LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế – xã hội chuyển từ tự cung, tự cấp, kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến hoạt động kinh tế và đời sống xã hội nói chung. Nhờ có sự chuyển biến định hướng đúng đắn có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước, đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao hơn. Cơ ch
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2302 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay, qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng - Thành phố Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế thị trường đi sâu vào mọi khía cạnh của đời sống, các mối quan hệ của con người đang có sự thay đổi lớn. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng đang chịu những sự tác động từ sự thay đổi đó.
Có thể nói gia đình vốn được coi là tế bào của xã hội, nó phản ánh tất cả những gì đang diễn ra ngoài xã hội, các mối quan hệ xã hội của con người đều bắt đầu từ gia đình. Người xưa giải thích về gia đình như sau: “Nhân hữu hằng ngôn giai viết; Thiên hạ quốc gia, thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại nhân” có nghĩa là người ta muốn nói rằng thiên hạ là quốc gia, gốc của quốc gia chính là gia đình, gốc của gia đình là bản thân mỗi cá nhân.
Trong tiến trình đổi mới của mình, Việt Nam đang chịu tác tộng mạnh mẽ của những chuyển biến về kinh tế – xã hội ở trong nước và quá trình toàn cầu hoá thì một trong những mục tiêu quan trọng của Đảng và nhà nước là tăng cường sự tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của phụ nữ nhằm nâng cao vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình nói riêng và ngoài xã hội nói chung.
Sự phát triển của xã hội sẽ làm vai trò và vị trí của người phụ nữ được nâng lên đáng kể. Phụ nữ đã có quyền bình đẳng so với nam giới. Họ được tự do học hành, được tham gia vào các hoạt động của xã hội theo khả năng của mình, có được quyền bỏ phiếu, ứng cử… Tuy nhiên ở nước ta, các yếu tố truyền thống, đặc biệt là tư tưởng nho giáo vẫn còn là một nhân tố đáng kể tác động trực tiếp đến quan niệm và hành vi ứng xử của người dân trong xã hội. Các chuẩn mực xã hội và những lễ giáo phong kiến khiến cho người phụ nữ luôn bị rằng buộc trong gia đình, rơi vào địa vị phụ thuộc, luôn sống bó hẹp trong “tam tòng tứ đức” và có thân phận thấp hèn, không được bình đẳng với nam giới. Nhiều nơi phụ nữ bị đối xử bất công, luôn bị lép vế, lao động cực nhọc, thức khuya dậy sớm, không có tiếng nói trong gia đình, không được tham gia vào các công việc xã hội. Quan niệm “trọng nam khinh nữ” và tư tưởng coi thường người phụ nữ vẫn còn đang tồn tại dưới nhiều biến thái khác nhau. Chế độ gia trưởng và sự bất bình đẳng thường là những nguyên nhân dẫn đến sự phụ thuộc trong cuộc sống gia đình của người phụ nữ. Định kiến hẹp hòi của xã hội đang bao trùm lên người phụ nữ, gán cho người phụ nữ vai trò nội trợ như là một biểu trưng chung của người phụ nữ, khiến họ không thể tách rời khỏi gia đình, khỏi vai trò nội trợ của mình để tham gia hoạt động xã hội. Bác Hồ đã từng nói “Nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có một nửa”. Quyền bình đẳng thực sự của người phụ nữ theo bác là “người phụ nữ Việt nam đứng ngang hàng với người đàn ông để hưởng mọi quyền công dân”. Thực chất của vấn đề bình đẳng nam nữ được Bác quan tâm là sự bình đẳng không chỉ ở góc độ chính trị mà còn ở góc độ kinh tế, không chỉ ở góc độ nghĩa vụ mà còn là quyền lợi, quyền được đào tạo, học hành, quyền được tham gia lao động xã hội, quản lí xã hội…
Ngày nay trong qua trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đã có rất nhiều biến đổi và gia đình cũng đang chịu sự tác động mạnh mẽ của sự chuyển biến đó. Điều đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là sự chuyển đổi về cơ cấu xã hội và cùng với nó là sự phân công lao động. Quá trình tàon cầu hoá, khu vực hoá cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ tiên tiến đã tác động đến các giá trị văn hoá - xã hội ở Việt Nam. Trong những điều kiện kinh tế và môi trường xã hội như hiện nay, qua hệ giới trong gia đình cũng có sự thay đổi tích cực làm chi gia đình được củng cố và phát triển, đem lại hạnh phúc cho các thành viên của nó. Gia đình hạnh phúc sẽ là nguồn dinh dưỡng cho sự ổn định của cộng đồng, cho qua trình phát triển của xã hội. Sự thay đổi trong quan hệ giới như vậy sẽ là biểu hiện trực tiếp xu hướng củng cố, hoàn thiện vị trí và vai trò của giới trong thiết chế gia đình.
