A. PHẦN MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và lạm phát luôn là những chỉ tiêu vô cùng quan trọng trong các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và dành được sự quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý, nhà hoạch định cũng như công chúng. Không những thế tăng trưởng và lạm phát còn được xem là những đề tài hấp dẫn và mới mẻ trong nghiên cứu kinh tế đặc biệt là trong nền kinh tế hiện đại. Dù bạn là ai, một sinh viên, một người nông dân, một nhân viên văn phòng hay một nhà quản lý cao cấp thi hàng ngày, hàng giờ tăng trưởng và l
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạm phát đều đang ảnh hưởng đến đời sống của bạn. Tăng trưởng có thể giúp bạn trở nên giàu có thì lạm phát chính là “kẻ móc túi” vô hình luôn thường trực bên bạn.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Là một quốc gia đang phát triển, là thành viên mới của WTO, chúng ta đã bắt đầu có những bước chuyển mình và dành được những thành công ban đầu. Sau gần hai năm gia nhập, kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả nổi bật. Năm 2007, tăng trưởng GDP tiếp tục đạt mức cao với 8,5%, trong đó, nông-lâm-thủy sản đạt mức tăng trưởng 3,40%, công nghiệp - xây dựng đạt 10,37%, dịch vụ đạt 8,29%. Vốn FDI đạt mức kỷ lục về vốn đăng ký và vốn thực hiện, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao và hàng hóa xuất khẩu cũng phong phú hơn. Từ một quốc gia nghèo đói, tư duy kinh tế lạc hậu chúng ta đã dần bắt kịp nhịp độ phát triển của nền kinh tế thế giới với một tốc độ tăng trưởng cao và khá đều đặn.
Tuy nhiên bước vào sân chơi thế giới không chỉ mở ra cho chúng ta những cơ hội mà bên cạnh đó còn vô vàn những thách thức to lớn. Chúng ta phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, những luật lệ quốc tế và cả sự phụ thuộc vào thị trường thế giới. Dưới góc độ quản lý chúng ta phải đối mặt với sự tăng trưởng quá nóng, tình trạng lạm phát tăng cao và những cơn sốt của thị trường chứng khoán, thị trường vàng, ngoại tệ và sự nguội lạnh của thị trường bất động sản… Trong năm 2008 tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát trong 6 tháng đầu năm đều chưa đạt được mục tiêu đề ra cho cả năm. Tăng trưởng kinh tế mới đạt 7,63% so với mục tiêu 8,5%, trong khi tốc độ tăng giá tiêu dùng đã đạt 5,2% so với mục tiêu tăng dưới 6,5%.
Một vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để chúng ta có thể duy trì được một nhịp độ tăng trưởng cao nhưng đều đặn, một mức lạm phát có thể chấp nhận được vì mục tiêu cuối cùng là ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong bài viết này em xin đề cập đến tăng trưởng và lạm phát dưới góc độ mối quan hệ giữa chúng và vấn đề lựa chọn ưu tiên giữa tăng trưởng và lạm phát trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Đây là một đề tài rất hay và khá “nóng” nên với lượng kiến thức ít ỏi của mình em khó có thể khai thác hết được. Vậy em rất mong nhận được sự đóng góp và chỉ bảo của thầy.
B. NỘI DUNG
Cơ sở lý luận về tăng trưởng – lạm phát và mối quan hệ giữa chúng
1. Tăng trưởng
1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng trưởng là "cặp đôi" trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm quốc nội.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những hànghoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hànghoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (dù nó thuộc về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
So sánh tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ta thấy:GNP = GDP + thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài. Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài = thu nhập chuyển về nước của công dân nước đó làm việc ở nước ngoài trừ đi thu nhập chuyển ra khỏi nước của người nước ngoài làm việc tại nước đó. Tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với năm trước.
GNP và GDP là hai thước đo tiện lợi nhất để tính mức tăng trưởng kinh tế củamột nước biểu hiện bằng giá cả. Vì vậy, để tính đến yếu tố lạm phát người ta phân định GNP, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP, GDP danh nghĩa là GNP và GDP tính theo giá hiện hành của năm tính; còn GNP và GDP thực tế là GNP và GDP được tính theo giá cố định của một năm được chọn làm gốc. Với tư cách này, GNP, GDP thực tế loại trừ được ảnh hưởng của sự biến động của giá cả (lạm phát). Do đó, có mức tăng trưởng danh nghĩa và mức tăng trưởng thực tế.
