Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư

Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư Chương I: Những vấn đề lý thuyết về lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư và mối quan hệ giữa chúng. I – Lãi suất vốn vay Khái niệm. Lãi suất là một phạm trù kinh tế rộng và phức tạp.Kinh tế học hiện đại có nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất.Chẳng hạn,lãi suất là chi phí cơ hội của việc giữ tiền; lãi suất là phần thưởng cho sở thích tiêu dùng vv… Tuy nhiên hiểu theo một nghĩa chung nhất thì: Lã

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2515 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i suất là giá cả của vốn tiền tệ được đo bằng tỉ lệ số tiền lãi trên số tiền gốc mà người đi vay phải trả cho người cho vay khi đến hạn phải trả, thông thường tính theo %/tháng hoặc %/năm. Đối với người đi vay: Lãi suất vốn vay là chi phí hoặc giá của vốn vay.Đối với người cho vay: Lãi suất là lợi tức khi cho vay vốn.Trong nền kinh tế thị trường vốn huy động của các tổ chức kinh tế một phần quan trọng từ các nguồn vốn vay.Vì vậy luôn phát sinh lãi suất. Phân loại lãi suất 2.1 Phân loại vốn vay theo sức mua của đồng tiền: Lãi suất danh nghĩa là thuật ngữ tài chính và kinh tế học để chỉ tỷ lệ lãi trên giá trị danh nghĩa của một khoản tiền vay hoặc đầu tư…với hàm ý nó là tỷ lệ lãi chưa được điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát. Các lãi suất được các ngân hàng niêm yết là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất thực là lãi suất đã tính đến lạm phát. Lãi suất thực là lãi suất sau khi đã loại trừ lạm phát. Trên thực tế những khoản thu nhập bằng tiền hay thu nhập danh nghĩa thường không phản ánh đúng giá trị thực của chính khoản thu nhập đó. Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực nhỏ hơn giá trị danh nghĩa. Vì vậy lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên. Trên thực tế, tỷ lệ lạm phát sau đó có thể khác với tỷ lệ lạm phát dự kiến nên không thể biết trước một cách chắc chắn được lãi suất thực tế còn lãi suất danh nghĩa thì có thể biết trước được một cách chắc chắn khi công bố. Quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế được biểu thị bằng các công thức sau: in - π π + 1 ir = ir : lãi suất thực tế in : lãi suất danh nghĩa π : tỷ lệ lạm phát 2.2 Lãi suất cơ bản của ngân hàng: Ba loại lãi suất cơ bản của ngân hàng thường được quan tâm hơn cả bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, và lãi suất liên ngân hàng. Lãi suất tiền gửi: là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi tiền trên số tiền ở tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Tuy vậy ở một số nước đang phát triển khác, tiền gửi không kỳ hạn để phát hành séc cũng có thể được trả lãi suất tiền gửi nhằm mục đích khuyến khích cho việc thanh toán không dùng tiền mặt. Lãi suất tiền gửi được xác định thông qua công thức: Itg = icb + ii Itg : lãi suất tiền gửi ii : tỉ lệ lãi cơ bản ngân hàng trả cho từng loại tiền gửi khác nhau Lãi suất cho vay: bao gồm nhiều loại khác nhau tuỳ theo tính chất của vốn vay và thời gian vay vốn, tuy vậy lãi suất cho vay thường được xác định dựa trên lãi suất tiền gửi: Icv = itg + x Icv : lãi suất cho vay itg : lãi suất tiền gửi X : chi phí nghiệp vụ ngân hàng, bao gồm tất cả các khoản chi phí hoạt động, phát triển vốn và dự phòng rủi ro… Đối với các nước phát triển tài chính tự do hóa, X được xác định bởi thị trường, còn đối với những nước như Việt Nam,X được quy định bởi ngân hàng nhà nước. Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay tiền nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên các thị trường tiền tệ. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. 