Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế & chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay!

Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay! ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT A- Đặt vấn đề: B- Nội dung: 1. Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay 1.1 Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và mối quan hệ biện chứng giữa chúng. 1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội 2. Kết hợp chặt chẽ mối quan hệ giữ

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2342 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế & chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay!, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay 3.Quan điểm và giải pháp giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay 3.1 Quan điểm 3.2. Giải pháp C- Kết luận D- Danh mục tài liệu tham khảo: I. ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã hội và cái không phải chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức trung gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong giai đoạn quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hành động, vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử triết học trong hoạt động thực tiễn. Hiện nay chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường phát triển rút ngắn nhằm mục tiêu phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã và đang trở thành xu thế khách quan, khoa học công nghệ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất… đây chính là những điều kiện khách quan vừa là thách thức cũng vừa là cơ hội đối với con đường phát triển công nghiệp hoá- hiện đại hoá và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại Đại hội IX của Đảng đã để ra mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2001- 2010 là “ Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại…”. Để thực hiện mục tiêu này, việc đổi mới, cải cách chính sách kinh tế, chính sách xã hội một cách đồng bộ, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn là hết sức quan trọng và cần thiết. Việc phối hợp chặt chẽ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các chính sách kinh tế và chính sách xã hội sẽ tạo điều kiện phát huy nội lực, gắn kết toàn dân, tạo động lực và nguồn sức mạnh để phát triển đất nước nhanh, hiệu quả và bền vững.Sự tác động qua lại giữa kinh tế và xã hội, giữa đổi mới chính sách xã hội và đổi mới chính sách kinh tế là quan hệ cơ bản của đời sống xã hội. Quá trình nhận thức và vận dụng xử lý mối quan hệ này trong thực tiễn đúng hay không đúng có ý nghĩa quyết định quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia. Những thành tựu to lớn mà Việt Nam đạt được sau 20 đổi mới đất nước đều bắt nguồn từ khả năng nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới chính sách xã hội. Nghiên cứu mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội còn giúp chúng ta có cơ sở để tìm ra giới hạn giữa hai loại chính sách này. Song đây là vấn đề hết sức phức tạp, khó khăn. Điều quan trọng là phân tích để đánh giá đúng những tác động tích cực hoặc hậu quả tiêu cực của các chính sách, từ đó có thể đề ra các biện pháp kiểm soát, khống chế hoặc thúc đẩy. Ví dụ: sai lầm về chính sách kinh tế có thể khắc phục được sau một vài chu kỳ sản xuất, nhưng hậu quả do những sai lầm của chính sách xã hội có thể để lại di chứng lâu dài. Vì vậy, việc nghiên cứu, tổng kết bài học kinh nghiệm về giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở định hướng, điều chỉnh, bổ sung chiến lược và chính sách phát triển kinh tế- xã hội. Xuất phát từ vấn đề thực tế nêu trên, tôi lựa chọn đề tài “Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong công đổi mới ở nước ta hiện nay” . Những nghiên cứu về vấn đề này được trình bày dưới góc độ tiểu luận của môn học Triết học. Những nội dung chính được nghiên cứu trong phạm vi của đề tài: 1. Xuất phát từ khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tâng và mối quan hệ biện chứng giữa chúng để làm phương pháp luận, từ đó làm rõ sự cần thiết phải thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 2. Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, thực trạng của chính sách kinh tế, chính sách xã hội và giải pháp. Tuy nhiên nội dung đề tài này, một mặt bao gồm nhiều vấn đề lý luận liên quan đến chính sách kinh tế và chính sách xã hội của Đảng và Chính phủ, nhưng mặt khác do điều kiện thời gian học tập, nghiên cứu có hạn, tài liệu tham khảo chưa đầy đủ và trong quá trình học tập, nghiên cứu có những hạn chế khách quan, chủ quan cho nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Bản thân rất mong được sự chỉ bảo của Thầy giáo để có thể tiếp thu, chính sửa được đầy đủ hơn giúp bản thân nắm vững nội dung cả về lý luận và thực tiễn để tiếp tục vận dụng có hiệu quả trong quá trình học tập, nghiên cứu tiếp theo. Xin chân thành cảm ơn ! II. NỘI DUNG 1. Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay 1.1 Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng và mối quan hệ biện chứng giữa chúng. Khái niệm cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định. Xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng của chúng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội... là cái được hình thành, được xây dựng trên nền tảng của những cơ sở hạ tầng nhất định, hợp thành kiến trúc thượng tầng nhất định. Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho chế độ chính trị hiện tại. Chính nhờ có nhà nước mà gia cấp thống trị gán được cho xã hội hệ tư tưởng của mình. Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm, tư tưởng và cuộc đấu tranh về mặt chính trị tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng cũng bắt nguồn từ mẫu thuẫn trong cơ sở hạ tầng. Trong kiến trúc thượng tầng của các xã hội có đối kháng giai cấp, ngoài bộ phận chủ yếu đóng vai trò là công cụ của giai cấp thống trị để bảo vệ cơ sở kinh tế của nó, còn có những yếu tố đối lập với bộ phận đó. Đó là những tư tưởng, quan điểm, những tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị. Nghiên cứu mối quan hệ chặt chẽ và tác động biện chứng giữa xã hội và kinh tế chúng ta sẽ xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn kinh tế xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng, cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, các đoàn thể xã hội… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng do cơ sở hạ tầng quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ : Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Theo C. Mác: Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. [1, 15]. Tuy cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, song chủ nghĩa Mác- Lênin cũng luôn nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố và các lĩnh vực của nó có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc của chúng vào cơ sở hạ tầng thường không trực tiếp và không đơn giản, kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ tầng mà chúng có khả năng tác động yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng có sẹ tác động qua lại lẫn nhau. Tác động của kiến trúc thượng tầng sẽ là tích cực khi nó tác động cùng chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế khách quan. Trái lại, nếu tác động ngược chiếu với những quy luật đó thì sẽ là trở ngại, gây tác hại cho sự phát triển sản xuất, cản trở sự phát triển của xã hội. Vận dụng quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay thì có thể khẳng định : Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Còn về việc xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta khẳng định : Lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động tinh thần của xã hội. Xây dựng một hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính giai cấp công nhân. Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lực thuộc về nhân dân lao động. Mỗi bước phát triển kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn với cơ sở hạ tầng. Việc điều chỉnh, củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng phải đi đôi với phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng. 1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội Như vây, từ mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng chúng ta có thể thấy trong mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội thì kinh tế giữ vai trò quyết định. Kinh tế là gốc, là thước đo tính hợp lý của xã hội. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định về kinh tế có một sự phát triển nhất định về mặt xã hội. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế kinh tế chính trị tương ứng như thế. Kinh tế phát triển thì xã hội tiến bộ, ngược lại kinh tế khủng hoảng là dấu hiệu cho thấy sự bất cập của xã hội và nó đòi hỏi phải có sự điều chỉnh về xã hội. Ở một khía cạnh nào đó, sự phát triển của kinh tế thể hiện sự phát triển tính ưu việt và sự phù hợp của xã hội với kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa là nếu không giải quyết đúng đắn các quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế, không thúc đẩy kinh tế phát triển thì sự vận động của xã hội sẽ khó khăn, thậm chí thất bại, bế tắc. Như vậy, xã hội được coi là tiến bộ, là hợp lý khi nó hướng vào phát triển kinh tế, phục vụ kinh tế. Theo Lênin: Chính trị là việc xây dựng Nhà nước về kinh tế… là sự biểu hiện tập trung của kinh tế… là kinh tế cô đọng lại”. Trong mối quan hệ trên thì kinh tế là tính thứ nhất, xã hội là tính thứ hai, là cái phản ánh của kinh tế, thể hiện qua chính sách xã hội. Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành chính sách chung của Nhà nước trong việc quản lý và giải quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống của các thành viên trong xã hội, từ điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá đến quan hệ gia định, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội. Chính sách kinh tế là những chủ trương và biện pháp kinh tế mà Nhà nước áp dụng trong một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử nhằm đạt được những yêu cầu và những mục tiêu kinh tế, chính trị nhất định. Chính sách có thể mang tính đường lối, chiến lược lâu dài, có thể mang tính sách lược, ngắn hạn. Chính sách kinh tế được xây dựng trên cơ sở những phân tích, dự báo về các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước và những xu hướng phát triển của đời sống xã hội. Theo quan điểm của Lênin, chính sách kinh tế của Đảng không phải là chính sách chỉ dành