Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta

đề tài mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ: Học sinh : Lớp : lời nói đầu Trong lịch sử kinh tế thế giới, kinh tế thị trường như một tất yếu gắn liền với sự tồn tại của mọi quốc gia , là con đường dẫn tới giàu có , văn minh. Nhân loại đã được chứng kiến sự lớn mạnh chưa từng có của nền kinh tế thị trường .Nó đã tạo ra lượng vô cùng lớn hàng hoá, dịch vụ và góp phần phát triển xã hội. Điều đó ch

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1806 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o thấy tính tất yếu khi chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Thực tế cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quí báu ,song với điều kiện kinh tế , xã hội, tự nhiên riêng , sự vận dụng sáng tạo những cái chung của kinh tế thị trường vào nước ta là rất cần thiết. Trong quá trình vận dụng đó, triết học Mác-Lênin , đặc biệt là phạm trù triết học cái chung ,cái riêng đóng vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động lý luận về kinh tế thị trường. Để góp thêm một tiếng nói đồng tình với đường lối phát triển kinh tế thị trường của Đảng tôi chọn đề tài : Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng ; Vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam làm nội dung nghiên cứu của mình. Hoàn thành tiểu luận này, tôi muốn một lần nữa cũng cố thêm niềm tin,ý chí của mọi người vào con đường xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam,nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng theo quan niệm của triết học Mác xít 1.1. Khái niệm cái chung ,cái riêng: Cái riêng: Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật,một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.Ví dụ như ngôi nhà , cái bàn, hiện tượng ô nhiễm môi trường , quá trình nghiên cứu thị trường của một công ty... Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại trong các cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những nét , những mặt , những thuộc tính chỉ tồn tại ở một kết cấu vật chất nhất định và không lặp lại ở kết cấu vật chất khác.Tính cách của một con người ,vân tay, nền văn hoá của một dân tộc... là những cái đơn nhất. Như vậy cái đơn nhất không phải là một sự vât ,một hiện tượng đơn lẻ mà nó tồn tại trong cái riêng. Nó chỉ là đặc trưng của cái riêng. Cái chung: Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được lặp lại ở nhiều sự vật hiện tượng quá trình riêng lẻ khác nhau. Ví dụ cái chung của người Việt Nam là có một lòng nồng nàn yêu nước, cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư của công nhân làm thuê , hay ngẫu nhiên mười bạn đạt học bổng của trường đều quê ở Thanh Hoá...Ta cần phân biệt cái chung bản chất và cái chung không bản chất. Cái chung bản chất là cái chung qui định sự tồn tại và phát triển của sự vật.Còn cái chung không bản chất là cái chung thường do sự ngẫu hợp mà có.Chẳng hạn cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật Mác-xit là vật chất luôn vận động...Như vậy tính lặp lại là đặc trưng của cái chung.Tính chất này cho thấy những mặt ,những mối liên hệ cơ bản chi phối nhiều quá trình vật chất khác nhau.Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối liên hệ qua lai,gắn kết với nhau. .2. Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng: Phạm trù cái chung ,cái riêng được bàn đến nhiều trong triết học phương tây thời trung cổ.phái duy thực đồng nhất thượng đế vối cái chung và nhấn mạnh rằng : Chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan, là cội nguồn sản sinh ra cái riêng.Phát triển ý tưởng của Platôn về ý niệm, và của Arirstote về ''hình dạng thuần tuý'',các đại biểu nổi tiếng của trường phái này như G.Ơrigenơ và Thomas d Aquincho rằng chỉ có khái niệm phổ biến là tồn tại thực sự ,có trước các sự vật riêng biệt. Chủ nghĩa duy danh lại cho rằng chỉ có những sự vật hiện tượng tồn tậi riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực, còn các khái niệm chung (cái phổ biến) là sản phẩm của tư duy con người. Khắc phục nhựơc điểm của chủ nghĩa duy thực và duy danh, tách biệt cái riêng khỏi cái chung một cách trừu tượng và tuyệt đối, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng có một mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Chúng là hai mặt đối lập tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng và sự tồn tại đó là khách quan . Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung.Không có cái riêng nào tồn tại độc lập, tách biệt. Bất cứ cái riêng nào cũng liên hệ với cái riêng khác , cũng nằm trong mối liên hệ với cái chung tổng thể. Thực ra hai mối liên hệ này là một vì suy cho cùng cái chung nằm trong những cái riêng , được suy ra từ những cái riêng cùng loại. Ví dụ khi xem xét nguyên nhân biểu tình của công nhân ở một công ty có thể do các nguyên nhân trực tiếp như : đến kỳ trả lương nhưng không trả thời gian lao động quá dài mà tiền lương không thoả đáng...Đó là những cái riêng trong từng điều kiện. Song đằng sau tất cả những cái riêng đó là một cái chung bản chất đều do tư bản bóc lột giá trị thặng dư của công nhân. Hay đơn giản ta quan sát các hiện tượng : qủa táo rơi , viên phấn rơi từ trên cao xuống... Các hiện tượng này là những hiện tượng riêng lẻ , là cái riêng. Nhưng chúng đều có một mối liên hệ chung là chiụ tác động của lực hút của trái đất. Mối liên hệ này phải chăng do cái riêng vốn dĩ bao hàm cả cá chung nó chứa trong nó cái chung nên có mối liên hệ này. Ngược lại, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại.Không có cái chung tồn tại độc lập ở đâu đó. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng. Bởi lẽ cái chung vốn dĩ chỉ là những mặt, những thuộc tính, những đặc điểm được lặp đi ,lặp lại ở nhiều kết cấu sự vật khác nhau. Nó không phải là sự vật ,hiện tượng hay quá trình. Ta chỉ biết được lực hút của trái đất qua những hiện tượng trong không gian thất định. Phép biện chứng của cái chung và cái riêng nói trên có thể thấy rõ trong vấn đề lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là một trong những động lực quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.Đó là sự biểu hiện một cách trực tiếp các quan hệ xã hội. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, lợi ích kinh tế chỉ được biểu hiện qua lợi ích của từng thanh phần kinh tế , với những hình thức sở hữu khác nhau ,đối lập nhau. Vì vậy phải làm thế nào để vừa bảo đảm lợi ích toàn dân ,vừa không rơi vào triệt tiêu lợi ích chính đáng của từng công dân. Trong ''Chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2000'' , Đảng ta đã khẳng định :Chiến lược phát triển kinh tế ,xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm,giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực ,tự cường , cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước.Lợi ích của cá nhân , tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Ngoài ra , bất cứ cái riêng cũng luôn luôn vận động , không có cái riêng nào là vĩnh viễn . Nó luôn biến đổi , chuyển hoá , phát triển thành những cái riêng khác . Sự chuyển hoá đó cứ thế diễn ra , kết quả của sự chuyển hoá này là các cái riêng đều có mối liên hệ với nhau . Cuối cùng giữa chúng có những cái chung nhất định . Như vậy , sự liên hệ giữa các cái riêng còn do chính qúa trình vận động , phát triển của nó , do khả năng tự chuyển hoá dể xích lại gần nhau hơn . Những cái riêng cùng loại tự tìm thấy nhau và giữa chúng hình thành nên một cái chung quy luật nào đó. Chẳng hạn , ở những năm đầu thập niên chín mươi của thế kỉ XX , nền kinh tế thị trường nước ta còn rất sơ khai . Các quan hệ hàng hoá tiền tệ còn ở dạng manh nha ,các phạm trù của kinh tế thị trường chưa rõ ràng , sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường nước ta và nền kinh tế thị trường một số nước phát triển khác rất sâu sắc . Nhưng mấy năm gần đây , cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới , chúng ta đã từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường của ta phát triển hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới. Cái riêng là cái toàn thể hơn cái chung . Nó bao gồm cả cái chung và cái đơn nhất . Kinh tế thị trường Việt Nam phải tuân theo qui luật nói chung của kinh tế thị trường thế giới ,song luôn có nét đặc sắc riêng của kinh tế thị trường Việt Nam ,tồn tại trên đất Việt Nam ,do con người Việt Nam dây dựng. Cái chung chiếm giữ phần bản chất , hình thành nên chiều sâu của sự vật . Cái chung ở tầm bản chất qui địng sự tồn tại ,phát triển của sự vật. Cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể hoàn chỉnh và sống động. Cái riêng tồn tại trong sự ''va chạm '' với những cái riêng khác. Sự va chạm này vừa làm cho sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung , với tư cách là một bộ phận tồn tại trong cái chung , vừa làm cho chúng xa nhau bởi cái đơn nhất, không lặp lại ở cái riêng khác . Như vậy cái chung và cái đơn nhất cùng tồn tại trong cái riêng làm sâu sắc và phong phú cho cái riêng. Nếu cái chung làm sâu sắc , thì cái đơn nhất lại làm đa dạng,phong phú cho cái riêng , làm sinh động hoá thế giới sự vật. Bất cứ cái riêng nào bao giờ cũng nằm trong một môi trường ,một hoàn cảnh nhất định. Cùng một sự vật hiện tượng , nếu xét ở cấp độ này nó là cái chung , nhưng xét ở cập độ khác nó lại tồn tại với tư cách là cái riêng trong đó có những cái đơn nhất.Ví dụ như : công nghiệp hoá, hiện đại hoá- quá trình tất yếu của mọi quốc gia khi bước sang kinh tế thị trường . Tuy nhiên , đối với Việt Nam xét trên từng mặt của công nghiệp hoá ,hịên đại hoá lại nảy sinh các vấn đề mang tính đặc trưng của nước ta : huy động vốn trong điều kiện vốn ít ỏi , thị trường vốn chưa phát triển… Trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau . Đây là chuyển hoá của các mặt đối lập trong cùng một sự vật.Sự chuyển hoá này phản ánh quá trình vận động đa dạng của các kết cấu vật chất trong thế giới. Qúa trình chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung thể hiện quá trình phát triển biện chứng của sự vật.Ngược lại sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất thể hiện sự thoái bộ của một sự vật ,hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cho ta một dẫn chứng.Sự tồn tại phổ biến của doanh nghiệp nhà nước từ trước đến nay (vốn được xem là đặc trưng că bản của kinh tế xã hội chủ nghĩa) đang dần dần được thay thế bởi sự ra đời của các công ty ( hình thành từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước) .Hình thức mới này có sức hấp dẫn hơn so với doanh nghiệp .Sự tồn tại đơn thất của nó dần dần phát triển thành phổ biến và trở thành nét chung của kinh tế xã hội chủ nghĩa .Ngược lại , những biểu hiện phổ biến trước đây (như tính chất kế hoạch hoá tập chung cao đọ ,cơ chế hành chính ,bao cấp ) sẽ dần dần mất đi , cá biệt hoá trong một số trường hợp củ thể và không điển hình. Sự chuyển hoá trên cho ta một cách nhìn các phạm trù cái chung ,cái riêng , cái đơn nhất một cách tương đối , trong một mối quan hệ biện chứng. Trong một số trường hợp , ta gần như đồng nhất cái riêng với cái chung .Ví dụ như khi ta nói : du lịch là một loại dịch vụ , quần áo là một loại hàng tiêu dùng....Tuy nhiên , điều đó chỉ nhằm tách sự vật ra khỏi phạm trù khác của nó , và nhấn mạnh sự tác động của cái chung đến cá thể. Từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện giữa cái chung và cái riêng ,đã cho ta một số cơ sở lý luận để tìm hiểu quá trình xây dựng kinh tế thị trường nước ta trong tổng quan kinh tế thị trường thế giới và theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ,nhân dân ta đã chọn. 2. vận dụng cơ sở lý luận về cái chung ,cái riêng vào xây dựng nền kinh kế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 2.1. Khái niệm kinh tế thị trường : Loài người đã chứng kiến sự phát triển của kinh tế hàng hoá ,sự hình thành ,phát triển của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó từ sản suất đến tiêu dùng đều thông qua thỉtường , Nói cách khác , kinh tế hàng hoá phát triển ,trong đó mọi quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá thì gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường , cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó ,cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là gì,như thế nào và cho ai . Một cơ chế bao hàm các nhân tố cơ bản là cung ,cầu, giá cả. Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn ,mà là một trật tự kinh tế ,là bộ máy vi tính phối hợp một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường.Không ai tạo ra nó ,nó tự phát sinh và phát triển cùng với sự ra đồi và phát triển của kinh tế hàng hoá. 2.