3.1. Cung cầu vốn tiền tệ Cung vốn có được chủ yếu là các khoản tiết kiệm của dân cư, vốn tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp. Khối lượng cung vốn phụ thuộc vào lãi suất, với mức lãi suất cao dân cư sẽ ít giữ tiền mà đem gửi vào ngân hàng làm lượng cung vốn tăng. Ngược lại khi lãi suất thấp dân cư sẽ tiết kiệm dưới dạng tiền mặt hoặc các tài sản có giá trị khác làm lượng cung vốn giảm . Cầu vốn tiền tệ là nhu cầu vay vốn có khả năng thanh toán của các hộ gia đình, các doanh nghiệp, của Chính Phủ với các mục đích khác nhau. Nếu các yêu tố khác ít thay đổi lượng cầu vốn sẽ phụ thuộc vào lãi suất. Ở mức lãi suất cao lượng cầu vốn sẽ giảm do chi phí vốn vay tăng ảnh hưởng đến hiệu quả của doanh nghiệp. Ngược lại lãi suất giảm sẽ làm tăng lượng cầu vốn vay. Điều này được thể hiện trên hình sau. Cung vốn ≡ S Cầu vốn ≡ I Lượng tiền Q0 i0 Lãi suất Mọi sự dịch chuyển của đường cung vốn hoặc đường cầu vốn hoặc cả hai làm thay đổi lãi suất. Chẳng hạn các nhà đầu tư lạc quan về nền kinh tế trong tương lai làm đường cầu vốn dịch chuyển lên trên. Nếu cung vốn không đổi thì lãi suất tăng lên. 3.2. Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương: Khi Ngân hàng Trung ương tăng cung tiền làm giảm lãi suất, ngược lại nếu thắt chặt cung tiền sẽ làm sãi suất tăng lên. Cung tiền Câù tiền r r* Y* Y Tuỳ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể và mục đích của các chính sách nhằm ổn định kinh tế vĩ mô mà ngân hàng nhà nước có thể tác động vào cung tiền dựa vào các công cụ: Lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng trung ương cho ngân hàng thương mại vay để giúp các ngân hàng thương mại khi gặp khó khăn về khả năng thanh khoản. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu sẽ khiến cho các ngân hàng thương mại ít vay hơn làm cho cung tiền giảm và ngược lại. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải giữ lại để đảm bảo khả năng thanh khoản cho khách hàng, trong trường hợp số tiền người rút tăng lên đột ngột . Khi ngân hàng trung ương tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc làm các ngân hàng thương mại giảm mức cho vay làm giảm cung tiền và ngược lại. Nghiệp vụ thị trường mở Đây là công cụ hiệu quả để tác động tới cung tiền của hầu hết các nước trên thế giới. Tuỳ vào tình hình cụ thể của nền kinh tế và chính sách của chính phủ mà ngân hàng trung ương thực hiện mua hoặc bán trái phiếu chính phủ, ngoại tệ, để tăng thêm tiền trên thị trường hay rút khỏi lưu thông. Ngân hàng bán trái phiếu và ngoại tệ, thu tiền đồng về làm giảm cung tiền. Ngân hàng mua trái phiếu, ngoại tệ sẽ làm cho cung tiền tăng lên. 3.3. Ảnh hưởng của lạm phát kì vọng. Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng . Điều này có thể giải thích bằng cả hai hướng tiếp cận. Thứ nhất: xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng.Thứ hai:khi mọi người tin rằng lạm phát sẽ tăng lên trong tương lai họ sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng,bất động sản, ngoại tệ mạnh, hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có thể. Tất cả các điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của ngân hàng cũng như trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. 3.4. Mức độ rủi ro Rủi ro trong vay vốn bao gồm người vay không trả được tiền lãi hoặc tiền gốc. Mức độ rủi ro càng cao thì lãi suất càng tăng và ngược lại. Việc vay vốn với kỳ hạn dài sẽ có độ rủi ro lớn hơn. Vì vậy về nguyên tắc lãi suất dài hạn luôn lớn hơn lãi suất ngắn hạn. 3.5. Tỷ suất lợi nhuận bình quân: Tỷ suất lợi nhuận của dự án phải cao hơn lãi suất vốn vay để tài trợ cho dự án đó. Khi lãi suất vốn vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận thì cầu về vốn vay sẽ tăng nhằm mở rộng đầu tư gây sức ép tăng lãi suất. Ngược lại khi lãi suất lớn hơn tỷ suất lợi nhuận cầu vốn vay sẽ giảm đầu tư sản xuất kinh doanh có nguy cơ bị thu hẹp làm giảm lãi suất. 3.6. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến lãi suất: + Lãi suất trên thị trường quốc tế: Đối với các nước có nền kinh tế mở, nhỏ, duy trì tỷ giá hối đoái cố định như ở Việt Nam. Khi lãi suất quốc tế thấp hơn lãi suất trong nước, sẽ có một luồng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam nhằm hưởng lợi tức trong ngắn hạn khiến đồng nội tệ tăng giá buộc ngân hàng Trung ương tăng cung tiền để ổn định tỷ giá làm lãi suất trong nước giảm. Ngược lại khi lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất quốc tế sẽ có một luồng vốn chảy ra bên ngoài buộc ngân hàng Trung ương thắt chặt tiền tệ làm tăng lãi suất. + Những thay đổi của Nhà nước trong chính sách về thuế, bội chi ngân sách…v.v. Vai trò của lãi suất 4.1 Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô Ở góc độ vĩ mô của nền kinh tế, lãi suất vừa là đối tượng quản lý của nhà nước, vừa là công cụ để ngân hàng trung ương điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Thứ nhất : lãi suất là công cụ điều hành trong chính sách tiền tệ quốc gia. Việc tăng hay giảm cung tiền làm thay đổi lãi suất , dẫn đến đầu tư thay đổi, kéo theo tổng cầu thay đổi và làm sản lượng thay đổi theo. Điều này được minh hoạ trên hình sau. i i i1 i1 i2 i2 Cầu tiền Q1 Q2 Q I1 I2 I AD1 Tổng cung AD2 Y1 Y2 Y Thứ hai: lãi suất là động lực cho tiết kiệm và đầu tư.Mức tiết kiệm phụ thuộc trước hết vào thu nhập của khu vực dân cư.Trong nền kinh tế ổn định và tỉ lệ lãi suất hợp lý sẽ kích thích người dân gửi tiền nhiều hơn vào ngân hàng làm mức tiết kiệm và đầu tư tăng lên. Đối với đầu tư,lãi suất là một trong những chi phí đầu vào của doanh nghiệp,lãi suất tăng đầu tư sẽ giảm và ngược lại. Thứ ba: Lạm phát tác động đến lãi suất tuy nhiên điều ngược lại cũng đúng đó là: lãi suất có tác dụng làm giảm lạm phát trong thời kì có lạm phát tăng cao. Trong thời kì có mức lạm phát cao,việc điều chỉnh lãi suất bằng cách nâng cao lãi suất tiền gửi khiến khu vực dân cư gửi tiền nhiều hơn.Điều này làm giảm lượng tiền lưu thông góp phần giảm tỉ lệ lạm phát. Ví dụ: ở Việt Nam năm 1988 lạm phát ở mức 393,8%/năm, đã giảm xuống 34,7%/năm năm 1989 nhờ nâng cao lãi suất tiền gửi lên mức cao nhất 144%/năm. 4.2 Đối với doanh nghiệp Lãi suất có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lãi suất thực tế là chi phí hay giá cả của vốn vay. Điều này khiến cho doanh nghiệp luôn cân nhắc quyết định đầu tư mỗi khi lãi suất thay đổi. Lãi suất thực dương ở mức cao khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn vì không đạt được mức sinh lợi của dự án cao hơn mức lãi suất thực để có lãi và doanh nghiệp sẽ không đầu tư. Ngược lại, nếu lãi suất thực quá thấp thì khiến cho doanh nghiệp không bị áp lực bởi đồng vốn vay. Họ đầu tư không có chọn lọc dễ gặp rủi ro, từ đó khiến cho hệ thống ngân hàng cũng phải gánh chịu. Vậy lãi suất thực ở mức quá cao hay quá thấp đều không hợp lí. II – Quy mô vốn đầu tư Quan điểm về vốn đầu tư Theo luật đầu tư việt nam: vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp. Xét về phương diện toàn xã hội thì vốn đầu tư là toàn bộ giá trị nhân lực, tài lực được bỏ thêm vào cho hoạt động của toàn xã hội trong thời gian nhất định thường là một năm. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, đầu tư  gồm: - Đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường; - Đầu tư cho sức khoẻ con người và phát triển trí tuệ văn hoá xã hội; - Đầu tư khác như: đầu tư cho bộ máy quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, hợp tác quốc tế,.. Suy cho cùng, đầu tư đều đưa tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhưng tác động đến tăng trưởng kinh tế thì đầu tư ở mỗi lĩnh vực lại không giống nhau; Đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và hiệu quả của đầu tư cho thấy nhanh hơn, rõ ràng hơn. Chính vì vậy vốn đầu tư vào lĩnh vực này được xem là quan trọng nhất, đặc biệt với các nước đang phát triển. Trong nhiều diễn đàn đầu tư người ta xem đây là đầu tư vào kinh tế và dùng để tính các chỉ tiêu phát triển kinh tế tầm vĩ mô. Đầu tư cho sức khoẻ con người, phát triển trí tuệ, văn hoá xã hội và đầu tư khác cũng có tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, nhưng gián tiếp qua nguồn nhân lực và các nhân tố về môi trường đầu tư; hơn nữa tác động của đầu tư ở các lĩnh vực này mang tính chiến lược, bởi vậy hiệu quả phải sau thời gian dài, thậm chí 10 năm hoặc 20 năm sau mới thấy được, mặc dù hiệu quả đó là rất to lớn, cho nên khi nghiên cứu về vốn đầu tư trong các lĩnh vực này phải chú ý đến tác động của nó tới lĩnh vực xã hội Việc tăng quy mô vốn đầu tư hay hiểt theo cách khác là quá trình tái sản xuất mở rộng tức là việc tăng cường thêm các yếu tố đầu vào trong quá trình tái sản xuất để thu được khối lượng sản phẩm lớn hơn so với trước kia. Các yếu tố đầu vào đó bao gồm tư bản, lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ… Tăng quy mô vốn đầu tư và vấn đề hết sức quan trọng trong sản xuất kinh doanh bởi các nguyên nhân sau: + Quy mô sản xuất xã hội ngày càng mở rộng đòi hỏi phải tiến hành đầu tư mở rộng nhằm tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài sản lưu động. + Trong thời đại tiến bộ công nghệ diễn ra mạnh mẽ, nhiều máy móc thiết bị nhanh chóng bị rơi vào tình trạng lạc hậu về công nghệ, mà công nghệ càng cao thì chi phí sử dụng càng lớn do đó lẽ dĩ nhiên là ngày càng phải tăng cường quy mô vốn đầu tư. Tác động của quy mô vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư là cở sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Đầu tư là một bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn, việc làm. Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng … tăng lên. Sự thay đổi AD0 đến AD1 làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá cũng biến động từ P0 đến P1. Hình a: Tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế. P Y E1 Y1 P0 AD0 AS AD1 P1 Y0 E0 Nếu như nền kinh tế, với đường tổng cầu AD0 đang cân bằng tại điển E0 thì dưới tác động của tăng đầu tư sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải, vào vị trí AD1, thiết lập điểm cân bằng mới tại E1. Điều đó cũng có nghĩa với việc làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá tăng từ P0 P1. Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm nhà máy, thiết bị , phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung. Trong hình b miêu tả khi vốn sản xuất tăng sẽ làm cho đường tổng cung dịch chuyển từ AS0 đến AS1 làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 và mức giá giảm từ P0 đến P1. Cần lưu ý là sự tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế không phải là quá trình riêng lẻ mà nó là sự kết hợp , đan xen lẫn nhau, tác động liên tục vào nền kinh tế. Hình b: tác động của vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế. Y Y1 P P0 P1 E0 AS1 AS0 AD E1 Y0 Vốn đầu tư là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu , hiện đại hoá quá trình sản xuất. Đầu tư là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học công nghệ của một doanh nghiệp hay một quốc gia. Khoa học công nghệ là yếu tố rất quan trọng đảm bảo duy trì tăng trưởng trong dài hạn. Lý do cơ bản của sự tăng trưởng vượt bậc trong thế kỉ XX chính là nhờ tiến bộ của khoa học công nghệ. Nghiên cứu và triển khai công nghệ mới là việc làm rất tốn kém vì vậy để tạo dựng một nền kinh tế có hàm lượng công nghệ cao đòi hỏi lượng vốn lớn