MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007 là năm đất nước ta đã đón chào nhiều sự kiện nổi bật và cùng với nó là nhiều con số rất đáng tự hào. Đặc biệt, trong lĩnh vực đầu tư, lượng vốn đầu tư nước ngoài thu hút được đã đạt mức cao nhất 20,3 tỷ USD, lượng kiều hối 5 tỷ đạt mức cao nhất…Đây quả là những dấu hiệu tốt, những điều kiện tiền đề vô cùng quan trọng đối với nước ta, một nước đang phát triển rất cần vốn cho hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng…Tuy nhiên, có được vốn rồi thì một vấn đề không kém phần q
47 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan trọng là sử dụng vốn sao cho có hiệu quả. Đây không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước mà cũng là của các doanh nghiệp. Đầu tư như thế nào để đem lại tăng trưởng kinh tế cho đất nước, lợi nhuận cao cho doanh nghiệp?
Như chúng ta đã biết, xu hướng đầu tư hiện nay ở đất nước ta cũng như trên thế giới chính là đầu tư chiều sâu kết hợp với đầu tư chiều rộng, mở rộng sản xuất. Tuy vậy, không phải lúc nào hai hình thức này cũng được kết hợp một cách có hiệu quả trong nền kinh tế và trong cả doanh nghiệp. Vậy thực trạng hai hình thức này ở Việt Nam ra sao? Thành tựu mà chúng ta đạt được là gì? Làm thế nào để khắc phục được những hạn chế còn tồn tại? Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, nó quyết định chất lượng, sự phát triển bền vững của nền kinh tế và sự tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp. Do đó, chúng tôi, những sinh viên của chuyên ngành đầu tư đã chọn nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu”.
Đề tài gồm ba phần chính:
Phần 1: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng, chiều sâu.
Phần 2: Thực trạng hoạt động đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Phần 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả mối quan hệ đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Từ Quang Phương đã giúp đỡ chúng em hoàn thành bài thảo luận này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU VÀ MỐI QUAN HỆ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
Khái niệm và phân loại
Khái niệm đầu tư
Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ để đạt được kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực đó có thể là tiền, TNTN, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao.
Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó nhằm thu về mục đích và mục tiêu cho chủ đầu tư trong tương lai.
Theo phương diện tài chính: Đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Theo phương diện tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về một mức tiêu dùng cao hơn trong tương lai.
Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội.
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia.
Phân loại đầu tư
Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Đầu tư cho các đối tượng vật chất, Đầu tư cho các đối tượng tài chính, đầu tư cho các đối tượng phi vật chất.
Theo cơ cấu tái sản xuất: Đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu.
Theo phân cấp quản lý: Tuỳ theo tính chất và quy mô đầu tư của dự án mà phân thành dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B và C, trong đó, dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản, đầu tư vận hành.
Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội: Đầu tư lĩnh vực lưu thông dịch vụ, đầu tư sản xuất.
Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư: Đầu tư ngắn hạn, đầu tư trung hạn và đầu tư dài hạn.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp.
Theo nguồn vốn: Vốn huy động trong nước, vốn huy động từ nước ngoài.
Theo vùng lãnh thổ: cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương
Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau:
Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn và nằm khê đọng trong suốt qúa trình thực hiện đầu tư, đây là cái giá phải trả khá lớn của ĐTPT. Lao động cần sử dụng cho các dự án rất nhiều nhất là các dự án trọng điểm quốc gia.
Thời kỳ đầu tư kéo dài: Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động.
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: Các công trình đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới (Kim Tự Tháp cổ Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn lý trường thành ở Trung Quốc…). Đây là những thành tựu to lớn của đầu tư phát triển.
Các thành quả của các hoạt động ĐTPT sẽ là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên, do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình, tập quán sinh hoạt có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện đầu tư, vận hành các kết quả đầu tư của dự án.
Đầu tư phát triển có rủi ro cao: Do quy mô vốn lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư thường cao. Như vậy, để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro như: nhận diện rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro, xây dựng biện pháp phòng chống rủi ro.
Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư
Hiệu quả của đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố tác động qua lại, đan xen lẫn nhau. Thực chất, hiệu quả của đầu tư là lợi nhuận do hoạt động đầu tư mang lại. Hay nói cách khác, các doanh nghiệp chỉ đầu tư khi dự kiến rằng hoạt động đầu tư (xây dựng một nhà máy mới, mua một nhà máy mới, hay thay thế một dây chuyền công nghệ… ) sẽ tạo ra cho họ lợi nhuận, nghĩa là họ sẽ thu về được một số tiền lớn hơn số tiền do họ bỏ ra đầu tư. Điều đó chứng tỏ, hiệu quả của hoạt động đầu tư phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản là thu nhập, chi phí và môi trường đầu tư.
Thu nhập
Ở góc độ vĩ mô (phạm vi toàn bộ nền kinh tế): khi số lượng hàng bán ra tăng lên hay số “đầu ra” có xu hướng tăng lên sẽ làm tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tăng trưởng kinh tế, mặt khác theo nguyên tắc gia tốc thì những thay đổi về sản lượng có thể biến thành những thay đổi lớn hơn về đầu tư và như vậy sẽ làm tăng tỷ lệ đầu tư phát triển trên GDP tức hiệu quả của đầu tư tăng.
Ở góc độ vi mô: sản phẩm bán được nhiều khiến cho doanh thu bán hàng tăng, khi đó chi phí cố định không thay đổi mang lại lợi nhuận (lãi ròng) trực tiếp cho doanh nghiệp. Theo đó, hiệu quả của đầu tư tăng lên tương ứng, tăng vòng quay vốn, rút ngắn thời gian hoàn vốn, tăng đáng kể các chỉ tiêu NPV, B/C… ngược lại, sau đầu tư mà sản phẩm của doanh nghiệp bán ra không tăng hoặc tăng chậm, doanh thu bán hàng không cao tức là đầu tư không hiệu quả.
Chi phí
Chi phí đầu tư sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp chi ra để tiến hành hoạt động sản xuất trong một chu kỳ kinh doanh nhất định.
Chi phí đầu tư sản xuất có nội dung rất phức tạp với nhiều phương pháp tính khác nhau,nó có mối quan hệ chặt chẽ với chỉ tiêu kinh tế_kỹ thuật khác, ảnh hưởng đến các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư sản xuất:
Lãi suất: trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư ngoài các nội dung về thị trường, công nghệ, quy mô… thì nội dung quan trọng và có ý nghĩa quyết định thực hiện dự án là khả năng huy động vốn đầu tư. Cung về nguồn vốn đầu tư cho thấy nguồn vốn trong nước có vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng, trong đó lãi suất là cầu nối giữa cung và cầu vốn đầu tư. Có nghĩa là dù nhu cầu vốn đầu tư lớn nhưng lãi suất quá cao thì khả năng cung cấp vốn đầu tư bị hạn chế, không thoả mãn được nhu cầu về vốn đầu tư.
Thuế: một yếu tố chi phí quan trọng khác ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế đầu tư đó là thuế. Trong những năm gần đây, thực hiện đổi mới nền kinh tế, chính sách thuế của Việt Nam thể hiện rõ quan điểm ưu tiên cho hoạt động đầu tư, miễn giảm 50% thuế doanh thu từ 1-2 năm, thuế lợi tức doanh nghiệp từ 2-4 năm đối với những cơ sở mới thành lập và đi vào sản xuất. Đặc biệt là đối với việc đầu tư nhằm đồng bộ hoá dây chuyền công nghệ và hiện đại hoá máy móc thiết bị. Thể hiện, giảm 100% thuế nhập khẩu đối với nhập khẩu máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ trọn bộ (không tính thuế doanh thu đối với thiết bị trọn bộ đi liền với công trình xây dựng căn bản …). Điều đó đã thực sự mang lại hiệu quả cho các nhà đầu tư, đồng thời khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất kinh doanh.