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan Như một số nước xã hội chủ nghĩa khác , trong một thời gian dài chúng ta đã duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ,quan lưu ,bao cấp .Nó đã đẻ lại những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế : sản suất trì trệ ,đời sống nhân dân sa sút,trong quản lý đã toả ra sự bất lực.Trong nông nghiệp, khoán chui trở thành phổ biến ở nhiều địa phương.Trong công , thương nghiệp , các nhà máy ,xí nghiệp không thể bằng lòng với cơ chế ''cấp phát ,giao nộp " đã tự động "xé giào" do thiếu vật tư nguyên liệu ,vốn liếng ,do sự bất lực của công cụ kế hoạch kiểu cũ ... Cộng vào sự yếu kém của kinh tế là tồn tại những biểu hiện tiêu cực về mặt chinh trị,xã hội. Tình hình càng gay gắt hơn khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,chứng kiến sự thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập chung. Nhìn ra thế giới , đó là sự thành công của kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa : Anh ,Mĩ ,Nhật Bản... Kinh tế thị trường đã có tác dụng phát triển lực lượng sản xuất, đạt được những tiến bộ xã hội nhất định , đặc biệt là xây dựng được những con người có kỉ luật , năng suất lao động cao, năng động ,nhạy bén... Thế giới càng phát triển ,ở Việt Nam hoà bình đã lặp lại , nhân đân không thể chịu mãi cuộc sống quá thấp ,quá lạc hậu như trước .Nhu cầu đặt ra của xã hội với nền kinh tế ngày càng cao .Sản xuất không những đủ tiêu dùng mà còn phải tích luỹ ,tái sản xuất mở rộng ,trong khi nền sản xuất trì trệ,không đủ tiêu dùng tối thiểu ,có khi còn tiêu lạm sang vốn vay nước ngoài. Trong điều kiện đó , sự phát triển của thị trường tự do chen lẫn thị trường có tổ chức.Sự lẵng lặng vi pham những ''quy tắc'' , ''chuẩn mực'' lúc bấy giờ, là những phản ứng kinh tế xã hội phản ánh sự bấp cập , bất lực của một cơ chế quản lý cứng nhắc .Những tìm tòi thử nghiệm trong cuộc sống của đông đảo quần chúng là những hiện tượng kinh tế mới lạ có sức thuyết phục như những giải pháp kinh tế đích thực cả tích cực lẫn tiêu cực để tồn tại. Tình hình đó đòi hỏi cần thiết phải thay đổi. Tuy nhiên ,có quan điểm cho rằng kinh tế thị trường không thể dung hợp với chủ nghĩa xã hội ,với một định hướng công bằng xã hội , tự do ,hạnh phúc ... mà cả xã hội loài người đang hướng tới.Điều đó là hoàn toàn vô căn cứ ,chủ quan duy ý chí. Theo Các-Mác : kinh tế hàng hoá , cái gốc của kinh tế thị trướng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường không phải là cơ sở kinh tế . Vì theo nghĩa đó tất nhiên sẽ dẫn đến một hệ quả : kinh tế thị trường chỉ tồn tại trong chủ nghĩa tư bản . Mà kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế , là cách thức sản xuất của xã hội . Do đó nó hoàn toàn có thể dung dưỡng trong chủ nghĩa xã hội . Hơn nữa ,kinh tế thị trường không những tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan vì vẫn còn cơ sở cho nó tồn tại và phát triển là : 1.Sự phân công lao động xã hội không mất đi mà sự chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao diễn ra trên phạm vi cả nước và thế giới. 2.Trong quá trình đó và dưới chủ nghĩa xã hội , vẫn tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất ,tức vẫn còn sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá. Nó cũng cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.Chủ nghĩa tư bản đã biết sử dụng vai trò to lớn của kinh tế thị trường để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.Chúng ta cũng phải biết khai thác vai trò to lớn của kinh tế thị trường và những mặt tích cực của nó : thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật ,nâng cao năng suất lao động,thúc đẩy phân công lao đông xã hội phát triển...Hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường để phát triển. Tất cả những nguyên nhân trên ta có thể kết luận rằng : chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam là một tất yếu khách quan ,chuyển sang cơ chế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu chiến lược của toàn Đảng ,toàn dân ta, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. 