Sự thay đổi quan hệ giới và tính tất yếu của nó làm cho cả giới nam và giới nữ đều phải tự nhận diện lại bản thân mình, điều chỉnh và thích nghi với nhau trong cả suy nghĩ và hành động. Một trong những hiện tượng quan sát được là trách nhiệm đối với các công việc trong gia đình giờ đây không còn là bổn phận chỉ dành riêng cho giới nữ. Đồng thời việc kiếm tiền nuôi sống gia đình cũng như việc tham gia các quan hệ xã hội bên ngoài gia đình không còn là khoảng trời riêng của nam giới. Người vợ tham gia vào công việc và quan hệ xã hội rộng lớn hơn. Ngược lại, người chồng đã phải chia sẻ bổn phận và trách nhiệm đối với công việc nhà, ngay cả công việc nội trợ vốn trước đây là “quyền bất khả xâm phạm” của nữ giới.
Bình đẳng cho phụ nữ là một đòi hỏi cần thiết và thiết thực nhằm đem lại sự giải phóng cho phụ nữ, tạo cho phụ nữ có nhiều cơ hội cùng nam giới tham gia vào các hoạt động xã hội, có được vị trí và chỗ đứng cả trong gia đình và ngoài xã hội.
Trong phân công lao động theo giới có những hoạt động công việc khác nhau như: công việc nội trợ, chăm sóc và giáo dục con cái, các công việc ngoài cộng đồng, quyền quyết định chính trong các công việc gia đình… vậy chúng ta nghiên cứu xem sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình diễn ra như thế nào? Có hay không cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển của gia đình? Liệu đã có những đánh giá công bằng công lao đóng góp trong việc nuôi sống gia đình của người vợ và người chồng chưa? Hay nói cách khác chúng ta đi nghiên cứu xem trong gia đình phụ nữ và nam giới ai làm gì? Ai có gì? Ai được gì? Có sự bất bình đẳng trong phân công lao động không?
Để góp phần trả lời những câu hỏi trên tôi chọn đề tài “Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn. Từ đó đề ra những khuyến nghị và giải pháp để nâng cao hơn nữa vai trò của người phụ nữ, phát huy hết tiềm năng của họ, góp phần xây dựng một xã hội ngày càng phát triển công bằng và văn minh.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thưc tiễn:
* Ý nghĩa khoa học:
Nghiên cứu đề tài “mối quan hề giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn góp phần làm rõ thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng và quyền quyết định chính trong công việc gia đình. Đồng thời làm sáng tỏ một số ly thuyết xã hội học trong việc vận dụng vào nghiên cứu các vấn đề của gia đình nảy sinh trong thực tiễn xã hội.
Từ kết quả nghiên cứu, tôi hi vọng đóng góp vào cơ sở lí luận của các chuyên ngành Xã hội học gia đình, Xã hội học về giới… trong việc khẳng định tầm quan trọng của các nghiên cứu giới trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt nhấn mạnh mối tương quan giữa vị trí, vai trò của vợ và chồng trên cơ sở phân tích, nhìn nhận ly giải các vấn đề của sự phân công lao động trong gia đình.
* Ý nghĩa thực tiễn
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của các thành viên trong gia đình càng nặng nề thêm. Người phụ nữ ngày càng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong gia đình nhưng xã hội và mỗi người chúng ta chưa thấy rõ vai trò của người phụ nữ, trong nhiều gia đình vẫn còn sự tồn tại bất bình đẳng trong việc phân công lao động. Vì vậy qua nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ giới về phân công lao động trong các gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn góp phần nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong xã hội về địa vị, vai trò của người phụ nữ trong gia đình.
