Lời nói đầu
Đối với một xã hội có giai cấp, có nhà nước thì sự phát triển của một xã hội luôn là một vấn đề cấp bách và không thể thiếu được để nhà nước đó tồn tại. Một số nhà kinh tế Mỹ cho rằng: “sự quan tâm hiện nay đối với vấn đề tăng trưởng kinh tế không là ngẫu nhiên, mà đó chính là kết quả của sự lo lắng rằng nếu không có tăng trưởng thì sẽ không đủ việc làm, mặt khác do kết quả của những cuộc xung đột quốc tế hiện nay đã biến vấn đề tăng trưởng thành điêù kiện để tồn tại”. Nhưng chúng
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa kinh tế & chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam trên quan điểm toàn diện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta cũng thể phủ nhận một điều: là phải phát triển toàn diện bởi xã hội là một tổng thể của nhiều mặt cấu thành mà ít nhất là ba phương diện: kinh tế, chính trị và xã hội. Hơn thế nữa kinh tế còn là cơ sở, là nền tảng của sự phát triển xã hội. Bởi vậy đổi mới kinh tế là gốc, là cơ sở cho toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử. Chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội như : pháp quyền, khoa học, giáo dục, văn hoá….Đó là hình thức xã hội phục vụ cho kinh tế. Do đó các mặt hình thức này tác động ngược trở lại nền kinh tế. Trong thực tế, cho dù điều kiện của mỗi nước khác nhau nhưng đối với sự phát triển và đổi mới thì kinh tế, chính trị và xã hội là không thể tách rời nhau. Nhưng nếu đứng trên phương diện triết học mà cụ thể là xuất phát từ quan điểm toàn diện thì chúng ta sẽ có cái nhìn tổng thể hơn về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Để từ đó làm sáng tỏ những vấn đề cấp bách hiện nay trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Bài tiểu luận này của em chỉ nêu ra được một số vấn đề nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến và bổ sung từ phía các thầy cô giáo về đề tài này của em. Để em từng bước được nâng cao nhận thức và trình độ lý luận của mình. Em xin chân thành cảm ơn.
I. Nguyên lý và phép biện chứng duy vật về mối liên hệ phổ biến. Từ đó rút quan điểm toàn diện.
1. Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến:
a. Khái niệm.
Liên hệ: Trong đời sống hàng ngày, khái niệm liên hệ chỉ dùng với nghĩa hẹp và siêu hình, dùng để chỉ cái không thể tách rời giữa cái này với cái kia.
Trong triết học, từ này mang ý nghĩa bao quát, mang tính biện chứng của nó, chỉ sự ràng buộc lẫn nhau đồng thời tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật và hiện tượng của thế giới.
Liên hệ phổ biến: là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ phổ biến được thể hiện thông qua những mối liên hệ cụ thể. Liên hệ phổ biến là sự khái quát những liên hệ cụ thể.
b. Nội dung nguyên lý:
Tất cả mọi sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong thế giới không cái nào tồn tại một cách biệt lập, cô lập mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật và hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Không có tồn tại nào là tồn tại một cách tuyệt đối so với một tồn tại khác. Mọi tồn tại đều là một hệ thống mở. Mọi sự vật và hiện tượng của thế giới đều có mối liên hệ với nhau. Mối liên hệ chẳng những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên trong xã hội và trong tư duy mà còn diễn ra ở các yếu tố, các quá trình của sự vật và hiện tượng. Mối liên hệ này là khách quan, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới biểu hiện trong quá trình tự nhiên, xã hội và trong tư duy.
Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới là đa dạng và phong phú: có mối liên hệ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và không trực tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu….Với mọi sự vật, hiện tượng đều có muôn vàn những mối quan hệ khác nhau, trong mỗi loại quan hệ có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự vật, hiện tượng đó. Chính vì vậy ta phải xem xét sự vật đó trong mối quan hệ cụ thể.