Môi trường đầu tư
Ổn định về chính trị xã hội: chế độ chính trị xã hội của một quốc gia ổn định trong một thời gian dài sẽ tạo lòng tin cho các nhà đầu tư, đây là điều kiện tiên quyết cho mọi ý định và hành vi đầu tư. An toàn về vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, không gặp rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội hay môi trường pháp lý.
Chế độ chính sách quản lý đầu tư: nó có thể gây ra nhiều thất thoát, lãng phí lớn khi đồng vốn đầu tư bỏ ra không tương xứng với giá trị đầu tư làm cho đầu tư kém hiệu quả. Nó tác động trực tiếp đến chất lượng công trình xây dựng cơ bản, làm giảm tuổi thọ của các dự án, không đáp ứng đầy đủ chỉ tiêu hiệu quả đầu tư. Đồng thời cũng tác động trực tiếp lên môi sinh, môi trường (có những dự án đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế nhưng làm tác hại lớn đến môi trường: chất thải, khí độc…)
Chính sách đổi mới công nghệ: nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư chiều sâu, nếu không có chính sách công nghệ quốc gia phù hợp thì sẽ bị lệ thuộc về công nghệ, gây lãng phí vốn…
Hệ thống thông tin: hệ thống thông tin giúp các nhà đầu tư nắm bắt được nhu cầu của sản phẩm và các sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới … để các nhà đàu tư có quyết định hiệu quả và chính xác.
Tóm lại, hiệu quả đầu tư chịu tác động của nhiều nhân tố. Muốn nâng cao hiệu quả đầu tư trước hết ta cần phải nhận thức đầy đủ và đúng đắn về thực chất của các nhân tố tác động để từ đó có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực, thúc đẩy những ảnh hưởng tích cực, mang lại hiệu quả đầu tư tối ưu cho doanh nghiệp…
NỘI DUNG CỦA ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU VÀ MỐI QUAN HỆ ĐTCR VÀ ĐTCS
Đầu tư chiều rộng
Khái niệm
Đầu tư chiều rộng là hình thức đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, xây dựng mới nhưng với kỹ thuật công nghệ không đổi.
Nội dung của đầu tư chiều rộng
Đầu tư chiều rộng là đầu tư xây dựng mới nhà cửa, cấu trúc hạ tầng theo thiết kế được phê duyệt lần đầu làm tăng thêm lượng tài sản vật chất tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tính kỹ thuật của các công trình tài sản đó vẫn dựa trên những thiết kế có sẵn chưa được cải tạo và hiện đại hoá.
Đầu tư chiều rộng là hoạt động mua sắm máy móc thiết bị để đổi mới thay thế cho những thiết bị cũ theo một dây chuyền công nghệ đã có từ trước.
Đầu tư chiều rộng là mở rộng quy mô sản xuất mà không làm tăng năng suất lao động. Đó là đầu tư cho cả bốn yếu tố của đầu vào là lao động, vốn, công nghệ và tài nguyên một cách tương xứng như nhau, theo một tỷ lệ như cũ để sản xuất theo công nghệ hiện tại.
Như vậy thực chất của đầu tư chiều rộng là để mở rộng quy mô sản xuất nhằm sản xuất một khối lượng sản phẩm lớn hơn nữa trên cơ sở xây dựng mới thêm các hạng mục công trình như nhà xưởng sản xuất, thuê thêm nhiều nhân công để đáp ứng khối lượng yêu cầu tăng thêm của sản xuất và đào tạo cơ bản cho họ
có thể đáp ứng được công việc.
Ưu, nhược điểm:
Ưu điểm
Đầu tư chiều rộng thành công tạo ra sự tăng nhanh về số lượng sản phẩm
Dựa trên cơ sở khoa học công nghệ ban đầu, đầu tư theo chiều rộng không cần tiến hành nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ mới, giảm được chi phí về thời gian và tiền bạc.
Đầu tư theo chiều rộng góp phần mở rộng quy mô nhà xưởng của doanh nghiệp ở nhiều vùng địa phương, góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ cũng như tăng khả năng tiếp cận nguồn nguyên liệu đầu vào.
Đầu tư theo chiều rộng tạo ra cho nền kinh tế hệ thống công trình xây dựng hoạt động trong nhiều năm, tăng việc làm, giảm thất nghiệp.
Nhược điểm
Đầu tư theo chiều rộng có thời gian dài, vốn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, nên chậm thu hồi vốn, độ rủi ro cao.
Đầu tư theo chiều rộng làm gia tăng số lượng sản phẩm nhưng không làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, không làm tăng năng suất lao động.
Lợi nhuận thu được từ đầu tư theo chiều rộng chủ yếu nhờ tăng số lao động sống do vậy doanh nghiệp phải tuyển thêm nhiều lao động.
Nếu chỉ đầu tư theo chiều rộng thì nền kinh tế khó có thể có được sự tăng tốc và khó đạt hiệu quả cao.
Vai trò của đầu tư theo chiều rộng
Đầu tư theo chiều rộng có vai trò hết sức quan trọng.
Đối với toàn bộ nền kinh tế: Đầu tư theo chiều rộng là nhân tố làm tăng quy mô của nền kinh tế, tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng với quy mô lớn hơn trước trên cơ sở xây dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế, nhiều khu, cụm công nghiệp trên khắp cả nước. Do đó nó còn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thúc đẩy, tạo điều kiện và hỗ trợ các vùng kinh tế chậm phát triển, vùng sâu vùng xa được tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước một cách tích cực hơn, mạnh mẽ hơn.
Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư chiều rộng đi cùng với việc có thêm nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh được xây dựng thêm khiến cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp được mở rộng, đưa năng suất tăng lên cho phép khai thác hiệu quả theo quy mô. Nó còn góp phần tạo ra nhiều việc làm mới, giải quyêt công ăn việc làm cho người lao động ở các địa phương; làm tăng doanh thu của các doanh nghiệp, góp phần làm tăng ngân sách nhà nước, đóng góp vào đà tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đầu tư chiều rộng có hiệu quả càng nhiều thì doanh nghiệp càng có điều kiện về vốn, lao động tài nguyên, công nghệ để phát triển sản xuất.
Đầu tư theo chiều sâu
Khái niệm:
Đầu tư theo chiều sâu là hình thức đầu tư cải tạo, mở rộng, nâng cấp thiết bị hoặc đầu tư đổi mới dây truyền công nghệ trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Nội dung và đặc điểm của đầu tư theo chiều sâu:
Nội dung đầu tư theo chiều sâu
Đầu tư chiều sâu nhằm làm tăng năng suất lao động. Đó là việc cải tạo nâng cấp, đồng bộ hoá, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ hiện có thay thế dây chuyền công nghệ cũ. Đầu tư theo chiều sâu là hình thức đầu tư vào các yếu tố sau: đầu tư nguồn nhân lực, đào tạo công nhân nâng cao trình độ để họ có thể thích ứng với công nghệ mới( có thể đào tạo trực tiếp tại các doanh nghiệp hoặc liên kết đào tạo với các trung tâm dạy nghề, các trường kỹ thuật); trang bị thêm máy móc; sử dụng thêm các loại nguyên liệu đầu vào mới hay công nghệ mới để tăng sản lượng, giảm chi phí sản xuất với đội ngũ công nhân hiện tại.
Thật vậy, với sự hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để chiếm lĩnh được các thị trường, thị phần trong nước và quốc tế. Tức là sản phẩm của họ phải được người tiêu dùng chấp nhận hơn các sản phẩm cùng loại khác trên thị truờng. Để làm được điều đó các doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải tăng cường cải tạo, nâng cấp, đổi mới dây truyền công nghệ hiện có. Chỉ có thay đổi công nghệ hiện đại mới làm cho năng suất lao động tăng, hạ giá thành sản phẩm, cải tạo được mẫu mã sản phẩm, thu hút được người tiêu dùng, tăng đuợc doanh thu và nâng cao được hiệu quả đầu tư.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực:Đầu tư chiều sâu bao gồm hoạt động phát triển nguồn nhân lực và đầu tư để tổ chức lại bộ máy quản lý, phương pháp quản lý. Chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả của bộ máy quản lý là một nhân tố hết sức quan trọng, quyết định cho hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nếu một doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao và dây truyền công nghệ hiện đại thì doanh nghiệp sản xuất được sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu nguời tiêu dùng và thu đuợc lợi nhuận cao. Nhưng nếu trình độ chuyên môn thấp sẽ không thể tiếp nhận công nghệ hiện đại dẫn tới làm thất thoát lãng phí vốn đầu tư. Do đó, thành công thực sự của một doanh nghiệp là phải biết kết hợp chặt chẽ giữa trình độ năng lực của nhân viên và dây truyền công nghệ hiện có.