và trong thời gian dài. Trong tiến trình phát triển của một quốc gia, ta có thể nhận thấy một quy luật rất phổ biến: Trong giai đoạn đầu, khi trình độ khoa học còn non kém, lượng vốn đầu tư ít hầu hết các nước đều sử dụng những công nghệ thô sơ, hàm lượng chất xám thấp, sử dụng nhiều lao động và tài nguyên thiên nhiên. Những công nghệ này cũng có những đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng của đất nước, Tuy nhiên trong giai đoạn sau thì những công nghệ này không còn phù hợp nữa, nó làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và gây hậu quả nghiêm trọng tới môi trường. Thậm chí còn kìm hãm sự phát triển của đất nước nếu như ta cứ tiếp tục sử dụng chúng mà không có những thay đổi phù hợp. Việc đổi mới công nghệ là yêu cầu bức thiết đối với tất cả các quốc gia nếu muốn duy trì tăng trưởng trong dài han. Việc đổi mới công nghệ của từng nước cũng có sự khác biệt. Có nước tập trung vào tự nghiên cứu để tìm ra công nghệ mới. cũng có nhiều nước lại sử dụng biên pháp mua công nghệ của nước ngoài. Tuy nhiên nếu một quốc gia mua công nghệ của nước ngoài thì cũng cần chú trọng tới việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ để có thể chuyển giao được công nghệ mới và sử dụng có hiệu quả vào quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết việc làm cho người lao động. Cùng với sự gia tăng của vốn đầu tư tức là có nhiều nhà máy, xí nghiệp được hình thành. Trước tiên là nó giải quyết được công ăn việc làm cho công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp đó.Ngoài ra hiệu ứng lan tỏa của đầu tư sẽ tiếp tục tác động đến nền kinh tế đó là tạo thêm việc làm cho lao động trong khu vực đó để cung cấp đầu vào như cung cấp nguyên liệu … hoặc cung cầp các dịch vụ như giao thông vận tải. Đối với những nước đang phát triển dồi dào nguồn lao động, giá nhân công rẻ có thể coi là những lợi thế hết sức to lớn trong việc thu hút vốn đầu tư. Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư là điều kiện quan trọng tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và lượng, tùy thuộc vào mục tiêu của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các nghành, vùng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng của nghành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp luôn là mục tiêu của hầu hết các nước. Bằng các chính sách khác nhau, chính phủ luôn tìm các biện pháp để tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà đầu tư góp phần làm dịch chyển cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các nghành, vùng. Cơ cấu sử dụng vốn và các chính sách khuyến khích đầu tư, định hướng phát triển kinh tế theo nghành hoặc theo khu vực là những công cụ có hiệu quả của nhà nước để tác động vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc tăng hoặc giảm tỉ trọng vốn đầu tư cho 1 khu vực hay một ngành kinh tế sẽ có tác động mạnh đối với sự tăng trưởng của nghành hay khu vực đó. Đồng thời chính sách này cũng sẽ góp phần định hướng cho các nhà đầu tư tư nhân cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường đầu tư vào lĩnh vực đó. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng quy mô vốn đầu tư. Chi phí đầu tư Do hàng hóa đầu tư có thể tồn tại trong nhiều năm nên việc tính toán chi phí đầu tư phức tạp hơn so với việc tính toán các chi phí khác như chi phí về nguyên vật liệu, tiền lương…khi hàng hóa mua về có thể tồn tại trong nhiều năm chúng ta phải tính đến chi phí vốn theo lãi suất đi vay. *Để hiểu rõ nội dung này ta cần chú ý rằng các nhà đầu tư thường có xu hướng đi vay, chi phí vốn vay chính là lãi suất tiền vay cụ thể là lãi suất thực tế Yêu cầu của sản xuất đòi hỏi cần tăng thêm máy móc,thiết bị, phương tiện … nhằm mở rộng năng lực sản xuất . Tuy nhiên , trong