2. Rút ra quan điểm toàn diện.
Từ nguyên lý về mối quan hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm toàn diện khi nghiên cứu bất cứ một sự vật, hiện tượng nào. Như vậy tức là khi xem xét một sự vật, hiện tượng hay nhận thức và giải quyết một vấn đề gì thì phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng khác, xem xét tất cả mọi mặt, các yếu tố, kể cả các khâu trung gian, phải đặt nó trong mọi mối liên hệ có thể có. Như vậy, nó có thể giúp ta tránh được sự phiến diện khi giải quyết vấn đề. Đồng thời cũng phân biệt được vị trí, vai trò của mỗi mặt, mỗi mối liên hệ khác nhau trong tổng thể của nó. Có như vậy mới thực sự nắm bắt được bản chất của sự vật mà không bị rơi vào ngụy biện trong nhận thức và bất quyết trong hành động. Chính vì lẽ đó mà quan điểm toàn diện đã bao hàm trong bản thân nó quan điểm lịch sử cụ thể.
II. mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị-trong công cuộc đổi mới ở việt nam trên quan điểm toàn diện.
Nguyên tắc toàn diện bắt nguồn từ mối liên hệ phổ biến, được nhận thức và được đề lên thành nguyên lý chỉ đạo phương pháp hành động và suy nghĩ. Theo nguyên tắc này thì bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế-chính trị-ngoại giao, kinh tế-chính trị, đạo đức-pháp quyền, kinh tế-chính trị-khoa học-kỹ thuật…mà trong đó quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản cần quan tâm trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đây là vấn đề luôn được đặt ra và giải quyết trong suốt quá trình đổi mới. Những thành tựu đạt được trong suốt hơn 10 năm đổi mới vừa qua không thể tách rời khỏi việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Việc nhận thức mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng không ngừng phát triển, gắn liền với thực tiễn công cuộc đổi mới.
1. Mấy vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác-Lênin về quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Theo các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin thì kinh tế quyết định chính trị, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Trong lịch sử phát triển xã hội của loài người không phải bao giờ cũng có chính trị. Như xã hội nguyên thuỷ vẫn chưa có vấn đề chính trị. Kể từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì vấn đề chính trị mới bắt đầu xuất hiện. Những vấn đề chính trị thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp, lực lượng xã hội nhằm giành, giữ chính quyền nhà nước và sử dụng chính quyền đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản thân chính trị ra đời hoàn toàn do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Đuyrinh thì lại cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, nhưng F.Ănghen lại khẳng định: “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế trái lại là mục đích”, F.Ănghen cũng chỉ rõ: “để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”.
Quyền lực chính trị là công cụ mạnh nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế . Đấu tranh giai cấp, thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, điều đó được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.Ănghen, bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế. Để nhấn mạnh vai trò của chính trị, V.I.Lênin đã khẳng định: “chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế ”. Khẳng định đó của V.I.Lênin không có nghĩa là phủ định vai trò của kinh tế đối với chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Đứng trên quan điểm toàn diện mà xét thì mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại và biểu hiện với tư cách là nó trong mối quan hệ với những sự kiện khác. Cho nên khi đứng trước một sự kiện kinh tế nào đó, để có thể nhận thức được bản chất của sự kiện kinh tế cần phải xem xét nó trên tất cả các mặt, mối liên hệ có thể có. Bản chất của sự kiện này là cái chung, được chứa đựng trong tất cả các mối liên hệ. Bởi vậy những vấn đề kinh tế không thể tách rời những vấn đề chính trị, mà nó được xem xét và giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Bất kỳ một giai cấp nào cầm quyền cũng hướng nền kinh tế của mình phát triển theo lập trường chính trị với mục đích phục vụ cho mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đó đúng hay sai, sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. V.I.Lênin còn khẳng định: “nếu như không có một lập trường chính trị đúng thì giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được sự thống trị cuả mình. Do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong sản xuất. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế đó. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế đó chính là điều kiện quyết định để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Như vậy chúng ta mới có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị cùng đặt trong mối liên hệ phổ biến, thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung và nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
2. Nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đỏi mới ở Việt Nam.
Có thể nói , từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ( thánh 12/1986) của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới-giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới. Cho tới nay công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm. Trong 10 năm đó việc nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ngày càng chính xác hơn.
