Mục lục
Trang
Mục lục 2
Lời nói đầu 3
Chương 1: Cái riêng và cái chung dưới cái nhìn của triết học Macxit 3
1.1. Các khái niệm 4
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung 4
Chương 2: Những giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam trên cơ sở nguyên lý về cái riêng và cái chung 7
2.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan 6
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường 6
2.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan 6
2.2. Kinh t
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung & cái riêng & vận dụng nó trong xây dựng Kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế thị trường định hướng XHCN ở nước ta 9
2.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường thế giới 9
2.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam 9
2.2.3. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại 11
Kết luận 16
Tài liệu tham khảo 17
Lời nói đầu
Bước lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu lại càng thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu, trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường mà CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển. Trước tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta kịp thời nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kích thích sản xuấtm, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Mới chập chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó, phức tạp, nền kinh tế Việt nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt nam. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác- Lênin, đặc biệt là phạm trù triết học cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị trường.
Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đường lối phát triển kinh tế mà Đảng và nhà nước ta đang xây dựng, tôi chọn vấn đề "Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung và vận dụng nó trong xây dựng kinh tế thị trường ở Việt nam" làm công trình nghiên cứu của mình.
Hoàn thành tiểu luận này, tôi hi vọng có thể góp một phần nhỏ của mình trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi người vào công cuộc đổi mới của nhà nước ta, và giúp mọi người quen thuộc hơn với một nền kinh tế mới được áp dụng ở Việt nam- nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chương 1: Cái riêng và cái chung dưới cái nhìn của triết học Macxit
Các khái niệm:
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn nhất trong giới tự nhiên. Cái riêng trong lịch sử xã hội là một sự kiện riêng lẻ nào đó, như là cuộc cách mạng tháng Tám của Việt nam chẳng hạn. Một con người nào đó: Huệ, Trang,... cũng là cái riêng. Cái riêng còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn.
- Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt chỉ có ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác. Ví dụ chiều cao, cân nặng, vóc dáng... của một người là cái đơn nhất. Nó cho biết những đặc điểm của chỉ riêng người đó, không lặp lại ở một người nào khác.
- Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại. Ví dụ như qui luật cung- cầu, qui luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
- Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Ví dụ qui luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung, không thế thì không phải là nhà tư bản, nhưng qui luật đó được thể hiện ra ngoài dưới những biểu hiện của các nhà tư bản (cái riêng).
- Cái chung là bộ phận, còn cái riêng là toàn bộ. Có thể khái quát một công thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Công thức trên có thể là không hoàn toàn đúng một cách tuyệt đối, nhưng trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể sống động.
- Giữa những cái riêng luôn tồn tại sự “va chạm”. Sự tương tác này giữa những cái riêng vừa làm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện. Về điểm này, Lênin nói: "... Cái riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung". Ví dụ, nguyên tử của mọi nguyên tố đều khác nhau, đều là cái " riêng", chúng có trọng lượng nguyên tử của mình, có hoá trị của mình, có điện tích hạt nhân của mình, có cấu tạo vỏ nguyên tử của mình... Nhưng tất cả những nguyên tử đều có cái chung: trong mọi nguyên tử đều có hạt nhân, vỏ điện tử, đều có những hạt nguyên tố; hạt nhân của mọi nguyên tử đều có thể bị phá vỡ. Chính nhờ có những đặc tính chung cho mọi nguyên tử mà khoa học mới có khả năng biến nguyên tử của một nguyên tố này thành nguyên tử của một nguyên tố khác. Nguyên tử, cũng như bất cứ hiện tượng nào khác trong thế giới khách quan, là sự thống nhất của cái khác nhau và cái giống nhau, cái đơn nhất và cái phổ biến.
- Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường, khoán sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng từ sau Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số ngành như an ninh quốc phòng...
- Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng nếu xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như cây cối là một đặc điểm chung khi xét tập hợp các cây như bạch đàn, phượng vĩ, bàng… nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm đơn nhất chỉ các loại cây, mà ngoài ra thực vật còn có cỏ, bụi rậm, nấm...
Xét một ví dụ khác, qui luật cung- cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho kinh tế thị trường mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn.
- Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “hoa hồng là hoa”, “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là kinh tế thị trường”... Những trường hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm của cái riêng đối với cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những định nghĩa như trên chỉ nhằm mục đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ không dùng để chỉ toàn bộ những đặc tính của sự vật.
chương 2: những giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở việt nam trên cơ sở nguyên lý về cái chung và cái riêng
2.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan:
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường:
- Thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá, và lưu thông hàng hoá. ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị trường.
- Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hoá; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường; năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường.
- Kinh tế thị trường có những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung- cầu...
2.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan:
- Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là kinh tế phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá nặng nề.
- Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Trong thời gian đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến.
- Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta tồn tại một lúc cả ba gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và sự chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn gây lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Lúc này, nước ta đồng thời cũng bị cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tất cả những nguyên nhân đó đã khiến cho nền kinh tế nước ta trong những năm cuối thập kỷ 80 lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí ở một số nơi còn bị nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự suy thoái này là từ những sai lầm cơ bản như:
Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một qui mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ phận tài sản vô chủ và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao 2,2%.
Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng; con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển. Do mắc phải những sai lầm như trên mà để phát triển kinh tế XHCN ở nước ta không thể chấp nhận việc tiếp tục kế hoạch hoá tập trung như trước. Với tinh thần tích cực sửa đổi, sau khi đã nhận ra những sai lầm, tại đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế. Ta đã chính thức chấp nhận kinh tế thị trường một cách cơ bản, cùng những ưu điểm của nó một cách tổng thể, lâu dài mà không còn đơn thuần phủ nhận như trước nữa (rằng kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng riêng có của CNTB; nước ta không đi theo CNTB thị cũng không thể áp dụng kinh tế thị trường trong phát triển kinh tế). Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền kinh tế thị trường có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các qui luật kinh tế và với xu thế của thời đại:
Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu như không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Nhưng thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nuớc đã được thông suốt và vươn tới cả những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.
Như vậy việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu hình thức kinh tế thị trường từ chế độ TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát triển rất cao so với những thời kỳ trước) mà từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền kinh tế thị trường TBCN.
2.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:
2.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường thế giới:
- Trước hết, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, nên nó tuân theo mọi quy luật của kinh tế thị trường: quy luật cung- cầu, quy luật giá trị thặng dư...
- Nước ta hiện nay đang hình thành và tồn tại cả những khuyết tật của kinh tế thị trường: tâm lý quá coi trọng đồng tiền, chạy theo lợi nhuận...; tuy đã có sự khống chế, chỉ đạo của nhà nước nhưng vẫn còn tồn tại âm ỉ trong suy nghĩ của một số người.
- Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nhập thành một thị trường chung trên toàn thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
2.2.2. Những nét đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam:
- Nếu trong CNTB hiện đại, kinh tế thị trường đặt dưới sự quản lý của nhà nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong nền kinh tế thị trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người, và vì con người. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tìm kiếm nhiều giải pháp, không giản đơn chỉ xem xét quan hệ sở hữu mà là giải quyết đồng bộ từ vấn đề sở hữu, quản lý, phân phối; tìm động lực cho sự phát triển trên cơ sở xây dựng vật chất- kỹ thuật cho xã hội mới, là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh tế phát triển. Đường lối phát triển đó đã được Đảng ta chỉ rõ: Xây dựng kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN; luôn giữ vững định hướng XHCN trong quả trình đổi mới, kết hợp với sự kiên định về mục tiêu, nguyên tắc và linh hoạt trong giải pháp.
Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là giải pháp, phương tiện để phát triển kinh tế. Cùng với việc sử dụng động lực của kinh tế thị trường, ngay từ đầu, Đảng ta chủ trương phát triển lực lượng sản xuất phải đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất, đặc biệt là những yếu kém về quản lý và phân phối, xây dựng quan hệ con người với con người, một xã hội giàu tình thương và lòng nhân ái; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn.
- Dưới CNTB, kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh theo kiểu cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công; nhưng nền kinh tế thị trường trong xã hội XHCN vẫn mang tính cạnh tranh nhưng không dã man, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo, sự gia tăng về mức sống nhưng giữ gìn đạo đức, bản sắc văn hoá dân tộc.
- Trong quá trình phát triển, kinh tế nhà nước được chon lọc, sắp xếp lại, khẳng định hợp lý phạm vi cần nắm giữ, nắm lấy những mạch máu chủ yếu làm đội quân chủ lực trong xây dựng và điều tiết kinh tế, làm nòng cốt hướng dẫn cac thành phần kinh tế khác hoạt động đúng hướng.
- Quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường TBCN là nhà tư bản nắm giữ phân lớn sản phẩm.Ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ sỏ khuyến khích mọi người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp, đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội. Ta chủ trương chống bóc lột, bất công, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đạo đức mới, một lối sống lành mạnh. Chỉ có kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội mới thể hiện được bản chất của chế độ mới. Tuy nhiên, để có động lực cho sự phát triển phải khuyến khích tích tụ, tích luỹ, sáng kiến cá nhân, chấp nhận phân hoá do lao động sáng tạo (nhưng kiên quyết xoá bỏ phân hoá do bất công).
- Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ chốt (chiếm 75% dân số) nhưng lại tồn tại phương thức sản xuất với trình độ thấp "con trâu đi trước cái cày theo sau". Ngoài ra, nước ta mới chỉ bước vào xây dựng kinh tế thị trường trong vài năm gần đây nên chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý. Do vậy mà ta cần có thời gian làm quen, học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quản lý và phát triển kinh tế.
- Không chỉ có xuất phát điểm thấp mà còn phải trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài. Do hai cuộc chiến tranh đó mà cơ sở hạ tầng vốn đã thấp lại còn bị tàn phá nặng nề. Ta không đủ khả năng về vốn, kỹ thuật để có thể bước ngay vào xây dựng một nền kinh tế thị trường thực sự hiện đại, với các công nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao như nhiều nước tư bản vốn đã có tới ba thế kỷ tích luỹ.
- Thị trường nước ta vẫn còn nhỏ hẹp, sơ khai, còn những rối loạn và nhiều yếu tố tự phát. Ngoài ra thị trường ở nước ta vẫn chưa đầy đủ, nhiều hình thức thị trường còn thiếu hoặc mới chỉ ở dạng manh nha như thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động..., nên chưa thể thực sự hoà nhập với thị trường thế giới.
- Nước ta có truyền thống văn hoá lâu đời, nhân dân ta vốn có sự khéo léo cao nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế cần có độ tinh xảo, khéo léo cao như trạm khắc, đan... đặc biệt là những thành phần kinh tế truyền thống, ở các làng nghề truyền thống như tranh Đông Hồ, sơn mài khảm trai...
- Quan tâm đến các vấn đề chính sách xã hội, bù đắp những tổn thất cho những người, gia đình có công với cách mạng, thành lập những làng tình thương giúp đỡ nhiều người không nơi nương tựa..., kiểm soát, giảm thiểu những mặt tiêu cực so kinh tế thị trường gây ra.
2.2.3. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại:
- Xét về lĩnh vực con người, người Việt nam hiện nay đã thể hiện sự năng động, tinh tế, nhạy cảm( đặc biệt là với thị trường) hơn hẳn so với những năm tám mươi.
- Xét về lĩnh vực kinh tế, nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo một đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng( con người, tự nhiên, xã hội, điều kiện lịch sử...) củaViệt nam mà nền kinh tế cũng như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể:
+ So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%, trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,8%; lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu hút được vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ nội bộ. Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế.
+ Sản xuất nông nghiệp phát triển từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến nay ta đã đứng thứ hai trong số những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
+ Theo số liệu thu thập được, ước tính chỉ số GNP của Việt nam đã tăng đáng kể sau vài năm đổi mới:
1976
1981
1983
1993
Thu nhập quốc dân( tỷ đô la)
4,97
5,14
5,78
12,46
Trên đầu người
101
94
101
175
Những ước tính GNP của Việt nam trước và sau đổi mới
( Nhà xuất bản thống kê 1993)
- Công tác xã hội đang ngày càng được coi trọng. Ta đã và đang kiểm soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang lại, bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng...
Kết luận
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng. Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật, sự lặp lại.
Giữa cái riêng và cái chung luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn tại của minh; còn cái riêng tồn tại trong mối liên hệ dẫn đến cái chung.
Với vai trò là một cái riêng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam cũng tuân theo những quy luật chung mang tính bản chất của kinh tế thị trường, đồng thời cũng chứa đựng những đặc điểm, bản sắc đặc trưng, vốn có, riêng của Việt nam.
Chủ trương lãnh đạo của Đảng đã thể hiện sự sáng suốt trong nhận thức nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều thiếu sót khiến cho kinh tế thị trường nước ta chưa vận dụng được hết các lợi ích, cũng như khắc phục hoàn toàn những nhược điểm của kinh tế thị trường nói chung, và chưa thể hiện được thành một nền kinh tế thị trường hiện đại mang bản sắc của Việt nam. Trong việc quản lý vẫn còn nhiều phiền hà, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc làm ăn. Vì thế mà nhiều doanh nghiệp nước ngoài không muốn đầu tư vào Việt nam cho dù nhận thấy một thị trường rộng mở, có nhiều tiềm năng để phát triển.
Tài liệu tham khảo:
_Sách học Kinh tế chính trị Mac_Lê, các tập 1, 2
_Tạp chí nghiên cứu kinh tế
_Cương lĩnh Đảng
_Bộ luật kinh tế.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0201.doc