LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 kết thúc, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là có những bước phát triển nhanh chóng. Hàng loạt sự kiện kinh tế, chính trị quan trọng đã thể hiện sự tự vươn lên của Việt Nam. Điều đó cho thấy 20 năm đổi mới đã mang lại cho chúng ta rất nhiều điều. Nhưng hầu như tất cả những nhà kinh tế lạc quan nhất vẫn tỏ ra lo lắng về nền kinh tế Việt Nam. Bởi lẽ sự phát triển của chúng ta là tốt nhưng bên trong nó lại chứa những nguy cơ, thách thức khiến cho sự phát triển không thật sự vữ
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1654 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng chắc. Một trong những thách thức đó lại xuất phát từ chính nguồn gốc cho sự phát triển: đó là hoạt động đầu tư của Việt Nam. Là nước có tốc độ tăng trưởng thuộc tốp cao nhất thế giới, có tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP tăng nhanh qua các năm, nhưng thách thức về hiệu quả sử dụng vốn lại là bài toán khó đối với Việt Nam. Chỉ một so sánh nhỏ rằng Trung Quốc có tỷ lệ tăng trưởng bình quân cao hơn Việt Nam, nhưng họ lại có tỷ lệ sử dụng vốn và nguyên vật liệu ít hơn. Hơn nữa sự phát triển của Việt Nam lại không đi kèm với sự tăng lên tương xứng về tiềm lực công nghệ và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Điều đó khiến chúng ta không khỏi lo lắng rằng Việt Nam đang phát triển nhưng không khỏi thua kém các nước khác một cách tương đối. Vì vậy, việc xem xét lại hoạt động đầu tư để tìm ra những hạn chế hòng khắc phục và đẩy mạnh hiệu quả của hoạt động đầu tư là rất cần thiết và một điều có thể nhận thấy khá rõ ràng muốn phát triển nhanh và vững chắc cần phải có một cơ cấu đầu tư đảm bảo cho sự phát triển khoa học công nghệ một cách nhanh chóng. Đây chính là yêu cầu đặt ra cho việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trên giác độ toàn bộ nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu về mối quan hệ đó, nhóm chúng tôi đã có sự xem xét lại hoạt động đầu tư của Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau Đại hội VII đến nay, và từ đó rút ra một số kết luận, giải pháp. Đó là nội dung của bài thảo luận mà nhóm chúng tôi sẽ trình bày cùng các bạn hôm nay.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU.
1.1. Những vấn đề chung về đầu tư và phân loại đầu tư.
1.1.1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển.
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư.
Theo nghĩa rộng đầu tư là sư hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính( tiền vốn), tài sản vật chất( nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác..) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà nền kinh tế được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, nếu xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển.
1.1.1.2. Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia.
Từ sự phân tích trên đây, xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại có thể phân biệt các loại đầu tư sau:
Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước( gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành( mua cổ phiếu, trái phiếu công ty). Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức này, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng, điều đó khuyến khích người có tiền đầu tư. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế( nếu không xét đến ngoại thương) mà chỉ làm gia tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong qúa trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư phát triển: đó là việc bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt thiết bị và bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
1.1.2. Phân loại các hoạt động đầu tư
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoá hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là:
-Theo bản chất của các đối tượng đầu tư
-Theo cơ cấu tái sản xuất
-Theo phân cấp quản lý
-Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư
-Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư
-Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội
-Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư
-Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư.
-Theo nguồn vốn
-Theo vùng lãnh thổ
Trong phạm vi nội dung nghiên cứu chúng tôi chỉ đề cập đến hình thức phân loại hoạt động đầu tư theo cơ cấu tái sản xuất
1.1.2.1. Tái sản xuất
Xã hội không thể ngừng tiêu dùng nên không thể ngừng sản xuất. Vì vậy, mọi quá trình sản xuất xét theo tiến trình đổi mới không ngừng thì đồng thời là quá trình tái sản xuất. Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại thường xuyên và phục hồi không ngừng.