Đầu tư phát triển bộ máy quản lý và phương pháp quản lý là cách tốt nhất để hạn chế
thất thoát lãng phí trong đầu tư nhất là đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước. Thật vậy, với lợi thế của đội ngũ gần 300.000 doanh nghiệp đủ mọi thành phần, một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng đứng vào hàng cao nhất thế giới, với đội ngũ nhân lực trẻ, nhiều tiềm năng về khoáng sản, dịch vụ, vận tải…là những lợi thế cần khai thác. Mặt khác, khi Việt Nam đã là thành viên của WTO và muốn duy trì tốc độ phát triển nhanh, bền vững chúng ta cần một hệ thống luật pháp chặt chẽ, minh bạch, ổn định, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người kinh doanh.
Đặc điểm của đầu tư theo chiều sâu:
Đầu tư theo chiều sâu phải gắn với công nghệ và đổi mới công nghệ. Hay nói một cách khác nội dung chủ yếu của đầu tư chiều sâu là đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ sử dụng máy móc, thiết bị, công nghệ mới. Tuy nhiên không thể đồng nhất được hai khái niệm đó mà chỉ có thể hiểu đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ có quan hệ mật thiết, hữu cơ và luôn luôn đi liền với nhau. Đặt vấn đề đầu tư chiều sâu nhằm mục đích tạo ra năng lực sản xuất mới bằng cách áp dụng biện pháp và quy trình tiến bộ hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm hay đầu tư vào khâu trọng yếu trong quá trình sản xuất ra sản phẩm… tất cả những điều đó đều là kết quả cụ thể của đổi mới công nghệ. Đầu tư chiều sâu là nhân tố quyết định đổi mới công nghệ, tạo điều kiện và khả năng cho đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ là nội dung, phương thức tiến hành hoạt động đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
Với đầu tư chiều sâu thì tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng về lao động trong điều kiện nước ta và các đang phát triển trên thế giới thì sức ép về lao động lại là vấn đề cấp bách. Đặc điểm này đòi hỏi phải lựa chọn phương án đầu tư sao cho vừa kết hợp được công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại vừa giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư chiều sâu làm giảm chi phí sản xuất tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả đầu tư
- Thông thường đầu tư chiều sâu được thực hiện theo trọng điểm, do đó chỉ tập trung vào một số yếu tố nhất định như đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, trang bị thêm máy móc, thay thế các nguyên liệu đầu vào mới hay áp dụng công nghệ mới.
- Thời gian thực hiện đầu tư chiều sâu tương đối ngắn so với đầu tư chiều rộng do khối lượng công việc ít đa dạng hơn. Do đó hình thức đầu tư theo chiều sâu ít mạo hiểm hơn và có độ rủi ro thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
- Do chỉ tập trung đầu tư cho một số hạng mục công trình cho nên hình thức này sẽ thuận lợi hơn cho việc quản lý; tuy nhiên do công việc có tính phức tạp về mặt công nghệ cho nên đòi hỏi phải thi công với kỹ thuật cao.
- Đầu tư theo chiều sâu thu hồi vốn nhanh: Thông thường trong quá trình thực hiện đầu tư việc sản suất vẫn có thể song song, thêm vào đó do khối lượng vốn đầu tư tương đối nhỏ khiến cho việc thu hồi vốn diễn ra nhanh chóng.
Sự cần thiết khách quan phải có đầu tư theo chiều sâu:
Tiến bộ công nghệ là yếu tố cần thiết khách quan cho tăng trưởng bền vững hay tăng chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Đó là do tiến bộ công nghệ làm tăng hiệu quả sử dụng các loại tài sản vốn và qua đó làm tăng năng suất lao động. Đối với các nước nghèo, sản phẩm sản xuất ra sẽ không có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước nếu như sử dụng công nghệ trình độ lạc hậu.
Trước xu hướng toàn cầu hoá các nước đang phát triển, nhất là nước nghèo, có nhiều cơ hội để nhập công nghệ từ các nước phát triển, đặc biệt là thông qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài và tự do hoá thương mại. Quá trình toàn cầu hoá cũng làm cho các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau hơn, thúc đẩy sự hình thành các liên minh chiến lược, gia tăng xu hướng hợp nhất và mua đứt của các công ty xuyên quốc gia. Các tập đoàn lớn đó đóng vai trò then chốt trong truyền bá kiến thức, thông tin, và chuyển giao công nghệ trên thế giới. Tuy nhiên tốc độ phổ biến và chuyển giao công nghệ sẽ nhanh hơn nếu như trình độ lao động hay vốn con người cũng tăng cả về số lượng và chất lượng. Đó là một thách thức lớn đối với các nước nghèo nếu như các nước này không có khả năng tiếp thu kiến thức và tiến bộ công nghệ mới và điều đó sẽ bất lợi cho tăng trưởng dài hạn của các nước nghèo. Như vậy đầu tư chiều sâu để phát triển kinh tế của Việt Nam là vô cùng quan trọng và cấp thiết vì nó quyết định sự tăng trưởng trong dài hạn của đất nước.
Hiện nay một chiến lược quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước là chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong quá trình thực hiện có vấn đề tồn tại: thị trường hạn hẹp, không ổn định, vốn ít, kỹ thuật công nghệ lạc hậu. Ngược lại do vốn ít nên không có khả năng thay thế công nghệ mới, do đó sản phẩm không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và cũng không có thị trường. Bởi vậy cần thiết phải đầu tư theo chiều sâu, phát triển năng lực sản xuất nhằm nâng cao năng xuất, hạ giá thành sản phẩm để sản phẩm có thể chiếm được cảm tình của người tiêu dùng trên thị trường và có thể chiến thắng được trong cạnh tranh.
Đường lối phát triển kinh tế của nước ta là tiến hành CNH-HĐH với phương châm lấy khoa học công nghệ làm nền tảng, lấy hiệu quả KT-XH làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng phát triển. Do đó cần thiết phải đầu tư theo chiều sâu, coi đó là động lực trực tiếp thúc đẩy CNH-HĐH.
ĐTCS nhằm khai thác tối đa khả năng hiện có của doanh nghiệp, rút ngắn khoảng cách tiến tới kỹ thuật sản xuất tiên tiến, công nghệ hiện đại, đạt hiệu quả KT-XH cao nhất, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý của nền sản xuất hiện đại phù hợp yêu cầu về trình độ tăng trưởng trong những năm tiếp. Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược tồn tại, phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Sau một thời gian mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm chiếm lĩnh một thị phần lớn hơn của sản phẩm trên thị trường, hay sau nhiều chu kì kinh doanh máy móc thiết bị của doanh nghiệp đã bị hao mòn thì các doanh nghiệp đều cần phải tiến hành đầu tư chiều sâu nhằm đổi mới lại thiết bị, tăng cường hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cho các yếu tố đầu vào. Có như thế sản phẩm của doanh nghiệp làm ra mới luôn luôn được đổi mới và nâng cao về chất lượng, qua đó mới có thể cạnh trạnh được với các đối thủ và có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Nhờ đầu tư chiều sâu thì doanh nghiệp có thể nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó có điều kiện giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm nhờ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường.
Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
ĐTCR là nền cơ sở, là bước đi đầu tiên để đầu tư chiều sâu.