riêng cho một thành phần kinh tế nào đó. Chính sách kinh tế của Đảng càng không phải chỉ là tổng số đơn giản các hoạt động kinh tế. Với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng trong đường lối chung của Đảng, chính sách kinh tế phản ánh những mối quan hệ về mặt kinh tế giữa các giai cấp, và trong phạm vi những mối quan hệ ấy, chính sách kinh tế đóng vai trò là “kế hoạch”, “phương pháp” hay “ chế độ hoạt động” phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội là những công cụ điều tiết và quản lý vĩ mô của Nhà nước, có tác động đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua các chính sách kinh tế, chính sách xã hội mà Nhà nước có thể thực hiện được các chức năng chủ yếu của mình như: - Nâng cao hiệu quả của nền kinh tế: Tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường sẽ bị hạn chế thậm chí triệt tiêu do tác động của các lực lượng kinh tế tư nhân, vì vậy Nhà nước có thể và cần phải can thiệp để tạo ra một nền kinh tế hiệu quả, như ban bố Luật Chống độc quyền, Luật Chống bán phá gia, Luật bản quyền và sở hữu trí tuệ và những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ… - Bảo đảm công bằng xã hội: Nhà nước thực hiện bảo đảm công bằng xã hội thông qua các chính sách phân phối lại thu nhập quốc dân như sử dụng thuế luỹ tiến theo thu nhập, xây dựng hệ thống hỗ trợ thu nhập nhằm giúp đỡ người già, người tàn tật, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp y tế… - Giữ ổn định kinh tế- xã hội: Bằng những chính sách tài khoá và tiền tệ để tác động đến sản lượng, việc làm và lạm phát nhằm giảm bớt những tác động tiêu cực trong sự vận động có tính chu kỳ của nền kinh tế. Sự phát triển kinh tế cũng đồng thời kéo theo một loạt các vấn đề xã hội, như nạn thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo, mất cân bằng sinh thái, các chứng bệnh nan y và cả sự thay đổi về các giá trị đạo đức, giá trị tinh thần… Theo quan điểm hiện đại mục tiêu phát triển bền vững không chỉ dựa trên những thành quả của phát triển kinh tế mà còn bao hàm cả các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, các chỉ tiêu về phát triển con người, phát triển khoa học, công nghệ và chỉ tiêu về bảo vệ môi trường… Chính vì vậy, bên cạnh các chính sách kinh tế, chính sách xã hội đóng vai trò như một cán cân điều tiết, đem lại cuộc sống ngày càng tốt đẹp tạo sự công bằng dân chủ cho mỗi thành viên trong xã hội. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội là hai phạm trù riêng rẽ nhưng không tách rời nhau, có mối quan hệ tương hỗ và thống nhất. Sự đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội là điều kiện cần và đủ để bình ổn và phát triển của mỗi quốc gia. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội và ngược lại, sự ổn định, công bằng và tiến độ của xã hội đạt được thông qua các chính sách xã hội lại tạo ra những động lực mạnh mẽ để thực hiện các mục tiêu kinh tế, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều có mục tiêu chung là phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Làm rõ mối quan hệ giữa hai loại chính sách này thực chất là làm rõ mục tiêu xã hội trong chính sách kinh tế, làm rõ điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách xã hội. Đây cũng đồng thời là quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu công bằng xã hội. Sự hài hoá, đồng thuận giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội bảo đảm phát triển kinh tế nhanh, mạnh, bền vững nhưng không làm ảnh hưởng đến thực hiện công bằng xã hội, không dẫn đến sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, không làm mất ổn định xã hội, không gây xáo trộn và huỷ hoại môi trường sinh thái… Tăng trưởng kinh tế không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội vì sự tác động của các quy luật kinh tế đã làm cho các chính sách kinh tế không chứa đựng được hết các vấn đề xã hội vốn rất phức tạp. Do đó, cần có các chính sách, chương trình xã hội riêng để giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể, nối liền trong từng thời điểm nhất định, do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường. Các chính sách và chương trình xã hội phải được thực hiện đồng thời hoặc lồng ghép với các chính sách kinh tế để tạo sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển. Nghiên cứu mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội còn giúp chúng ta có cơ sở để tìm ra giới hạn giữa hai loại chính sách này. Song đây là vấn đề hết sức phức tạp, khó khăn. Điều quan trọng là phân tích để đánh giá đúng những tác động tích cực hoặc hậu quả tiêu cực của các chính sách, từ đó có thể đề ra các biện pháp kiểm soát, khống chế hoặc thúc đẩy. Một chính sách xã hội nếu không tính đến khả năng của nền kinh tế hoặc không quan tâm đến lợi ích kinh tế có khi lại trở thành vật cản trở cho sự tăng trưởng kinh tế. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội là một thể thống nhất biện chứng, nương tựa vào nhau, ràng buộc lẫn nhau. Sự kết hợp tối ưu giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội có tác động thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Nguyên tắc chung cho sự kết hợp đó là chính sách kinh tế phải tạo được động lực trong xã hội, đảm bảo cho xã hội ổn định, đến lượt nó, chính sách xã hội phải thúc đẩy nền kinh tế phát triển vừa phải phù hợp với điều kiện kinh tế cho phép, vừa đặt ra những thách thức mới hướng tới sự phát triển bền vững. 2. Phối hợp chặt chẽ mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay 2.1 Thực trạng: Để hướng tới việc tạo lập một đất nước ngày càng thịnh vượng, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tại Đại hội IX của Đảng đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế- xã hội cho thời kỳ bằng việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu kinh tế- xã hội của cả thời kỳ này là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng và thực hiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường an ninh- quốc phòng. Để thực hiện mục tiêu chiến lược đã để ra, Đảng ta chú trọng nhấn mạnh việc hoạch định, bổ sung điều chỉnh các chính sách kinh tế và chính sách xã hội, xem sự phối hợp, lồng ghép hợp lý các loại chính sách này như một đảm bảo tất yếu cho sự thành công. Các chính sách kinh tế tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm: - Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. - Tập trung sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để bảo đảm các thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, thực sự là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ… để thực hiện thành công quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực, bảo đảm độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Các chính sách xã hội cần được thực hiện đồng thời và tập trung vào những nhiệm vụ: đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài; chú trọng sử dụng và phát huy tiềm năng tri thức của người Việt Nam ở nước ngoài; đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với giáo dục và đào tạo, thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài, khuyến khích các thành phấn kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học; có các chính sách thích hợp tạo công bằng về cơ hội và bình đẳng về trách nhiệm cho mọi công dân, mọi doanh nghiệp và nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong việc tìm và tự tạo việc làm trong tiếp cận với thông tin kinh tế, thông tin thị trường… Khuyến khích và tôn vinh những người làm giàu chính đáng đi đôi với chống tham nhũng, gian lận thương mại; cải cách cơ bản hệ thống tiền lương, hợp thức hoá các thu nhập mang tính chất lượng. Thực hiện công khai, minh bạch về thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo thông qua những biện pháp điều tiết thu nhập; cải cách cơ chế bảo hiểm xã hội và bảo đảm xã hội. Ban hành Luật Bảo hiểm xã hội; tiếp tục phòng chống các tệ nạn xã hội, nhất là nạn ma tuý và tai nạn giao thông, công khai hoá các nội dung và cơ chế, phương pháp giám sát của các cơ quan chức năng, các đoàn thể quần chúng và nhân dân về thực hiện pháp luật, chính sách, chế độ của Nhà nước. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Có thể nói, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội là mục tiêu "kép" của sự phát triển bền vững mà nhiều quốc gia trên thế giới đều mong muốn đạt tới. Nhưng trên thực tế, đây là bài toán khó mà không phải nước nào cũng có thể đưa ra lời giải thoả đáng. Bởi lẽ để biến mục tiêu tốt đẹp đó thành hiện thực thì phải có hàng loạt điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết, phải giải quyết nhiều mối quan hệ có lúc là mâu thuẫn với nhau trong một mô hình kinh tế cụ thể. Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có chủ trương mang tính đột phá là: chuyển nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường như là thành quả của nền văn minh nhân loại làm phương tiện để năng động hóa và đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Chúng ta không rập khuôn theo mô hình kinh tế thị trường tự do - dù là dựa vào lý thuyết của chủ nghĩa tự do cổ điển hay lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới. Bởi thực tế đã cho thấy, bản thân nền kinh tế thị trường tự do không tự động dẫn đến công bằng xã hội, trái lại còn làm cho phân hóa giàu nghèo quá mức, kéo theo nhiều mâu thuẫn và xung đột xã hội nan giải. Chúng ta chú ý tham khảo và tiếp thu có lựa chọn một số kinh nghiệm cụ thể của mô hình kinh tế thị trường xã hội trong việc thực hiện các chính sách phúc lợi công cộng, nhưng cũng không sao chép mô hình này. Vì về thực chất, đó vẫn là mô hình duy trì địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc tư bản chủ nghĩa trong xã hội. Đảng ta chủ trương đề cao vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển" (1). Thực tiễn của quá trình đổi mới từ cuối năm 1986 đến nay đã chứng tỏ, bên cạnh nhiều nhân tố khác, chính việc thực hiện nguyên tắc phân phối nói trên đã có tác dụng khơi dậy tính năng động và chủ động xã hội của mọi tầng lớp dân cư, mọi thành phần kinh tế tạo nên động lực to lớn thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Nhìn chung, kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao liên tục trong nhiều năm, đời sống của đại đa số nhân dân được cải thiện rõ rệt. Riêng thời kỳ 1991 - 2000, GDP tăng gấp đôi, đồng thời tỷ lệ nghèo đói giảm còn một nửa (từ 60% xuống 32% theo chuẩn quốc tế). Chúng ta đã "hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015" mà Liên hợp quốc đề ra(3). Trong cùng thời gian, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tỷ lệ người lớn biết chữ tăng từ 88% lên 94%. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ, tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 63 lên 68. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ mức dưới trung bình: 0,498 (năm 1991) lên mức trên trung bình: 0,688 (năm 2000), xếp thứ 109/173 nước được thống kê. Tuy đã có bước phát triển khá như vừa qua, nhưng do điểm xuất phát thấp nên hiện nay nước ta cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp, với trên 63% lực lượng lao động xã hội tập trung trong các ngành nông - lâm - ngư; công nghiệp còn nhỏ bé, dịch vụ chưa phát triển; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được thể chế hóa đồng bộ; chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Trong lĩnh vực phát triển xã hội, nhiều chính sách đã ban hành chưa được thực hiện tốt, một số chính sách còn thiếu hoặc có những điểm bất cập. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và miền núi... còn nhiều khó khăn. Khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi đang có xu hướng dãn ra. Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm giàu nhất (20%) và nhóm nghèo nhất (20%) trong tổng số dân cư cả nước 5,6 lần ở năm 1992 thì năm 1997 - 1998 đã tăng lên 10,47 lần. Mấy năm gần đây, việc xoá đói giảm nghèo có xu hướng chậm lại, số hộ tái nghèo tăng lên. Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao (tương ứng là 6% và khoảng 29% hiện nay). Hiện tượng làm giàu bất chính do tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo, đầu cơ vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Thực tiễn ở nước ta từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 đến nay cho thấy, thông qua đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính sách xã hội đã đạt nhiều thành tựu tích cực. Nền kinh tế đã có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế, tổng sản phẩm trong nước tăng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá- xã hội không ngừng tiến bộ, khả năng độc lập, tự chủ tăng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sau 20 năm đổi mới, Đảng ta gặt hái được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Chúng ta đã có nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới xã hội. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững. Nhà nước vừa thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, vừa quan tâm nhiều hơn tăng cường cho những vùng, những cộng đồng nhiều khó khăn để sớm xoá đói, giảm nhanh số hộ nghèo, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị tính đến năm 2005 là 5,4% và quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn đạt 80%. Theo tiêu chuẩn đánh giá hộ nghèo đến năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm xuống còn 22%. Các chính sách xã hội được thực hiện đa dạng, dưới nhiều hình thức từ các chính sách, giải pháp, biện pháp kinh tế đến các cuộc vận động phong trào như: chương trình cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, vận động xây dựng các quỹ từ thiện chữa bệnh miễn phí… đã có tác dụng đáng kể trong việc giảm khó khăn về chi phí chữa bệnh của người nghèo; chính sách ưu tiên dành vốn đầu tư cho địa bàn nông thôn để nâng cấp hạ tầng kỹ thuật và xã hội; nhà nước đầu tư và vận động nhân dân cùng đóng góp trong việc chỉnh trang nâng cấp từng khu dân cư, khu phố ở hầu hết các quận nội thành đã phần nào cải thiện điều kiện sống ở những khu dân cư nghèo; chương trình vận động đóng góp xây dựng “Nhà tình nghĩa, nhà tình thương”; chương trình xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp … đã và đang góp phần rất lớn về mặt thành quả xã hội của đất nước. Với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới xã hội, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước tiến hành đổi mới xã hội, Việt Nam đã vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai quá trình đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp Việt Nam có cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.2 Tồn tại và hạn chế: - Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích luỹ nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyên dịch chậm, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất cập, dàn trải. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài thiếu ổn định, quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển chậm. Các thành phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chênh lệch giàu- nghèo tăng nhanh. - Giáo dục đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp, có nhiều bất hợp lý trong dạy, học và thi cử, cả hệ thống còn nặng về bệnh thành tích…Khoa học và công nghệ chưa thật sự trở thành động lực phát triển kinh tế- xã hội. Cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thông tin, thể thao còn hạn chế. Việc đổi mới cơ chế quản lý và thực hiện xã hội hoá trong các lĩnh vực này triển khai chậm. - Đời sống của đại bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng núi, vùng sâu và vùng thường xuyên bị thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và không có việc làm còn chiếm tỷ lệ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0199.doc
Tài liệu liên quan