Đường lối đổi mới toàn diện được khởi xướng kể từ Đại hội lần VI đã thực sự đưa đến những kết quả to lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam mà trước hết là trong lĩnh vực kinh tế. Là một nước bị tàn phá nặng nề trong nhiều năm chiến tranh và cũng là nước kém phát triển trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nhưng nhờ đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được tốc độ phát triển cao chấm dứt nạn đói và kìm chế được lạm phát, trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, giữ vững được ổn định xã hội. Những thành tựu đó góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế –xã hội .
Từ một nền kinh tế mệnh lệnh, kế hoạch hoá tập trung cao độ và bao cấp tràn lan kéo dài nhiều năm đén nay đã chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, chúng ta đã thay đổi hàng loạt các chính sách kinh tế như đa dạng hoá các hình thức sở hữu, chấp nhận sở hữu tư nhân, kể cả sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho nền kinh tế hộ gia đình phát triển , đa phương hoá kinh tế đối ngoại, tự do hoá giá cả…những thay đổi đó cho phép mọi người, mọi loại doanh nghiệp hoạt động một cách bình đẳng theo pháp luật, được tự do hoá trong các lĩnh vực không bị cấm. Mọi chủ thể kinh tế không kể lớn bé đều được bảo hhọ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, được tự do giao dịch, tự do tìm kiếm thị trường và tự quyết định quy mô hoạt động kinh doanh, loại hình công nghệ và hình thức kinh doanh. Tất cả những hoạt động đó đã tạo ra một bức tranh hoàn toàn mới mẻ, sôi động mà trước khi đổi mới chúng ta khó mà tưởng tượng nổi.
Cái được lớn nhất kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường con người càng trở nên năng động hơn, thái độ dựa dẫm, ngồi chờ, ỷ lại vào cấp trên và vào nhà nước đã dần được xoá bỏ. Các chính sách kinh tế mới và cơ chế thị trường đã khơi dậy, nâng cao vai trò chủ động, kích thích sự sáng tạo của cả ngưòi quản lý, người điều hành lẫn người trực tiếp tham gia sản xuất. Tính hiệu quả của sản xuất và kinh doanh được quan tâm đặc biệt, được coi là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá một ngành sản xuất hoặc kinh doanh. Nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng kinh tế làm sống lại biết bao tiềm năng vật chất và trí tuệ, giải phóng được lực lượng sản xuất, đã khơi dậy được các động lực cho chính nó. Bởi vậy mà đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt và quan trọng nhất là nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng, đã có tích luỹ từ bên trong nội bộ của nền kinh tế . Cái thời mà nhiệm vụ số một của Chính phủ là lo điều hoà lương thực giữa các vùng các miền để cho dân có gạo ăn ở mức quy định, còn người dân muốn mua cái kim, sợi chỉ, mớ rau cũng đều phải chen chúc xếp hàng và theo tem phiếu đã qua rồi để nhừơng chỗ cho những lo toan mới là làm sao tiêu thụ được các sản phẩm mà mình làm ra hoặc có đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại, và hơn thế nữa là phải đứng vững trên thị trường quốc tế.