Có thể phân loại tái sản xuât theo những tiêu chí khác nhau:
-Căn cứ theo phạm vi, có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất cá biệt và tái sản xuất xã hội.Tái sản xuất diễn ra trong từng đơn vị kinh tế, từng xí nghiệp gọi là tái sản xuât cá biệt. Tổng thể của tái sản xuất cá biệt trong mối liên hệ hữu cơ với nhau gọi là tái sản xuất xã hội.
-Căn cứ vào quy mô, có thể chia tái sản xuất thành tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuất nhỏ và là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ.
Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô lớn hơn trước. Loại hình tái sản xuất này thường gắn với nền sản xuât lớn và là đặc trưng của nền sản xuất lớn.
Trong lịch sử, việc chuyển từ tái sản xuất giản đơn lên tái sản xuất mở rộng là một quá trình phát triển lâu dài gắn liền với việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.Tái sản xuất giản đơn gắn liền với sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, chỉ đạt mức đủ nuôi sống con người, chưa có hoặc có rất ít sản phẩm thặng dư, những sản phẩm làm ra lại đem tiêu dùng hết cho cá nhân.Tái sản xuất mở rộng đòi hỏi xã hội phải đạt trình độ năng suất lao động vượt ngưỡng cửa sản phẩm tất yếu và tạo ra sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều. Sản phẩm thặng dư là nguồn gốc để tích luỹ tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất mở rộng gồm hai hình thức là tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng là sự mở rộng quy mô sản xuất, tăng thêm sản phẩm làm ra nhờ sử dụng nhiều hơn các yếu tố đầu vào,các nguồn lực của sản xuất, trong khi năng suất và hiệu quả của các yếu tố sản xuất đó không đổi. Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng chính là hình thức đầu tư theo chiều rộng.
Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu là sự tăng lên của sản phẩm chủ yếu do tăng năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực, còn các nguồn lực được sử dụng có thể không thay đổi, giảm hoặc tăng lên, nhưng mức tăng của chúng nhỏ hơn mức tăng của năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực đó trong xã hội.Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu chính là hình thức đầu tư theo chiều sâu.
Từ những căn cứ trên chúng ta sẻ tìm hiểu rõ thêm về hai hình thức đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu cũng như mối quan hệ của chúng ở các phần đươi đây.
1.1.2.2. Đầu tư theo chiều rộng
a, Khái niệm
Theo quan điểm tái sản xuất của Mác đầu tư theo chiều rộng là đầu tư nhằm mở rộng quy mô sản xuất nhưng không làm tăng năng suất lao động. Đầu tư theo chiều rộng cũng chính là đầu tư mới.
Theo quan điểm ngày nay thì đầu tư chiều rộng là đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vầt chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới các cơ sở vầt chất với nhưng kĩ thuật công nghệ cơ bản như cũ.
b, Đặc điểm của đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư theo chíều rộng là hoạt động đầu tư trên cơ sở hiện trạng phát triển thêm về mặt công nghệ không thay đổi công nghệ hiện có.
Tốc độ tăng của lao động thường là lớn hơn tốc độ tăng vốn
Đầu tư theo chiều rộng không dẫn đến tiết kiệm nguyên liệu và không làm tăng năng suất lao động
Đầu tư chiều rộng có hạn chế trong việc đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực áp dụng công nghệ và kỹ thuật
- Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi lượng vốn lớn và vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Do đó đòi hỏi các nhà đầu tư cần có sự lựa chọn kỹ càng để lựa chọn được cơ hội đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất, tức là phải có một quá trình nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố thị trường, các điều kiện tự nhiên và các yếu tố kinh tế chính trị xã hội trước khi đưa ra quyết định đầu tư nhằm bảo đảm thu hồi vốn và có lãi.Cũng do lượng vốn lớn nên việc huy động vốn thường gặp khó khăn và tốn nhiều thời gian.