Để có thể đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần có được một nền tảng cơ bản. Nền tảng cơ bản đó bao gồm hệ thống nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị, công nhân lao động, đội ngũ cán bộ quản lý điều hành… Những hoạt động này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư ban đầu lớn. Do đó các doanh nghiệp trong thời gian đâu thành lập thường có quy mô vừa và nhỏ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ tích luỹ để có vốn tiếp tục đầu tư. Lúc này, doanh nghiệp cần tiến hành đầu tư chiều rộng để mở rộng hoạt động sản xuất của mình, củng cố vị trí của mình trên thị trường. Sau khi đã có được một nền tảng vững chắc, một vị thế tốt trên thị trường thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất là rất cần thiết. Trên nền tảng có được thông qua hoạt động đầu tư theo chiều rộng, doanh nghiệp sẽ tiến hành đầu tư theo chiều sâu như hiện đại hoá, đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cũng như trình độ quản lý điều hành…Những hoạt động này chỉ có thể tiến hành khi đã có được một nền tảng vững chắc. Vì vậy, đầu tư chiều rộng đóng một vai trò rất lớn đối với hoạt động đầu tư chiều sâu, nó là nền tảng, là cơ sở để hoạt động đầu tư chiều sâu có hiệu quả.
Nếu xét cụ thể đối với một doanh nghiệp trẻ, mới thành lập thì đầu tư chiều rộng chiếm chủ yếu bởi doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cơ bản để có thể tiến hành sản xuất. Tuy nhiên không phải vì thế mà sản phẩm của các doanh nghiệp trẻ kém tính cạnh tranh hơn, bởi họ là những người đi sau có cơ hội áp dụng những công nghệ tiên tiến hơn, xây dựng cơ sở ban đầu hoàn thiện và đồng bộ hơn. Chính vì vậy, lợi thế này sẽ giúp các doanh nghiệp trẻ sau này tiến hành đầu tư chiều rộng có hiệu quả hơn.
Đối với một doanh nghiệp đã có vị thế trên thị trường thì việc kết hợp giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cho hoạt động của mình. Quá trình hoạt động lâu dài sẽ khiến máy móc trang thiết bị của doanh nghiệp bị hao mòn vô hình và hữu hình. Điều này là không thể tránh khỏi. Vì vậy, doanh nghiệp cần bỏ vốn đầu tư thay thế máy móc, thiết bị cũ, tu sửa, cải tạo nhà xưởng…Sự tiến bộ của khoa học công nghệ cùng sự tăng lên của thu nhập người tiêu dùng đòi hỏi sản phẩm làm ra phải cải tiến về mẫu mã cũng như chất lượng và giá cả. Do đó việc duy trì một công nghệ quá lâu sẽ khiến sản phẩm của doanh nghiệp không thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường của các doanh nghiệp mới có công nghệ tiên tiến. Tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt đó của thị trường buộc doanh nghiệp phải có sự thay đổi trong công nghệ cũng như trong quản lý hay nâng cao trình độ công nhân…để từ đó có khả năng tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Tóm lại, doanh nghiệp phải kết hợp một cách khoa học và khéo léo đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu để đem lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp.
Đầu tư chiều sâu tiếp tục tạo tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới.
Đầu tư chiều sâu là động lực thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục sản xuất, tiến hành đầu tư theo chiều rộng. Khi doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu thành công, doanh nghiệp sẽ bắt kịp về trình độ khoa học công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành cũng như hoàn thiện hơn công tác quản lý trong doanh nghiệp góp phần tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Một nền tảng mới được thiết lập đòi hỏi doanh nghiệp có sự củng cố, mở rộng hơn nữa những gì đã làm được. Vì vậy lúc này đến lượt đầu tư chiều rộng cần được tiến hành.
Với nền tảng mới do đầu tư chiều sâu tạo ra, đầu tư chiều rộng sẽ được tiến hành trên những phương diện mới, đưa doanh nghiệp lên vị thế mới với trình độ cao hơn. Đầu tư theo chiều sâu có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể đầu tư nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm mới hoặc các lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng; tạo đà cho doanh nghiệp có thể chuyển từ đơn sản phẩm thành đa sản phẩm hay từ đơn lĩnh vực thành đa lĩnh vực, qua đó doanh nghiệp lại tiếp tục đầu tư theo chiều rộng trên những phương diện mới. Và từ đó, doanh nghiệp có thể khẳng định được vị thế của mình trên thị trường, duy trì tốc độ tăng trưởng, đồng thời không ngừng phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Nhu cầu của thị trường là rất đa dạng, biến động, yêu cầu ngày càng cao về mọi mặt nên đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn linh hoạt trong vấn đề phối kết hợp đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu.
Đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng không tách rời nhau, đan xen và bổ sung lẫn nhau trong quá trình thực hiện chiến lược đầu tư phát triển của doanh nghiệp và đầu tư chiều sâu là chiến lược lâu dài của doanh nghiệp.
Đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ nhau. Đầu tư theo chiều rộng sẽ tạo ra cơ sở nền tảng để tiến hành đầu tư chiều sâu. Đến lượt mình thì đầu tư chiều sâu lại thúc đẩy hoạt động đầu tư chiều rộng. Hai hoạt động này không thể tách rời nhau được. Nếu không có hoạt động đầu tư chiều rộng tiến hành trước để tạo ra cơ sở vật chất cũng như nền tảng ban đầu cho doanh nghiệp thì không thể nào có được hoạt động đầu tư chiều sâu. Và nếu chỉ tiến hành hoạt động đầu tư chiều rộng thì lượng sản phẩm sản xuất ra quá lớn mà không có sự thay đổi để đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu của khách hàng thì sẽ khó tiêu thụ sản phẩm, gây ứ đọng vốn.
Không ngừng bổ sung và hoàn thiện cho nhau nhưng hai hoạt động này cũng có tác động kiềm chế lẫn nhau. Không phải lúc nào đầu tư theo chiều rộng cũng có tác dụng là động lực thúc đẩy đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng không hợp lý, tràn lan thì lại hạn chế hiệu quả của hoạt động đầu tư theo chiều sâu của doanh nghiệp.
Nếu đầu tư theo chiều rộng tạo ra một cơ sở vật chất không phù hợp và đồng bộ như nhà xưởng không đúng quy cách, hay dây chuyền máy móc nhập lúc đầu quá lạc hậu hoặc quá tiên tiến, sự chênh lệch về trình độ công nghệ quá lớn giữa các bộ phận sản xuất… sẽ dẫn đến tình trạng làm đầu tư chiều sâu không phát huy được hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát. Doanh nghiệp không thể phát triển lên được nếu đứng trên một nền tảng không vững vàng như vậy.
Hơn nữa tiềm lực của mỗi doanh nghiệp là có hạn, do đó, đầu tư theo chiều rộng một cách tràn la._.n, không đồng bộ, không có trọng tâm, trọng điểm sẽ làm hạn chế vốn và nguồn lực của doanh nghiệp khi đầu tư theo chiều sâu. Bởi một trong những đặc điểm của hoạt động đầu tư theo chiều rộng là cần lượng vốn lớn, thời gian khê đọng vốn dài nên khi đã đầu tư thì sẽ rất khó rút lại. Nếu tiến hành hoạt động đầu tư chiều rộng trong điều kiện nhu cầu hàng hoá trên thị trường đang bắt đầu bão hoà, hay tiến bộ khoa học công nghệ đang tạo ra một loại sản phẩm mới chất lượng cao hơn thì sau khi tiến hành đầu tư chiều rộng xong khối lượng sản phẩm làm ra là rất lớn nhưng khả năng tiêu thụ đã giảm. Do đó doanh nghiệp sẽ khó thu hồi vốn, hiệu quả đầu tư tạo ra là không cao.