1.2. Vai trò của tăng trưởng kinh tế
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. * Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng.
* Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá... phát triển.
* Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên gọi quy luật Okum1 (hay quy luật 2,5% - 1). Quy luật này xác định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1%.
* Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội. * Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang phát triển.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các quốc gia, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội như mong muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai mặt. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh tế "quá nóng", gây ra lạm phát, hoặc tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội tăng lên. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia trong từng thời kỳ phải tìm ra những biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững. Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao, ổn định trong thời gian tương đối dài (ít nhất từ 20 - 30 năm) và giải quyết tốt vấn đề tiến bộ xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
1.3. Các chỉ số đánh giá tăng trưởng kinh tế
* Tổng giá trị sản xuất ( GO – Gross output ): là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kì nhất định (thường là một năm).
* Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP – Gross domestic product ): là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kì nhất định.
* Tổng sản phẩm quốc dân ( GNP – Gross national product ): là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân một nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định.
* Thu nhập quốc dân ( NI – National income ): là phần sản phẩm vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định.
* Thu nhập quốc dân sử dụng ( NDI – National disposable income ): là phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần trong một thời gian nhất định.
* Thu nhập bình quân đầu người ( GDP\người; GNP\người ): chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số, nó là những chỉ báo quan trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung.
1.4. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.
* Vốn (K): là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Vốn sản vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mô có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ không phải dưới dạng tiền, nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế vào bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Ở các nước đang phát triển sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất tăng trưởng theo chiều rộng. Tuy vậy tác động của xu hướng này có xu hướng giảm dần và được thay thế bằng các yếu tố khác.
* Lao động (L): làm một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây chúng ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia (có thể tính bằng đàu người hay thời gian lao động). Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động và gọi là vốn nhân lực, đó là các lao động có kĩ năng sản xuất , lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Hiện nay tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp.
* Tài nguyên, đất đai (R): Đất đai được coi là yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí các cơ sở kinh tế thuộc các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên thiên nhiên từ trong lòng đất, không khí, từ rừng và biển được chia ra làm: tài nguyên vô hạn và không thể thay thế, tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo. Các nguồn tài nguyên dồi dào phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng sản lượng đầu ra một cách nhanh chóng, nhất là đối với các nước đang phát triển; một số tài nguyên quý hiếm là những đầu vào cần thiết cho sản xuất song lại có hạn không thay thế được và không thể tái tạo hoặc nếu tái tạo được thì phải có thời gian và phải có chi phí tương đương với quá trình tạo ra sản phẩm mới. Từ những tính chất đó, các tài nguyên được đánh giá về mặt kinh tế và được tính giá trị như các đầu vào khác trong quá trình sử dụng. Trong nền kinh tế hiện đại người ta dã tìm cách thay thế để khắc phục mức độ khan hiếm của tài nguyên và đất đai tromg quá trình tăng trưởng kinh tế, hơn nữa sản phẩm quốc dân và mức tăng của nó không phụ thuộc nhiều vào dung lượng tài nguyên thiên nhiên và đất đai. Tuy vậy tài nguyên thiên nhiên và đất đai vẫn là nhân tố không thể thiếu được của nhiều quá trình sản xuất, nhất là các nước đang phát triển.
* Công nghệ, kĩ thuật (T): được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng trong điều kiện hiện đại. Yếu tố công nghệ kĩ thuật cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng: thứ nhất đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kĩ thuật; thứ hai là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. Yếu tố công nghệ hiểu theo nghĩa toàn diện như thế đã được K.Marx xem như là “chiếc đũa thần tăng thêm sự giàu có của cải xã hội”.
Hiện nay các mô hình tăng trưởng hiện đại thường không nói đến nhân tố tài nguyên đất đai với tư cách là biến số của hàm tăng trưởng kinh tế, họ cho rằng đất đai là yếu tố cố định còn tài nguyên thì có xu hướng giảm dần trong quá trình khai thác. Mặc khác, những yếu tố tài nguyên và đất đai được sử dụng có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất (K). Vì vậy, 3 yếu tố trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế được nhấn mạnh là vốn, lao động và năng xuất yếu tố tổng hợp (TFP – total factor productivity).