mọi trường hợp, cần phải có sự so sánh giữa lợi ích mang lại do sử dụng các máy móc, phương tiện mới thể hiện qua phần lợi nhuận tăng thêm, với khoản chi phí cho đầu tư. Vấn đề là ở chỗ, lợi ích chỉ thực sự có được trong tương lai, trong khi vốn đầu tư lại phải bỏ ra ngay tại thời điểm hiện tại. Các nhà đầu tư thường có xu hướng thanh toán các khoản đầu tư bằng cách vay vốn. Do đó phải trả lời được các câu hỏi liệu lợi nhuận do đầu tư đem lại có cao hơn so với mức lãi suất phải trả khi chủ đầu tư vay vốn đầu tư hay không? Chủ đầu tư chỉ nên đầu tư khi và chỉ khi lợi nhuận thực dự báo trong tương lai cao hơn hoặc ít nhất là bằng so với mức lãi suất tiền vay phải trả. Đương nhiên, khi lãi suất tiền vay càng tăng thì thu nhập biên càng giảm, nhu cầu đầu tư càng giảm và ngược lại. Vào cùng một thời điểm, có thể có rất nhiều dự án đầu tư. Số lượng dự án đầu tư phụ thuộc vào mức lãi suất tiền vay. Khi mức lãi suất tiền vay càng cao, thì số dự án thỏa mãn được yêu cầu trên càng ít và ngược lại khi mức lãi suất tiền vay thấp, sẽ có nhiều dự án đẩu tư hơn làm khối lượng cầu vốn đầu tư tăng. Hình c chỉ rõ đường cầu vốn đầu tư Di thể hiện mối quan hệ phụ thuộc giữa lãi suất tiền vay và nhu cầu vốn đầu tư ở mỗi điểm lãi suất cụ thể. Nếu mức lãi suất tăng từ i0 lên i1 sẽ giảm số dự án đầu tư, nói cách khác nhu cầu vốn đầu tư giảm từ I0 xuống I1. *Cùng với lãi suất, các quy định về thuế của chính phủ cũng ảnh hưởng đến chi phí đầu tư, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu chính phủ đánh thuế thu nhập cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư và làm cho thu nhập của các doanh nghiệp giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư. Mặt khác, chính phủ cũng có thể kích thích đầu tư bằng hình thức miễn giảm thuế đối với các khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Qua hình (d) có thể mô tả tác động của thuế thu nhập đến cầu đầu tư giống như tác động của chu kỳ kinh doanh. Khi mức thuế của chính phủ giảm sẽ làm cho đường cầu đầu tư dịch chuyển sang phải, do đó khoản đầu tư mong muốn sẽ tăng. Doanh thu (mối quan hệ gia tốc) Đầu tư sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho các hãng hơn nếu nó cho phép bán được nhiều hàng hơn. Điều đó cho thấy tổng sản lượng (GDP) là một nhân tố cực kì quan trọng quyết định tới đầu tư. Khi nhà xưởng phải bỏ không, các hãng ít có nhu cầu xây dựng thêm nhà xưởng, vì vậy đầu tư thấp. Tổng quát hơn đầu tư phụ thuộc vào doanh thu do tình trạng hoạt động kinh tế chung tạo ra. Một số nghiên cứu cho rằng việc thay đổi sản lượng chi phối xu hướng đầu tư trong các chu kì kinh doanh. Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức nhu cầu khác nhau. Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng, thể hiện ở việc dịch chuyển đường đầu tư sang phải, từ DI sang DI’ (hình d) Trái lại, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi xuống, quy mô của nền kinh tế bị thu hẹp lại, kéo đường cầu đầu tư DI sang trái, tương ứng với mỗi mức lãi suất tiền vay cụ thể. Có thể thấy 1 ví dụ về sự tác động mạnh của sản lượng trong thời kì đi xuống của chu kì kinh doanh trong những năm 1979-1982. Khi đó sản lượng giảm mạnh kéo theo đầu tư giảm 22% Di I I0 I1 0 i1 i i0 Hình c : hàm cầu đầu tư. Hình d:ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh đến đường cầu đầu tư DI’ I I 0 i0 i I’ DI Một lý thuyết quan trọng về hành vi đầu tư là lý thuyết gia tốc đầu tư. Lý thuyết này phát biểu rằng: tốc độ đầu tư chủ yếu do tốc độ thay đổi sản lượng quyết định. Có nghĩa là mức đầu tư cao khi sản lượng tăng và khi sản lượng giảm thì mức đầu tư thấp đi (thậm chí đầu tư thực tế còn là số âm) Theo lý thuyết này để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một số lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn như sau: X= (1) Trong đó : K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu Y: sản lượng tại thời kỳ nghiên cứu X: hệ số gia tốc đầu tư Từ công thức 1 ta suy ra: K=X*Y Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu tố sản xuất lại phụ thộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất. Theo công thức (1) ta có thể kết luận : sản lượng phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kỳ trước. Lý thuyết gia tốc đầu tư cho thấy : đầu tư tăng tỷ lệ với sản lượng ít ra là trong trung và dài hạn. Kì vọng Nguyên nhân thứ 3 ảnh hưởng đến đầu tư là niềm tin kinh doanh. Đầu tư là một canh bạc về tương lai với sự đánh cược rằng thu nhập do đầu tư đem lại sẽ cao hơn chi phí đầu tư. Nếu các doanh nghiệp dự đoán rằng tình hình kinh tế tương lai ở Việt Nam sẽ xấu đi thì họ sẽ ngần ngại khi đầu tư vào đây. Ngược lại các doanh nghiệp tin rằng công cuộc kinh doanh sẽ phục hồi nhanh chóng thì họ sẽ có kế hoạch mở rộng nhà xưởng. Vì vậy các quyết định đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào dự đoán và kỳ vọng về các sự kiện tương lai. Nhưng người ta có thể nói rằng dự đoán là điều may rui nhất là dự đoán về tương lai. Các doanh nghiệp thường đổ nhiều công sức vào phân tich đầu tư và cố gắng giảm tới mức thấp nhất những sự bấp bênh trong đầu tư của mình. Đầu tư của nhà nước Có thể nói đầu tư của nhà nước là yếu tố dẫn dắt đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được sử dụng để đầu tư theo kế hoạch của nhà nước cho các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, bảo vệ môi trường, các công trình văn hóa xã hội, phúc lợi công cộng, quản lý nhà nước, khoa học- kỹ thuật, quốc phòng và an ninh…khi cơ sở hạ tầng của một khu vực đầu tư tốt nó sẽ tạo thuận lợi cho đầu tư của tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài thực hiện kế hoạch đầu tư trong khu vực đó. Chi phí đầu tư sẽ giảm đi đáng kể do giao thông thuận tiện sẽ làm giảm chi phí vận chuyển trong khi xây dựng dự án cũng như trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Có thể thấy rõ khi một dự án đầu tư ở một khu công nghiệp nó sẽ có nhiều thuận lợi về các điều kiện sản xuất, về tiếp cận với các bạn hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, thu hút lao động làm việc cho dự án. Lợi nhuận kỳ vọng Theo lý thuết của Keynes thì một trong hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp là lợi nhuận kỳ vọng Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà các nhà đầu tư tính toán dựa trên chi phí đầu tư, doanh thu kì vọng trong tương lai trước khi thực hiện một dự án đầu tư +) Nếu lợi nhuận kỳ vọng nhỏ hơn lãi suất tiền vay đầu tư thì nhà đầu tư sẽ không thực hiện dự án hoặc sẽ cắt giảm quy mô của dự án đang thực hiện và ngược lại. Lợi nhuận kỳ vọng lớn nó sẽ là động lực thúc đẩy các nhà đầu tư tìm kiếm các giải pháp, khắc phục khó khăn, hạn chế các rủi ro để tiếp tục theo đuổi dự án. Trong cơ chế thị trường thì lợi nhuận là yếu tố tác động mạnh nhất đến hành vi của các doanh nghiệp tư nhân. Thậm chí họ có thể chạy theo lợi nhuận bất chấp sự ảnh hưởng xấu đến môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tác động xấu tới tình hình xã hội, hoặc kinh doanh trong các lĩnh vực bị pháp luật cấm. Vì vậy trong hoạt động quản lý của nhà nước cần phải tính tới tác động của dự án đầu tư tới tất cả các mặt của đời sống xã hội, môi trường an ninh quốc phòng Môi trường đầu tư Đầu tư thường được ví như một canh bạc. Các nhà đầu tư đặt cược một số tiền lớn trong điều kiện hiện tại và hi vọng thu được nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai. Do vậy, đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả của dự án đầu tư. Đó là thực trạng của cơ sở hạ tầng, những