- Đầu tư theo chiều rộng đòi hỏi thời gian thực hiện đầu tư và thời gian thu hồi vốn lâu: do phải thi công nhiều hạng mục công trình cho nên quá trình thực hiện đầu tư thường kéo dài, bên cạnh đó tác động của các yếu tố tự nhiên như thiên tai, địa hình và các yếu tố tiêu cực cũng ảnh hưởng không ít đến thời gian thi công.
Do vốn lớn nên việc sản xuất bù đắp cho lượng vốn bỏ ra mất rất nhiều thời gian cho nên thời gian thu hồi vốn lâu.
-Đầu tư theo chiều rộng có tính chất phức tạp và độ mạo hiểm cao: tính chất phức tạp do phải xây dựng và lắp ghép nhiều hạng mục công trình. Trong quá trình thực hiện đầu tư, cũng do quá trình xây dựng phức tạp cộng với vốn lớn va tác động tiêu cực của các yếu tố khách quan và chủ quan cho nên đầu tư chiều rộng có độ mạo hiểm cao hơn.
c. Vai trò của đầu tư theo chiều rộng
Đầu tư theo chiều rộng có vai trò hết sức quan trọng.
Đối với toàn bộ nền kinh tế: đầu tư theo chiều rộng là nhân tố làm tăng quy mô của nền kinh tế, tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng với quy mô lớn hơn trước trên cơ sở xây dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế, nhiều khu, cụm công nghiệp trên khắp cả nước.Do đó nó còn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thúc đẩy ,tạo điều kiện và hỗ trợ các vùng kinh tế chậm phát triển, vùng sâu vùng xa được tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước một cách tích cực hơn, mạnh mẽ hơn.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư chiều rộng đi cùng với việc có thêm nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh được xây dựng thêm khiến cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp được mở rộng, đưa năng suất tăng lên cho phép khai thác hiệu quả theo quy mô. Nó còn góp phần tạo ra nhiều việc làm mới, giải quyêt công ăn việc làm cho người lao động ở các địa phương; làm tăng doanh thu của các doanh nghiệp, góp phần làm tăng ngân sách nhà nước, đóng góp vào đà tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đầu tư chiều rộng có hiệu quả càng nhiều thì doanh nghiệp càng có điều kiện về vốn, lao động tài nguyên ,công nghệ để phát triển sản xuất.
d. Nội dung đầu tư theo chiều rộng.
Đầu tư chiều rộng là đầu tư xây dựng mới nhà cửa, cấu trúc hạ tầng theo thiết kế được phê duyệt lần đầu làm tăng thêm lượng tài sản vật chất tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tính kỹ thuật của các công trình tài sản đó vẫn dựa trên những thiết kế có sẵn chưa được cải tạo và hiện đại hoá.
Đầu tư chiều rộng là hoạt động mua săm máy móc thiết bị để đổi mới thay thế cho những thiết bị cũ theo một dây chuyền công nghệ đã có từ trước.
Đầu tư chiều rộng là mở rộng quy mô sản xuất mà không làm tăng năng suất lao động. Đó là đầu tư cho cả bốn yếu tố của đầu vào là lao động, vốn, công nghệ, và tài nguyên một cách tương xứng như nhau, theo một tỷ lệ như cũ để sản xuât theo công nghệ hiện tại.
Như vậy thực chất của đầu tư chiều rộng là để mở rộng quy mô sản xuất nhằm sản xuất một khối lượng sản phẩm lớn hơn nữa trên cơ sở xây dựng mới thêm các hạng mục công trình như nhà xưởng sản xuất, thuê thêm nhiều nhân công để đáp ứng khối lượng yêu cầu tăng thêm của sản xuất và đào tạo cơ bản cho họ có thể đáp ứng được công việc.