2. Lạm phát
2.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Một nền kinh tế vẫn có thể trải quan lạm phát khi giá của một số hàng hóa giảm ,nếu như giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua trong nước của đồng nội tệ. Trong bối cảnh lạm phát, thì một đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua được ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói cách khác, khi có lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua một lượng hàng hóa và dịch vụ cố định.
Nếu thu nhập bằng tiền không theo kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thực tế, tức là sức mua của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Một điều quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường như giá cả chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là lạm phát.
2.2. Phân loại lạm phát.
Xét về mặt định lượng: dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ phần trăm lạm phát tính theo năm người ta chia lạm phát ra thành:
* Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dười 10% một năm. Đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, với mức lạm phát này, những tác động kém hiệu quả của nó là không đáng kể.
* Lạm phát phi mã: là tỷ lệ lạm phát khi tỷ lệ tăng giá cả đã bắt đầu tăng đến hai chữ số mỗi năm. Ở mức lạm phát hai chữ số thấp (11, 12, 13 %/năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền kinh tế có thể vẫn chấp nhận được. Nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức hai chữ số cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là không nhỏ. Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe dọa đến sự ổn định của nền kinh tế.
* Siêu lạm phát: tùy theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài các loại lạm phát trên đây còn có lạm phát ba chữ số. Nhiều người coi các loại lạm phát này là siêu lạm phát vì nó có tỉ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh. Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh tế trở nên nghiêm trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh.
Về mặt định tính người ta chia lạm phát ra thành:
* Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy lạm phát không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng: Tỉ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập. Trên thực tế, lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
* Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước: lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với tỉ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán trước được tỉ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau.
Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa hề xuất hiện. Do vậy, tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi người đều chưa thích nghi được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền đương đại.
2.3. Nguyên nhân của lạm phát
* Lạm phát do cầu kéo: khi cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính phủ về hàng hóa và dịch vụ vượt quá năng lực tạo ra của nền kinh tế. Thực ra đây cũng là một cách định nghĩa về lạm phát dựa vào nguyên nhân gây ra lạm phát. Tuy nhiên để cho định nghĩa này có sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao chi tiêu lại lớn hơn giá trị sản xuất.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và đầu tư. Trong nhiều trường hợp, lạm phát thường bắt nguồn từ sự gia tăng quá mức trong các chương trình chi tiêu của chính phủ. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm.
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu tác động tới lạm phát trong nước theo một cách khác: khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt là trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự tăng lượng tiền cung ứng.
* Lạm phát do chi phí đẩy: lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Ba loại chi phí có thể gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Tương tự như vậy, đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu, cấu kiện cần thiết mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá cả của chúng sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát trong nước. Những yếu tố trên có thể tác động riêng rẽ, nhưng cũng có thể gây ra tác động tổng hợp, làm cho lạm phát ra tăng với tốc độ cao và rất cao.
* Lạm phát do dự tăng một chiều của chi tiêu:
* Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó
* Lạm phát do kỳ vọng: Lạm phát có được động lực khi công nhân, người tiêu dùng và doanh nghiệp dự kiến nó sẽ tiếp diễn. Các kì vọng về lạm phát kích thích công nhân đòi hỏi tăng luơng cao hơn. Các nhà quản lỳ kinh doanh khi dự đoán lạm phát tiếp sẽ đáp ứng yêu cầu của công nhân, bằng cách đẩy việc tăng chi phí người tiêu dung, họ mua vật liệu và thiết bị ngay bây giờ chứ không chờ đến tương lai và trả lãi xuất cao hơn vì họ dự kiến sẽ tăng giá bán hàng hoá của họ. Những người cho vay đòi hỏi lãi xuất cao hơn vì họ dự đoán tiền bị mất giá khi thanh toán khoản cho vay sau khi giá cả đã tăng. Người tiêu dùng mua hàng hóa lâu bền đề phòng với giá tương lai cao hơn. Vì thế, một khi đã xảy ra, lạm phát sẽ tiếp diễn vì mọi người dự đoán nó sẽ tiếp tục.