quy định về pháp luật đầu tư, nhất là các quy định liên quan đến lợi ích tài chính, chế độ đất đai, các loại thủ tục hành chính, tình hình chính trị xã hội… Nếu những yếu tố trên đây thuận lợi sẽ khuyến khích các nhà đầu tư và thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Trong việc tạo lập môi trường đầu tư, chính phủ giữ vai trò quan trọng, chính phủ thường quan tâm đến việc đưa ra các chính sách nhằm tăng được lòng tin trong giới kinh doanh và đầu tư. Về hình thức tác động của môi trường đầu tư đến nhu cầu đầu tư có thể được mô tả giống như trường hợp của thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc chu kỳ kinh doanh. Hình (d) Như vậy chúng ta có thể tóm tắt các lực đứng đằng sau quyết định đầu tư như sau: Doanh nghiệp đầu tư để thu lợi nhuận. Do các hàng hóa vốn tồn tại trong nhiều năm nên các quyết định đầu tư phụ thuộc vào: Chi phí đầu tư Doanh thu Kì vọng Đầu tư của nhà nước Lợi nhuận kỳ vọng Môi trường đầu tư III - Tỉ suất lợi nhuận Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Phản ánh mức lợi nhuận thuần (tính cho từng năm), hoặc thu nhập thuần (tính cho cả đời dự án) thu được từ một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng . Công thức tính cho từng năm hoạt động: IRR= RRi : tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư năm i Wipv : lợi nhuận thuần ở năm i tính đến thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động IV0 : vốn đầu tư tính tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động *) Ý nghĩa : tỉ suất lợi nhuận là đại lượng xác định hiệu quả đầu tư, với một đồng vốn bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận,từ đó đưa ra các quyết định đầu tư và quy mô đầu tư khi so sánh với lãi suất vốn vay.Điều này sẽ được bàn cụ thể ở phần mối quan hệ dưới đây. IV - Mối quan hệ giữa lãi suất, tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư Mối quan hệ hai chiều giữa các thành phần 1.1 Mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô vốn đầu tư Trong nền kinh tế thị trường vốn của doanh nghiệp chủ yếu được tài trợ bằng vốn vay. Vì vậy lãi suất vốn vay sẽ tác động mạnh đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Tuy nhiên, lãi suất thực tế là lãi suất đã tính đến lạm phát, mới ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư của doanh nghiệp. Với các yếu tố khác không đổi, khi lãi suất thực tế tăng nghĩa là chi phí của 1 đơn vị vốn tăng, hiệu quả biên của một đơn vị đầu tư mới giảm khiến cho doanh nghiệp cắt giảm quy mô vốn đầu tư. Ngược lại, khi lãi suất thực tế giảm trong điều kiện các yếu tố khác ít thay đổi làm doanh nghiệp mở rộng quy mô vốn đầu tư. Do hiệu quả của một đơn vị vốn đầu tư mới tăng lên.Điều này được thể hiện trên hình sau. r Lãi suất thực tế (%/năm) r1 D1 r2 D2 I1 I2 I 1.2.Mối quan hệ giữa tỉ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư. Mối quan hệ giữa IRR và I được minh hoạ bằng đồ thị sau: IRR IRR2 B IRR1 A I1 I2 I Khi tỉ suất lợi nhuận tăng lên trong điều kiện các yếu tố khác ít thay đổi, sẽ kích thích các nhà đầu tư tăng quy mô vốn và ngược lại. Tuy nhiên, tốc độ tăng của IRR ngày càng giảm dần. Điều này được giải thích trên hai phương diện: Thứ nhất: Trên phương diện cầu vốn đầu tư. Khi mở rộng vốn đầu tư làm cầu vốn đầu tư tăng lên trong điều kiện các yếu tố khác ít thay đổi làm giá vốn hay lãi suất vốn tăng lên. Giả sử chi phí sản suất khác không đổi và giá bán 1 đơn vị sản phẩm không đổi trong khi đó chi phí lãi vay tăng lên làm cho tổng lợi nhuận giảm và tỉ suất lợi nhuận giảm. Thứ hai: Trên phương diện cung hàng hoá trên thị trường tăng. Điều này làm giá bán 1 đơn vị sản phẩm giảm,giả định chi phí sản xuất khác không đổi l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24920.doc
Tài liệu liên quan