1.1.2.3. Đầu từ theo chiều sâu
a. Khái niệm
Theo quan điểm tái sản xuất của Mác, đầu tư theo chiều sâu là đầu tư nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Theo quan điểm ngày nay, đầu tư theo chiều sâu là hoạt động đầu tư được thực hiện trên cơ sở cải tạo nâng cao, đồng bộ hoá, hiện đại hoá, cơ sơ vật chất kỹ thuật hiện có, hoặc xây dựng lại hoặc đầu tư mới một dây chuyền công nghệ, xậy dựng một nhà máy mới nhưng kỹ thuật công nghệ phải hiện đại hơn kỹ thuật công nghệ hiện có hoặc kỹ thuật trung bình của ngành,vùng nhằm duy trì năng lực đã có.
b. Đặc điểm của đầu tư theo chiều sâu
Đầu tư theo chiều sâu phải gắn với công nghệ và đổi mới công nghệ. Hay nói một cách khác nội dung chủ yếu của đầu tư chiều sâu là đổi mới công nghệ nâng cao trình độ sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ mới. Tuy nhiên không thể đồng nhất được hai khái niệm đó mà chỉ có thể hiểu đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ có quan hệ mật thiết, hữu cơ và luôn luôn đi liền với nhau. Đặt vấn đề đầu tư chiều sâu nhằm mục đích tạo ra năng lực sản xuất mới bằng cách áp dụng biện pháp và quy trình tiến bộ hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm hay đầu tư vào khâu trọng yếu trong quá trình sản xuất ra sản phẩm… tất cả những điều đó đều là kết quả cụ thể của đổi mới công nghệ. Đầu tư chiều sâu là nhân tố quyết định đổi mới công nghệ, tạo điều kiện và khả năng cho đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ là nội dung, phương thức tiến hành hoạt động đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
Với đầu tư chiều sâu thì tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng về lao động trong điều kiện nước ta cũng như các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới thì sức ép về lao động lại là vấn đề cấp bách. Đặc điểm này đòi hỏi phải lựa chọn phương án đầu tư sao cho vừa kết hợp được công nghệ truyền thống với công nghệ hiến đại vừa giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư chiều sâu làm giảm chi phí sản xuất tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả đầu tư
- Khối lượng vốn đầu tư không lớn: Thông thường đầu tư chiều sâu được thực hiện theo trọng điểm, do đó chỉ tập trung vào một số yếu tố nhất định như đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động hoặc trang bị thêm máy móc hoặc thay thế các nguyên liệu đầu vào mới hay áp dụng công nghệ mới, do đó khối lượng vốn đầu tư đòi hỏi không lớn và có thể thực hiện dễ dàng nhanh chóng hơn so với đầu tư chiều rộng.
- Thời gian thực hiện đầu tư chiều sâu tương đối ngắn so với đầu tư chiều rộng do khối lượng công việc ít đa dạng hơn. Do đó hình thức đầu tư theo chiều sâu ít mạo hiểm hơn và có độ rủi ro thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
- Do chỉ tập trung đầu tư cho một số hạng mục công trình cho nên hình thức này sẽ thuận lợi hơn cho việc quản lý; tuy nhiên do công việc có tính phức tạp về mặt công nghệ cho nên đòi hỏi phải thi công với kỹ thuật cao.
- Đầu tư theo chiều sâu thu hồi vốn nhanh: Thông thường trong quá trình thực hiện đầu tư việc sản suất vẫn có thể song song, thêm vào đó do khối lượng vốn đầu tư tương đối nhỏ khiến cho việc thu hồi vốn diễn ra nhanh chóng.
c. Vai trò của đầu tư theo chiều sâu.