* Lạm phát do chính trị: khi một quốc gia có tình hình chính trị bất ổn, các đảng phái chính trị mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Mỗi đảng phái đều có những biện pháp để tăng cường tiềm lực tài chính của mình, điều này có thể dẫn đến việc làm cho giá cả các mặt hàng tăng lên, thị trường bất ổn và lạm phát sẽ xảy ra.
2.4. Ảnh hưởng của lạm phát
- Tác dụng của lạm phát: Lạm phát không phải lúc nào cũng xấu cả. Một số nhà kinh tế lập luận rằng lạm phát có thể thúc đẩy phát triển kinh tế theo những cách sau:
* Việc tài trợ lạm phát cho phép chính phủ quản lý phần tiền lớn hơn bằng cách thu hút các nguồn lực từ những lĩnh vực kém ưu tiên.
* Chính phủ có thể sử dụng tín dụng dành cho lạm phát để phân phối lại thu nhập, từ người ăn lương để tiết kiệm ít đến nhà tư bản có tỷ lệ hình thành vốn sản xuất cao.
* Các nhà kinh doanh thường được lợi từ lạm phát vì giá sản phẩm có xu hướng tăng nhanh hơn giá nguyên liệu đầu vào.
* Lạm phát làm giảm lãi xuất thực tế và gánh nặng nợ nần thực tế đối với việc mở rộng kinh doanh.
* Áp lực lạm phát đẩy nền kinh tế theo hướng đủ việc làm và sử dụng đầy đủ hơn lao động và các nguồn lực khác.
- Tác hại của lạm phát:
* Việc phân phối lại của chính phủ từ những người tiêu dùng nhiều đến người tiết kiệm nhiều thông qua tài trợ lạm phát chỉ có thể có hiệu quả trong những giai đoạn đầu của lạm phát. Khi người ta dự đoán lạm phát tiếp diễn, họ tìm cách bảo vệ mình. Đòi hỏi về tiền lương, những điều chỉnh tự động về chi phí sinh hoạt từ đó làm sai lệch việc phân bổ nguồn lực, thường dẫn đến sự thiếu hụt, chợ đen và tham nhũng.
* Lạm phát áp đặt một mức thuế lên những người nắm giữ tiền. Chính phủ hay các nhà kinh doanh có lợi nhờ tài trợ lạm phát thu các nguồn lực từ thuế lạm phát. Để phục hồi giá trị thực tế của số tiền của mình, người ta phải tích lũy tiền bằng bổ xung theo tỷ lệ tương đương với lạm phát. Người ta tìm cách tránh thuế bằng cách giữ hàng thay cho tiền.
* Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu tư khi mà mọi tính toán hợp lý về lợi nhuận bị đổ vỡ. Các chủ doanh nghiệp không đầu tư mạo hiểm vào những ngành cơ sở có thời gian thu hồi vốn dài mà thường đầu tư vào tài sản mang lại lãi vốn nhằm chống lại lạm phát. Các nhà kinh doanh theo tiêu phí nhiều nỗ lực vào việc dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm phát hay ngăn ngừa những sự bất ổn kèm theo.
* Lạm phát, đặc biệt khi nó không liên tục và không đều, làm suy yếu việc hình thành thị trường vốn và tín dụng. Sự không chắc chắn về tăng giá trong tương lai có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của các ngân hàng tiết kiệm, cộng đồng những người để dành, thị trường trái phiếu, các quỹ an sinh xã hội, hưu trí, bảo hiểm và các công cụ nợ của chính phủ.
* Các công cụ tiền tệ và tài chính ở các nước kém phát triển thường quá yếu nên khó có thể làm giảm lạm phát mà không thiệt hại về thu nhập thực tế, việc làm và các trương trình phúc lợi xã hội.
* Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kì lạm phát. Lạm phát phân phối lại thu nhập, ít nhất trong những thời kì đầu, từ những công nhân có thu nhập thấp và những người có nguồn thu nhập cố định tới các tầng lớp thu nhập cao. Việc phân phối lại này có thể không tăng tiết kiệm, vì người giàu có thể mua hàng xa xỉ bằng phần thu nhập tăng của họ.
* Lạm phát làm tăng gia hàng trong nước tương ứng với hàng nước ngoài, làm giảm khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước và làm giảm xút cán cân ngoại thương. Lạm phát khuyến khích nhận các dòng vốn nước ngoài vào vì giá trị thực tế của vốn đầu tư và thu nhập chuyển về nước trong tương lai bị xói mòn. Sự thâm hụt quốc tế lớn, thường do lạm phát nhanh gây ra, có thể làm tăng gánh nặng nợ nần và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng cần thiết.
