Mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay

Lời mở đầu Các-Mác khi nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, ông đã quan niệm: “Trong mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển theo nhiều hướng khác nhau và trong một loạt những quan hệ sản xuất khác nhau. Cho nên định nghĩa quyền sở hữu tư sản không phải là cái gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”. Như vậy sở hữu là một phạm trù kinh tế vừa xuất phát, vừa là cái cơ bản của kinh tế chính trị. Nó là hình thức xã hội c

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1960 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa sự chiếm hữu của cải. Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu và quyền sở hữu được thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là vấn đề cơ bản nhất của chế độ kinh tế -xã hội. Chỉ khi nào giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ để giải quyết các vấn đề về động lực, lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền và xã hội. Hình thức, phạm vi, mức độ sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kì lịch sử nhất định. Sự thay đổi của các hình thức sở hữu trong lịch sử không do ý chí của con người mà là quá trình phát triển của tự nhiên. Đối với nước ta, trên con đường phát triển, chúng ta nhất định và tất yếu phải trải qua thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội lâu dài với nhiều hình thức kinh tế-xã hội có tính chất quá độ. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã xác định còn tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản. Các hình thức này có thể đan xen, hỗn hợp. Trên cơ sở các hình thức sở hữu cơ bản đó đã hình thành nên nhiều thành phần kinh tế đa dạng. Dưới đây, em xin trình bàymột vài vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay, thực trạng giải quyết vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế ở nước ta trong những năm gần đây và các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình phát triển ở nước ta trong thời gian tới. Là một sinh viên,lần đầu tiên được làm quen với công việc nghiên cứu và thời gian chuẩn bị không cho phép, do đó không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy để có thể hoàn thiện thêm kiến thức của mình. Em xin chân thành cảm ơn. Phần I: Quan hệ sở hữu và các thành phần kinh tế I.Khái niệm sở hữu và đặc điểm của sở hữu tư liệu sản xuất 1.Khái niệm sở hữu và sở hữu tư liệu sản xuất Trong các tác phẩm của Các-Mác, luôn xuyên suốt một quan điểm đó là sở hữu-đây không phải là vật dụng mà con người có quyền sở hữu nó, càng không phải là quan hệ của con người với vật dụng. Sở hữu là mối quan hệ xã hội tồn tại khách quan giữa người với người trong quan hệ sản xuất. Như vậy để trả lời câu hỏi: Sở hữu là gì? Theo Mác- người ta chỉ có thể trả lời bằng một sự phân tích của khoa kinh tế chính trị, môn học này bao quát toàn bộ những quan hệ sở hữu ấy. Theo quan niệm mác-xít thì khái niệm gốc của nó là”sự chiếm hữu”. Song, sự chiếm hữu có thể là quan hệ mang tính tự nhiên như việc người ta chiếm lấy không khí, ánh sáng...và cũng có thể là quan hệ mang tính xã hội-tức là quan hệ giữa người với người về đối tượng của sự chiếm hữu. Trong trường hợp thứ hai này, sự chiếm hữu cũng chính là sở hữu. Hình thức, mức độ và phạm vi sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kì nhất định. Trong mỗi thời đại lịch sử, quyền sở hữu đã phát triển một cách khác nhau và trong một loạt những quan hệ khác nhau. Do đó: sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính lịch sử cụ thể của con người-những đối tượng dùng vào hoạt động sản xuất và phi sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn liền với vật dụng- đối tượng của sự chiếm hữu. Đồng thời, sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng mà còn là mối quan hệ giữa con người với nhau về vật dụng. Sở hữu là một phạm trù kinh tế xuất phát và cơ bản của kinh tế chính trị. Sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của con người trong quá trình sản xuất. Nó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Đó là sự chiếm hữu của một người hay một cộng đồng người(chủ thể sở hữu) đối với những thực thể của thế giới vật chất(đối tượng sở hữu) với đặc trưng