Từ khi bắt đầu thực hiện quá trình đổi mới đã đạt được những thành tựu lớn nhất, nổi bật nhất và vững chắc nhất là nông nghiệp. Trước đây, sau khi giành được thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp chúng ta đã thực hiện chính sách công hữu hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân, phân phối sản phẩm bình quân, xây dựng các hợp tác xã với quy mô lớn…trong nông nghiệp trong cả nước. Chính sách đó tuy có lúc mang lại những kết quả nhất định ở miền bắc nhưng khi đem ra áp dụng trong cả nước thì lại thất bại dẫn đến cảnh cả xã hội phải chịu cảnh đói nghèo. Động lực trong sản xuất nông nghiệp bị triệt tiêu. Kể từ thực hiện khoán 10( tháng 4/1988) đã có sự thay đổi lớn trong chính sách nông nghiệp, đặc biệt trong giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nhân dân và việc xác định hộ gia đình là một đơn vị kinh tế tự chủ, sự quan tâm lợi ích cá nhân của người sản xuất đã khôi phục được động lực, thúc đẩy được sản xuất phát triển và tạo nên sức bật không ngờ.
Cũng chính nhờ có đổi mới chính sách kinh tế mà nhiều ngành nghề và nhiều vùng nghề thủ công truyền thống có một thời bị thu hẹp, bị teo đi, thậm chí bị mai một, nay đã sống lại và phát triển mạnh hơn. Kinh tế hộ tư nhân phục hồi và phát triển đã làm xuất hiện nhiều nhà triệu phú. Ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp nhờ có sản xuất hàng hoá phát triển đã xuất hiện nhiều nhà triệu phú và số này chiếm khoảng từ 10-15% tổng số hộ nông dân. Đồng thời nước ta trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới.
Đổi mới trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp quốc doanh, do nhiều nguyên nhân , khó khăn hơn. Mặc dù vậy kết quả thu nhận được là tốc độ tăng trưởng đạt trên dưới 15%/ năm và hiện nay đang có xu hướng tăng cao hơn.
Bên cạnh đó luật đầu tư nước ngoài mà theo các chuyên gia phương tây là tự do nhất so các nước đang tìm cách chuyển sang nền kinh tế thị trường, là luật cởi mở nhất ở Châu á và ngày càng thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư từ nước ngoài. Kể từ khi thực hiện luật đầu tư trực tiếp của nước ngoài(29/12/1987 đến tháng 5/1996 ) đã có gần 1644 dự án đầu tư được cấp giấy phép (chưa kể những dự án đã bị rút giấy phép)với tổng số vốn đăng ký là gần 21,8 tỷ USD.
Chắc chắn rằng, chính sách mở cửa của nền kinh tế , với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và thiết lập mối quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, công cuộc đổi mới kinh tế sẽ thu được kết quả to lớn trên mọi mặt, phương diện.
Tuy vậy khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới thì đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đối với tư duy và nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề để đổi mới trong thực tế. Nhân mạnh như vậy là rất cần thiết đối với thực tiễn nước ta hiện nay để vượt ra khỏi những thói quen tư duy cũ trước đó. Tuy nhiên, nói như vậy cũng không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi đổi mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn và gắn liền với thực tiễn. Chính vì vậy, ta có thể tổng kết thực tiễn đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và tư duy.
Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề, khi mà chúng ta giành được thắng lợi, bước đầu ở nước ta có những quan điểm những nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do các nước đó thực hiện chính sách đổi mới chính trị trước, đổi mới kinh tế sau, còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này xem qua tưởng là chính sách luôn đi sâu vào phân tích thì thấy rằng nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin mà ta nói ở trên, mỗi khi chính trị không phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện quyết định để thay đổi về kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên không thể quy nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là đổi mới chính trị trước, đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân chính thức dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không được phát hiện và khắc phục sớm đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Ngoài ra, những sai lầm lớn dẫn đến khủng hoảng trầm trọng không thể cứu vãn được cho dù là ở các nước có nền kinh tế phát triển cao. Nhiều người coi phát triển chỉ là phát triển kinh tế. Việc chú trọng phát triển kinh tế đã có thể và thực tế nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất của con người đến mức ứ thừa nhưng lại không hề chú ý đến phát triển chính trị. Kinh tế và chính trị là hai mặt không thể tách rời trong một xã hội.