Ngược lại, đầu tư theo chiều sâu không hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp không có đủ điều kiện để tiếp tục đầu tư chiều rộng mở rộng sản xuất. Trong bối cảnh hiện nay, khoa học công nghệ đang hết sức phát triển do đó rất nhiều loại máy móc trang thiết bị hiện đại đắt tiền được tạo ra. Nhưng những công nghệ đó khi đưa vào sử dụng ở nước ta thì không phải lúc nào cũng phù hợp. So với thế giới, thu nhập và trình độ chung của nước ta còn chưa cao. Nếu tiến hành đầu tư theo chiều sâu với những trang thiết bị hiện đại nhập từ nước ngoài về thì chi phí sản xuất sản phẩm sẽ là rất cao, dẫn đến sản phẩm sẽ có giá thành cao. Hoặc máy móc quá hiện đại tạo ra những sản phẩm cũng hiện đại không kém nhưng người tiêu dùng thì không thể sử dụng hết các tính năng của nó. Dù trong trường hợp nào thì sản phẩm của doanh nghiệp cũng trở nên khó tiêu thụ. Do đó, hiệu quả đầu tư là không có, không thu hồi được vốn, gây lãng phí vốn đầu tư. Hơn nữa, không thu được lợi nhuận, thậm chí thất thu làm giảm khả năng tích lũy của doanh nghiệp. Điều này làm hạn chế khả năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp.
Tóm lại, đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hoạt động này góp phần làm tăng hiệu quả của hoạt động kia và ngược lại. Đồng thời, sự kém hiệu quả của hoạt động này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kia. Do đó, để thực hiện đầu tư có hiệu quả thì doanh nghiệp cần xem xét đầy đủ, nghiên cứu kỹ lưỡng để phối kết hợp một cách hợp lý hai hình thức đầu tư này, tạo nên sức cạnh tranh và chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu
Kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là không thể thiếu trong sự phát triển của mỗi nền kinh tế. Việc xem xét chúng có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau song để vấn đề được làm sáng tỏ hơn ở đây trong bài viết này xem xét dưới góc độ của doanh nghiệp.
Sự tác động từ yếu tố cung cầu thị trường
Cung cầu là hai yếu tố mật thiết có tác động đan xen, chi phối quá trình đầu tư. Trong đó, cầu thị trường là yếu tố cần có, chi phối việc ra quyết định đầu tư. Khi cầu về sản phẩm cao, sản lượng không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp nên tiến hành đầu tư theo chiều rộng (mở rộng quy mô các yếu tố đầu vào như nguyên liệu, lao động…) nhằm tận dụng lợi thế theo quy mô đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngược lại, nếu cầu sản phẩm thấp, dây chuyền công nghệ lạc hậu doanh nghiệp nên bắt đầu từ việc cải tiến công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm, mẫu mã hoặc tìm ra sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu mới của khách hàng.
Tương tự như cầu, cung cũng có tác động trực tiếp đến việc quyết định đầu tư. Việc đầu tư theo chiều rộng sẽ được áp dụng khi các nhà sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu trên thị trường. Còn ngược lại, khi cung thị trường quá cao đòi hỏi các nhà cung ứng đầu tư theo chiều sâu.
Cung và cầu là hai yếu tố quan trọng để nhà đầu tư ra quyết định đầu tư theo chiều rộng hay chiều sâu. Do đó, trước khi ra quyết định đầu tư doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ cung cầu trên thị trường và đánh giá đúng khả năng của mình.
Đặc tính sản phẩm
Vòng đời của sản phẩm
Đối với những loại hàng hóa, dịch vụ có tuổi thọ ngắn như lương thực thực phẩm, vật dụng sinh hoạt, các sản phẩm công nghiệp chế biến… việc thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm phải được tiến hành một cách thường xuyên. Vì nếu không thay đổi thì các sản phẩm nhanh bị đào thải, lãng quên trên thị trường. Trong trường hợp này cần tiến hành đầu tư cải tiến công nghệ, làm chất lượng sản phẩm được nâng cao, mẫu mã phong phú. Ngược lại, với những mặt hàng mang tính chất lâu bền và có giá trị lớn thì các hãng thường cạnh tranh với nhau về chất lượng sản phẩm. Do đó với những sản phẩm này nên đầu tư theo chiều sâu.
Chu kỳ sống của sản phẩm
Chu kì sống của sản phẩm là khoảng thời gian kể từ khi hàng hóa được tung ra cho đến khi nó phải rút lui khỏi thị trường. Các nhà đầu tư đều muốn kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm nhằm đạt được hiệu quả cao nhất so với nguồn lực đã bỏ ra. Muốn vậy, doanh nghiệp phải nắm được diễn biến của chu kỳ sống, đặc điểm của sản phẩm để điều chỉnh chiến lược đầu tư cho thích hợp. Chu kì sống sản phẩm thường được chia làm bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn có những cách thức gia nhập thị trường khác nhau, có quyết định đầu tư khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất :
- Giai đoạn hình thành sản phẩm : Ở giai đoạn này, sản phẩm vừa được tung ra thị trường, khách hàng bắt đầu làm quen với sản phẩm, chưa có nhiều nhà cung cấp. Khi đó, đầu tư sản xuất sản phẩm này chủ yếu sử dụng những công nghệ sẵn có chưa cần thiết phải đổi mới, cần tập trung vào quảng bá sản phẩm.
- Giai đoạn phát triển : Sau một thời gian, đã có nhiều người sử dụng và ưa thích sản phẩm, cầu sản phẩm tăng do đó ta nên cần tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất . Bên cạnh đó cũng cần có sự nghiên cứu nhằm cải tiến kỹ thuật để có thể đáp ứng với số lượng lớn hơn, sản phẩm có chất lượng tốt hơn.
- Giai đoạn bão hòa: Lúc này sản phẩm đã tràn ngập thị trường, khách hàng có nhu cầu thay đổi nhu cầu do đó muốn cần thức đầu tư theo chiều sâu. Việc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã để đưa ra sản phẩm mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Giai đoạn suy thoái: Đây là giai đoạn mà mức tiêu thụ sản phẩm bắt đầu giảm sút rõ rệt. Vì thế vấn đề đặt ra trong hoạt động đầu tư lúc này là làm sao kết hợp hài hòa các hình thức đầu tư. Việc đổi mới, cải tiến công nghệ để tìm ra sản phẩm mới có khả năng được thị trường chấp nhận. Đồng thời thu hẹp dần quy mô của sản phẩm cũ và mở rộng quy mô của sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô bao gồm rất nhiều yếu tố như môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa… tất cả đều có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến giai đoạn chuẩn bị, thực hiện và vận dụng các kết quả đầu tư .
Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng nhiều mặt tới các nguồn lực đầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là những ngành phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường tự nhiên như ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác chế biến thủy hải sản …thì việc mở rộng, phát triển các ngành này luôn phải gắn liền với việc nghiên cứu môi trường tự nhiên. Ngoài ra môi trường tự nhiên là điều kiện tiên quyết để đánh giá cơ hội đầu tư. Tài nguyên thiên nhiên khoáng sản, nguyên liệu là yếu tố đầu vào không thể thiếu cho rất nhiều ngành nhất là ngành công nghiệp khai khoáng. Do đó cần đánh giá kỹ số lượng, chất lượng các nguồn tài nguyên trước khi ra quyết định đầu tư. Tránh tình trạng sử dụng lãng phí các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.
Môi trường kinh tế xã hội văn hoá
- Môi trường kinh tế trước hết phản ánh ở tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước. Từ đó có thể xác định được nhu cầu thị trường khi tốc độ tăng trưởng đang ở mức cao và có biện pháp kích cầu khi nền kinh tế đang suy thoái.
- Môi trường chính trị: Sự ổn định về chính trị cũng như những đảm bảo về mặt pháp lý liên quan đến quyền sở hữu và tài sản có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến ý định và hành vi của nhà đầu tư. Theo đánh giá của WB năm 2005 thì mức độ tin tưởng của doanh nghiệp vào tương lai- kể cả độ tin cậy trong chính sách của nhà nước, sẽ quyết định việc doanh nghiệp có đầu tư hay không và đầu tư như thế nào.