Hy vọng cung cấp thêm một số thông tin xã hội học cho các nhà hoạch định chính sách, những người quan tâm về vấn đề phân công lao động trong gia đình dưới góc độ giới, từ đó đề ra những chính sách phù hợp, có cách nhìn đúng đắn hơn, toàn diện hơn và có giải pháp thiết thực nhằm phát huy khả năng tích cực của chị em phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu:
Với đề tài “Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong các gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng - thành phố Lạng Sơn, trong khuôn khổ một báo cáo thực tập, tôi đi sâu tìm hiểu một số khía cạnh sau:
Mô tả thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng, vai trò quyết định của mỗi giới trên địa bàn nghiên cứu. Đặc biệt tìm hiểu mức độ tham gia của người chồng vào công việc nội trợ của gia đình.
Tìm hiểu xu hướng điều chỉnh vai trò giới trong mối quan hệ giữa vợ và chồng.
Tìm hiểu những chuyển biến trong vị thế, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và nguyên nhân của sự thay đổi đó. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu bước đầu cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách về quyền bình đẳng giữa nam và nữ, các giải pháp quản lí xã hội, tuyên truyền, giáo dục nâng cao vị thế, vai trò của người phụ nữ. Đồng thời củng cố nhận thức trong việc đánh giá về phụ nữ, tạo mọi cơ hội bình đẳng cho phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn.
Đánh giá, kết luận và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu trên, báo cáo xác định một số nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Phân tích sự phân công lao động theo giới đối với công việc nội trợ.
+ Phân tích sự phân công lao động theo giới đối với công việc chăm sóc gia đình và giáo dục con cái.
+ Phân tích sự phân công lao động theo giới đối với những công việc mang tính cộng đồng.
+ Phát hiện và làm rõ sự bất bình đẳng trong phân công lao động theo giới hiện nay ở địa bàn nghiên cứu.
+ Làm rõ quyền quyết định của mỗi giới trong công việc gia đình.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình hiện nay.
* Khách thể nghiên cứu:
Các gia đình trên địa bàn của phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian nghiên cứu : 1 phường (phường Hoàn văn Thụ) và 1 xã (xã Hoàng Đồng) thuộc thành phố Lạng Sơn
- Thời gian nghiên cứu : 2 tuần (từ 18/04 đến 22/04/2005)
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận:
Báo cáo đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như một cơ sở phương pháp luận của toàn bộ quá trình nghiên cứu.
Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể bằng cách tiếp cận, nghiên cứu, xem xét vấn đề theo quan điểm tôn trọng giữ gìn và phát huy những nét đẹp, tích cực của quá khứ và xoá bỏ những cái lạc hậu, tiêu cực, không phù hợp với sự biến đổi của xã hội.
Vận dụng cơ sở lí luận và phương pháp luận của xã hội học Mác xít nhằm giải thích sự vận động, biến đổi và phát triển của việc phân công lao động, nhất là vấn đề phân công lao động theo giới. Các lí thuyết về giới như : Lí thuyết chức năng giới, lí thuyết xã hội học về giới, lí thuyết cấu trúc – chức năng, lí thuyết tương tác biểu trưng giới, lí thuyết học tập - xã hội, xã hội học gia đình…
Cùng với việc vận dụng những nguyên tắc phương pháp luận của xã hội học Mác xít và các lí thuyết khác, báo cáo cũng vận dụng các chủ trương, đương lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn kiện về đổi mới, về giải phóng phụ nữ được ban hành, những công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đại diện:
Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát trên đại bàn phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn. Đây là hai nơi có tiêu chí phù hợp với đề tài, vấn đề phân công lao động giữa vợ và chông có nhiều vấn đề phải nghiên cứu, vấn đề này không chỉ xảy ra trong một số hộ mà nó phổ biến trong các hộ ở hai địa điểm này.
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi:
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp qua 828 người dân tại các hộ gia đình ở phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn nhằm mục đích đo đạc các khía cạnh định lượng về đối tượng nghiên cứu để thu được những thông tin đặc trưng nhất qua hệ thống những chỉ báo, các số liệu định lượng và các biểu tương quan, tần suất để nhìn nhận và đánh giá tổng thể vấn đề nghiên cứu. Số liệu thu được từ 828 bảng hỏi sẽ được xử lí bằng chương trình SPSS. Số liệu này sẽ làm căn cứ để kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu của đề tài.