thuộc về chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu. Sở hữu do chủ thể sở hữu chiếm hữu thường xuyên hay tạm thời, một phần hay tất cả. Từ đó ta nhận thấy rằng sở hữu là quan hệ kinh tế chứ không phải là quan hệ ý chí của con người trong xã hội, là quan hệ kinh tế thực hiện trên cơ sở là những quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất . Đây không phải là một phạm trù trừu tượng, chung chung, mà trái lại mối quan hệ sở hữu này được thể hiện trên tất cả ở bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở, nội dung quan trọng nhất, là căn bản nhất của một kiểu quan hệ sản xuất nhất định, nó quyết định bản chất của kiểu quan hệ sản xuất, cơ cấu giai cấp xã hội,mục đích phát triển kinh tế xã hội...Sở hữu là một mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, nó vận động cùng với sự vận động của hệ thống quan hệ sản xuất mà trước hết là gắn liền với quan hệ lợi ích kinh tế và những hình thức kinh tế nhất định. Cho nên khi nghiên cứu sở hữu không thể tách rời những mặt khác của quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế-xã hội. Vậy sở hữu là một hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cải vật chất xã hội. Sở hữu là mối quan hệ cơ bản nhất của con người với con người về sự chiếm hữu của cải xã hội. Sở hữu là hình thức xã hội của hành vi chiếm hữu trong các loại hình kinh tế xã hội nhất định. Sở hữu là một phạm trù lịch sử, biến đổi cùng với sự biến đổi của hình thái xã hội trong lịch sử. Do vậy hình thức, mức độ và phạm vi sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kì lịch sử nhất định. Sự thay đổi các hình thức sở hữu trong lịch sử không do ý chí của con người quyết định mà do quá trình phát triển của tự nhiên. Sở hữu tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất- một nội dung chủ yếu trong hệ thống sản xuất.Những hình thức, mức độ, phạm vi của sở hữu tư liệu sản xuất cũng giống như sở hữu là không phải do con người quyết định mà là do quá trình của tự nhiên. Điều đó có nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại,phát triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là do tính chất và sự phát triển của một lực lượng sản xuất tương ứng quyết định. Hay nói cách khác,sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lượng sản xuất. Trên cơ sở xác định quan hệ sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Các-Mác đã cho rằng các thể chế, thiết chế chính trị, pháp luật chẳng qua chỉ phản ánh và bảo vệ quan hệ sở hữu và nó thay đổi cùng với sự thay đổi của quan hệ sở hữu. Phạm trù sở hữu khi được luật hoá thành quyền sở hữu và quyền này được thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. -Chủ thể sở hữu là người có quyền chiếm hữu đối tượng sở hữu. Chủ thể sở hữu bao giờ cũng là một người cụ thể hoặc một cộng đồng người cụ thể. -Đối tượng sở hữu là thực thểvật chất được biểu hiện dưới dạng tự nhiên, đất đai, năng lượng, thông tin...hoàn toàn hay một phần thuộc về chủ thể sở hữu. Đối tượng sở hữu biến đổi theo yêu cầu của lực lượng sản xuất và theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Lịch sử cho thấy nếu như trước kia trong nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hoá giản đơn, đối tượng chủ yếu của sở hữu là sở hữu về vật tự nhiên quý, hiếm, sở hữu nô lệ, đất đai; thì tiến đến sở hữu tư bản thể hiện dưới dạng tiền, sức lao động mua được, tư liệu sản xuất hiện đại. Trong đó hiểu bao quát nhất là sở hữu vốn, sở hữu tư bản. Đối tượng của sở hữu ngày càng được mở rộng, không chỉ sở hữu về tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng mà còn sở hữu vốn, tư bản (tài chính, khả năng sinh lời...). Việc “ tiền tệ hoá” các đối tượng sở hữu chủ yếu là một bước tiến bộ lớn so với quan niêm sở hữu chỉ là hiện vật cụ thể. Ngày nay, dưới tac động của cách mạng khoa học- công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, đối tượng chủ yếu của sở hữu xuất hiện nhân tố mới: “trí tuệ”. Trí tuệ trở thành đối tượng của sở hữu là những thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội. Những thông tin đó được mã hoá thành đối tượng của sở hữu công nghiệp, được đăng kí và bảo hộ dưới dạng phát minh, sáng chế, giải pháp công nghiệp, mác nhãn công nghiệp, tên các hãng... Những “trí