- Môi trường văn hóa: Văn hóa là một vấn đề khó nhận biết và hiểu một cách thấu đáo, mặc dù nó tồn tại ở khắp mọi nơi và thường xuyên tới toàn bộ quá trình chuẩn bị, tiến hành đầu tư. Văn hóa tác động trực tiếp đến những người thực hiện hoạt động đầu tư và sau đó tác động đến việc lựa chọn những người tiêu dùng sản phẩm đầu tư đó .
- Lực lượng lao động: Là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình đầu tư, khi nguồn lao động ở một vùng hay một ngành phù hợp và đáp ứng được những yêu cầu sẽ kích thích được hoạt động đầu tư của ngành đó, vùng đó. Với vai trò như vậy việc đầu tư vào lực lượng lao động là lĩnh vực đầu tư không thể thiếu trong mỗi doanh nghiệp.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, CHIỀU SÂU VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU
THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG, CHIỀU SÂU
Năm 2007, năm đầu tiên gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam có những thành tựu nổi bật trong nhiều lĩnh vực với những con số ấn tượng. Tăng trưởng kinh tế đạt 8.5%, mức tăng cao nhất trong 10 năm qua. kỷ lục thu hút FDI, ODA, kiều hối: tổng vốn FDI năm 2007 đã đạt mức kỷ lục 20,3 tỷ USD. Lượng kiều hối của kiều bào ở nước ngoài chuyển về qua các dịch vụ ngân hàng cũng tăng đột biến, đạt mức 6 tỉ USD. Bất ngờ không kém là lượng vốn ODA. Tại hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG2007), cộng đồng tài trợ quốc tế cũng cam kết viện trợ cho Việt Nam hơn 5,4 tỉ USD, mở ra nhiều kênh ODA mới giúp Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình vào năm 2010.
Đầu tư theo chiều rộng
Thành tựu của đầu tư theo chiều rộng
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nổi bật là nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, trung bình 7,5 %/ năm. Chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần được tăng lên rõ rệt. Đời sống của đại bộ phận dân được cải thiện không ngừng. GDP/người tăng từ khoảng 290 USD năm 1995 lên khoảng 630 USD năm 2005.
Quy mô vốn đầu tư xã hội của Việt nam không ngừng tăng qua các năm, trung bình năm trong thời kì 1996-2004 đạt khoảng 13% riêng năm 2004 và 2005, mức tăng này đạt khoảng 17%.
Bảng 1: Tốc độ tăng vốn đầu tư
Năm
Tốc độ tăng vốn đầu tư (%)
2000
15.3
2001
12.5
2002
14.4
2003
12.9
2004
11.6
Nguồn: Tổng cục Thống Kê: Niên giám thống kê, nhà xuất bản thông kê Hà Nội 2004
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng vốn đầu tư
Trong những năm qua, nhờ mở rộng sản xuất, nhiều doanh nghiệp mới được thành lập trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, giúp giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động. Thị trường ngày càng được mở rộng, phát triển, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều và đa dạng hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của dân cư. Trong 3 năm kể từ 2001 – 2003, khu vực doanh nghiệp đã thu hút thêm 1464 nghìn lao động, thu nhập của lao động khu vực doanh nghiệp, bình quân 1.25 triệu đồng / tháng cao hơn nhiều so với khu vực cá thể và hộ gia đình.
Việc thi hành Luật doanh nghiệp mới từ năm 2000, đã tạo xung lực mới cho sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Số lượng doanh nghiệp ngoài nhà nước đăng ký hàng năm tăng lên nhanh chóng. Nếu năm 2001, có 19773 doanh nghiệp đăng ký với số vốn 25.610 tỷ đồng, thì năm 2005, có 45.162 doanh nghiệp với số vốn lên tới 108.800 tỷ đồng. Năm 1996, các doanh nghiệp công nghiệp ngoài nhà nước trong nước chiếm 23,5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, đến năm 2005, tỷ trọng này có thể lên đến gần 28%. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế này đã thu hút được lượng vốn lớn sẵn có trong nước vào đầu tư phát triển và đóng góp vào xuất khẩu. Nếu năm 2001, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân (tính theo giá cố định năm 2000) mới là 37,8 ngàn tỷ đồng, chiếm 23,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thì năm 2005 vốn đầu tư của khu vực này đã lên tới 65,9 ngàn tỷ đồng, tăng 1,7 lần, chiếm 27,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Cùng với đó, khu vực tư nhân cũng tăng lên đáng kể về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp. Kể từ năm 2000, số lượng doanh nghiệp của tư nhân mới đăng ký liên tục tăng nhanh. Năm 2000, số doanh nghiệp được đăng ký là 14413, đến năm 2004, con số này là 36.795. Theo ước tính của bộ KH- ĐT, trong 5 năm (2001-2005) có 152.004 doanh nghiệp của tư nhân đăng ký kinh doanh, đưa tổng số doanh nghiệp tư nhân của nước ta đến năm 2005 lên khoảng 20 vạn. Theo báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố, có khoảng 80 – 85 % số doanh nghiệp đăng ký đang hoạt động.
Cũng trong 5 năm từ năm 2001 -2005, cả nước đã tăng thêm được 65 khu công nghiệp với diện tích 10.005 ha. Số khu công nghiệp được thành lập thời kỳ này đã chiếm tới 1/2 tổng số khu công nghiệp được thành lập từ 1991 đến nay. Các khu công nghiệp được phát triển rộng rãi trên các vùng lãnh thổ của đất nước, trong đó miền bắc chiếm hơn 1/4, miền nam chiếm gần 1/2 tổng số các khu công nghiệp.
Bảng 2: Tình hình phát triển các KCN thời kỳ 2001- 2005
Năm
Số KCN được cấp giấy phép
Tổng số KCN
luỹ kế
Diện tích KCN mới & MR(ha)
2001
3
68
390
2002
10
78
2836
2003
21
99
3622
2004
15
114
4020
2005
16
130
3387
Nguồn:Vụ quản lý KCN, Bộ KH và ĐT, 2005.
Trong thời kỳ này, giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong KCN& khu chế xuất đạt khoảng 44 tỷ $, tăng bình quân 32%/năm, giá trị xuất khẩu đạt trên 21 tỷ $, tăng bình quân 32%/năm. Riêng năm 2005, tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu của doanh nghiệp trong khu công nghiệp và khu chế xuất đạt 14,4 tỷ $, bằng 21,5 % tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
Nhìn chung, tốc độ phát triển đầu tư và sản xuất công nghiệp trong khu công nghiệp đều cao hơn tốc độ phát triển chung của toàn bộ công nghiệp. Cùng với sự hình thành các khu công nghiệp tập chung, nhiều địa phương đã xác định các khu công nghiệp vừa và nhỏ với diện tích từ 10 ha đến 30 ha để giải quyết khó khăn về mặt sản xuất, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là phát triển các làng nghề truyền thống.
Xét theo đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, đầu tư chiều rộng cũng đạt nhiều thành tựu đáng kể. Trước hết, về công nghiệp và xây dựng, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng bình quân tăng trong 5 năm (2001 – 2005) là 10,3% cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của nền kinh tế và được coi là đầu tầu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Nhờ đẩy mạnh đầu tư chiều rộng, năng lực sản xuất của nhiều ngành công nghiệp tăng đáng kể đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống kinh tế và đóng góp lớn cho xuất khẩu. Giá trị công nghiệp xuất khẩu trong 5 năm (2001 – 2005) hơn 79 tỷ$, chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Những sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu của cả nước. Những sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu lớn năm 2005 là dầu thô 7378 triệu $, dệt may 4806 triệu $, giầy dép 3005 triệu $, điện tử là 1442 triệu $, sản lượng một số ngành công nghiệp không nhừng tăng qua các năm:
Bảng 3: Sản lượng của một số ngành công nghiệp
Tên sản phẩm
Đơn vị
1995
2000
2005
Than sạch
triệu tấn
8.3
11.6
32.6
Dầu thô
triệu tấn
7.6
16.3
18.5
Sữa
triệu hộp
173
227
365
Vải lụa
triệu mét
263
356
499
Giấy bìa
Nghìn tấn
216
408
897
Phân hoá học
nghìn tấn
931
1210
2182
Xi măng
triệu tấn
5.8
13.3
27.8
Thép
nghìn tấn
470
1583
3655
Động cơ điện
nghìn cái
29.7
45.8
104.5
Ti vi lắp ráp
nghìn cái
770
1013
2353
Ô tô lắp ráp
nghìn cái
3.5
13.5
64.6
Điện phát ra
tỷ kwh
14.6
26.6
53.3
Nguồn: Thời báo kinh tế, kinh tế Việt Nam & Thế giới, năm 2001 – 2005
Giá trị Công nghiệp liên tục trong 15 năm qua (1991 – 2005) tăng trưởng 2 chữ số, riêng giai đoạn 2001 – 2005, tăng bình quân 15.7% cao hơn so với mức 13.9 % cuả giai đoạn 1996 – 2000, mức 13.7% giai đoạn 1991- 1995, 5.5%của giai đoạn 1986-1990.