Như vậy theo quan điểm toàn diện mà nói thì trong một xã hội không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái biệt lập, tách rời những sự kiện khác. Nếu như xem xét yếu tố chính trị như một hệ thống, một tổng thể các chính sách cụ thể để điều hành xã hội thì lại càng phải đặt nó trong mối quan hệ với kinh tế vì giữa chúng có sự thống nhất biện chứng. Điều này thể hiện trước hết, phải là sự kết hợp hài hoà, đồng bộ và toàn diện giữa kinh tế và chính trị, không thể khẳn định cái nào phải đổi mới trước, cái nào đổi mới sau. Mọi hoạt động kinh tế của một xã hội được coi là tiến bộ phải tăng cường được tiềm lực vật chất để thoả mãn một cách hợp lý và tốt hơn các nhu cầu chính đáng và ngày càng phát triển của con ngưòi, nâng cao mức sống cho toàn xã hội. Các chính sách kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội nhất định, phải tìm được động lực phát triển trong xã hội, không chạy theo lợi nhuận đơn thuần với bất cứ giá nào. Đồng thời chính trị cũng hướng tới mục tiêu ổn định xã hội. Xã hội có ổn định thì mới có phát triển kinh tế và chính nền kinh tế đó xác lập nên hệ thống chính trị sao cho phù hợp với phương thức sản xuất sẵn có của nền kinh tế. Nhưng thực tiễn cho thấy chính trị và kinh tế không những không thể tách rời mà còn gắn kết với nhau và tác động lẫn nhau vì nó đều nhằm mục tiêu phục vụ con người, vì con người.
Quay trở lại nước ta, khẳngđịnh rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau cũng không phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở hình thành chính sách mới, luật pháp mới…thì mới có thể đổi mới kinh tế. Bản thân đường lối đổi mới của Đảng cùng với chính sách, luật pháp…của nhà nước đều thuộc về chính trị, vấn đề là ở chỗ : lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan đến quyền thống trị của giai cấp, nó có ý nghĩa quyết định thành bại của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước và phải hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị phải trên cơ sở đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế .
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 /1991), Đảng ta đã khẳng định.
“Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức lực làm cho tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị có liên quan đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải dựa trên nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc. Không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn tới sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”.
Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng ta đã khẳng định phải tập trung làm cho tốt đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị, nhưng phải thận trọng, không gây mất ổn định về chính trị.
Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) của Đảng ta. Khi tổng kết bài học trong 10 năm đổi mới, Đảng đã khẳng định: “phải biết kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu, ngay từ khi đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị ”. Đây là một cách khái quát mới, hoàn toàn khoa học, nó vừa phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta.
Trong khi nước ta đề ra chính sách đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một nghịch lý nhưng lại hoàn toàn có lý và khoa học.
ổn định về chính trị, hay nói một cách khái quát, là giai cấp cầm quyền phải tăng cường được quyền lực của mình, nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh, chế độ xã hội phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trải qua các giai đoạn lịch sử, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến nay, tuy các thế lực thù địch đã bị lật đổ nhưng chúng vẫn còn có sự phản kháng quyết liệt và dai dẳng. Chúng được sự giúp đỡ của các thế lực thù địch từ bên ngoài đã không từ bỏ một âm mưu, thủ đoạn nào để phá hoại nhằm mục đích làm suy yếu chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Do vậy chúng ta cần phải giữ gìn an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng đất nước luôn là một chức năng quan trọng của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực tiễn trên thế giới cho chúng ta thấy ổn định chính trị là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế. Chính nó, đã tạo ra môi trường để thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì tình hình chính trị là một trong những điều kiện quyết định của họ xem có nên đầu tư ở nước đó hay không. Bởi vì một nước có nền chính trị ổn định thì mới đảm bảo về sự an toàn trong kinh doanh. Những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta cũng đã khẳng định điều đó. Những thành tựu này không thể tách rời việc chúng ta giữ được ổn định về chính trị .