tuệ” đó có chủ sở hữu, chủ quản lí kinh doanh, được nhà nước bảo hộ về mặt pháp lí. Cuộc cách mạng tin học càng phát triển thì “trí tuệ” (theo cách hiểu như trên) càng trở thành đối tượng sở hữu quan trọng. Tuy nhiên, không thể lấy sở hữu “trí tuệ” thay cho mọi đối tượng sở hữu. Trong điều kiện nước ta, nhìn chung, đối tượng chủ yếu của sở hữu còn là những tư liệu sản xuất quan trọng như đất đai, tài nguyên, nhà máy, hầm mỏ, tiền vốn, các phương tiện kĩ thuật hiện đại ... Vì thế sự làm chủ những đối tượng sở hữu ấy là điều kiện tiên quyết cho việc làm chủ các quan hệ kinh tế khác. Điều quan trọng là phải biết nắm đối tượng sở hữu chủ yếu để tác động, điều chỉnh quan hệ kinh tế theo định hướng xã hội nhất định. Nội dung chính của sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. - Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên bao trùm của sở hữu-tức là chủ sở hữu tự mình nắm giữ và quản lí tư kiệu sản xuất theo ý của mình. Quyến chiếm hữu tương đối ổn định, tĩnh tại, nhưng đôi khi chỉ là quyền danh nghĩa. - Quyền sử dụng là quyền sử dung đối tượng sở hữu theo mục đích và nguyện vọng của người sử dụng. Sở hữu với tư cách là người chủ sở hữu và người sử dụng đối tượng sở hữu, có thể thống nhất ở một người hoặc có thể phân chia ra giữa nhiều người. Điều này có nghĩa là người sử dụng đối tượng sở hữu có thể không phải là người chủ sở hữu, hoặc ngược lại người chủ sở hữu có thể không phải là người sử dụng đối tượng sở hữu. Ví dụ như trường hợp người công nhân làm thuê có thể sử dụng tư liệu sản xuất mặc dù anh ta không phải là người chủ sở hữu nó, hoặc ngược lại, ngườichủ khách sạn có thể không sử dụng khách sạn của mình mặc dù anh ta là người sở hữu nó. Nếu người sử dụng đối tượng sở hữu không phải là người chủ sở hữu thì anh ta chỉ có thể thực hiện quyền sử dụng nó trong thời gian và do người chủ sở hữu đặt ra. - Quyền định đoạt là quyền thực hiện toàn diện đối với đối tượng sở hữu. Nó đem lại cho chủ thể quyền và khả năng sử dụng đối tượng sở hữu theo bất cứ cách nào, kể cả việc chuyển nó cho người khác, thay đổi nó một cách sâu sắc, cải tạo nó thành một đối tượng sở hữu khác thạm chí có thể huỷ bỏ nó. Chủ thể của quyền định đoạt cũng có khả năng thực hiện những thẩm quyền cơ bản của người chủ sở hữu: xác định các phương thức sử dụng đối tượng sở hữu, kí kết các hợp đồng kiên quan tới đối tượng sở hữu. Trên thực tế, người chủ sở hữu chỉ thực sự là người chủ sở hữu khi anh ta có quyền và có khả năng hiện thực định đoạt đối tượng sở hữu. Do vậy người sử dụng đói tượng sở hữu cũng có thể là người chủ sở hữu nếu anh ta có quyền chiếm hữu và quyền định đoạt. Về thực chất, khi trao hoặc chuyển quyền định đoạt cho người khác, cũng có nghĩa là chuyển các thẩm quyền sở hữu cho người khác. Sở hữu được xem xét dưới góc độ pháp lí và kinh tế. Sở hữu về mặt pháp lí được xem là mối quan hệ giữa người với người về đối tượng sở hữu. Thông thường về mặt pháp lí sở hữu thường được quy định trong hiến pháp, nó khẳng định ai là chủ của đối tượng sở hữu. Về mặt kinh tế, sở hữu được biểu hiện thông qua thu nhập. Thu nhập này càng cao thì chứng tỏ là sở hữu về mặt kinh tế ngày càng được thực hiện. Sở hữu luôn luôn hướng tới lợi ích kinh tế. Kết luận: Sở hữu là vấn đề cơ bản nhất của một chế độ kinh tế xã hội. Chỉ trên cơ sở giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ để giải quyết các vấn đề về động lực lợi ích kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội. Đảng ta đã khẳng định: “ sở hữu vừa là mục đích, vừa là phương tiện để đạt CNXH. Vì sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung không chỉ giản đơn là phương tiện như mọi phương tiện thông thường khác mà có thể tuỳ tiện thay đổi phương tiện này bằng phương tiện khác, mà là bộ phận cấu thành hữu cơ của một hình thái kinh tế-xã hội. CNXH có những đặc trưng riêng về sở hữu, nhưng quan hệ sản xuất và phân phối nảy sinh từ chế độ sở hữu đó...”. 