3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát
3.1. Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và, do đó, giảm năng suất.
Tuy nhiên, không ít người lại lập luận rằng lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù hợp. Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm, năng suất lao động và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng 0 chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này.
Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thật sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia.
3.2. Sự đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng và lạm phát là hai đỉnh có tầm quan trọng hàng đầu của tứ giác mục tiêu thuộc mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Nhưng đó là mục tiêu lý tưởng, rất khó có nước nào đạt được cùng một lúc, nên cần có sự lựa chọn ưu tiên, tuỳ hoàn cảnh của từng nước, trong từng giai đoạn, thậm chí trong từng thời gian ngắn. Để có thể hạn chế tới mức thấp nhất những tác hại của lạm phát thì ta phải chấp nhận đánh đổi. Trong những lĩnh vực phải chịu sự trả giá và đánh đổi, thì trước hết và quan trọng nhất là phải chấp nhận tăng trưởng kinh tế bị chậm lại so với mục tiêu đã đề ra. Tăng trưởng kinh tế chậm lại để tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát. Một mặt, mục tiêu tăng trưởng kinh tế là vì con người, mà con người lại vừa là mục tiêu vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, kiềm chế lạm phát là để ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường sản suất kinh doanh tốt hơn, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế trung và dài hạn.
Kiềm chế lạm phát thì phải thắt chặt tiền tệ. Nhưng đối với những lĩnh vực sản xuất hàng hoá cho thị trường trong nước để tăng cung hàng hoá cũng như sản xuất hàng xuất khẩu thì không những không được thắt chặt, mà còn phải được bảo đảm đủ vốn, thậm chí còn được ưu tiên, vừa để bảo đảm cho sự bền vững của tín dụng, vừa duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Khi kiềm chế lạm phát được ưu tiên thì phải cắt giảm đầu tư công (từ ngân sách nhà nước), kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước. Muốn vậy, một mặt cần chuyển dịch cơ cấu đầu tư, mặt khác cần nâng cao hiệu quả đầu tư.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong điều kiện hiện nay là chuyển dịch trên các mặt: tăng nguồn vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài để bù cho phần cắt giảm nguồn vốn đầu tư của khu vực nhà nước; tập trung đầu tư cho những ngành, lĩnh vực tạo ra sản phẩm đang có giá nóng hoặc trong nước có lợi thế sản xuất, nhưng đã phải nhập khẩu; đầu tư cho thiết bị kỹ thuật công nghệ tiêu hao ít nguyên nhiên vật liệu.
Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng việc tập trung cho những công trình hoàn thành sớm đưa vào hoạt động, giảm thiểu chi phí và thời gian giải phóng mặt bằng, giảm thiểu lãng phí, thất thoát...
3.3. Mối quan hệ phi tuyến tính giữa tăng trưởng và lạm phát
Tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư là một tứ giác đẹp, tứ giác lý tưởng của mọi quốc gia. Giữa các "đỉnh" của tứ giác này có mối quan hệ khá chặt chẽ, đặc biệt là giữa tăng trưởng và lạm phát. Tăng trưởng kinh tế cao thì lạm phát thấp; khi thiểu phát hoặc lạm phát cao quá lại làm cho kinh tế tăng trưởng thấp.
Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên mức độ gắn kết như thế nào vẫn là vấn đề tranh cãi. Một số nghiên cứu theo lối kinh nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là phi tuyến tính.
Fischer (1993) là người đầu tiên nhiên cứu vấn đề này với kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại , hoặc thậm trí mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến. Một số các nhà Nhiên cứu sau này như Sarel (1996), Gosh và philíp(1998), Shan và Senhadji(2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gằng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tắc động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Sarel ngưỡng lạm phát là 8%,Shan và Senhadji ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là 11-12%, các nước công nghiệp khoảng 1-3%. Gân đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan(2005) đã tập trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu . Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với các nước vùng trung đông và trung á là khoảng 3.2%.
Học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006 lạm phát thế giới gia tăng, ngoài nguyên nhân giá dầu còn do nền kinh tế nhiều nước phát triển quá nóng.
Sử dụng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số nước đã sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24993.doc