Đối với nền kinh tế nói chung: Đầu tư theo chiều sâu là điều kiện không thể thiếu được trong điều kiện ngày nay để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế. Không chỉ mở rộng quy mô của nển kinh tế về mặt lượng tức là đầu tư theo chiều rộng mà song song với nó phải tiến hành đầu tư theo chiều sâu để nâng cao mặt chất của nền kinh tế, tức là phải tăng năng suất lao động trên cơ sơ cải tạo nâng cao trình độ của đội ngũ nhân công, sử dụng có hiệu quả các nguồn nhiên liệu khan hiếm trên cơ sở tìm các loại nguyên vật liệu mới có hiệu quả thay thế và tăng cường hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm của nền kinh tế trên cơ sơ đổi mới máy móc công nghệ.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược tồn tại, phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Sau một thời gian mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm chiếm lĩnh một thị phần lớn hơn của sản phẩm trên thị trường, hay sau nhiều chu kì kinh doanh máy móc thiết bị của doanh nghiệp đã bị hao mòn thì các doanh nghiệp đều cần phải tiến hành đầu tư chiều sâu nhằm đổi mới lại thiết bị, tăng cường hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cho các yếu tố đầu vào. Có như thế sản phẩm của doanh nghiệp làm ra mới luôn luôn được đổi mới và nâng cao về chất lượng, qua đó mới có thể cạnh trạnh được với các đối thủ và có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Nhờ đầu tư chiều sâu thì doanh nghiệp có thể nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó có điều kiện giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm nhờ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường.
d. Đầu tư theo chiều sâu
- Đầu tư chiều sâu nhằm làm tăng năng suất lao động. Đó là việc cải tạo nâng cấp, đồng bộ hoá, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ hiện có thay thế dây chuyền công nghệ cũ.Có thể đầu tư cho một trong bốn yếu tố sản xuất hay đầu tư cho cả bốn yếu tố đó.Việc này gồm: đào tạo công nhân sẵn có để nâng cao trình độ cho họ có thể thích ứng với công nghệ mới ( có thể đào tạo trực tiếp tại các doanh nghiệp hoặc liên kết đào tạo với các trung tâm dạy nghề, các trường kỹ thuật), trang bị thêm máy móc, sử dụng thêm các loại nguyên liệu đầu vào mới hay công nghệ mới để tăng sản lượng, giảm chi phí sản xuất với đội ngũ công nhân hiện tại.
- Đầu tư chiều sâu là hoạt động phát triển nguồn nhân lực và đầu tư để tổ chức lại bộ máy quản lý, phương pháp quản lý của doanh nghiệp. Đầu tư chiều sâu là mặt “chất” cho nên chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả của bộ máy quản lý là một nhân tố hết sức quan trọng, quyết định cho hiệu quả sản xuất kinh doanh.
* Xét về mặt đầu tư cho tài sản cố định: nội dung đầu tư cho chiều sâu bao gồm:
- Đầu tư mở rộng là việc xây dựng thêm hoặc mua sắm thêm những đối tượng tài sản cố định mới nằm trong thành phần tài sản cố định có sẵn nhằm tăng cường khối lượng sản xuất.
- Xây dựng lại là việc đầu tư để bố trí lại toàn bộ hoặc một bộ phận các dây chuyền sản xuất ở cơ sở cho phù hợp với điều kiện sản xuất mới.
- Hiện đại hoá là thực hiện tổng thể các biện pháp kỹ thuật nhằm cơ khí hoá, tự động hoá các bộ phận sản xuất đang hoạt động, thay thế những thiết bị cũ đã hao mòn hoặc lạc hậu bằng các thiết bị mới có năng suất, hiệu quả cao hơn.
Duy trì năng lực đã có của các cơ sở đang hoạt động là thực hiện các biện pháp nhằm bù đắp những tài sản cố định đã bị loại bỏ do hao mòn hoặc lạc hậu bằng các thiết bị mới có năng suất và hiệu quả cao hơn.
1.2. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Bản chất mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là mối quan hệ biện chứng giữa mặt chất và mặt lượng. Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát triển của sự vật.Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không tách rời nhau.Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của sự vật.Ở một giới hạn nhất định,khi lượng của sự vật thay đổi,nhưng chất của sự vật có thể chưa thay đổi cơ bản.Khi lượng của sự vật được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định được gọi là độ,thì chất cũ sẽ mất đi,chất mới thay thế chất cũ.Chất mới ấy tương ứng với lượng mới tích lũy được.