Bên cạnh đó, lĩnh vực nông nghiệp cũng có rất nhiều thành tựu đáng kể, vốn đầu tư cho nông, lâm thuỷ sản liên tục tăng, mặc dù tỷ lệ này có xu hướng giảm.
Bảng 4: Vốn đầu tư phát triển dành cho nông lâm - thuỷ sản
Năm
1995
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số (tỷ đồng)
72447
151183
170496
199104.5
131616.2
27500
324000
Cho NLTS (tỷ đồng)
9614.3
20933
16414
17448.1
19575.5
23300
…
Tỷ lệ %
13.3
13.8
9.5
8.8
8.5
8.3
…
Nguồn: Niên giám thống kê
Với lượng vốn đầu tư nêu trên, nhà nước đã tập trung cao cho đầu tư thuỷ lợi. Trong 5 năm qua, vốn đầu tư cho thuỷ lợi đạt 25.511 tỷ đồng ( chưa kể 896 tỷ đồng chi cho tu bổ đê điều). Trong đó, vốn do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lí là 8974 tỷ và vốn do địa phương quản lí là 11637 tỷ đồng để thực hiện 244 công trình trong đó có 256 công trình hoàn thành và đã được đưa vào sử dụng, làm tăng thêm diện tích được tưới 94000 ha, tiêu 146 ngàn ha, ngăn mặn 226 ngàn ha, tạo nguồn 206 ngàn ha, tăng chất lượng cấp nước 1038 ngàn ha.
Hạn chế của đầu tư theo chiều rộng
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đầu tư theo chiều rộng còn có một số nhược điểm.
Sản phẩm nếu chỉ được đầu tư theo chiều rộng thì sẽ cho chất lượng không cao, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường, khả năng thu hồi vốn của các dự án đầu tư theo chiều rộng thấp, độ mạo hiểm cao. Khả năng cạnh tranh, của doanh nghiệp trên thị trường dẫn tới lợi nhuận kém.
Vốn đầu tư tổng xã hội chưa tập trung cho việc hình thành các sản phẩm chủ lực cũng như hình thành các nguồn vốn và lĩnh vực tạo thế và lực cho sự phát triển lâu dài, bền vững và có hiệu quả.
Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng. Nhờ vào đó giá trị xuất khẩu tăng qua các năm. Gia tăng xuất khẩu của cả nước ta trong thời gian qua chủ yếu nhờ vào gia tăng nhu cầu của thị trường thế giới hơn là do các yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ nước ta.
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt Nam thời kì đầy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Ngành dệt may hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển mạnh. Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế,, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Pakixtan, Hàn Quốc…Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những năm qua tuy bổ sung thay thế 1500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng khoảng 15% công suất dệt. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao…
Nền kinh tế nước ta cũng như bất kì nền kinh tế nào khác, không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn độ vốn đầu tư, đất đai, lao động, tài nguyên vì các nguồn lực này đều có hạn. Để đạt được tăng trưởng bền vững và phát triển lên các nấc thang cao hơn, nền kinh tế phải vận hành theo những thước đo và chính sách thích hợp để chuyển sang đầu tư phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất, hiệu quả, giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị tiền vốn, lao động, năng lượng.
Thực trạng của đầu tư theo chiều sâu
Thành tựu
Những năm gần đây việc đầu tư vào nghiên cứu và triển khai khoa hoc công nghệ ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, hoạt động này đã tạo ra nhiều kết quả thiết thực phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đặc biệt là công nghệ nuôi cấy tế bào, hàng năm một số loại cây trồng như chuối, khoai tây, mía, dứa… cây ăn quả, cây lâm nghiệp, cây dược liệu, cây cảnh được nhân giống. Nhiều công nghệ sản xuất giống các loại rau, củ, quả đã được chuyển giao. Giống cà chua lai L1, C95 đã được trồng hơn 300 ha tại Nam Định, Hải Dương, Hà Nam và Hải Phòng cho năng suất 45- 47 tấn/ha. Phục vụ cho nhà máy chế biến cà chua, giúp tăng thu nhập cho nhân dân thêm 20 triệu/ha. Giống khoại tây PO3 tăng năng suất tới 200%, có chất lượng khá cao. Công nghệ phôi vô tính thực vật cũng đựơc nghiên cứu và đạt được một số kết quả nhất định. Mô hình làng nghề sản xuất nấm ở 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Ninh Bình, Sản xuất từ 200– 300 tấn nấm/ năm đem lại thu nhập 3000triệu đồng/ năm.
Thật vậy, nhờ các kết quả nghiên cứu và triển khai cùng với áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ trên tất cả các lĩnh vực. Chúng ta đã đạt được những bước đầu có những thành công. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, rau quả và cây công nghiệp đã bước đầu phát triển mạnh mẽ. Tỷ trọng hàng nông, lâm thủy sản xuất khẩu tăng cao cả về mặt lượng và giá trị. Tổng kinh ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản đạt mức kỷ lục,trên 10 tỷ USD. Điều đáng chú ý là không để xảy ra tình trạng được mùa mất giá. Chất lượng xuất khẩu nông sản được nâng cao, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã bằng giá xuất khẩu gạo của Thái Lan. Được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 5: So sánh giá gạo của Việt Nam và thế giới:
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
FOB Bangkok, 5% tấm
207
178
243
199
237
Giá xuất khẩu trung bình của Việt Nam
182
165
224
188
230
Giá xuất khẩu Việt nam quy ra 5% tấm
190
173
230
190
225
Chênh lệch
17
5
4
9
12
Nguồn: FOA.
Bên cạnh đó, mô hình nghiên cứu về giống cây lâm nghiệp đã đạt được một số kết quả thiết thực với một loạt giống mới được cải thiện trên cơ sở lai tạo và chọn lọc góp phần nâng cao năng suất trồng rừng từ 8 -10 m3/năm đã lên tới 15 – 20m3/năm. Chúng ta đã hoàn thiện và đưa vào áp dụng công nghệ vào sản xuất công nghệ khai thác, bảo quản và chế biến gỗ nhỏ, rừng trồng, rừng ngập mặn. Chế tạo thành công và đưa vào sản xuất các loại máy băm dăm gỗ, sản xuất ván băm nhân tạo, chất phủ tổng hợp, sử dụng gỗ rừng trồng thay thế rừng tự nhiên giúp nâng cao năng suất ván nhân tạo. Ngoài ra công nghệ chế biến gỗ bằng cơ, hoá, nhiệt cũng đạt đuợc nhiều tiến bộ, nhờ đó có thể tận dụng được nhiều loại gỗ tạp, xốp nhẹ giá trị sử dụng thấp trong các công trình xây dựng.