Cơ cấu mẫu như sau:
* Cơ cấu giới tính:
- 396 nam (47,8%)
- 432 nữ (52,2%)
* Cơ cấu tuổi:
- Dưới 20 chiếm 2,4%
- Từ 21 – 40 chiếm 50,8%
- Từ 41 – 60 chiếm 40,8%
- Trên 60 tuổi chiếm 5,9%
* Cơ cấu dân tộc:
- Kinh chiếm 42,4%
- Nùng chiếm 20,5%
- Tày chiếm 33,5%
- Hoa chiếm 3,0%
- Khác chiếm 0,6%
* Cơ cấu trình độ học vấn:
- Không biết chữ chiếm 1,6%
- Dưới PTTH chiếm 38,3%
- PTTH chiếm 40,1%
- Trung cấp, dạy nghề chiếm 9,7%
- Cao đẳng, đại học, trên đại học chiếm 10,4%
* Cơ cấu nghề nghiệp:
- Nông dân chiếm 27,4%
- Công nhân chiếm 3,9%
- CBCNVC chiếm 9,2%
- Buôn bán, dịch vụ chiếm 30,6%
- Nghề tự do chiếm 7,7%
- Đang đi học chiếm 3,5%
- Nghỉ hưu chiếm 9,7%
- Nội trợ chiếm 4,5%
- Khác chiếm 1,4%
- Thất nghiệp chiếm 2,2%
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Tham gia trực tiếp khảo sát cùng nhóm nghiên cứu, bên cạnh việc phỏng vấn bằng bảng hỏi, tôi đồng thời tiến hành phỏng vấn được 5 trường hợp (3 nữ - 2 nam) để thu thập những chi tiết sâu sắc và cụ thể hơn xoay quanh nội dung đề tài nghiên cứu của mình. Những câu hỏi được sử dụng nhằm làm rõ, chứng minh giả thuyết của đề tài bằng thông tin định lượng thu được từ bảng hỏi lẫn thông tin định tính.
- Phương pháp thảo luận nhóm:
Nhóm nghiên cứu tiến hành phương pháp thảo luận nhóm để thu thập thông tin cho toàn nhóm, xin y kiến những người tham gia về những vấn đề mà nhóm nghiên cứu quan tâm, nghe họ tranh luận và tiến hành ghi chép, ghi âm lại.
- Phương pháp phân tích tài liệu:
Báo cáo có sử dụng một số tài liệu có liên quan tới vấn đề phân công lao động: tạp chí xã hội học, các bài báo cáo, số liệu thu được từ 828 bảng hỏi đã được xử lí và một số tài liệu khác có liên quan nhằm bổ sung cho việc thu thập thông tin phục vụ mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp quan sát:
Phương pháp quan sát được sử dụng kết hợp trong quá trình trực tiếp phỏng vấn bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu nhằm tìm hiểu rõ hơn những thông tin người trả lời và tìm hiểu những nguyên nhân ẩn dấu bên trong những hành vi và thông tin mà người trả lời đưa ra.
Việc sử dụng phương pháp này nhằm thu thập các thông tin sơ cấp về thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình. Thông qua tri giác trực tiếp và sử dụng những ghi chép bằng giấy bút, bằng hình ảnh để ghi lại những vấn đề xoay quanh đề tài nghiên cứu.
5. Giả thuyết nghiên cứu
Mô hình phân công lao động truyền thống của gia đình vẫn còn được duy trì, người phụ nữ, người vợ vẫn đảm nhiệm công việc nội trợ
Trong phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình đã có sự thương lượng vai trò giữa người vợ và chồng trong việc thực hiện các công việc gia đình và xã hội.
Đã có sự bình đẳng hơn trong việc quyết định các vấn đề trong gia đình.