2.3 . Nền kinh tế thị trường nước ta là một bộ phận của nền kinh tế thị trường thế giới Không cái riêng nào là độc lập hoàn toàn , kinh tế thị trường nước ta luôn nằm trong tổng quan kinh tế thị trường thế giới .Nó liên hệ với những nền kinh tế khác hình thành nên nét chung qui luật của một nền kinh tế thị trường. Bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là : kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là kinh tế thị trường với cái đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa vào từng điều kiện kinh tế ,xã hội ,tự nhiên ,vào từng lĩnh vực khác nhau.Với tư cách là cái chung ,kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng là kinh tế thị trường nên trong quá trình xây dựng phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố : a)Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và các thành phần kinh tế để nền kinh tế có '' tự do hoá về kinh tế '' ( tự do cạnh tranh ,tự do kinh doanh và tự chủ), dẫn tới các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao , tự lực ,tự cường phát huy nội lực. b)Các phạm trù vốn có của KTTT như : hàng hoá ,tiền tệ ,thị trường cạnh tranh, cung cầu ,giá trị thị trường,giá cả thị trường và lợi nhuận. c)Kinh tế thị trường là hình thức phát triển của kinh tế hàng hoá nên nó chịu sự tác động của các qui luật vốn có của kinh tế hàng hoá là : qui luật giá trị ,qui luật cung cầu , qui luật lưu thông tiền tệ và qui luật cạnh tranh. d)Hình thành một lớp người năng động ,nhạy cảm , giám nghĩ ,dám làm,ham mê làm giàu chính đáng,quan niệm đúng đắn về mục đích kiếm tiền. e)Một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là mọi biến động kinh tế đều được điều tiết qua giá cả.Gía cả sản xuất lại được điều tiết qua thị trường dưới tác động của quan hệ cung cầu. Cạnh tranh là tất yếu và lợi nhuận là mục tiêu của cạnh tranh. Có lẽ không một môi trường nào thúc đẩy phát triển hơn là môi trường cạnh tranh . Môi trường cạnh tranh bắt buộc mọi chủ thể kinh tế phải tự lựa chọn hai con đường hoặc tiến lên hoặc bị tiêu diệt. Sự cạnh tranh càng gay gắt ,động lực thúc đẩy sự phát triển càng mạnh mẽ .Từ đó mà tự nhiên tạo ra thứ đòn bẩy thần kì ,một chất xúc tác hiệu quả , làm tăng năng suất lao động , cải tiến phương thức sản xuất nhằm giảm chi phí ,tăng cả số lượng và chất lượng. Đặc biệt , là cách mạng hoá phong cách làm việc của người lao động vốn không được chăm sóc trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Vấn đề đặt ra là tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh ,hiệu quả.Cạnh tranh không chỉ ở phạm vi trong nước mà còn ở phạm vi thế giới thông qua mở của và hội nhập quốc tế . Mà cơ sở của cạnh tranh là tính công bằng và tự do. Ngay từ buổi sơ khai của nền kinh tế thị trường thế giới, bên cạnh tính tự do của nó là một cơ chế vận hành theo sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Và ngay trong thời đại ngày nay ,sự quản lý vĩ mô của nhà nước cũng là một xu hướng khách quan đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Không có một nhà nước nào đứng ngoài nền kinh tế,không có một nền kinh tế thị trường nào thuần tuý mà ở những mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của nhà nước.Nhà nước điều tiết kinh tế thông qua phương pháp ''chương trình hoá'' với khả năng điều hành các ngân hàng lớn, các hệ thống tín dụng và thương mại .Nhà nước có thể điều tiết ở một mức độ nào đó giá cả thị trường ,giảm chi phí sản xuất,đầu tư vào các lĩnh vực khoa học - kĩ thuật thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao .Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo ,mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai măt , tính biện chứng , nó vốn có những khuyết tật,đặc biệt là về mặt xã hội.Cũng như các nước khác trên thế giới,Việt Nam phải đối mặt với những hiện tượng : ô nhiễm môi trường , lạm dụng tài nguyên, sự phân hoá giàu nghèo ,vấn đề đạo đức ,tình người, văn hoá dân tộc có xu hướng bị mai một do quá trình hội nhập...Một nhà nghiên cứu phương Tây đã nhận xét về xã hội của các nước phát triển cao như sau :'' Trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta , tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá ,trí não ,đạo đức và tình người''.Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ. Đó là những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường mà bất cứ quốc gia nào khi xây dựng kinh tế thị trường cũng phải đối mặt . Chỉ khác nhau ở chỗ mỗi nhà nước có một cách đối sử với chúng riêng. Nền kinh tế thị trường nước ta cũng tuân theo xu hướng toàn cầu hoá ,hội nhập và hợp tác quốc tế.Qúa trình này đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ cuốn hút tất cả các nền kinh tế trên thế giới . Nó có những nguyên tắc, những thiết chế riêng bắt buộc các chủ thể tham ra đều phải tuân theo Qua đó mà có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau.Kinh tế thị trường Việt Nam chịu sự tác động của kinh tế thị trường thế giới và ngược lại nó cũng tham gia đóng vai trò là bộ phận của chỉnh thể đó. Qúa trình hình thành các loại thị trường ở Việt Nam là quá trình phát triển từ thấp đến cao,từ rối loạn đền ổn định ,hoà nhập thị trường quốc tế.Đây là một trình tự mà nền kinh tế thế gới đã trãi qua. 2.4. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , đặc trưng của kinh tế thị trường Việt Nam. Với tư cách là cái riêng ,ngoài những nét chung đã trình bày ở trên kinh tế thị trường nước ta còn có những đặc điểm riêng phân biệt với nền kinh tế thị trường của các nước khác. Điều này được quy đinh bởi những điều điều kiện mang tính chất lịch sử ,xã hội đặc biệt là chế độ chính trị. 2.4.1. Một số điều kiện mang tính lịch sử của nền kinh tế Việt Nam trước khi bước sang kinh tế thị trường. Đặc điểm kinh tế: nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, mang nặng tính tự cung ,tự cấp, cơ sở hạ tầng thấp kém, lực lượng sản xuất thô sơ,lạc hậu , đối với người lao động trình độ thấp kém, mang nặng tư tưởng tiểu nông... Bị chiến tranh tàn phá nặng nề . Chịu sự kìm hãm của mấy chục năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan lưu, bao cấp.Cụ thể là : -Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trung tâm.Điều đó đã làm sơ cứng nền kinh tế, nền kinh tế không có động lực ,không có đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động,của chủ thể sản xuất kinh doanh,sản xuất không gắn liền với nhu cầu ,ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế . -Các quan hệ căn bản của nền kinh tế : hàng hoá - tiền tệ , tín dụng, thương mại chỉ còn là hình thức. -Các quan hệ hành chính - kinh tế can thiệp qúa sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở ,nhưng không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình đẫn đến hiệu quả kinh tế rất thấp. Bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều khâu trung gian và kém năng động từ đó phát sinh một đội ngủ cán bộ kém năng lực quản lý,không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan lưu cửa quyền. Tất cả đã làm cho nền kinh tế suy thoái , thiếu hụt , hiệu qua thấp, nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không thực hiện được. 2.4.2. Những đặc điểm riêng phân biệt kinh tế thị trường nước ta với các nước khác. Xuất phát từ điều kiện lịch sử trên , kinh tế thị trường Việt Nam có những đặc trưng sau : Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất ,xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội và thiết lập quan hệ sản xuất mới.Mục đích của chúng ta là xây dựng nước ta thành một xã hội dân giàu ,nước mạnh ,công bằng,dân chủ văn minh. Nếu kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản như ở Anh, Pháp,Mĩ... dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu , trong đó sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nền tảng thì kinh tế thị trường ở nước ta lấy sở hữu tập thể, toàn dân ,nhà nước làm chủ đạo.Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa , cũng có nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo tư bản là chủ yếu thì kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng thực hiện nhiều hình thức phân phối : phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất , kinh doanh, và phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Trong khi ở các nước tư bản chủ nghĩa 80% tổng thu nhập của toàn xã hội lại nằm trong tay 20% dân số , còn 20% của cải còn lại giành cho 4/5 dân số nghèo đói. Thì chúng ta thực hiện phân phối theo nguyên tắc công bằng , phân phối theo lao động ,theo vốn , trên cơ sở khuyến khích mội người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp ,đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội Tuy nhiên để có động lực cho sự phát triển , chúng ta chấp nhận phân hoá khi phân phối . Điều quan trọng là phải phân biệt : phân hoá theo bất công thì kiên quyết xoá bỏ ,nhưng phân hoá do lao động sáng tạo cần khuyết khích. Chúng ta không coi bất bình đẳng xã hội như một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế , mà thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó.Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị ,trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội,đến chính trị.Dưới chủ nghĩa tư bản phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo giá trị sức lao động, còn theo tư bản theo giá trị tư bản.Như vậy thu nhập của người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động ma thôi .Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu ,do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng.phân phối theo lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội . Thu nhập của người lao động không chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó phải vượt qua giới hạn đó.Nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế.Vì vậy, cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập.Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,huy động được mọi nguồn lực kinh tế vào phát triển kinh tế. Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta , sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với sự tiến bộ ,công bằng xã hội trong mỗi bước phát triển.Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với việc đẩy mạnh văn hoá ,giáo dục để nâng cao dân trí ,đảm bảo nguồn nhân lực và xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bước chuyển sang kinh tế thị trường , vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa được xem xét một cách cơ bản toàn diện từ kinh tế đến chính trị xã hội . Xét riêng phạm vi kinh tế , Nhà Nứơc sử dụng hai nhân tố khách quan trực tiếp góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghiã .Trước hết định hướng về chế độ kinh tế,vai trò quản lý của Nhà Nước xã hội chủ nghĩa và sau đó là vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà Nước. Việc định hướng cho chế độ kinh tế được thực hiện thông qua các chiến lược qui hoạch ,kế hoạch phát triển kinh tế thị trường ; Nhà Nước đầu tư các dự án vào các lĩnh vực then chốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển đúng định hướng ; ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như chống lạm phát , chống khủng hoảng , ngăn ngừa những xung đột xấu trong nền kinh tế . Nhà Nước với chức năng quản lý ,điều tiết nền kinh tế , tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như bảo đảm sự ổn định về chính trị ,xã hội ,thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh hoạt động hiệu quả. Xây dựng kết cấu hạ tằng kinh tế -xã hội bảo đảm yêu cầu của phát triển kinh tế. Nhà Nứơc quản lý tài sản công và kiểm kê,kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế ,xã hội.Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà Nướcvề kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà Nước . Nhà Nứơc chỉ với chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô , không can thiệp quá sâu vào chức năng quản trị kinh doanh cũng như quyền tự chủ của doanh nghiệp. Cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một nội dung quan trọng là chức năng sữa chữa những thất bại của kinh tế thị trường bảo đảm mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội . Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu quả. Nhưng cơ chế thị trường hoạt động phi nhân tính , nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo và xã hội ,không mang lại những kết quả mà xã hội cố vươn tới. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một một sự phân phối thu nhập tối ưu . Sự can thiệp của Nhà Nước nhằm phân phối thu nhập công bằng ,bảo vệ các thành viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế ,nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất .Điều đó được thực hiện thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội. Hàng năm Nhà Nước chi một lượng ngân sách khá lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo và chính sách xã hội . Công tác này không chỉ được thực hiện qua các quỹ tài chính như : vốn ngân hàng ,tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các đối tượng đói nghèo , đối tượng chính sách …Mà còn có công tác hướng dẫn họ trực tiếp làm giàu chính đáng. Để giảm sự chênh lệch giữa các vùng ,các miền , Nhà Nước có cá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21095.doc