2. Đặc điểm của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay Trong một thời gian dài, ở nước ta đã coi sở hữu tư liệu sản xuất là mục tiêu nên đã nôn nóng xoá bỏ tư hữu, xây dựng và phát triển nhanh chế độ công hữu để đạt mục tiêu đi lên CNXH. Chúng ta đã tuyệt đối hoá vấn đề sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân, xem nó là động lực phát triển xã hội. Sở dĩ có quan niệm như vậy là do chúng ta chưa nghiên cứu đầy đủ những nguyên nhân tạo ra động lực phát triển sản xuất xã hội. Chế độ sở hữu toàn dân tồn tại trong một vài thập kỉ qua đã đưa nền sản xuất rơi vào trì trệ bới vì sở hữu toàn dân và sở hữu xã hội đã rơi vào tình trạng bỏ không, vô chủ. Kết quả cuối cùng là đưa nền kinh tế đến ngõ cụt. Chính vì vậy khi tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển nền kinh tế từ tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chúng ta đã chấp nhận thêm các hình thức sở hữu mới bên cạnh các hình thức sở hữu truyền thống và đã thừa nhận vai trò và sự tồn tại của chế độ tư hữu trong tính đa dạng về các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, sở hữu tư liệu sản xuất không chỉ đơn thuần chỉ là sở hữu về đất đai, hầm mỏ... mà còn có những sở hữu về trí tuệ, sở hữu về công nghệ, sở hữu vô hình (uy tín) của doanh nghiệp- một tài sản vô giá trong nền kinh tế thị trường. Qua đó ta thấy rằng dương như vai trò của các yếu tố vật chất (tư liệu sản xuất) có phần giảm đi, còn vai trò của các yếu tố phi vật chất (tổ chức sản xuất, phương thức kinh doanh, thông tin quản lí...) có phần tăng lên. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là trong các đối tượng sở hữu, tư liệu sản xuất đã rơi xuống hàng thứ yếu mà chỉ có nghĩa là nó không còn là đối tượng sở hữu duy nhất. 3. cơ cấu sở hữu của nước ta trong giai đoạn hiện nay ở nước ta nhiều năm trước đây đã ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, sác lập chế độ công hữu về tư liệu sản suất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đại hội lần thư IV của đảng đã phát hiện và kiên quyết thông qua đổi mới và khắc phục sai lầm đó, băng cách thừa nhận vai trò và sự tồn tại của hình thức tư hữu trong tính đa dạng của các hình thức sở hữu. Đây là một bước ngoặt mang tầm vóc chiến lược mới thể hiện sự đổi mới của Đảng ta. Cần có cách tiếp cận khoa học, không giáo điều, không cực đoan hoặc phiến diện khi đổi mới và xác lập chế độ sở hữu. Cách tiếp cận đó là: Với tư cách là nền tảng kinh tế của một chế độ xã hội vì vậy việc xác lập chế độ sở hữu phải dựa trên cơ sở định hướng XHCN. Phải xuất phát từ trình độ phát triển của lực lương sản xuất để đổi mới và xác lập các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất trong cơ cấu của nó. Phải lấy hiệu quả kinh tế_xã hội làm thước đo việc đổi mới và xác lập chế độ sở hữu trong từng thời kỳ. Để tránh tình trạng sở hữu hình thức, làm chủ hình thức như trước đây, cần gắn sở hữu với lợi ích kinh tế, vì lợi ích kinh tế là bản chất kinh tế của sở hữu. Phải đặt nó trong mối quan hệ với trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất: trong mối quan hệ với quan hệ quản lý và quan hệ phân phối: trong mối quan hệ với tính đặc thù của từng lĩnh vực, từng ngành nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Việc đổi mới và xác lập các hình thức sở hữu phải gắn với toán bộ tiến trình phát triển tự nhiên của lịch sử, vận động theo đúng các quy lật khách quan, phù hợp với tính dân tộc, phù hợp với nguyện vong chính đáng của nhân dân lao động Việt Nam. Không nên dừng lại ở kết cấu bên ngoài của sở hữu mà phảỉ đổi mới kết cấu bên trong của sở hữu, chất lượng và hiệu quả của sở hữu. xuất phát từ các quan điểm về tính đa dạng của sở hữu và đa dạng của thành phần kinh tế, từ dại hội Đảng IV đến nay nền kinh tế đã từng bước hình thành các hình thức sở hữu sau: a, Sở hữu nhà nước : Sở hữu nhà nước được hiểu là nhà nước đại diện cho nhân dân làm chủ sở hữu đất đai, tài nguyên thiên nhiên, các nguồn lợi, thềm lục địa, vùng trời, phần vốn của nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, các công trình thuộc các nghành, các lĩnh vực kinh tế, văn hoá giáo dục, khoa học kỹ thuật, ngoai giao…. Nhà nước đại diện cho chủ sở hữu đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, chính phủ thống nhất quản lý và đảm bảo sử dụng đúng mục đích, hiệu quả tiết kiệm sở hữu toàn dân. Sở hữu nhà nước tồn tại dưới hình thức doanh ngiệp 100% vốn của nhà nước, dưới hình thức doanh nghiêp mà vốn của nhà nước nắm đa phần hay tỷ trọng cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, hoặc có cổ phần trong các doanh ngiệp khác nhưng chưa nhiều. b, Sở hữu tập thể: là hình thức của sở hữu hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản suất kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong đIều lệ. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt thuộc sở hữu tập thể phải tuân theo luật pháp và phù hợp với đIều lệ của hợp tác xã. trước đây ở nước ta, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã ( gồm cả hợp tác xã nông ngiệp và tiểu thủ công ngiệp), với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung. Chính vì vậy mà hình thức sở hữu này quyền mua bán hoặc quyền chuyển nhượng TLSX trong thực tế gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp. Nhưng trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII xác định “hợp tác xã được tổ chực trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau trong công việc chung”. Qua đó chúng ta thấy kết cấu bên trong sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn của nước ta hiện nay. Thực vậy, chúng ta cần phảI duy trì và phát triển hình thức sở hữu này khi xây dựng CNXH. Do hợp tác xã là nhu cầu cần thiết của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi LLSX trong nông nghiêp và công nghiệp phát triển đến một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất hợp tác. Trong đIều kiện của nền sản suất hàng hoá các nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm…. đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng và phát triển. Và thực tiễn ở nước ta đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong kinh tế thị trường đã chứng minh đIều đó. c, Sở hữu cá thể : Đa dạng hoá LLSX là một trong những cơ sở để đa dạng hoá các quan hệ sở hữu, bởi chúng ta đã chỉ rõ: sở hữu biểu hiện mối quan hệ của con người không chỉ đối vớiTLSX mà còn đối với toàn bộ LLSX nói chung. ở nước ta, hình thức sở hữu cá thể tồn tại chủ yếu dưới hình thức kinh tế tiểu chủ. Sở hữu cá thể tức là cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản sở hữu của mình nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoăch sản xuất kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu trước kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nước ta chủ yếu có tính chất tự cấp tự túc, lại bị tóm buộc bởi cơ chế quản lý thì hiện nay nó đang được khuyến khích phát triển. Thật vậy, tại đại hội đảng toàn quốc lần thứ VII Đảng chỉ rõ: ” Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải uyết các khó khăn về vốn, khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ vì lợi ích thân thiết và nhu cầu phát triển sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Từ đó thấy đảng và nhà nước ta đã nhận thức đúng đắn vai trò của hình thức sở hữu cá thể. Hình thức này không thể tạo ra QHSX hoặc đại diện cho QHSX như nhận thức sai lầm trước kia, mà nó rất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở nước ta hiện nay, ngoàI ra nó còn khuyến khích người lao động hăng háI tham gia sản xuất. d : Sở hữu tư bản tư nhân: ở nước ta thành phần kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành và phát triển. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong đIều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân bao gồm cả các doanh ngiệp của nhà nước tư sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một hoặc một số tư nhân góp lại, thuê lao động sản xuất kinh doanh hoặc công ty cổ phần tự doanh. e, Sở hữu hỗn hợp: Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tam gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất như : nhà nước, tập thể, tư nhân. Sở hữu hỗn hợp tồn tại dưới hình thức: sở hữu trong doanh ngiệp tư bản nhà nước, trong liên doanh gồm vốn nhà nước, tư nhân và tập thể. Đối tượng sở hữu do vốn nhà nước, tập thể và vốn của tư nhân đóng góp tạo nên. Tuỳ theo lượng cổ phần, mỗi bên có vị trí khác nhau trong hội đồng quản trị mặt khác chúng ta có thể liên doanh giữa doanh nghiệp ở trong nước với nước ngoài. Từ đó mà các thành phần kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có quan hệ nội tại và tác động qua lại lẫn nhau, nó là kết quả của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế theo định hướng XHCN II. Cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay 1. Tính tất yếu của kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH. Đây là thời kì lịch sử đặc biệt trong đó kết cấu kinh tế - xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội mới ra đời, vừa có những yếu tố của xã hội cũ. Tính chất quá độ dó đã dược V.I.Lênin viết: “Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của CNTB và CNXH không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”. Khi giai cấp côg nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền và bước vào con dường xât dựng CNXH thì một đòi hỏi khách quan là phải từng bước xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ mới - chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất dưới nhiều hình thức thích hợp. Do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các nghành trong nội bộ vùng, do tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên CNXH, tất yếu còn có kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và người làm thương nghiệp, dịch vụ và kinh tế tự nhiên... Để phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, các thành phần kinh tế phải được cải biến. Không thể “xoá bỏ” hay “chuyển đổi” các thành phần kinh tế một cách chủ quan duy ý chí, mà phải căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tính chất của từng nghành nghề mà từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới từ thấp tới cao với sự đa dạng về các hình thức sở hữu. Việc cải biến các thành phần kinh tế tư nhân phải xuất phát từ yêu cầu và khả năng tổ chức và quản lí của nhà nước XHCN. Khi chính quyền nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì việc xoá bỏ hình thức sở hữu này bằng hình thức sở hữu khác không phải là khó, mà khó khăn phức tạo ở chỗ phải làm cho tư liệu sản xuất được sử dụng tốt hơn; làm cho việc xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất; bảo đảm cho nền kinh tế xã hội tăng trưởng và phát triển có hiệu quả hơn. Trước đây, chúng ta cũng đã từng khẳng định sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là tất yếu khách quan và là đặc trưng kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH. Song, trên thực tế, lại sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần một cách nóng vội, tạo dựng lên bức tường ngăn cách giữa kinh tế công hữu XHCN và các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể, dẫn đến tiêu cực, lực lượng sản xuất của xã họi bị lãng phí một cách nghiêm trọng, kinh tế hàng hoá bị kìm hãm và do đó đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Đổi mới kinh tế không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thanhf phần kinh tế, mà còn phải thực hiện nhất quán lâu dài chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. 2. Khái niệm về thành phần kinh tế Thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của một nền kinh tế hay một kiểu quan hệ kinh tế tồn tại dựa trên cơ sở chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta là một tất yếu khách quan. Bởi vì trong giai đoạn này, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao nên còn tồn tại nhiều chế độ sở hữu. Tính đa dạng về sở hữu chính là do kực lượng sản xuất chưa phát triển đủ mức độ đẻ có thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu thiết lập hoàn toàn chế độ công hữu. Sự phân chia các thành phần kinh tế một cách cụ thể là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để đề ra những chính sách kinh tế-chính trị-xã hội thích hợp đối với từng thành phần kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH. Vì vậy không thể thay thế việc phân định các thành phần kinh tế bằng việc phân định theo các loại hình doanh nghiệp hay quy mô doanh nghiệp. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định. Căn cứ vào loại hình quan hệ sản xuất mà trước hết là tính chất sở hữu để xác định những tổ chức kinh tế đó thuộc thành phần kinh tế nào. Những tổ chức kinh tế trong đó có sự hỗn hợp, đan xen về sở hữu thì tổ chức đó thuộc thành phần kinh tế nào là do hình thức sở hữu nào đóng vai trò ưu trội trong tổ chức đó quy định. 3.Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nước ta có năm thành phần kinh tế tương ứng với năm hình thức sở hữu. Tuy nhiên đến Đại hội IX của Đảng chúng ta đã thừa nhận thêm một hình thức sở hữư nữa đó là hình thức sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Từ đó hình thành nên thành phần kinh tế thứ sáu là thành phấn kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Vậy hiện nay ở nước ta đang tồn tại và phát triển sáu thành phấn kinh tế. Kinh tế nhà nước Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc gia và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ... ngân sách, bảo hiểm, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước rộng hơn bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Phân biệt được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn vai trò kinh tế nhà nước là một bước phát triển về nhạn thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới. Để từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, với trình độ phát triển hiện nay và trong những năm tới của lực lượng sản xuất nước ta, kinh tế nhà nước chỉ có thể tập trung phát triển trong những ngành, lĩnh vực trọng yếu như: kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, hệ thôngs tài chính ngân hàng, thương mại, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại...; về quy mô nói chung thuộc loại vừa và lớn, công nghệ hiện đại, kinh doanh có hiệu quả cao. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt chủ yếu sau: - Đi đầu về nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. - Bằng nhiều hình thức hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hương xã hội chủ nghĩa. - Tăng cường sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện có hiệu quả chức năng điều tiết, quản lí vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và chế độ xã hội mới. Kinh tế hợp tác Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã là thành phần kinh tế trong đó có sự liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống. Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung. Hợp tác xã được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Xuất phát thực tiễn nước ta, kinh tế hợp tác sẽ tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp tới cao. Kinh tế hợp tác xã cùng với kinh tế nhà nước là những thành phần kinh tế trong đó người lao động làm chủ và sản xuất được tiến hành vì lợi ích của người lao động và toàn xã hội. Kinh tế cá thể, tiểu chủ Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế tư hữu nhỏ mà thu nhập chủ yếu dựa hoàn toàn vào lao động và vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế tư hữu nhưng có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân gia đình. Kinh tế cá thể , tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong hniều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do dó, việc mở rộng sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ không bị hạn chế. Đối với nước ta, cần phát triển mạnh mẽ thành phấn kinh tế này để vừa góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết nhiều việc làm cho xã hội. Tuy nhiên thành phần kinh tế này cũng có những hạn chế riêng của nó vì thế cần hướng dẫn kinh tế cá thể và tiểu chủ, vì lợi ích cho bản thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặclàm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Kinh tế tư bản tư nhân Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong điều kiện quá độ lên CNXH ở nước ta, thành phần kinh tế này còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất xã hội, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Vì vậy, Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất đặc biệt tronmg những ngành, lĩnh vực không chi phối một cách quyết định đời sống kinh tế xã hội, mà pháp luật không cấm. Nhà nước bảo hộ quyền sỏ hữu và lợi ích hợp pháp của họ, xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này về tín dụng, khoa học- công nghệ...tuy nhiên cần đi đoi với tăng cường quản lí, hương dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho đất nước, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân dưới nhiều hình thức khác nhau. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lí để có thể thu hút thêm nhiều vốn đầu tư và công nghệ của nươc ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Trong thời kì quá độ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35246.doc
Tài liệu liên quan