7. Khung lí thuyết
Điều kiện KT – VH – XH
Các chức năng của gia đình
Quan niệm giới trong xã hội
Phân công lao động theo giới trong gia đình
Công việc nội trợ
Chăm sóc GĐ và giáo dục con cái
Nhóm công việc CĐ (Đối ngoại)
Quyền ra quyết định
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
Báo cáo này được trình bày trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử : quá trình nhận thức không chỉ dừng lại ở những nhận thức bên ngoài sự vật hiện tượng mà cần phải nhận thức được bản chất bên trong hoặc tính quy luật vốn có của nó. Phải xem xét các hiện tượng xã hội trong mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng khác, nghiên cứu phải được xem xét trong tính lịch sử cụ thể để thấy được sự biến đổi mối quan hệ giới trong phân công lao động, tìm ra được bản chất của mối quan hệ giữa nhận thức và hành động thực tế thông qua phân công lao động.
Vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đặc biệt coi trọng. Có thể nói bình đẳng toàn diện nam và nữ là lí tưởng mà nhân loại đã theo đuổi nhiều thế kỉ. Chủ nghĩa Mác cho rằng để giải phóng phụ nữ cả trong gia đình và ngoài xã hội phải giải phóng họ khỏi áp bức, bất công, mọi rằng buộc, bất bình đẳng mà chế độ áp bức bóc lột đã quàng lên cổ họ, điều đó chỉ có cách mạng vô sản mới làm được.
Để giải phóng phụ nữ Ăngghen cho rằng: phải xoá bỏ chế độ tư hữu, tư nhân về tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu, không thể cột chặt người phụ nữ vào công việc gia đình mà phải đưa họ tham gia vào nền sản xuất xã hội. Xã hội phải giúp phụ nữ giảm nhẹ công việc gia đình. Chỉ khi nào phụ nữ không phải lựa chọn tham gia sản xuất hoặc làm việc nhà, mà họ đồng thời làm tố cả hai việc đó thì địa vị của họ mới được khẳng định.
Theo V.I Lênin thì bình đẳng nam nữ không đồng nghĩa với sự ngang bằng theo kiểu phụ nữ tham gia lao động sản xuất với năng suất, khối lượng thời gian và điều kiện lao động như nam giới, bởi “ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói buộc vì toàn bộ công việc gia đình trút lên vai phụ nữ”.
Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về bình đẳng nam nữ phát triển lên một tầm cao mới. Theo Bác cần phải quan tâm đến gia đình vì “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội càng tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”. Phụ nữ là một lực lượng rất lớn của gia đình, nhưng khác với nam giới, họ có những đặc điểm sinh lí khác biệt. Bác cho rằng cần phải có sự phân công lao động hợp lí, phải chú y bảo vệ sức khoẻ cho lao động nữ để chị em phát huy tối đa khả năng của mình.
* Các phương pháp tiếp cận:
Báo cáo sử dụng cách tiếp cận cơ cấu – chức năng trong việc làm rõ vị trí, vai trò của các thành viên trong gia đình để thấy được mối quan hệ tương tác giữa các thành tố của cơ cấu đó, đặc biệt là cơ cấu vai trò giới. Thông qua sự tương tác này chúng ta sẽ đánh giá được việc thực hiện các chức năng của gia đình trong điều kiện hiện nay.
E. Durkhiem cho rằng thông qua sự tương tác sẽ tạo ra mô hình biến đổi xã hội, luôn đòi hỏi phải có sự cấu trúc lại mô hình ứng xử. Tuy nhiên sự biến đổi mà ông đề cập đến là trong khuôn khổ của sự ổn định xã hội vì trong tương tác ổn định mới làm cho phát triển diễn ra một cách đúng đắn. Áp dung quan điểm của E.Durkhiem trong phân tích mối quan hệ giới trong báo cáo này là hoàn toàn phù hợp vì thực tế mối quan hệ giới trong các gia đình không phải là sự đảo ngược vai trò mà là sự điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của mỗi giới vì sự ổn định và phát triển của gia đình.
Vào thập kỉ 80, xuất hiện trào lưu mới “Giới và phát triển” (Gender and the Development – GAD). GAD lấy con người cả nam lẫn nữ làm trung tâm, hướng vào xoá bỏ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên cơ sở đáp ứng lợi ích chính đáng của cả hai giới với mục tiêu làm cho hai giới phát triển hài hoà, cùng có trách nhiệm thúc đẩy xã hội phát triển.
