầu tư của nước ngoài, các dự án quốc tế để từng bước đưa cán bộ quản lý và công nhân ra học tập và làm việc ở nước ngoài. Mặt khác, đẩy mạnh việc xã hội hoá trong đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật; khuyến khích các tổ chức tập thể, cá nhân tham gia vào quá trình đào tạo lực lượng lao động. V. Khuyến nghị chinh sách đầu tư của Việt Nam từ UNCTAD Ngày 18/12/2007 tại Hà Nội, diễn đàn thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) đã phối hợp với bộ Kế hoạch và đầu tư tổ chức Hội thảo tham vấn cho báo cáo nghiên cứu về “Chính sách đầu tư của Việt Nam” và đã nêu ra 6 khuyến nghị cho Việt Nam: Một là, Chính phủ Việt Nam cần chuyển từ đường lối “kiểm soát” và chỉ đạo sang “điều tiết, theo dõi và cưỡng chế tuân thủ”. Một số biện pháp cần thực hiện ngay như cụ thể hóa danh sách các hạn chế tiếp nhận đầu tư, xóa bỏ giới hạn về thời gian trong giấy chứng nhận đầu tư… Hai là, thực hiện đầu tư vào một số lĩnh vực quan trọng, khuyến khích các dòng đầu tư mới nhằm đa dạng hóa lĩnh vực chứ không chỉ vào xuất khẩu. Ba là, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hấp thu các kĩ năng cần thiết cho nền kinh tế. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách phát triển kỹ năng dựa trên giáo dục. Bốn là, phân biệt rõ ràng chức năng sở hữu và chức năng điều tiết của Nhà nước. Trong đó, UNCTAD đề xuất: chuyển giao quyền sở hữu tất cả cho các doanh nghiệp nhà nước cho SCIC và trao cho TCT này chức năng thực hiện ràng buộc ngân sách đối với tất cả các doanh nghiệp quốc doanh và thực hiện cơ chế trợ cấp Nhà nước một cách minh bạch khi cần thiết. Năm là, đơn giản hóa hệ thống thuế và hợp lí hóa cơ cấu ưu đãi thuế nhằm giúp cơ quan quản lý thuế dễ dàng thực thi. Cụ thể, Chính phủ nên tiến hành đánh giá tổng thể các ưu đãi thuế và cải cách hệ thống hiện hành khiến cho hệ thống thuế phổ cập trở nên hấp dẫn và cạnh tranh. Sáu là, hấp thu và thực hiện các thay đổi của pháp luật một cách lành mạnh. Cần có nhiều nỗ lực để trang bị thông tin, giáo dục- đào tạo các thẩm phán và các nhà quản lý. KẾT LUẬN Qua những phân tích trên,có thể thấy đầu tư là một trong những hoạt động cần thiết, không thể thiếu được nhằm đảm bảo sự phát triển nhanh chóng và ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Trong đó vốn được coi là chìa khóa, là điều kiện quan trọng hàng đầu quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của hoạt động đầu tư.Vì vậy vấn đề tạo lập, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng có liên quan trực tiếp đến việc thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Chúng em hi vọng đề tài này có thể góp phần nào cho việc làm rõ về vai trò và mối quan hệ giữa vấn đề tạo lập, thu hút và sử dụng vốn, để từ đó có thể đưa ra một số giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và nhất là việc kết hợp chúng trong nền kinh tế hội nhập của một nước đầy tiềm năng phát triển như Việt Nam. Trong quá trình thực hiện đề án này do hạn chế về trình độ và thời gian, không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy chúng em mong nhận được sự đóng góp chân thành của thầy và toàn thể các bạn để có thể hoàn chỉnh hơn nội dung đề tài. Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương và thầy Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ chúng em hoàn thành tốt đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ‘Giáo trình kinh tế đầu tư’. Trường đại học Kinh tế Quốc dân. Trang web bộ kế hoạch đầu tư : www.mpi.gov.vn Trang web tổng cục thống kê : www.gso.gov.vn Trang web cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh: www.pso.hochiminhcity.gov.vn Trang web bộ tài chính: www.mof.gov.vn Thời báo kinh tế Việt Nam: www.vneconomy.vn Trang thị trường: www.thitruong.vnn.vn Trang đầu tư: www.vir.com.vn Tạp chí: Nghiên cứu kinh tế. Tạp chí Kinh tế phát triển. Báo Đầu tư. Thời báo kinh tế và dự báo. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24699.doc
Tài liệu liên quan