Bên cạnh những thành tựu về nông lâm nghiệp chúng ta có những thành tựu đáng kể về mặt công nghiệp, dịch vụ. Hoạt động nghiên cứu khoa học đã được định hướng và gắn kết rõ rệt vào sản xuất, tìm ra các giải pháp đáp ứng yêu cầu trong cơ chế thị trường như: sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước thay thế nguyên liệu nhập ngoại; đổi mới phát triển công nghệ hiện đại; chế tạo thiết bị, dây truyền thiết bị phục vụ sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Thật vậy, để sản xuất được sản phẩm có chất lượng tung ra chiếm lĩnh trên thị trường, tăng thị phần xuất khẩu, các doanh nghiệp đã phải lao tâm khổ tứ, vất vả trên từng bước đường xây dựng uy tín, chất lượng cho sản phẩm của mình trong môi trường cạnh tranh. Hướng đến hội nhập, khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực doanh nghiệp dân doanh đã chủ động mở rộng đầu tư sản xuất kể cả quy mô lẫn chiều sâu. Bởi lẽ nếu không thay thế đồng bộ hệ thống máy móc cũ kỹ thì các sản phẩm được đưa ra “trình làng” rất khó được khách hàng chấp nhận khi chất lượng thấp mà giá thành lại cao.
Nhờ mạnh dạn đầu tư, hệ thống trang thiết bị máy móc đã dần dần đồng bộ với yêu cầu của từng loại sản phẩm nên hiệu quả sản xuất cùng với uy tín chất lượng sản phẩm đã được nâng lên. Theo từng giai đoạn, giá trị sản xuất công nghiệp luôn vượt mức kế hoạch đã định. Tính chung 9 tháng đầu năm năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 365 nghìn tỷ đồng, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, doanh nghiệp Nhà nước tăng 9,4%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 22%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5% (dầu mỏ khí đốt giảm 4%).
Thị trường xuất khẩu mở rộng. Kim ngạch xuất khẩu đạt 48,38 tỷ USD, tăng 20,5% và vượt 3,1% so với chỉ tiêu đặt ra. Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tích cực, giảm dần tỉ trọng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu các sản phẩm qua chế biến, chế tạo, có hàm lượng và chất xám cao. Cụ thể là kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, thủ công, mỹ nghệ… tăng rất mạnh trong khi đó các mặt hàng dầu thô, than đá có kim ngạch không tăng hoặc tăng chậm. Ví dụ như kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 7,8 tỷ USD, tăng 21,7% so với năm 2006. Một số mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu tương đối cao như: Giày dép 3,9 tỷ USD, tăng 47,73% so với năm 2006. Hàng điện tử linh kiện máy tính 2,2 tỷ đạt 28,8%. Nhóm sản phẩm cơ khí 2,2 tỷ USD đạt 120%, sản phẩm nhựa 45,8%, dây điện và cáp điện tăng 27,7% trong 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu đạt tỷ lệ tăng cao.
Về mặt dịch vụ, du lịch có nhiều khởi sắc do chúng ta đã có nhiều chủ trương đầu tư theo chiều sâu khuyến khích phát triển ngành du lịch, dịch vụ như nâng cao chất lượng dịch vụ, cải tạo và nâng cấp các khu du lịch đồng thời quảng bá rộng rãi. Vì vậy mà hoạt động du lịch phát triển mạnh, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 4,4 triệu lượt người, tăng 17% so với 2006. Lượng khách quốc tế tăng nhanh làm cho nhu cầu về khách sạn và dịch vụ tăng theo. Cơ hội đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch và dịch vụ giải trí tại Việt Nam trở nên cực kỳ hấp dẫn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành du lịch có bước chuyển biến quan trọng. Khoa học công nghệ được ứng dụng đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Hoạt động du lịch đã tạo ra 1,7 triệu việc làm mới, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 14.7%, góp phần nâng cao dân trí, đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài.
Hạn chế
Năng lực đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam là rất yếu, đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ còn rất thấp, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, nơi có nhu cầu cao về đổi mới công nghệ. Theo số liệu hiện có của Tổng cục thống kê năm 2003 thì có khoảng 8% số doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến, 75% có công nghệ trung bình và lạc hậu. Công nghệ của các doanh nghiệp chủ yếu được nhập khẩu từ các nước khác nên thiếu đồng bộ. Trong khi đó chuyển giao công nghệ từ các công ty đa quốc gia cho các công ty con ở trong nước còn rất hạn chế. Theo kết quả điều tra 93 Doanh nghiệp (gồm 60 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 33 doanh nghiệp trong nước) do viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thực hiện năm 2004, 70% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho rằng họ ít tiếp cận được công nghệ của công ty mẹ. Điều này được giải thích phần nào qua các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng công nghệ mức trung bình.
Để thu lợi ích thông qua con đường chuyển giao và rò rỉ công nghệ thì chiến lược thu hút các công ty đa quốc gia là chưa đủ mà đồng thời cần phải tăng năng lực nghiên cứu và triển khai( R& D), đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước. Nếu doanh nghiệp không có khả năng tiếp thu công nghệ, không có lao động trình độ đủ để ứng dụng công nghệ thì sự có mặt của các công ty xuyên quốc gia cũng không mang lại lợi ích nhiều cho doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết, khả năng chuyển giao và tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp trong nước càng dễ dàng hơn nếu như sự chênh lệch về trình độ trong nước và nước ngoài càng thấp. Ngoài ra nếu trình độ lao động quá thấp thì việc chuyển giao và tiếp thu công nghệ mới cũng không xảy ra, chưa nói gì đến đổi mới công nghệ. Điều này cũng cản trở tạo dựng mối liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Vì vậy đầu tư cho công nghệ và đổi mới công nghệ đòi hỏi phải đi đôi với đào tạo đội ngũ lao động có đủ trình độ để nắm bắt và sử dụng công nghệ. Đầu tư lệch pha sẽ dẫn đến tình trạng công nghệ hiện có sẽ không được sử dụng hiệu quả và hạn chế khả năng tiếp thu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, năng lực nghiên cứu và triển khai rất thấp, khả năng đầu tư cho công nghệ và đổi mới công nghệ rất yếu. Chi cho hoạt động này của các doanh nghiệp còn thấp, hầu hết dành chi cho các nghiên cứu tối thiểu về đổi mới mẫu mã, cải tiến sản phẩm trước áp lực cạnh tranh trong nước chứ chưa dành cho nghiên cứu để đổi mới công nghệ. Đặc biệt trong ngành dệt may thiếu thông tin nghiêm trọng, trong khi ngành này rất cần một địa chỉ tin cậy để thẩm định về nguyên vật liệu, công nghệ, thiết bị... nhưng hầu như chưa có. Ông Nguyễn Thành Nhơn, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Nhơn Hữu, giải thích: “Ý thức về tầm quan trọng của công nghệ, thiết bị đối với sự sống còn của doanh nghiệp chưa cao. Sau hơn 4 năm Luật doanh nghiệp ra đời, có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được khai sinh nhưng mức đầu tư cho thiết bị mới vẫn gần như giẫm chân tại chỗ. Chính vì lẽ đó mà khoảng cách giữa các công ty tư vấn công nghệ và doanh nghiệp nói chung ngày càng lớn. Phải đến 20 năm nữa chúng ta mới có thị trường tư vấn đúng nghĩa”. Điều đó được thể hiện rõ trong bảng số liệu sau:
Bảng 6: Tỷ lệ chi cho nghiên cứu và triển khai tính trên doanh thu
Đơn vị : %
tỷ lệ R&D các ngành
DN có vốn nước ngoài
DN trong nước
2001
2002
2003
2001
2002
2003
may mặc – da dày
3.9
2.1
1.4
2.02
2.3
1.04
chế biến thực phẩm
0.6
0.6
0.8
0.6
0.5
2.9
cơ khí điện tử
9
8.4
5.6
0.98
0.9
0.8
tổng số
6.9
4.8
3.2
1.3
1.02
1.14
Nguồn: Tổng cục thống kê
Yếu kém về đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn bộc lộ do thiếu kênh liên kết sản xuất với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thể hiện qua sự yếu kém của ngành công nghệ phụ trợ. Sự thiếu liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đã hạn chế khả năng chuyển giao công nghệ và hạn chế tác động tràn công nghệ mà doanh nghiệp Việt Nam có thể nhận được ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24690.doc