Lí thuyết giới đòi hỏi phải luôn xem xét các vấn đề của giới này trong mối tương quan với giới kia, có nghĩa là phải xem xét vị trí vai trò của phụ nữ trong tương quan với vị trí, vai trò của nam giới, nhưng vai trò này hướng các giới có những hành vi được xem là phù hợp với những mong đợi của xã hội, đó chính là sự thể hiện phân công lao động theo giới.
Vai trò giới là khái niệm được sử dụng như là cách thức tổ chức hành vi của con người trong một ý nghĩa tổng thể. Lí thuyết vai trò giới xuất phát từ những nguồn gốc sinh học mà xác định sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà. Các vai trò giới cơ bản gồm: vai trò sản xuất, vai trò tái sản xuất và vai trò cộng đồng.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết “Sự phân công lao động đầu tiên là phân công lao động giữa đàn ông và đàn bà trong việc sinh đẻ, trong vai trò nàyphụ nữ là người đảm nhận chính. Do cấu trúc sinh học chỉ có phụ nữ mới có thể mang thai, sinh đẻ và nuôi con. Việc tái sản xuất sinh học là thiên chức của người phụ nữ”.
Vai trò giới chính là thể hiện sự phân công lao động theo giới, trong từng thời gian cụ thể vai trò có sự biến đổi, do phân công lao động theo giới cũng biến đổi theo.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi chú y đến các mối quan hệ giới , tức là các tác động qua lại giữa hai giới, nhấn mạnh đến mô hình phát triển vì lợi ích của cả hai giới, vì mục tiêu công bằng và phát triển bền vững.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Quá trình đổi mới nền kinh tế – xã hội trong những năm qua đã tác động mạnh mẽ tới cơ cấu và phân công lao động nam nữ trong gia đình. Sự phân công lao động này đã có những biến đổi khá rõ rệt qua các thời kì lịch sử cũng như từng vùng miền khác nhau thì có những quan niệm khác nhau về sự bình đẳng giới và sự phân công lao động trong gia đình.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về vấn đề giới và sự phân công lao động trong gia đình như:
Luận án thạc sĩ “Sự phân công lao động trong gia đình nông thôn Việt Nam” của Lê Thái Thị Băng Tâm nhằm chỉ ra vai trò chủ yếu của nam giới và nữ giới trong công việc, trong sự giáo dục con cái…ở các gia đình nông thôn.
Tác phẩm “Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của các tác giả: Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu – NXB Khoa học xã hội 2002.
Tác phẩm “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam” của GS.Lê Thi – NXB Phụ nữ Hà Nội.
Tác phẩm “Nghiên cứu phụ nữ - giới và gia đình” của tác giả Nguyễn Linh Khiếu – NXB Khoa học xã hội 2003.
Tác phẩm “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” của GS Lê Thị Nhâm Tuyết, NXB Khoa học xã hội Hà Nội viết về thực trạng phân công lao động giữa nam và nữ và địa vị của người phụ nữ Việt Nam trong gia đình và ngoài xã hội.
Bài viết “Vấn đề giới trong kinh tế hộ tìm hiểu phân công lao động nam nữ trong gia đình ngư dân ven biển miền Trung” của Lê Tiêu La và Lê Ngọc Hùng trên tạp chí XHH số3/1998 cũng đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu giới.
“Vai trò của người phụ nữ nông thôn trong công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn” – TS Hoàng Bá Thịnh, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội,2002.
“Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỉ 21” – Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và môi trường phát triển – NXB Thế giới – Hà Nội – 2002.
“Xã hội học gia đình” – tác giả Mai Huy Bích – NXB Khoa hoc xã hội – Hà Nội 2003.
“Xu hướng gia đình ngày nay” – Vũ Tuấn Huy (chủ biên) – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội 2003.
“Gia đình trong tấm gương xã hội học” – Mai Quỳnh Nam (chủ biên) – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội 2002.
“Tương lai của gia đình” – Vũ Quang Hà dịch – NXB Đại học quốc gia Hà Nội
“Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay” – TS Dương Thị Minh – NXB chính trị quốc gia – Hà Nội 2004.