Trong hai hình thức trên,đầu tư theo chiều rộng chính là làm tăng mặt lượng,đầu tư theo chiều sâu nhằm tạo ra những biến đổi về chất của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Do đó, chúng ta phải nắm bắt được thời điểm nào thì nên sử dụng hình thức nào và khi nào thì không nên sử dụng hình thức đó.Khi có chính sách đầu tư hợp lý chúng ta sẽ thu được kết quả tốt thỏa mãn yêu cầu mà kế hoạch đặt ra.Thật vậy trong hoạt động kinh doanh nếu thị trường có yêu cầu ngày càng tăng số lượng sản phẩm,mà chúng ta không tập trung vào đầu tư theo chiều rộng thì sẽ không đáp được nhu cầu của người tiêu dùng, sẽ tạo cơ hội cho đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Và ngược lại, khi thị trường yêu cầu được cung cấp mặt hàng trên nhưng với chất lượng cao hơn, mẫu mã phong phú hơn, mà doanh nghiệp không có kế hoạch đầu tư theo chiều sâu kịp thời thì sản phẩm do doanh nghiệp đó sản xuất ra sẽ lạc hậu, không tiêu thụ được.
Tiêu chí dùng để phân biệt 2 hình thức đầu tư này là quan hệ giữa tốc độ tăng vốn với tốc độ tăng năng suất lao động, là trình độ thiết bị công nghệ đưa vào đầu tư. Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư mới hay mở rộng sản xuất. Trong trường hợp này, với một số vốn ban đầu nhất định sẽ làm cho lao động tăng nhanh hơn nhưng trình độ kỹ thuật- công nghệ không tiên tiến, hoạt động hơn kỹ thuật công nghệ hiện có. Còn đầu tư theo chiều sâu là đầu tư được thực hiện trên cơ sở cải tạo , mở rộng và nâng cấp, đồng bộ hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có hoặc có thể đầu tư một dây chuyền công nghệ , xây dựng một nhà máy mới, nhưng kĩ thuật công nghệ phải hiện đại hơn kĩ thuật công nghệ hiện có hay bình quân chung của ngành, địa phương.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai hình thức đầu tư này chỉ mang tính chất tương đối bởi trong hình thức đầu tư này thường chứa đựng hình thức đầu tư kia, và ngược lại. Khi áp dụng hình thức này sẽ không làm hạn chế hình thức kia mà là điều kiện và tiền đề để hình thức đầu tư kia phát triển. Khi một doanh nghiệp có kế hoạch thực hiện đầu tư, họ sẽ đứng trước một quyết định khó khăn,đó là đầu tư vào đổi mới công nghệ tăng năng suất lao động hay đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên như đã nói ở trên hai việc này thường đi kèm với nhau, do vậy doanh nghiệp cần phải kết hợp một cách hợp lí nhất hai hình thức đầu tư này. Mặt khác nguồn lực đầu vào cho hoạt động đầu tư là hạn chế, nếu đầu tư vào chiều rộng thì sẽ thôi hay giảm bớt nguồn lực cho đầu tư theo chiều sâu và ngược lại. Hai cách thức đầu tư này có những đặc điểm, quy trình thực hiện... tương đối giống nhau. Tuy nhiên đầu tư theo chiều rộng mang tính chất tạo mới những điều kiện sản xuất kinh doanh trong khi những điều kiện kĩ thuật khác giữ nguyên. Còn đầu tư theo chiều sâu thì lại đi từ những thứ có sẵn và đổi mới, phát triển chúng lên một trình độ cao hơn hiện tại. Tuy đối lập song hai hình thức này tạo thành một mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất đó thể hiện ở tác động ngang nhau của chúng.