Và ổn định chính trị thì lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Những đổi mới chính trị không phải là vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới kinh tế sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý tổ chức của nhà nước chủ nghĩa, nhờ đó mà giữ vững được ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải là đổi mới một cách tùy tiện, mà theo một định hướng nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ” (hay nói một cách ngắn gọn hơn-đó chính là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa), sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế để đảm bảo cho sự tăng trưởng ổn định. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh… và là cơ sở kinh tế cho sự ổn định về chính trị .
Nói tóm lại, ổn định và đổi mới về chính trị là hai mặt đối lập nhau nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định thì mới có đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế .
Việc giải quyết các vấn đề chính trị là không thể thoát ly khỏi sự tăng trưởng kinh tế, không thể vượt ra ngoài khả năng mà kinh tế cho phép nhưng không phải cứ có tăng trưởng kinh tế là tự khắc giải quyết được mọi vấn đề xã hội. Vì vậy mà không thể nào ngồi chờ cho đến khi kinh tế phát triển rồi thì mới coi trọng chính trị và mới bắt đầu giải quyết các vấn đề về chính trị.Việc coi nhẹ các chính sách chính trị hay chậm đổi mới chính trị khi mà điều kiện xã hội, nhất là chính sách kinh tế đã thay đổi, thì chắc chắn dẫn đến sự bất công, sự phân hoá xã hội quá mức và sẽ khó tránh khỏi được rối loạn. Vì chính trị có tác động ngược trở lại đối với kinh tế cho nên các chính sách chính trị đúng đắn và kịp thời sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nếu ngược lại thì có khi các vấn đề chính trị lại gây cản trở cho sự tăng trưởng kinh tế, gây mất ổn định xã hội.Chính vì vậy mà một lần nữa phải khẳng định mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau giữa kinh tế và chính trị khi xét theo quan điểm toàn diện.
kết luận
Như vậy đứng trên quan điểm toàn diện mà xét thì trong xã hội không có cái gì tồn tại một cách cô lập, riêng biệt, tách rời những sự kiện khác mà đều nằm trong mối liên hệ phổ biến. Các sự kiện kinh tế và chính trị luôn liên hệ với nhau một cách chặt chẽ, biện chứng, tổng quát, chúng tồn tại với tư cách là một mắt xích trong cỗ máy xã hội đang được vận hành. Chính từ quan điểm này luôn đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn và đánh giá một cách tổng hợp mà ta thấy được ở mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ đổi mới và thấy được sự tác động qua lại giữa chúng.
Đổi mới đất nước là đổi mới toàn diện cả kinh tế lẫn chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, còn đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước sao cho phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng được yêu cầu đổi mới kinh tế. Đồng thời phải áp dụng các biện pháp đổi mới toàn diện một cách hài hoà, thống nhất, không thể để chúng mâu thuẫn với nhau. Các chính sách kinh tế và chính trị bổ sung cho nhau, đổi mới kinh tế phải đi đôi với đổi mới chính trị thì mới không gây ra sự rối loạn, bất ổn định trong xã hội. Việc đổi mới kinh tế và chính trị vừa là cơ sở vừa là động lực của nhau để phát triển đất nước trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Điều khẳng định đó chính là sự khái quát những kinh nghiệm trong 10 năm đổi mới vừa qua và là kết quả của sự vận động sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt là quan điểm toàn diện khoa học và nó có giá trị định hướng cho giai đoạn phát triển kế tiếp-giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Triết học Mác-Lênin( NXB chính trị quốc gia)
2. V.I.Lênin toàn tập, tập 42( NXB tiến bộ-Mãtcơva 1977 )
3. CácMác-F.Ănghen:Tuyển tập, tạp 5( NXB sự thật Hà Nội 1983)
4. Tạp trí triết học, số 3 (91) tháng 6-1991
5. Tạp trí triết học, số 6 (94) tháng 12 - 1996
6. Tạp trí triết học, số 2 (96) tháng 4 -1997
7. Tạp trí triết học, số 1 (101) tháng 2- 1998
8. Văn kiện đại hội Đảng VII
9. Bách khoa tri thức
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0177.doc