Với báo cáo thực tập của mình “Mối quan hệ giới về phân công lao động giữa vợ và chồng trong các gia đình hiện nay” qua khảo sát tại phường Hoàng Văn Thụ và xã Hoàng Đồng – thành phố Lạng Sơn, tuy đề tài này không có gì mới mẻ nhưng tôi muốn thông qua báo cáo này tự mình đi tìm hiểu thực trạng phân công lao động trong các gia đình tại địa bàn khảo sát, qua đó đánh giá những biến đổi trong quan hệ giới trong gia đình, đưa ra những đề xuất, khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò, địa vị của người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
3. Hệ thống các khái niệm công cụ
Khái niệm gia đình :
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về gia đình
* Theo Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng trong xã hội học – NXB Đại học quốc gia Hà Nội thì “Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của các thành viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người”
* Nhà xã hội học Liên Xô cũ X.G Kharchop trong tác phẩm “Hôn nhân và gia đình” đã định nghĩa : Gia đình là một hệ thống cụ thể của các quan hệ qua lại giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, là một nhóm xã hội thu nhỏ mà các thành viên gắn liền với nhau bởi quan hệ anh em thân thuộc, bởi cộng đồng sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức và sự cần thiết xã hội của nó được ấn định bởi nhu cầu xã hội trong việc tái tạo dân số về tinh thần và sức khoẻ.
* Theo G.P Mendo nhà xã hội học người Mỹ trong tác phẩm “cấu trúc xã hội” năm 1949 thì cho rằng: “Gia đình là một nhóm xã hội đặc trưng, là cùng cư trú, hợp tác và tái sản xuất kinh tế, nhóm xã hội này bao gồm : người lớn của cả hai giới và ít nhất trong đó có quan hệ tính dục với nhau được xã hội tán thành, có một con hoặc nhiều con cái, có thể có con nuôi”.
* Trong tác phẩm “Gia đình” năm 1953 hai nhà xã hội học người Mỹ là F. W. Burges và H. J. Locke định nghĩa : “Gia đình là một nhóm người đoàn kết với nhau bằng những mối quan hệ hôn nhân huyết thống và việc nhận con nuôi tạo thành một hộ tộc đơn giản, tác động lẫn nhau trong vai trò tương ứng của họ (vợ, chồng, con…) tạo ra một nền văn hoá chung”.
* Theo G.P. Murdork – nhà xã hội học người Mỹ: “Gia đình là một nhóm xã hội gồm hai hay nhiều người gắn bó với nhau được xã hội tán thành, có một hay nhiều con cái do họ đẻ ra hoặc nhận con nuôi” – Trích Lê Thái Thị Băng Tâm – tập bài giảng XHH gia đình.
*Trong bản tuyên bố về tiến bộ xã hội phát triển liên hợp quốc đã định nghĩa: “Gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mọi thành viên, nhất là trẻ em”.
Như vậy theo cách hiểu chung nhất thì “Gia đình là một dạng đặc biệt của thiết chế xã hội, hình thành trên cơ sở các mối quan hệ con người, quan hệ huyết thống và trong trường hợp đặc biệt có thể không có quan hệ máu mủ nhưng lại có quan hệ về mặt tình cảm hoặc nghĩa vụ, vừa đáp ứng nhu cầu riêng tư của họ, vừa nhằm làm thoả mãn những nhu cầu của xã hội và tái sản xuất dân cư theo cả nghĩa thể xác và tinh thần”.
Khái niệm giới :
* Theo Báo cáo của Ngân Hàng Thế giới, thì Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ vọng liên quan đến nam và nữ. Phụ nữ và nam giới khác nhau về mặt sinh học – nhưng mọi văn hoá đều lý giải và qui định chi tiết những khác biệt sinh học vốn có đó thành một hệ thống những kỳ vọng xã hội về những hành vi và hoạt động được coi là thích hợp. Tuy những kỳ vọng trong các xã hội khác nhau thì không giống nhau nhưng vẫn có điểm tương đồng nổi bật.
* Theo Xã hội học về giới và Phát triển thì Giới là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng xã hội của nam và nữ. Các đặc điểm của giới là :
- Một phần vẫn còn bị quy định bởi các yếu tố, tiền đề sinh học của giới tính.
- Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà mang tính tập nhiễm. Tức là bị quy định bởi điều kiện sống của cá nhân và xã hội, được hình thành và phát triển thông qua hàng loạt các cơ chế bắt chước, học tập,…
- Có tính biến thiên, tức là có thể thay đổi được dưới tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài, đặc biệt là điều kiện xã hội.
- Mang tính đa dạng, phong phú cả về nội dung và hình thức và tính chất. Các đặc điểm giới bộc lộ qua suy nghĩ, tình cảm và hành vi của mỗi cá nhân, nhóm.
* Theo Tác giả Lê Thị Quy thì “Giới là mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ được xác định theo văn hoá và cách thức mối quân hệ đó được xác định trong xã hội (Tập bài giảng XHH Giới)
* Khái niệm giới chỉ mối quan hệ và tương tác giữa địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong bối cảnh xã hội cụ thể. Khi nói đến giới là nói đến các điều kiện và yếu tố xã hội quy định vị trí và hành vi xã hội của mỗi giới trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể. Khác với giới tính, giới là sản phẩm của xã hội, do học hỏi mà có. Giới thay đổi theo thời gian qua các giai đoạn, thang giá trị thay đổi, mô hình ứng xử giưói khác nhau. Sự khác biệt về giới nam và nữ là khác nhau tùy thuộc vào mỗi quốc gia dân tộc và các điều kiện kinh tế – chính trị- xã hội – văn hoá cụ thể. Vì hệ giá trị ở mỗi quốc gia là khác nhau nên nó tác động đến sự học hỏi giữa con gái và con trai.
* Tóm lại, thuật ngữ giới đã vượt qua cả ý nghĩa ban đầu của nó vốn được dùng trong ngữ pháp để phân loại danh từ giống đực, giống cái, giống trung. Ngày nay nó không dùng để phân biệt giới tính đàn ông, đàn bà mà nó hàm chứa những quan niệm xã hội về vai trò, vị thế và các giá trị của mỗi giới tính mà cộng đồng hay xã hội coi là phù hợp với giới tính này hoặc giới tính khác. Y nghĩa này trước đây được biểu hiện bằng tập hợp từ các mối quan hệ xã hội của giới, sau đó từ “Giới” được dùng để gọi tắt. các mối quan hệ của giới tìm cách giải thích sự bất bình đẳng trong mối qua hệ giữa nam giới và nữ giới về vai trò của mỗi giới tính trong việc phân chia quyền lực, ra quyết định và phân công lao động cả trong phạm vi hộ gia đình cũng như trong quy mô xã hội nói chung. Với định nghĩa này hướng chúng ta chú y đến các đặc điểm cần thiết của quá trình xã hội hoá ; cảm nhận của chúng ta về vai trò, giá trị và hành vi hợp và trên tất cả là mối quan hệ tương tác thích hợp giữa nam giới và phụ nữ.
Khái niệm lao động :
* Lao động là một thiết chế xã hội trong đó hoạt động con người được định hướng, được tổ chức, sắp xếp nhằm tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu cá nhân, của nhóm và của xã hội. (Lê Ngọc Hùng – tập bài giảng XHH Lao Động)
* Xã hội học xem xét “lao động” với tư cách là hiện tượng xã hội nảy sinh, biến đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Trong đề tài này “lao động” được nhìn nhận trong sự liên quan với quan hệ giới trong gia đình dưới tác động của qua trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nó là hoạt động tạo nên sự phụ thuộc và rằng buộc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Khái niệm phân công lao động :
* Khái niệm phân công lao động được hiểu từ hai góc độ khoa học liên quan đến khái niệm chức năng theo quan niệm kinh tế học bắt nguồn từ A.Smith “phân công lao động” là sự chuyên môn hoá lao động, là sự phân chia quá trình lao động thành các công đoạn, các khâu, các thao tác kĩ thuật để tăng năng suất và hiệu quả lao động.
* Theo quan niệm xã hội học do August Comte khởi xướng “Phân công lao động là sự chuyên môn hoá nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức năng ổn định và phát triển xã hội, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân và trật tự xã hội. Phân công lao động không đơn thuần là sự chuyên môn hoá lao động mà thực chất là quá._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BXH1049.doc