1.2.2. Sự tác động 2 chiều giữa hai hình thức đầu tư này
Trong nền kinh tế , muốn tăng trưởng và phát triển được đều phải thực hiện một cách hiệu quả việc tái sản xuất. Thực chất đây là quá trình đầu tư cho sản xuất và đầu tư cho phát triển. Mọi quá trình sản xuất đều phải không ngừng đổi mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Tái sản xuất vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc mở rộng sản xuất sẽ là điều kiện cần cho tổng sản phẩm quốc dân tăng thêm và là yếu tố thúc đẩy quá trình phát triển. Nền kinh tế càng phát triển càng có nhiều điều kiện tốt hơn cho đầu tư.
Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là hai hình thức đầu tư theo cơ cấu tái sản xuất. Hai hình thức này tuy có sự khác biệt tương đối song chúng luôn gắn liền với nhau, đi kèm thúc đẩy lẫn nhau. Đầu tư theo chiều rộng được tiến hành khi bắt đầu sản xuất kinh doanh, hoặc trong quá trình sản xuất kinh doanh muốn mở rộng quy mô. Đến một thời điểm nào đó, khi dây chuyền sản xuất đã cũ, khó tiếp tục duy trì năng suất hiện có, chúng ta nên tiến hành đầu tư theo chiều sâu. Khi yêu cầu của hãng là tăng thị phần, tăng chỗ đứng cho sản phẩm và vị thế của mình, hoặc khi muốn cải thiện hay duy trì năng lực, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm và doanh nghiệp, tạo đà cho một sự phát triển ổn định lâu dài. Hai hình thức này gắn kết, bổ sung cho nhau để cùng đưa ra các giải pháp kĩ thuật cải tiến phù hợp với doanh nghiệp để đạt công suất cao nhất có thể và đem lại lợi ích tối đa. Không một doanh nghiệp nào có thể sử dụng một trong hai biện pháp riêng lẻ mà phải sử dụng chúng một cách linh hoạt, kết hợp giữa đầu tư theo chiều sâu và đầu tư theo chiều rộng nhằm thu được hiệu quả cao nhất.
Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng để đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả. Doanh nghiệp khi mới hình thành và hoạt động đều phải bắt đầu đầu tư theo chiều rộng . Đó là chuẩn bị các điều kiện để tiến hành sản xuất kinh doanh như xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm các máy móc thiết bị , đào tạo và tuyển dụng nguồn nhân lực. Đây là nền tảng không thể thiếu và hết sức quan trọng nó chính là đòn bẩy là giai đoạn tiền đề giúp cho các doanh nghiệp có những bước tiến tiếp theo. Việc tiến hành đầu tư theo chiều rộng phải đảm bảo tiến độ, khi những điều kiện khởi đầu được hoàn thành tốt, kịp thời thì việc sản xuất theo kế hoạch sẽ thu được những lợi thế rõ rệt. Tuy nhiên, khi quá trình sản xuất kinh doanh đi vào ổn định , chúng ta cần đầu tư tiếp để hoàn thiện bộ máy cho năng suất cao, ổn định.
Và ngược lại đầu tư theo chiều sâu là yếu tố quan trọng để có quyết định đầu tư theo chiều rộng một cách cụ thể. Đầu tư theo chiều sâu là việc tiến hành cải tạo, nâng cấp dây chuyền công nghệ, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…Những biện pháp này sẽ làm tăng năng suất lao động , sản xuất được nhiều sản phẩm với chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ hơn. Từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng doanh thu, chiếm lĩnh thị trường. Hoạt động đầu tư theo chiều rộng chỉ đem lại hiệu quả trong một giới hạn nhất định của công nghệ , trình độ sản xuất. Nếu đầu tư theo chiều rộng quá mức sẽ dẫn tới mâu thuẫn với trình độ quản lí , trình độ sản xuất , khả năng công nghệ …làm cho doanh nghiệp cồng kềnh mà không đạt hiểu quả thậm chí còn giảm năng suất.
Có thể lấy một ví dụ về việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu , đó là công ty gạch ngói Mĩ Xuân. Trước kia đây là công ty phát triểnkhoáng sản 6 thuộc tổng công ty khoáng sản 5 , Năm 1996 công ty phát triển khoáng sản 6 đầu tư xây dựng nhà máy Mĩ Xuân với công suất thiết kế là 25 triệu viên sản phẩm quy chuẩn /năm , tổng vốn đầu tư là 22,5 tỉ đồng. Một năm sau nhà máy đi vào sản xuất sản phẩm sản xuất ra luôn trong tình trạng “cháy” sản phẩm. Do đó năm 2001 nhà máy đã đầu tư thêm 10,5 tỉ đồng để mở rộng công suất thiết kế lên 37 triệu viên/năm. Nhờ việc đầu tư mở rộng này mà doanh thu liên tục tăng: năm 2004 là 33.050tr đồng (tăng 1% so với 2003) . Năm 2005 là 39.959tr đồng (tăng 21%).Đến 2005 công ty đã đầu tư dây chuyền hiện đại sản xuất ngói xi măng mầu với công nghệ phủ màu ướt của Italy , công suất thiết kế là 2 triệu viên /năm với vốn đầu tư gần 10 tỉ đồng , sản phẩm này nhanh chóng chiếm được thị trường, Nâng doanh thu 2006 lên 44 tỉ đồng(tăng 15%) .Nhờ có sự thành công đó công ty không ngừng mở rộng thị trường ra cả nước, do vậy đến nay công ty đã có tới 300 đại lí và cửa hàng đặc biệt có trên 90% sản phẩm từ dây chuyền ngói mới tiêu thụ ở TP HCM. Cuối 2006 công ty lại tiếp tục đầu tư dây chuyền sản xuất thứ 3 với công suất thiết kế 25tr viên gạch ngói/năm tổng giá trị đầu tư là 23tỷ đồng.
Đây là ví dụ khá điển hình thể hiện mối quan hệ rõ nét giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu . Đầu tư theo chiều rộng là bước đầu tạo vốn cho công ty đầu tư theo chiều sâu. Nhờ có sự thành công trong đầu tư theo chiều sâu công ty lại tiếp tục đầu tư theo chiều rộng mở rộng quy mô sản xuất ngày càng thu được lơi nhuận lớn hơn.
Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu không bao giờ tách rời nhau hỗ trợ, bổ sung thúc đẩy lẫn nhau. Hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kì doanh nghiệp nào muốn tăng trưởng và phát triển đều phải đầu tư mở rộng sản xuất . Và quá trình đầu tư đó phải biết kết hợp một cách hợp lí hình thức đầu tư theo chiều sâu và hình thức đầu tư theo chiều rộng .
1.2.3. Mối quan hệ mật thiết giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong sự tác động của môi trường
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là vấn đề không thể thiếu trong sự phát triển của mỗi nền kinh tế. Việc xem xét chúng có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau song để vấn đề được làm sáng tỏ hơn ở đây trong bài viết này xem xét dưới góc độ của doanh nghiệp.
1.2.3.1. Sự tác động từ yếu tố cung cầu thị trường
Cung cầu là hai yếu tố mật thiết có tác động đan xen, chi phối quá trình đầu tư. Trong đó , cầu thị trường là yếu tố cần có, chi phối việc ra quyết định. Khi cầu về sản phẩm cao, sản phẩm không đáp ứng đủ so với mong muốn của thị trường. Lúc đó, phải đánh giá được nhu cầu thị trường mong muốn cũng như khả năng đáp ứng để có kế hoạch cụ thể. Trong ngắn hạn , các nhà đầu tư sẽ thực hiện việc đầu tư theo chiều rộng (mở rộng quy mô các yếu tố đầu vào như nguyên liệu , lao động…) nhằm tận dụng lợi thế theo quy mô đáp ứng nhu cầu thị._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0207.doc